THẤY TRĂNG LÊN
Trăng lên đỉnh núi trăng tròn
Trăng sáng vằng vặc trên vòm trời cao.
Trăng tỏ làm mờ ánh sao
Nơi nào có nước thảy đều có trăng.
Tâm chân như hiển lộ dần
Trí Bát nhã chiếu sáng lòng u mê.
Như lai giác tánh hướng về
Chúng sanh vô lượng Phật đều độ qua.
---------------
Nhặt cánh vô ưu 7 – 1999. (NBQ490)
NĂNG BẤT NĂNG
Phật có thể viên thành vạn pháp
Trí sáng soi khắp giáp thế gian
Ngài hóa giải rất dễ dàng
Tất cả các tướng có đang hiện hành.
Ngay tức khắc biến thành không tướng
Nhờ do thuần ý tưởng duyên sanh
Nhưng với nghiệp báo đã thành
Của nhân loại Phật cũng đành bó tay .
-------------
(*)-“Năng không nhất thiết tướng thành vạn pháp trí,
nhi bất năng tức diệt định nghiệp.”
-Kết hạt Bồ đề 2 – 2011. (NBQ491)
NGHE NHẠC
Nghe nhạc trổi bổng nhiên chợt nhớ
Xưa năm trăm Tiên tử lụy thân(Thập giới
Giọng đào rên rỉ nỉ non
Anh hùng mạc lộ,quân vương ngậm hờn !
Ta nay hãy noi gương người trước
Đem tánh nghe quay ngược vào trong
Nghe kinh,nghe pháp,nghe lòng
Nghe từng hơi thở diệt sanh vô thường.
---------------
-Nhặt cánh vô ưu 7 – 1999. (NBQ492)
MƯỢN TẠM
Mượn thơ,mượn chữ,mượn lời
Mượn chuyện người khác hợp nơi tánh mình.
Phổ diễn giải nói linh tinh
Là có ý muốn tâm tình với nhau.
Những gì đã được truyền trao
Một thời thơ ấu nhuộm màu Chân như.
Bồ đề phấn phát tâm từ
Bây giờ ,ngày đó thật hư thế nào ?
Kinh,Luật,Luận vẫn như nhau
Nhưng Đạo thì có kẻ vào người ra .
Vào ra nhưng đạo vẫn là
Chẳng bao giờ mất trong ta bao giờ.
Đạo luôn có mặt trong thơ
Trong từng hơi thở ra vô mỗi ngày.
Đạo không phải của riêng ai
Thức tâm đạt bổn,đạo ngay mục tiền.
Xin cùng bạn pháp hữu duyên
Đừng vì mặc cảm tư riêng hẹp hòi.
Tự ti yếm thế chán đời
Chẳng dám nhìn thẳng mặt trời Lý chân.
Phật tánh đâu có Bắc Nam
Người xưa nhân đấy được làm Tổ sư.
Tổ sư cũng chỉ là người
Người thấy tánh đâu hỏi đòi xuất gia.
Tuệ Trung,Bàng Uẩn,Duy Ma,
Bùi Hưu,Trương Chiết,nhất là Lư Năng.
Thấy tánh cũng như thấy trăng
Mắt sáng là thấy đâu cần hèn sang.
Thấy tánh đời sống nhẹ nhàng
Tùy duyên hóa giải buộc ràng trói trăn.
Chẳng phải nhọc nhằn bận tâm
Sẳng sàng dâng hiến khi cần hiến dâng.
Học Phật đạo lý suốt thông
Như bản đồ đã nằm trong tay mình.
Từng phần đoạn dứt vô minh
Từng phần chứng thực lộ trình hoàn gia.
Hãy nương kinh giáo Phật đà
Chớ bỏ “Ba La Đề Mộc Xoa” vội vàng ! (Giới)
--------------
-Kết hạt Bồ đề 2 – 2011. (NBQ493)
XEM PHIM
Xem phim nhưng chẳng thấy ai
Chỉ thấy bóng dáng hình hài diễn viên.
Kẻ cười người khoc đảo điên
Kẻ hờn người giận kẻ buồn người vui.
Giàu sang,học thức,biếng lười
Nghèo hèn,dốt nát,đua đòi,bê tha.
