L Y H U Y Ễ N (2)(*)
Rõ biết huyễn mới nên ly huyễn
Bằng không thì mọi chuyện rối lên
Vì như huyễn cũng rất dễ thương
Bỏ thì uổng, vương thì khổ lụy !
Nên cần phải bình tâm tỉnh trí
Nhìn cho ra mặt quỷ vô thường
Mới đủ đầy bản lĩnh thừa đương
Nhãy một bước không còn ngoảnh lại.
Như người khi ói ra đàm dãi
Thì quyết không liếm lại bao giờ
Giác thật tình chỉ có trong mơ
Vì đa số chợt mê chợt tỉnh .
Giác là biết, biết không lầm lẫn
Huyễn là không thật vẫn bất ly
Huyễn mà chẳng giải quyết được gì
Thì sự thật viễn ly rất khó !
---------------
(*)-“Tri huyễn tức ly
Bất thức phương tiện
Ly huyễn tức giác
Diệc vô tiệm thứ.”
(Kinh Viên Giác)
-Kết hạt Bồ đề 3 – 2011.668)
V Ô CẦU (3)(*)
Đào ao thì cứ đào ao
Đừng thắc mắc hỏi khi nào mới xong.
Hãy nỗ lực,hãy dụng công
Bao giờ có được nước trong thì dùng.
Cũng chớ hỏi trăng xa gần
Sao không thấy đến ghé thăm ao hồ.
Hãy an nhiên,chớ đợi chờ
Trăng vàng sẽ đến trước giờ hoàng hôn.
----------------
(*)-“Khai trì bất đãi nguyệt
Trì thành nguyệt tự lai.”
( ? )
-Kết hạt Bồ đề 3 – 2011.(NBQ669)
THIỀN TRÍ (2)(*)
Rõ ràng như giữa ban ngày
Là người có trí chẳng ai không thiền.
Vì thiề chính là thắng duyên
Giúp cho người trí,trí thêm đủ đầy.
Còn ai lơ láo qua ngày
Thiền chẳng ứng dụng còn bài bác thêm.
Hạng người vô trí như trên
Bao giờ mới được ngẩng lên nhìn thiền !
Khơi nguồn đạo lý uyên nguyên
Thiền là diệu lực xuất triền vô minh.
Không thiền tuệ trí không sinh
Không sinh trí tuệ trầm mình cõi mê.
Còn ai hồi tâm hướng về
Thiền pháp thứ lớp chẳng hề lãng xao.
Chắc chắn đạt được đỉnh cao
Niết bàn đương xứ nhờ vào Thiền na.
-----------------
(*)-“Vô thiền bất trí
Vô trí bất thiền
Đạo tùng thiền trí
Đắc chí Nê hoàn.”
(Kinh Pháp Cú)
-Kết hạt Bồ đề 3 – 2011.(NBQ670)
CHÚT TÌNH
5 người với 5 nghiệp duyên
Mỗi người sống với nghiệp riêng của mình.
Mỗi người mỗi một gia đình
5 con người, 5 cảnh tình khác nhau.
Kẻ thì nghèo,người thì giàu
Kẻ thì mạnh khỏe,người đau ốm hoài.
Kẻ thì tiền của dư xài
Người thì túng thiếu không ai đỡ đần.
Đâu ai muốn phải phong trần
Nhưng đâu ai tránh khỏi nhân quả nào ?
5 người tương lai ra sao ?
Tương lai đều tùy thuộc vào hôm nay.
Chính ta quyết định tương lai
Chính ta tự liệu đổi thay đời mình.
Vài ba câu với chút tình
Gởi người đồng đạo dặm trình phương xa.
---------------
Nguyễn Bá Quang(671)
XUẤT CHƯA (*)
Phí công,phí sức nhiều năm
Ở chú làm sãi mà không hiểu gì.
Tưởng rằng cạo đầu mang y
Ê..a…kinh kệ Đại Bi, Di Đà…
Đạo tràng Duyệt chúng,Duy na
Tri khách, Tri sự đó là tuyệt chiêu.
