THẤY CON THUYỀN
Thấy con thuyền nhấp nhô lướt sóng
Nhịp chèo lơi chuyển động khoan thai
Đưa người từ biển trần ai
Về bên kia bến rong chơi Niết bàn .
Lấy Bát nhã làm thuyền vượt khổ
Vững tay chèo sáu độ sang sông
Cập bờ chánh pháp thong dong
Hải đăng soi rọi sáng trong sáng ngoài.
-------------------
-Nhặt cánh vô ưu 7 – 1999. (NBQ429)
BẤT HỆ ĐẠO (*)
Học Phật phải thông lý kinh
Đừng vì chữ Đạo mất tình nghĩa nhau !
+ + +
Đạo là một trong bao phương tiện
Giúp cho ta đường hướng thoát ra
Bước đầu sáu đạo, ba nhà
Bồ tát,Duyên giác đạo và Thinh văn.
Đến sau cùng là hàng Phật đạo
Cứ ngỡ rằng rốt ráo không trên
Nào ngờ Phật đạo chẳng hơn
Gì hoa đóm hiện trước con mắt lòa.(**)
Nên người tu vượt qua ý tưởng
Của tình phàm chẳng vướng ngữ ngôn
Tâm thanh tịnh là tốt hơn
Không hệ gì với đạo chơn ,đạo tà.
Nhờ nghiền ngẩm hiểu ra Phật đạo
Nên chẳng cần tác tạo nghiệp gì
Tất cả việc thảy tùy nghi
Bi tâm chẳng khác gì Từ vô duyên(từ).
-------------
(*)-“Tâm bất hệ đạo,diệc bất kiết nghiệp”.
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương)
(**)-“Ngô thị Phật đạo như nhãn tiền hoa”.
(nt)
-Kết hạt Bồ đề 2 – 2011. (NBQ430)
THẤY TU SĨ
Thấy tu sĩ trì bình khất thực
Dáng thảnh thơi từng bước kinh hành.
Ca sa hoại sắc trăm manh
Gia cư sản nghiệp tự thân xa lìa.
Dẫu nay ta là người trần tục
Vẫn yểm ly ngũ dục thế trần
Hướng cầu Phật đạo cao thâm
Tam y nhất bát một thân Ta bà.
-------------
-Nhặt cánh vô ưu 7 – 1999. (NBQ431)
THOÁT SANH TỬ
Chớ nên bảo không còn thân xác
Lúc bấy giờ mới được an vui
Vậy thử hỏi khi bỏ thân rồi
Ai là kẻ thọ vui, thọ khổ ?
Nếu như bảo vẫn còn cái đó
Để thọ vui , thọ khổ thì sao ?
Vì thọ không riêng thọ thứ nào
Vui thọ được,khổ sao không thọ ?
Khổ vui thì ở đâu chẳng có
Khi sống đang hưởng thọ khổ vui
Thì chết đi cũng vẫn thế thôi
Sao lại bảo chết rồi hết khổ ?
Nếu diệt dứt không sanh tử nữa
Không tử sanh khi đó thế nào
Ta còn không, ta hiện ở đâu
Như thế hỏi làm sao hết khổ ?
Hãy sáng suốt nhận ra chỗ đó
Đừng vội vàng ruồng bỏ xác thân
Khổ là do tâm chủ bên trong
Chớ bốn đại vốn không vui khổ.
Tu học chẳng rõ thông chỗ đó
Lại mong cầu rũ bỏ xác thân
Người như chim,thân nọ như lồng(*)
Hai việc ấy vốn không liên hệ .
Tưởng bỏ thân là được khỏe nhẹ
Nhưng nào ngờ nghiệp kết hôm nay
Chúng sẽ là quả báo sau nầy
Càng trói buộc chặt hơn hôm trước.
Nên bỏ thân không chưa hẳn được
Mà phải cần giải nghiệp của tâm
Tham sân si trói buột giam cầm
Ngàn muôn kiếp do tâm tích tạo.
Trốn ở đâu để không khổ não ?
Vì khổ do tâm tạo, tâm mê
Muốn an vui tâm phải quay về
Tịnh tam nghiệp khổ kia sẽ dứt.