Nghiện ngập,bài bạc,rượu trà
Lừa đảo ,trộm cướp ,gian tà ác hung.
Kết cuộc ác báo ác nhân
Thiện lai thiện quả cuối cùng hết phim.
Nam Kha tỉnh giấc hoàn lương
Mộng hòe như vẫn còn vương Kê vàng.
---------------
-Nhặt cánh vô ưu 7 – 1999. (NBQ494)
ƯỚC NGUYỆN
Ngày qua ngày không ngày nào nghỉ
Mỗi một ngày chuyển ý một bài
Có bài ngắn, có bài dài
Có bài lục bát, có bài thất ngôn.
Hoặc chuyển từ Quy Sơn cảnh sách
Hoặc từ kinh Tứ Thập Nhị Chương
Hoặc từ Thiếu Thất Lục Môn
Hoặc từ Di Giáo,Niết Bàn,Pháp Hoa.
Pháp Bảo đàn, Duy Ma, Duy Thức
Trần Thái Tông Hư Lục khóa nghi
Tuệ Trung,Huyền Giác ca thi
Bát Đại Nhân Giác, Tỳ Ni nhật hành.
Thủ Lăng Nghiêm trưng tâm thất xứ
Hoa Nghiêm kinh,Thác sự huyền môn
Viên Giác, Pháp Cú kệ ngôn
Ma Ha Bát Nhã, A Hàm vân vân.
Đọc câu nào trong lòng thấy thích
Liền tự mình chuyển dịch hóa thơ
Đọc đi viết lại bao giờ
Mực hòa với máu, xương đồ đậm kinh.
Kiếp nầy quyết thâm huân giào lý
Kiếp sau nguyền pháp thí truyền đăng
Kiếp nầy chẳng trọn làm Tăng
Kiếp sau như pháp lợi hành giác tha.
----------------
-Kết hạt Bồ đề 2 – 2011. (NBQ495)
THẤY THỦY TRIỀU DÂNG
Thấy con nước thủy triều lên xuống
Mới đầy vơi kế đến cạn nguồn
Theo con trăng nước lớn ròng
Tháng năm,năm tháng không dừng chuyển xoay.
Chuyện cuộc đời đổi thay cũng thế
Mong mọi người tỉnh trí tu thân
Thạnh suy thành bại nhục vinh
Muôn đời chìm nổi như cơn thủy triều.
---------------
-Nhặt cánh vô ưu 7 – 1999. (NBQ496)
THANH MINH
Có những bài trước đây muốn viết
Nhưng cũng xin thú thiệt với nhau
Mặc dù kinh kệ thuộc làu
Song vẫn chưa thể nhập vào lý chơn.
Nay thì đã trải hơn mười hạ
Chỗ chưa thông cũng đã tạm thông
Chỗ ngăn bít thoáng mở dần
Nên lại cầm bút viết phần tiếp theo .
Viết cho hết những điều học được
Từ sách kinh,từng bước học hành
Để làm quà biếu chị anh
Mỗi khi có dịp chúng mình gặp nhau.
Dù khó thể đổi trao tâm sự
Vì mỗi người có lối tu riêng
Song quy củ của nhà Thiền
Vẫn lấy Tam tạng làm giềng mối tu.
Và như thế cho dù khác biệt
Vẫn chỉ là những việc nhỏ thôi
Chứ mục tiêu vẫn không rời
Giác ngộ giải thoát luân hồi khổ đau.
--------------
-Kết hạt Bồ đề 2 – 2011. (NBQ497)
NGỒI PHI CƠ
Trời xanh mây trắng giăng giăng
Con chim sắt bay tung tăng giữa trời.
Đưa người vượt qua biển khơi
Vượt đồi,vượt núi,vượt thời gian nhanh.
Ngồi trên phi cơ nghĩ thầm
Nếu như ai cũng tinh cần tiến tu.
Khéo dùng phương tiện tối ưu
Trực chỉ đốn ngộ chân như Bồ đề.
-------------
-Nhặt cánh vô ưu 7 - 1999. (NBQ498)
TÂM SỰ
Mười lăm năm ôn tầm bối diệp
Thơ nghìn bài mong được hiến dâng.
Bằng hữu quen lạ xa gần
Vô ưu mười tập hạt mầm đã gieo.