Pháp sự ứng phú sớm chiều
Xem như mọi việc thầy đều lão thông
Chỉ chờ lên chức sư ông
Bất chợt có chú tiểu đồng hỏi thăm.
Thưa ! Thầy tu đã bao năm ?
-Thầy rằng tu đã mười lăm hạ dài.
Tiểu đồng lại tiếp thưa Thầy
Có gì thất lễ xin Ngài miễn cho
Chẳng hay Thầy xuất gia chưa ?
-Ông sư ngượng ngập,ngẩn ngơ thở dài !
------------------
(*)-Theo tiểu truyện Thiền sư Vô Ngôn Thông
Triều Lý Việt Nam.(Thiền Uyển Tập Anh)
-Kết hạt Bồ đề 3 – 2011.(NBQ672)
KHÓ DỄ (2)(*)
Ngộ tâm tuy nói dễ dàng
Nhưng ít nhất phải trải ngàn kiếp tu.
Ngộ tâm thì kể xem như
Đã lột được lớp mây mù mắt che.
Thấy,nhưng vẫn còn e dè
Vì trước mắt quá bộn bề ngổn ngang.
Muốn dừng tâm vọng lăng xăng
Quả thật là quá nhọc nhằn gian nan.
Dòng tâm thức chảy miên man
Nếu ngăn chận được không tràn bờ đê.
Thì trên bước đương quay về
Nhà xưa thanh thản,bốn bề ngát hương.
------------------
(*)-“Ngộ tâm dung dị, tức tâm nan
Tức đắc tâm nguyên đáo xứ nhàn.”
(Thiền sư Tuyết Đậu)(?)
(?)-Theo Minh Châu Hương Hải toàn tập.
(Lê Mạnh Thát)
-Kết hạt Bồ đề 3 – 2011.(NBQ673)
Đ Ọ C Đ Ộ C
Hoặc là anh đọc uyên thâm
Hay anh thâm độc vẫn không ngại gì.
Anh hãy đọc và đọc đi
Đọc nầy sẽ chẳng làm gì độc kia.
Đọc đi, độc sẽ tự lìa
Chỉ sợ không đọc,độc kia chẳng lành.
Anh hãy đọc theo kiểu anh
Đọc chánh,đọc tả,đọc thành ngữ căn.
Đọc chấm,đọc phẩy,đọc than !
Dàn bài,bố cục gọn gàng mông lung.
Dài dòng lượm thượm vân vân
Xin anh hãy đọc,hãy phân tích giùm.
Tôi rất phấn khích vui mừng
Đón nhận với cả tấm lòng biết ơn.
Nhuận văn là chất bôi trơn
Làm cho người đọc,đọc thêm nhiều bài.
Không chán bởi quá dong dài
Không chê bởi cách trình bày lôi thôi.
Cảm ơn anh đọc thơ tôi
Có độc,không độc vẫn mời xem qua.
----------------
-Kết hạt Bồ đề 3 – 2011.(NBQ674)
THIỀN DỤNG (2)(*)
Ngày ngày như mọi ngày qua
Sống cho hợp lý đó là đạo chơn.
Nếu như mình là tăng nhơn
Thì Kinh,Luật,Luận phải thông phải rành.
Nếu vì lợi ích nhân sanh
Phải giữ tam nghiệp trọn lành sạch trong.
Nếu là thiền giả chánh tông
Đừng để tam độc,bát phong lộng hành.
Sống đời chẳng vướng lợi danh
Chẳng chán sanh tử,chẳng ham Niết bàn.
Tâm an, chốn chốn đều an
Thiền là thực tế, rõ ràng giản đơn.
-----------------
(*)-“Nhật nhật vô phi đạo
Tâm an tức thị thiền.”
(Minh Châu Hương Hải)
-Kết hạt Bồ đề 3 – 2011.(NBQ675)
T Â M M Ê (2)(*)
Nếu như tâm nọ mê mờ
Chánh tà không rõ,nghi ngờ quả nhân.
Chẳng biết phân biệt giả chân
Cái chi bất tịnh,khổ,không, vô thường.