Khổ với vui đều do tâm thức
Tự phát sanh nên rất khó khăn
Loại trừ chúng là đụng đến tâm
Vì tâm chính là mầm gây họa.
Nên cần phải chế tâm ngay đó
Đừng cho tâm tưởng nọ nghĩ kia
Tâm an rồi vui khổ tự lìa
Mặc tình sống chết kia đưa đẩy.
Bởi vì khi tâm không tà quấy
Thì chẳng cần trốn chạy nơi đâu
Cũng không cần xu hướng tìm cầu
Cảnh nào tốt ,cõi nào không tốt.
-------------
(*)-“Hộc xuyên tước phi thức tâm tùy nghiệp”.
(Quy Sơn Linh Hựu)
-Kết hạt Bồ đề 2 – 2011. (NBQ432)
THẤY PHƯỚC BÁO
Thấy phước báo nghèo giàu đều muốn
Nhưng phước luôn khiêm tốn công bằng
Sau khi tội phước cân phân
Phước liền theo đó hiến dâng phước lành.
Thấy phước báo khởi sanh hoan hỷ
Thương những ai tánh ý hiền lành
Quả ngon bởi giống tốt sanh
Tánh thiện,tác thiện nghiệp thành phước duyên.
--------------
-Nhặt cánh vô ưu 7 – 1999. (NBQ433)
CHIẾN ĐẤU (*)
Vào cuộc tu như vào cuộc chiến
Giữa muôn người chí nguyện vượt qua
Luôn luôn tự nhủ lòng ta
Quyết không khoan nhượng bọn tà ác gian.
Kiên cường không quy hàng ngũ dục
Diệt đến cùng tam độc ,bát phong
Ngăn lục căn, chận lục trần
Cái triền kiết sử phá tan mê thành.
Ác tâm sở âm thầm quấy rối
Bất tương ưng hành xử bất thường
Bất định pháp nổi loạn luôn
Tâm vương bát thức chiến trường bất an.
Chiến cuộc quyết một còn một mất
Thành ít khi bại thất thì nhiều
Chiến thắng nhưng chẳng tự kiêu
Thất bại quyết chẳng đánh liều bỏ thân.
Cuộc chiến đến nghìn năm chưa dứt
Một lần thua chưa chắc đã thua
Hãy rèn luyện đợi thời cơ
Chiến đấu đến phút vượt bờ tử sanh.
---------------
(*)-“Phù vi đạo giả,thí như nhất nhơn
dữ vạn nhơn chiến”.
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương)
-Kết hạt Bồ đề 2 – 2011. (NBQ434)
THẤY TRẺ SƠ SINH
Hài nhi khi mới lọt lòng
Sáu căn đầy đủ nhưng không biết gì.
Chỉ có vang vọng tiếng kêu
Thất thanh hoảng hốt bởi nhiều đổi thay.
Như kinh Niết bàn trình bày
Anh nhi hạnh trong bảy ngày mới sanh.
Có căn, có thức, có trần
Nếu không tác hợp hiện hành cái chi ?
--------------
-Nhặt cánh vô ưu 7 – 1999. (NBQ435)
DINH SƠN
Phải chăng vì Dinh sơn linh ứng
Đến đây tu dễ chứng dễ thành
Hay Dinh sơn là chỗ tịnh thanh
Dễ thiền định,dễ hàng ma chướng ?
Bạn bè tôi đa phần xu hướng
Lánh duyên trần đều đến núi Dinh
Chẳng biết là chướng có giảm khinh
Hay tăng trọng tôi đành xin chịu !
Vì tôi chưa có dịp tìm hiểu
Những cá nhân tiêu biểu ở đây
Nhưng đôi lần qua lại nơi nầy
Cũng biết được một vài gốc cạnh.
Chẳng phải Dinh sơn là đất thánh
Ai đến đây cũng thắng các duyên
Hoặc ở đây sẽ thoát ưu phiền
Chẳng trỉu nặng nỗi niềm thầm lặng.
Bạn bè tôi có người chiến thắng
Cũng có người chẳng đặng trơn tru
Dù thật lòng muốn được an cư
An thì phải khước từ tất cả ...