Nay tiếp tục nối theo dấu trước
Hạt Bồ đề lại kết thêm duyên
Kinh luân,hạnh giào luật thiền
Mân mê chăm chút kết thêm đạo tình.
Vừa học tập ,vừa trình bè bạn
Vừa soạn biên, vừa nếm vị mùi .
Thiền duyệt thực tạo niềm vui
Pháp hỷ sung mãn sống đời tại gia.
Dù ở đâu cũng là Tịnh độ
Dù ở đâu cũng ở Niết bàn
Mười phương pháp giới đạo tràng
Tâm tịnh cảnh tịnh,Tây phương Ta bà.
---------------
Gia Thất Am Gò Vấp mùa An cư 2011.
-Kết hạt Bồ đề 2 – 2016. (NBQ499)
QUÉT DÁN NHỆN
Dán nhện dán trên trần nhà
Quét dán nhện nhớ quét mà vô minh.
Chúng luôn bao phủ tâm mình
Chúng luôn che khuất tầm nhìn lý chơn.
Quét dán nhện sạch dễ hơn
Quét vô minh phải tinh cần chiếu soi.
Phản quán tự kỷ ngày ngày
Ngăn chận trần sắc bên ngoài nhập vô.
--------------
-Nhặt cánh vô ưu 7 – 1999. (NBQ500)
TÂM TÌNH
Ba tháng mười ngày an cư
Một trăm bài tụng chuyển từ ý kinh.
Lời quê nhưng rất chân tình
Đem hết kinh nghiệm đã từng trải qua
Tại gia cộng với xuất gia
Giáo môn,Thiền Tịnh,nhất là Cảnh văn.
Dù không mang pháp phục tăng
Nhưng trong tánh ấy vẫn hằng hữu luôn.
Chiến sĩ chết trên chiến trường
Nếu bị địch bắt quyết không quy hàng.
Lời thề trót đã nặng mang
Chỉ cần cơ hội sẳn sàng tiến lên.
Chiến trường ngàn đạn muôn tên
Làm sao tên đạn không thương tổn mình ?
Tổn thương nhưng khéo giữ gìn
Không để thương tích lây truyền xấu thêm.
Xẻ chia cùng các anh em
Những người bại trận hoặc đang thối lòng.
Nếu chẳng nỗ lực dụng công
Chắc chắn khó tránh thương vong lần nầy !
Nếu như bạn muốn đổi thay
Thì mau sám hối những ngày đã qua.
Quay lại bạn sẽ nhận ra
Tại sao mình phải đọa sa thế nầy ?
Cũng đừng trách bạn trách thầy
Mà hãy tự trách mình đây dại khờ !
Hãy hướng về thuở ban sơ
Tự mình làm lại như chưa từng làm.
Học hành cần mẫn siêng năng
Kinh Luật thứ lớp, ý thân giữ gìn.
Chẳng bao lâu bệnh sẽ lành
Bấy giờ bạn hãy tự mình đứng lên
Vững vàng tiếp tục bước thêm
Con đường đã quá thân quen một thời ?
Tâm tình chỉ ngần ấy thôi
Lời người đi trước gởi người đi sau.
----------------
-Kết hạt Bồ đề 2 – 2011. (NBQ501)
NGHE ĐIỆN THOẠI
Chuông reo nhắc ống nghe lên
Nghe tiếng người nói ở bên kia đầu.
Tuy rằng chẳng thấy mặt nhau
Nhưng vẫn có thể đổi trao tâm tình.
Nguyện cho khắp cả nhân sinh
Đều nghe được tiếng Quán âm gọi về.
“Phản văn văn tự tánh” kia
Châu biến pháp giới chẳng lìa tánh chơn.
----------------
-Nhặt cánh vô ưu 7 – 1999. (NBQ502)
TẠM KẾT (Kết hạt Bồ đề 2)
Viết đến đây tạm xem như đã
Đủ các bài trước đó nhiều năm
Được quý thầy cô khai tâm
Giảng giải,dạy dỗ học tăng bước đầu.
Dù cơ bản nhưng đâu phải dễ
Ai cũng làm đến chỗ đến nơi
Hoặc là sau khi vào đời
Vẫn còn ghi nhớ những lời trong kinh.