Cái chi hằng có mặt luôn
Bất sanh bất diệt không buồn không vui ?
Đã chẳng thấu triệt đạo đời
Tam thừa,bát giáo,ngũ thời,huyền môn.
Chẳng biết phương tiện Thế tôn
Tri bệnh thuyết dược có không,đoạn thường.
Giảm tăng biến chế thang phương
Cơ thời lý sự dụ con về nhà.
Giao cho công việc quản gia
Làm người thừa kế thay cha sau nầy.
Nếu như mê muội si ngây
Không nhờ Từ phụ mở khai chỉ đường.
Phước như các bậc đế vương
Rốt rồi ba cõi,sáu đường quẩn quanh.
Cho nên Ngũ tổ dạy rằng:
“Phước không thể cứu chúng sanh mê mờ”.
--------------------
(*)-“Tâm nhược tự mê
Phước hà khả cứu.”
(Ngũ tổ Hoằng Nhẫn)
-Kết hạt Bồ đề 3 – 2011.(NBQ676)
T U Đ Ạ O (2)(*)
Thấy đường ,thấy nẻo mới đi
Không thấy đạo lý lấy gì khởi tu ?
Không thấy đường như người mù
Cho dù cố gằng cần cù siêng năng.
Sờ soạng mò mẩm lăng xăng
Song vẫn lẩn quẩn lanh quanh đầu đường.
Bao năm dãi nắng dầm sương
Giẫm chân một chỗ vô phương đến nhà.
Nếu như tỉnh thức nhận ra
Muốn tu trước phải học cho tinh thuần.
Kinh,Luật,Luận làm phương châm
Giới,Định,Tuệ làm hành trang đường dài.
Văn,Tư,Tu dụng hằng ngày
Thiện trí thức luôn sánh vai chung đường.
Lo gì chẳng đến cố hương ?
----------------
(*)-“Kiến đạo phương tu đạo
Bất kiến phục hà tu.”
(Thiền sư Bản Tịnh)(+)
(+)-Theo Minh Châu Hương Hải toàn tập Lê Mạnh Thát.
-Kết hạt Bồ đề 3 – 2011.(NBQ677)
T Ứ C K I Ế N (2)(*)
Tức kiến là tức kiến gì
Phải chăng dứt cái kiến tri ta người ?
Ta và người như nhau thôi
Người đã không thật,ta thời thật sao ?
Các pháp vốn dĩ duyên nhau
Năm uẩn tự thể không sao hình thành.
Đủ duyên thì chúng duyên sanh
Thiếu duyên thì chúng duyên đành hoại hư.(1)
Hợp tan,tan hợp thiên thu
Pháp vốn như huyễn,huyễn đâu trường tồn.
Nương đấy mà quán sâu hơn
Bao nhiêu kiến chấp ngã nhơn tan dần.
Chẳng còn cột chặt oán thân
Chẳng còn chấp có chấp không nặng nề.
Chẳng thấy phiền não Bồ đề (2)
Chẳng chán sanh tử,chẳng mê Niết bàn.(3)
Chẳng bỏ vọng,chẳng cầu chơn (4)
Chẳng còn cái thấy thua hơn ta người.
Năng kiến, sở kiến rụng rơi.
----------------
(*)-“Bất dụng cầu chơn
Duy tu tức kiến.”
(Tín Tâm Minh-Tăng Xán)
(1)-“Chư pháp tùng duyên sanh
Chư pháp tùng duyên diêt.
Ngã Phật đại Sa môn
Thường tác như thị thuyết.”(Mã Thắng)
(2)-“Phiền não Bồ đề nguyên bất nhị.”(Tuệ Trung)
(3)-“Niết bàn sanh tử đẳng không hoa.”(Trương Chuyết)
(4)-“Bất trừ vọng tưởng,bất cầu chơn.”(Huyền Giác)
-Kết hạt Bồ đề 3 – 2011.(NBQ678)
THƯƠNG GHÉT (2)(*)
Thật lòng mà nói với nhau
Nếu dứt thương ghét,khổ đau chẳng còn.(**)
Nào ghét ba cõi, sáu đường
Nào thích cảnh giới Tây phương,Niết bàn.