Nếu như việc trước đây lỡ đã
Phải yểm ly dù có ở đâu
Bóng với hình chẳng thể rời nhau
Hình với bóng trước sau khó tránh !
Dinh sơn dẫu cho là đất thánh
Thánh cũng không giải đặng nghiệp căn
Chỉ ngoại trừ trước chẳng gieo nhân
Thì hiện kiếp sẽ không hậu quả.
Vì Dinh sơn chẳng cao xa quá
Mượn Dinh sơn bôi xóa nỗi đau
Mượn Dinh sơn xoa dịu phần nào
Những thất thoát tiêu hao năng lực.
Bạn bè tôi đa phần tri thức
Lại có nhiều phước đức hơn người
Xem cuộc đời huyễn ảo trò chơi
Chơi,nhưng nhớ chơi rồi phải bỏ.
Rời Dinh sơn quay về xóm nhỏ
Không vườn rừng hoa cỏ núi đồi
Chỉ mình tôi vui với tôi thôi
Bạn cùng cả đất trời vạn loại .
------------
-Thăm lại Dinh sơn ngày O3.07.2016 – 29.05.Bính Thân.
(NBQ436)
THẤY NGƯỜI GIÀ
Người già tóc bạc da nhăn
Chân run gậy chống biếng ăn biếng cười.
Chung cuộc của một đời người
Ai cũng nếm trải một thời như nhau.
Xin cho dừng bước quay đầu
Người và người biết nương nhau tu hành.
Đừng để thời gian qua nhanh
Tuổi già ép nghặt chẳng làm được chi !
-------------
-Nhặt cánh vô ưu 7 – 1999. (NBQ437)
LÃNG DU (*)
(1)-
Lang thang bụi bám thân gầy
Lanh quanh chẳng biết ngã nầy về đâu.
Mệt nhoài mắt thẫm quầng sâu
Trời chiều ngả bóng nhuộm màu hoàng hôn.
Mịt mờ hoài vọng cố hương
Đường trần ai quá đau thương đọa đày !
Về đâu vạn dặm đường mây ?
(2)-
Ngày sắp hết chân nầy mau bước
Đường dù xa chí quyết vượt qua
Một ngày dù chẳng bao xa
Nhiều ngày đường chắc đến nhà không lâu.
Tóc dù đã ngả màu sương gió
Thân dù không như thuở thiếu thời
Nhưng khi đã thấy đường rồi
Thì quê xưa sẽ đến nơi dễ dàng.
Không còn phải lang thang rách rưới
Bụi đường xưa giũ phủi nhẹ nhàng
Quay về nương ánh từ quang
Quyết bỏ kiếp sống cơ hàn long đong.
--------------
(*)-“Vĩnh gia lãng đãng phong trần khách
Nhật viễn gia hương vạn lý trình”.
(Trần Thái Tông – Khóa Hư Lục)
*-Xin cảm ơn anh Châu, người đã tặng tập
Thái Tông Hoàng Đế ngự chế Khóa Hư Kinh
Của Thiều Chửu diễn dịch.
-Kết hạt Bồ đề 2 – 2011. (NBQ438)
THẤY KẺ ĐIẾC
Kẻ điếc nghe được gì đâu
Nên thường phát biểu những câu lạc đề.
Điếc không nghe được bên ngoài
Chớ bên trong có lúc nào không nghe.
Thấy kẻ điếc chợt nhớ ra
Mỗi người đều có tánh nghe nơi mình.
Sao chẳng lắng nghe nội tâm
Lại hướng ngoại giới tri tầm sắc thinh.
Hãy lắng nghe tánh nghe mình
Viên thông tam giới khắp dung chín loài.
--------------
Nhặt cánh vô ưu 7 – 1999. (NBQ439)
THẤY NGƯỜI MÙ
Người mù dò dẫm lối đi
Bước từng bước còn biết gì khác hơn.
Chạm trán rồi mới dừng chơn
Té đau rồi mới đứng lên hỏi đường.
Thấy người mù dạ xót thương
Những ai mù mịt không tường lối đi.
Lầm lỗi mà chẳng biết chi
Đọa lạc rồi mới quy y khẩn cầu .