Nhớ đã khó, thực hành càng khó
Nếu không nhờ trước đó thành tâm.
Chỉ do một niệm sai lầm
Làm ngưng trệ một trăm năm tu hành !
Nay trước Phật chí thành sám hối
Việc con làm nghiệp tội con mang
Mười lăm năm tự giải oan
Nợ dù chưa hết,nghiệp đang giảm dần.
May nhờ được Tăng thân dẫn dắt
Một lời khuyên hơn bạc hơn vàng
Con nguyện tu học chuyên cần
Thâm nhập kinh tạng,giải phân rõ ràng.
Làm hải đảo tránh cơn sóng gió
Làm hải đăng soi tỏ lối đi
Làm phương diệu dược thần y
Giúp con sáng mắt bước đi vững vàng.
--------------
-Kết hạt Bồ đề 2 – 2011. (NBQ503)
MỞ ĐỀ (Kết Hạt Bồ Đề 2)
Bồ đề gốc chỉ một cây
Mầm lá bảy nhánh rợp che Diêm phù.
Quả nhỏ nhất là Dự lưu
Quả lớn nhất Thiên nhân sư Phật đà.
Hạt thì vô lượng Hằng sa
Làm sao gom kết hết mà ý kinh ?
Vả lại khả năng của mình
Cũng chỉ giới hạn có chừng mực thôi.
Dù lòng biển rộng mù khơi
Bao la chan chứa không vơi không đầy.
Song xin tạm dừng nơi đây
Bồ đề kết hạt phần hai mở đề .
-------------
-Kết hạt Bồ đề 2 – 2011. (NBQ504)
XIN CẢM ƠN
Trân trọng tri ân cuộc đời
Chân thành cảm tạ những người thân quen.
Trải nhiều năm vẫn không quên
Chút tình đạo vị,chút duyên khơi mào...
Ngoái nhìn dõi bước chân nhau
Là niềm khích lệ vươn cao vượt ngàn.
Xin cảm ơn, chúc bình an !
-----------
-Kết hạt Bồ đề 2 – 2011. (NBQ505)
TỰ TÌNH
Thuở xa xưa học Tỳ ni
Học nhưng bất dụng lâu ngày dần quên.
Nói làm vô ý vô duyên
Vô tình nào biết mình đang hại mình !
Hôm nay nhân dịp cuối năm
Ngồi ôn Kinh Luật vỡ lòng ngày xưa.
Thấy mình còn chút duyên thừa
Vội vàng viết lấy văn thơ trăm bài.
Gọi là chuộc lỗi trước đây
Mặc dù thưc tế ta nay khác người.
Nhưng đó là hình thức thôi
Chớ tâm hồn vẫn con người như nhau.
Có quyền kỳ vọng ước ao
Có quyền khai mở lối vào chân tâm.
Mai nầy xả bỏ huyễn thân
Ta và người thử hỏi còn lại chi ?
Phật tánh đâu có tướng gì
Nên tôi chẳng dám mơ nầy mộng kia.
Ngay đó mà biết quay về
Ngay đó liền thấy Bồ đề hoa khai.
Ngay đó biết được mình sai
Ngay đó tu tỉnh cần gì đi đâu.
Nay xin làm lại từ đầu
Ngay trong đời sống của người tại gia.
-------------
-Nhăt cánh vô ưu 7 – 1999. (NBQ506)
AN CƯ (1)
Ba tháng kiết hạ an cư
Hành giả hành sự nhiều người đổi thay.
Tâm tính tỉnh thức thường ngày
Thân hạnh rửa sạch đôi tay nhuốm trần.
Ba tháng tiến đạo nghiêm thân
Chín mươi ngày tháo gở dần nghiệp duyên.
Nhiều năm,nhiều hạ cần chuyên
Đáng là cội đức phước điền gương nêu.
Đàn na, tín thí bón gieo
Pháp tài nhị thí thảy đều viên dung.
Người thọ pháp được vui mừng
Người thuyết pháp đáp chút phần áo cơm.
Tánh tướng lý sự giản đơn
Trí tuệ Bát nhã tam luân tịch trừ.
Kiết ha, kiết giới an cư
Cái, triền, kiết sử giải trừ xả ly.