--------------
Nhặt cánh vô ưu 7 – 1999. (NBQ440)
Ý MÌNH (*)
Hãy nên cẩn thận dè chừng
Chớ có tự phụ tự tin ý mình.
Ý mình đừng nên vội tin
Vì ý mình vốn nặng tình cảm riêng.
Thích thì chuyện dữ hóa hiền
Không thích thì chuyện nhỏ liền thành to.
Vui thì xuề xòa bỏ qua
Buồn thì hạt bụi cũng là cớ duyên.
Gây ra lắm nỗi ưu phiền
Cho nên ý ấy bất thường khó tin.
Khi nào tâm đã vô sinh
Lòng không còn nặng với tình cảm riêng
Ly ưu, xả lạc, xuất triền
Bấy giờ mới có thể tin ý minh.
-------------
(*)-Thận vật tín nhữ ý,nhữ ý bất khả tín…
đắc quả A la hán dĩ,nãi khả tín nhữ ý.”
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương)
-Kết hạt Bồ đề 2 – 2011. (NBQ441)
TÔI MUỐN
Tôi ước muốn những người đồng hạnh
Hãy cùng nhau tinh tấn khởi tu
Đã biết rằng danh lợi phù du
Nên buông xả giải trừ lao khổ.
Tôi muốn và muốn nhiều hơn nữa
Bạn bè tôi mỗi đứa phải là
Một thành viên hướng đạo Thích Ca
Một thực thể chan hòa sức sống.
Tôi ước muốn và tôi rất muốn
Bạn bè cùng lý tưởng như nhau
Cùng hướng về Phật đạo thanh cao
Vượt qua mọi sắc màu vẩn đục.
Tôi ước muốn có nhiều bạn tốt
Mỗi người đều đóng góp dựng xây
Dời Niết bàn, Cực lạc về đây
Để tất cả nhân loài cộng hưởng.
---------------
-Kết hạt Bồ đề 2 – 2011. (NBQ442)
ÁI HÀ
Anh em mình chia tay từ thuở bé
Để học đòi xuất thế với ly gia
Nên huynh đệ tình nghĩa chẳng đậm đà
Và lợt lạt với mẹ cha thân tộc .
Nếu thanh công phải nói là số một
Nhưng không thành cũng học được viễn ly
Nghiệp ái khởi bởi từ tham,sân,si
Không khéo đoạn sẽ dẫn đi vạn thuở !
Tại vì sao ái căn lại khó nhổ
Vì ái luôn biết tìm chổ tựa nương
Lý do vì hoàng cảnh rất đáng thương
Hoặc phận số khiến neo đơn cơ cực.
Trăm lý do để ái căn thu hút
Trăm lý do để ái được gieo trồng
Trăm lý do để ái biến thành sông
Để khách tục thăng trầm trong bể ái !
Ái không dứt trở thanh dòng oan trái
Ái tương truyền”khổ hải vạn trùng ba”(*)
Nếu như ai muốn thoát khỏi ái hà
Thì phải sớm tìm cho ra lối thoát.
Chớ chẳng thể dựa dẫm vào ai khác
Mà mình không chịu học cách lội bơi
Ai ở không chờ mình lúc cạn hơi
Trụy lạc đã rồi mới mời mới gọi ?
Ai mà chẳng biết thương yêu đồng loại
Nhưng thương sao đừng làm tổn hại nhau
Thương cách nào đừng để vướng sầu đau
Đó là cách thương yêu nhau thực tế.
Nên Từ bi luôn cần có Trí tuệ
Ái mà không “Thiện thệ”sẽ đọa sa
Ái mà không “Điều ngự”khổ thậm đa (**)
Nên với ái hãy khéo mà cân nhắc !
“Người đứng trên chữ ái là chư Phật
Kẻ đứng dưới chữ ái là chúng sanh”.(MĐQ)
Muốn làm Phật lòng phải tịnh phải thanh
Bằng trái lại vĩnh kiếp trầm biển khổ !
--------------
(*)-Ái hà thiên xich lãng
Khổ hải vạn trùng ba
Dục thoát ái hà khổ
Tảo cấp xuất tam gia.
(**)-“Nhơn tùng ái dục sanh ưu,tùng ưu sanh bố,
nhược ly ư ái,hà ưu hà bố ?”