--------------
-Tiếng chuông chiều 3 – 2015. (NBQ507)
AN CƯ
Nếu như muốn được an cư
Thì trước tiên phải giải trừ nghiệp căn.
Thói quen của khẩu. ý, thân
Đã tích, đã tạo ngay trong hiện đời.
Chỗ ở quen chốn quen nơi
Cái ăn quen vị,quen hơi,quen mùi.
Cái phong cách sống đua đòi
Tiện nghi bắt chước theo người phương tây.
Cái sở hữu của ta đây
Cái sự phát triển vượt ngoài phép xưa.
Nhất là cái bệnh dây dưa
Tu gần mãn kiếp mà chưa chữa chừa !
Dù thân đang ở trong chùa
Mà lòng thì vẫn chen đua bụi đời.
Nhớ cây,nhớ cảnh,nhớ người
Nhớ chùa,nhớ tháp,nhớ thời thất am.
An cư mà tâm bất an
Kiết hạ mà vẫn vái van kiết tường.
Mong sao mọi việc bình thường
Giải kiết ba tháng hạ trường về quê.
Nghiệp cũ tiếp tục rủ rê
Nội kết kết nối đến hè lại lên.
Hạ lạp cứ thế tăng lên !
-------------
(508)
BẤT ĐẮC (*)
-Thương trường bán lợi mua danh
Bước chân du sĩ chẳng nên bước vào…
=Môi sinh vạn vật duyên nhau
Chớ phá rừng núi, chặt đào cỏ cây….
-Chính trường muôn mặt đổi thay
Thế sự mâu thuẩn dạ nầy đừng vương…
-Chớ bày trò cuống hoặc nhơn
Hậu hoạn bại hoại Tông môn nhân tình !
--------------------------
(*)-Bất đắc phản mại mậu dịch…
-Bất đắc trảm phạt thảo mộc…
-Bất đắc tham dự thế sự…
-Bất đắc bao tàng hà tỳ hiển dị hoặc chúng…
(Kinh Phật Di Giáo – Đệ nhất tiết)
-Nhặt cánh vô ưu 7 – 1999. (NBQ509)
CHẲNG AI KHÁC (*)
Hôm qua chính con người nầy
Lòng dạ hung dữ như là Dạ xoa.
Hôm nay cũng gương mặt kia
Y như Bồ tát từ bi hiền hòa.
Rõ ràng trước mắt đâu xa
Bồ tát chẳng khác Dạ xoa chút nào.
Dạ xoa hôm qua chính là
Hiện thân Bồ tát của ngày hôm nay.
-------------
(*)-“Tạc nhật Dạ xoa tâm
Kim triêu Bồ tát diện
Bồ tát dữ Dạ xoa
Bất cach nhất điều tuyến.”
(Thiền sư Tư Nghiệp)
-Nhặt cánh vô ưu 7 – 1999. (NBQ 510)
ĐI ĐÂU
Không một ai chẳng ra đi
Cũng không ai nói rõ thì đi đâu.
Họ chỉ đưa đẩy cơ cầu
Rằng nơi đó chẳng người nào biết qua.
Việc nầy rất khó mà xác định
Vì chưa ai minh chứng đàng hoàng
Âm cảnh cùng với dương gian
Có thể giao tiếp dễ dàng với nhau ?
Bởi chưa thấy người nào đã chết
Mà có thể hòa nhập giao lưu
Có quyền sở hữu riêng tư
Có vị thế đứng cũng như bao người ?
Hầu như khi giả từ cõi thế
Họ chẳng còn chi để hỏi đòi
Bằng chứng sau khi chết rồi
Chỗ của họ đều có người khác thay.
Vậy là chẳng một ai khi chết
Lại gọi là bất diệt bao giờ ?
Thân thể hỏa táng ra tro
Còn chăng là cái mù mờ đang truy.
Cái đó hiện đang đi đâu vậy
Tại vì sao chẳng thấy được nhau ?
Muốn thấy,thấy bằng cách nào
Để thấy nhau được dựa vào cái chi ?
Cả một công trình khi tìm hiểu
Cả một pho dữ liệu nói về
Cái khi thần chết cận kề
Và khi tắt thở bên kia dặm trình.