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương)
-Gò Vấp 05.07.2016 – 02.06.Bính Thân .
-Viết cho những đứa em còn ở lại . (NBQ443)
SẮC HỘI (*)
Tu theo Phật đạo cũng nên
Nghe lời đức Phật nhũ khuyên vỗ về.
Chớ nên cùng sắc cận kề
Vì sắc có thể làm mê hoặc người.
Nhất là sắc đẹp xinh tươi
Của loài người luôn gọi mời đối phương.
Sắc đẹp lung lạc chuyện thường
Nhưng sắc dục lại khôn lường gian nan !
Vướng vào đạo nghiệp tiêu tan
Đắng cay nhưng rất dịu dàng dễ thương.
Đớn đau nhưng vẫn vấn vương
Mất hết tất cả vẫn còn luyến lưu.
Nhọc nhằn nhưng vẫn vui cười
Xót xa nhưng vẫn ngậm ngùi nên thơ.
Quằn quại nhưng vẫn đợi chờ
Tàn đời rồi vẫn còn mơ bóng hình.
Hoạn họa luôn luôn phát sinh
Nhưng nào ai đã tự mình nhận ra ?
Nhất là hạng người xuất gia
Vướng vào sắc dục thật là nạn tai !
Cho đạo Phật ở hôm nay
Và khiến Phật giáo ngày may suy tàn !
-------------
(*)-Thận vật dữ sắc hội,sắc hội tức họa sinh”.
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương)
-Kết hạt Bồ đề 2 – 2011. (NBQ444)
KIẾN ĐẾ (*)
Nhận ra các pháp chỉ là
Phương tiện giả lập khéo mà khởi tu.
+ + +
Pháp gì cũng thảy từ duyên khởi
Có nguyên nhân Phật mới nói ra
Tứ đế, Nhị đế đều là
Phương cách đối trị tạm cho mọi người.
Chẳng có gì ở đời tồn tại
Nếu vật kia do bởi duyên sinh
Có diện mạo,có tướng hình
Thảy đều thay đổi theo từng sát na.
Học đạo lý nhận ra chỗ đó
Chẳng có gì ham hố luyến lưu
Cho đến nghĩ tưởng suy tư
Vui cười phiền muộn phải đâu là mình ?
Sự thật nếu như nhìn ra được
Đó chính là phương chước tối ưu
Vô vô minh, lấy chi trừ ?
Vô sở đắc,tâm chân như hiển bày.
-------------
(*)-“Học đạo kiến đế ,vô minh tự diệt,
tuệ minh thường tồn hỷ.”
(Kinh Tứ thập nhị chương)
-Kết hạt Bồ đề 2 – 2011. (NBQ445)
THẤY NGƯỜI PHẠM TỘI
Trước mắt đó kẻ làm nên tội
Thì tránh sao cho khỏi luật hình
Tội không hối cải tội sinh
Khi đã kết nghiệp tức thanh tội nhân.
Ước mong sao người trong thiên hạ
Sáng suốt nhìn biết giả biết chân
Dứt vô minh,diệt thức hành…
Sanh tử khổ não tội tình vượt qua.
------------
-Nhặt cánh vô ưu 7 - 1999. (NBQ446)
TÂM HÀNH (*)
Thân tuy lao khổ nhọc nhằn
Dựng xây tạo tác lăng xăng suốt ngày.
Kệ kinh tụng niệm trả bài
Chẳng cần biết đến tâm nầy làm chi.
Nếu rõ tâm nọ là gì
Nhìn ngay tâm ấy liễu tri tận tường.
Cảnh ngoài sanh diệt luôn luôn
Tâm chơn nghìn kiếp chưa từng đổi thay.
Nhận và sống với tâm đây
Cần gì hành xử đạo nầy đạo kia.
---------------
(*)=”Thân tuy hành đạo,tâm đạo bất hành,
tâm đạo nhược hành,hà dụng hành đạo.”
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương)
-Kết hạt Bồ đề 2 – 2011. (NBQ447448)
THẤY NGƯỜI TÀN TẬT
Thấy người bệnh hoạn tật nguyền
Sáu căn không đủ chướng duyên lại nhiều.
Hình nghiêng bóng ngả liền theo
Nhân xưa hiện quả thảy đều tại tâm .
Nguyện cầu vạn loại chúng sanh
Tỏ ngộ Phật lý quả nhân chẳng lầm.
Kết thiện nghiệp,gieo thiện nhân
Chuyển mê khai ngộ khổ căn tự trừ.
--------------
-Nhăt cánh vô ưu 7 – 1999. (NBQ448)
ĐỐN TIỆM
Cái gì chậm , cái gì nhanh
Cái gì đốn tiệm lại tranh nhau hoài.
Chưa hẳn đốn đúng,tiệm sai
Có người lý đốn suốt ngày không tu.
Có người tiệm thứ từ từ
Sáu thời chẳng thiếu không dư ngày ngày.
Đốn là không chạy ra ngoài
Hướng vào chơn tánh ngộ ngay tức thời.
Còn tiệm thì lại xa rời
Chơn tâm hướng ngoại cầu nơi tướng ngoài.
Chậm mau nhân đó phân hai
Giáo pháp nhân đó triển khai nhị thừa.
Ai thích pháp chi mời vô
Đốn tiệm gì cũng một lò mà ra .
Đều từ kim khẩu Thích Ca
Tại sao bài bác giáo là dại si ?
Ai đã dẫn dắt ta đi ?
Ai đã dạy dỗ ta khi ngu khờ ?
Ai đã nuôi ta trước giờ ?
Chùa nào ta ở, ta thờ lạy ai ?
Dù cho ta có giỏi tài
Cũng nhờ cặn bả các Ngài ban cho.
Không phải mình cứ bo bo
Ôm thuyền ngồi giữ chẳng lo lên bờ.
Nhưng nếu bỏ thuyền bây giờ
Khi chưa đến bến thật là hiểm nguy !
Sao bằng như pháp hành trì
Lý đốn,hạnh tiệm có chi ngại ngùng ?
Lý nhập,hạnh cũng nhập cùng
Tánh tướng thể dụng viên dung hài hòa.
Nương kinh giáo tỏ ngộ ra
Hành thiền hạnh chứng nhập mà chân như.
Nam mô Đại Trí Văn Thù…
Ly ưu, xả lạc, huân tu Phật thừa.
--------------
(Viết theo yêu cầu của một nhóm bạn)
-Kết hạt Bồ đề 2 – 2011. (NBQ449)
THẤY NGƯỜI ĂN XIN
Thấy người hành khất lại qua
Đồng tiền bát gạo xót xa lệ buồn.
Thiếu vật chất,thiếu tình thương
Còm lưng rát cổ dặm trường thở than.
Xin cho người bớt muốn ham
Bỏ lòng tà dại gian tham của người.
Hướng tâm đoạn dục vô cầu
Pháp tài nhị thí tận trừ khổ căn .
----------
-Nhặt cánh vô ưu 7 – 1999. (NBQ450)
THIÊN VÀ MA
Làm lợi ta gọi là Thiên nữ
Làm hại ta gọi đấy Thiên ma
Thiên ma,Thiên nữ chỉ là
Người hai tâm trạng chánh tà đó thôi.
Vì lợi mình kẻo lôi kẻ khác
Làm cho người siêu bạt đạo tâm
Hành động ích kỷ sai lầm
Nên người nầy được gọi hàng Thiên ma.
Còn những ai nhận ra Phật lý
Vì đạo tình tùy hỷ giúp nhau
Với lòng quảng đại thanh cao
Đó là Thiên nữ chớ nào phải ma .
Thiên hay ma do ta làm chủ
Bởi nơi mình chưa đủ sức tài
Giới luật luôn cố làm sai
Đam mê danh lợi trách ai bây giờ !
---------------
-Kết hạt Bồ đề 2 - 2011. (NBQ451)
THẤY HỎA HOẠN
Chẳng cẩn trọng để cho lửa cháy
Vừa hại mình vừa hại mọi người
Một khi lửa đã bén rồi
Thì bao sản nghiệp thảy đều tiêu tan.
Xin chẳng cho lửa sân nổi dậy
Xét căn nghuyên tác hại muôn đời
Chẳng dám lơ đểnh dễ ngươi
Để lửa sân đốt cháy người lẫn ta .