Vì chưa ai chính mình thực chứng
Việc sống chết,chết sống con người
Làm sao có thể trả lời
Sự thật mà chẳng ai thời biết qua.
Thắc mắc không phải là vô lý
Nhưng thắc mắc cũng chỉ vậy thôi
Vì sau khi chết thân rồi
Người chết sẽ có một đời sống riêng.
Nếu không thì nhân duyên quả báo
Mặc tình người tác tạo gây nên
Sẽ không quả kết, báo đền
Sẽ không tiếp nối oan khiên xoay vần ?
Tin hay không, tùy lòng tín ngưỡng
Nếu như chẳng tin tưởng chính mình
Thì lời trong “Nhân quả kinh”
Sẽ chẳng giá trị, nay xin trình bày :
Giả sử như việc làm hiện tại
Nghìn kiếp sau vẫn mãi còn nguyên
Chỉ cần hội đủ nhân duyên
Thì quả báo sẽ hiện liền ra ngay.(1)
Dẫu cho có dong dài luận biện
Cũng không bằng tự chuyển nghiệp căn
Tâm thanh tịnh thì vọng trần
Sẽ chẳng quấy động dù rằng ở đâu.
Tâm an định thì dầu qua lại
Ở chốn nào chẳng ngại ngần chi
Có mất cũng chẳng lo gì
Nếu còn thì cũng vẫn thì vậy thôi.
Chẳng phải nói để rồi buông thỏng
Mà rõ biết huyễn vọng giả danh
Sanh vốn chẳng phải thật sanh
Thì diệt há lại trở thành thật sao ?
Cái biết nầy người nào chẳng có ?
Không có thân cũng có biết mà
Vô lượng,vô biên (Na)do tha
Vô chung, vô thỉ, biết là biết thôi.
Biết rõ thân nầy rồi hoại diệt
Còn cái biết muôn kiếp vĩnh hằng
Một là do Ý sanh thân
Hai là do Nguyện lai sanh giúp người.
Cái biết sẽ muôn đời bất tử
Còn cái thân do tứ đại nầy
Luôn thay đổi,luôn đổi thay
Đổi thay,thay đổi hình hài thiên thu.
Cái đổi thay mặc dù thay đổi
Nhưng chúng vẫn hằng hữu muôn đời.(2)
Đừng đòi hỏi quá xa xôi
Cái thay đổi, chẳng đổi dời là sao ?
Như huyễn,như ảnh bào là pháp
Hữu vi thì phải chấp nhận thôi
Vô thường biến dị đổi dời
Là sanh diệt pháp muôn đời xưa nay. (3)
Muốn biết thì tại ngay đây biết
Bằng không thì cứ việc tìm tòi
Ngộ thì tức khắc ngộ thôi
Không ngộ thì cứ muôn đời khổ đau.
Đơn giản quá cái nào có tướng
Sẽ hoại hư dù muốn dù không
Đấy là cái quy luật chung
Sanh trụ dị diệt theo dòng thời gian.
Nếu muốn có Niết bàn an lạc
Thì trước tiên nên gát qua bên
Cái chuyện bất diệt bất sanh
Lòng vòng muôn thuở chỉ thêm bận lòng.
Thoải mái quá ! Sống trong hiện tại
Tam nghiệp không tổn hại mọi người
Sanh diệt là chuyện cuộc đời
Ta không sanh diệt, ai thời diệt sanh ?(4)
Sống mà chẳng lanh quanh lẩn quẩn
Sống mà không mơ mộng ảo huyền
Sống chẳng vọng tưởng đảo điên
Sống luôn hiểu rõ nhân duyên luân hồi.
Sống mà chẳng đua đòi phóng dật
Theo vô minh kiến chấp sở tri
Sống luôn hỷ xả từ bi
Sống đời như thế có gì sai đâu ?