-----------------
Nhặt cánh vô ưu 7 – 1999. (NBQ452)
HƯƠNG VÀ HOA
Hoa thời đứng đấy hương không thấy
Chợt ngửi mùi thơm biết có hương
Hoa vẫn nghìn năm hoa đứng đấy
Hương thầm trải rộng ngát ngàn phương.
Hương vẫn là hương,hương của hoa
Nhưng hương không ở tại lòng hoa
Hương thơm bay khắp trong trời đất
Nhưng vẫn không lìa thân xác hoa.
Hoa ngắm nhìn hương hoa ngẩn ra
Hương từ nhụy phấn của lòng ta
Sao hương có thể cao bay được ?
Gom hết yêu thương vị đậm đà !
Xơ xác hoa nhìn hoa xót xa
Thân tàn hoa rụng rã rời ra
Còn đâu đài các thiên kim ấy
Hoa vẫn nằm đây hương thoảng xa.
--------------
-Kết hạt Bồ đề 2 – 2011. (NBQ453)
THẤY HOA NỞ
Nhìn cánh hoa nở lung linh
Dù lớn dù nhỏ đều cùng là hoa.
Thắm tươi hương sắc mặn mà
Nhưng rồi cũng chóng phôi pha héo tàn.
Nhìn hoa lại ước mơ rằng
Hương hoa Bát nhã vạn lòng nở hoa.
Không phân trai gái trẻ già
Giác là cùng được ngồi tòa Như lai.
------------
-Nhặt cánh vô ưu 7 – 1999. (NBQ454)
TRĂNG NƯỚC (2) (*)
Trên trời trăng luôn sáng soi
Dưới sông đầy nước khắp nơi trăng cười.
Mây đen mờ mịt tan rồi
Bao la bát ngát chân trời xanh xanh.
Trí tuệ Bát nhã như trăng
Lòng thường thanh tịnh,nước hằng lặng trong.
Trăng đầy khắp cả mặt sông
Não phiền hắc ám bụi hồng mây che.
Định tâm dẹp hết u mê
Trời xanh man mác tánh kia hiển bày.
---------------
(*)-“Thiên giang hữu thủy thiên giang nguyệt
Vạn lý vô vân vạn lý thiên.”
(Trần Thái Tông)
-Kết hạt Bồ đề 2 – 2011. (NBQ455)
THẤY LÁ RƠI
Lìa cành một chiếc lá rơi
Lá vàng héo hắt xa rời lá xanh.
Lặng lẻ dưới cội lá nằm
Mặc cho cát bụi xác thân dập vùi.
Để trần lọt vào căn rồi
Thì cả một chuổi bời bời quấn quanh.
Nào tài nào lợi nào danh
Nào sắc nào dục thân tâm chôn vùi !
------------
-Nhặt cánh vô ưu 7 – 1999. (NBQ456)
PHÁT QUANG (*)
Hãy lắng và hãy lắng sâu
Vào nguồn tâm thức nhiệm mầu lặng yên.
Hãy tịnh và hãy tịnh thiền
Tịnh chư nghiệp chướng oan khiên phù trần.
Hãy lắng sâu thẩm thậm thâm
Tận cùng tâm địa sẽ bừng sáng lên.
Ánh sáng trí tuệ lung linh
Chiếu cùng pháp giới ba nghìn mười phương.
Kết thành mây báu kiết tường
Đều từ định lực kiên cường tâm trung .
--------------
(*)-“Như lai ấn túc,đại địa phát quang.”
(Kinh Diệu Pháp Liên Hoa)
-Kết hạt Bồ đề 2 – 2011. (NBQ457)
THẤY SAO BĂNG
Đầy trời lấp lánh muôn sao
Đột nhiên chợt tắt rơi vào khoảng không.
Một vì sao nhỏ cô đơn
Chẳng ai đoái cố hoặc buồn hỏi thăm.
Khắp cùng vạn loại chúng sanh
Mất còn của một cá nhân chuyện thường.
Thời gian sẽ sớm bào mòn
Kỷ niệm,kỷ vật chẳng còn vẹn nguyên .
--------------
-Nhặt cánh vô ưu 7 – 1999. (NBQ458)