Chẳng luận bàn cao sâu giáo pháp
Chỉ trình bày mộc mạc nghĩ suy
Nếu sống theo hạnh viễn ly
Thì chẳng còn có chuyện gì sợ lo.(5)
Ai thực hành vậy là giải thoát
Sống một ngày thấu đạt lý chân
Còn hơn sống cả trăm năm
Mà không rõ lý duyên sanh vô thường.(6)
-------------------
(1)”-Giả sử bách thiên kiếp
Sở tác nghiệp bất vong
Nhân duyên hội ngộ thời
Quả báo hoàn tự thọ “. (Kinh Nhân Quả)
(2)”-Chư pháp tùng bản lai
Thường tự tịch diệt tướng”. (Kinh Pháp Hoa)
(3)-“Chư hạnh vô thường
Thị sanh diệt pháp”. (Kinh Niết Bàn)
(4)”-Khoáng kiếp du lai bất sanh diệt
Hà tu sanh diệt ,diệt sanh cừ
Nhất thiết chư pháp giai như huyễn
Bản tánh tự không na dụng trừ ?” (Tuệ Trung Thượng Sĩ)
(5)-“Nhơn tùng ái dục sanh ưu,tùng ưu sanh bố,
nhược ly ư ái hà ưu hà bố ?” (Kinh Tứ Thập Nhị Chương)
(6)-Kinh Pháp Cú.
+ + +
-08.08.2016 – 06.07.Bính Thân.(NBQ 511)
(Viết cho Nguyễn Huệ Khải đang hồi sức)
ĐÓA HỒNG TƯƠI
Tay nâng nhẹ cánh hoa hồng
Cài lên ngực áo ai còn Mẹ Cha.
Hãy phụng dưỡng Cha Mẹ già
Ngày ngày há phải lựa là Vu lan.
Mẹ Cha hiếu kính ủi an
Đó là báo đáp thâm ân nghĩa tình.
Cha Mẹ bảy đời thác sanh
Theo duyên nghiệp hiện quay quần bên ta.
Hãy sống từ ái chan hòa
Vì người người thảy đều là người thân.
Nên tương trợ,nên tương lân
Đó là ta đã góp phần báo ơn.
Cầu cho siêu độ vong nhân
Cầu cho an lạc lục thân hiện tiền.
Một đóa hông thắm kết duyên
Những ai tự giác thoát triền thăng hoa.
Khoát huỳnh y làm Tăng già
Diễn ca Bát chánh,kết tòa Ngũ hương.
Trăm pháp phổ cập cúng dường
Năm thành quả vượt sáu đường trầm luân.
Thanh Đề thoát cõi U minh
Mục Liên thỏa nguyện,đạo tình tròn xong.
Xin thêm một đóa hoa hồng
Cho ai sống đúng tinh thần Vu lan.
Hiếu tâm,hiếu hạnh cưu mang.
---------------
-Nhặt cánh vô ưu 9 – 2000. (NBQ 512)
Y SƯ – ĐẠO SƯ (*)
Thế tôn như vị lương y
Đoán bệnh cho thuốc khéo vì bệnh nhân.
Uốn hay không uống mặc lòng
Bệnh còn hay hết thầy không can gì.
Lại như người chỉ đường đi
Quanh co khúc khuỷu an nguy giải rành.
Đi hay không tùy ý mình
Đạo sư vốn chẳng lỗi lầm sai ngoa.
-------------
(*)-“Ngã như lương y
Tri bệnh thuyết dược
Phục dữ bất phục
Phi y cữu dã .
-Hựu như thiện đạo
Đạo nhân thiện đạo
Văn chi bất hành
Phi đạo quá dã.”
(Kinh Phật Di Giáo-Đệ thập lục tiết)
-Nhặt cánh vô ưu 7 – 1999. (NBQ 513)
MÙA VU LAN
Vu Lan nay đã đến rồi
Con ngồi nhớ Mẹ ! Mẹ ơi ! Mẹ à !
Mẹ đang ở tận phương xa
Hay Mẹ đang vẫn ở mà bên con ?
Cho dù biển cạn non mòn
Ân tình của Mẹ vẫn còn nặng sâu.
Chấp đôi tay lại nguyện cầu
Cho linh hồn Mẹ hồi đầu nghe kinh.
Biết đâu nhờ được văn thinh
Pháp âm nhất cú siêu sinh nghìn đời.(1)
Mùa báo hiếu đã đến rồi
Con cầu chúc Mẹ vui nơi cõi lành.
Hoặc là sớm được thoát sanh
Làm người hiền thiện tu hành ngộ ra,
Con và Mẹ không phải là
Mẹ con,mà đó chẳng qua duyên phần.
Tiền khiên oan trái xoay vần
Gặp nhâu để trả nợ nần cho nhau.
Mới nghe qua thật là đau !
Nhưng ngẫm xét lại thuốc nào hay hơn ?
Giải thoát cho những oan hồn
Ngàn năm khổ bởi cháu con giam cầm.
Chờ rằm tháng bảy mỗi năm
Về ăn hương khói hoa đăng một lần.
Nại hà, Ái hà lạnh căm
Muốn qua cầu ấy phải thầm niệm câu :
“Hữu vi pháp như ảnh bào”
Tâm nầy thường định,cõi nào nhốt giam ?
Nhân mùa báo hiếu Vu lan
Gọi là một chút lòng con kính thành
Gióng lên một tiếng chày kình
Khiến cõi âm tỉnh ,giật mình cõi dương.
Nguyện cầu pháp giới mười phương
Đồng về cảnh Phật,đồng nương Bồ đề.(3)
---------------
(1)-Nhất cú pháp văn tuy thiểu
Ngộ chi phương chứng Bồ đề.( ? )
- Nhất cú liễu nhiên siêu bách ức.” (Huyền Giác)
(2)-Nhược niệm lực kiên cường,tuy nhập ngũ dục
tặc trung bất vi sở hại. (Kinh Phật Di Giáo)
-Nhược hữu bất vong niệm giả,chư phiền não tặc
tất bất năng nhập. (nt)
(3)-Bồ đề : Giác tánh.
-Những hạt mưa rào 3 – 2013. (NBQ514)
TIẾNG CHUÔNG ĐÊM (*)
Nghe chung thức chúng đêm thanh
Vươn vai ưỡn ngực duỗi chân uốn mình
Ba hồi chín chập vẫn nằm
Kiếp sau khó tránh mang thân mãng xà !
---------------
(*)-“Văn chung ngọa bất khởi
Lai thế thọ xà thân .”
-Nhặt cánh vô ưu 7 – 1999. (NBQ 515)
HƯƠNG LÒNG DÂNG MẸ
Hương lòng một nén con xin
Đốt lên niêm trước an linh mẫu từ.
Hỏi rằng “sanh ư tử ư” ?
Tử sanh,sanh tử mấy người liễu thông !
“ Sanh như đắp chăn trời đông
Tử như nắng hạ cởi trần koan thai.”( ? )
Kinh rằng “sanh tứ không hai”
Trong sanh đã sẳn có ngay tử rồi.
Chẳng hiểu lòng dạ rối bời
Rõ rồi chết sống vui cười thản nhiên.
Với Mẹ chưa được như trên
Tuy nhiên phút cuối chẳng quên niệm lành.
Cho dù chẳng đến Tây thành
Thì Mẹ cũng được sanh hàng quý nhơn.
Phước duyên một đời tạo nên
Kiếp lai sinh quyết định phần chẳng sai.
Nếu biết nhân thiện duyên nầy
Tu hành học hỏi trong ngoài suốt thông.
Lo gì chẳng được vãng sanh
Lo gì “Thật báo trang nghiêm”chẳng vào ?
Hương trầm nghi ngút bay cao
Con xin chú nguyện hòa vào khói hương
Gởi theo cả tấm lòng con
Cầu chân thức Mẹ tựa nương Phật đài.
-----------------
-Kết hạt Bồ đề 1 – 2011. (NBQ516)
THỊ CHÚNG (*)
Ngày qua rồi lại qua ngày
Mạng người theo đó đổi thay,bệnh già.
Như cá cạn nước ao kia
Có gì thích thú ba hoa vui cười ?
Đại chúng khá nhờ lời nầy
Chuyên cần tinh tấn đêm ngày chẳng xao.
Lửa cháy đầu há không lo
Vô thường niệm niệm chẳng cho niệm lìa.
Cẩn thận chớ có biếng lười
Chớ để mạng sống một đời trôi qua !
----------------
(*)-“Thị nhật dĩ quá
Mạng diệc tùy giảm
Như thiểu thủy ngư
Tư hữu hà lạc ?
Đại chúng tinh tấn
Như cứu đầu nhiên
Đản niệm vô thường
Thận vật phóng dật.”
-Nhặt cánh vô ưu 6 – 1996.(NBQ517)