Nào chán sanh tử thế gian
Nào thích du hý ba ngàn đại thiên.
Nào mê cảnh tịnh chùa chiền
Nào chán cảnh động tình tiền lợi danh.
Thương người đạo đức hiền lành
Ghét kẻ xảo trá, gian manh lọc lừa.
Chỉ thích những gì mình ưa
Còn lại gớm ghiếc chẳng đưa mắt nhìn.
Mình ghét thì sanh bực mình
Mình thích thì nảy sanh tình cảm riêng.
Được việc thì vui vẻ liền
Thất bại thì sanh buồn phiền âu lo.
Ghét thương cắn đắng so đo
Đắc thất gì cũng là trò huyễn hư.
Là người đang học đang tu
Đừng để thương ghét làm hư tánh mình.
Ghét thương thuộc nhóm thất tình
Chúng luôn che chắn tầm nhìn của ta.
Chẳng bao giờ thấy rộng xa !
---------------
(*)-“Đản mạc tắng ái
Đổng nhiên minh bạch.”
(Tăng Xán – Tín Tâm Minh)
(**)-“Tắng ái bất quan tâm
Trường thân lưỡng cước ngọa.”
(Pháp Bảo Đàn)
-Kết hạt Bồ đề 3 – 2011.(NBQ679)
THẬT TÁNH (2)(*)
Tất cả chỉ là giả danh
Minh,vô minh vọng tác thành nghiệp duyên.
Từ đây tạm đặt tuổi tên
Minh, vô minh để nói lên tánh người
Tối tăm hắc ám mê mờ
Nhưng tánh ấy chẳng bao giờ lặng yên.
Chúng luôn thay đổi thường xuyên
Minh, vô minh mãi triền miên muôn đời.
Vô minh, bất giác thế thôi
Nhưng tánh của nó luôn thời tịnh thanh.
Như lai bất diệt bất sanh
Bản thể thanh tịnh chưa từng động xao.
Cả hai tánh chất như nhau
Vì cả hai có tánh nào thật đâu ?
Thân Phật, là Phật thân nào ?
Có thân là đã rơi vào diệt sanh.
Sắc thân huyễn hóa mong manh
Pháp thân chắc hẳn khác thân xác nầy.
Vậy pháp thân là chi đây ?
Không hình,không tướng khác gì huyễn hư.
----------------------
(*)-“Vô minh thật tánh tức Phật tánh
Ảo hóa không thân tức pháp thân.”
(Huyền Giác – Chứng Đạo Ca)
-Kết hạt Bồ đề 3 – 2011.(NBQ680)
NHỤC VINH (2)(*)
Từ khi nhận rõ ra rằng
Vô sanh chẳng phải vĩnh hằng không sanh.
Mà không sanh tâm ngã nhân
Không sanh hiềm hận,nhục vinh vui buồn.
Không sanh tình phàm ghét thương
Không sanh sở chướng nắm buông pháp nào.
Không sanh hành trạng thấp cao
Không sanh kiến giải lao xao luận bàn.
Không sanh nên nhìn thế gian
Tất cả các pháp hoàn toàn vô sinh.
Có gì vui buồn nhục vinh ?
--------------
(*)-“Tự tùng đốn ngộ liễu vô sanh
Ư chư vinh nhục hà ưu hỉ ?”
(Huyền Giác – Chứng Đạo Ca)(+)
(+)-Theo dịch bản của Trúc Thiên.
-Kết hạt Bồ đề 3 – 2011. (NBQ681)
NIẾT BÀN (2)(*)
Có thân là đã có nhân
Muốn nhân phát triển phải cần có duyên.
Có nhân duyên, có ưu phiền
Chọn lựa, nối kết, gắn liền tử sanh.
+ + +
Nhân nào là nhân đầu tiên
Duyên gì lại gọi là duyên sau cùng ?
Nhân duyên là cách nói chung
Giải thích hiện tượng có trong cuộc đời.
Để cho dễ hiểu thế thôi
Chớ chẳng có cách trả lời tốt hơn.
Nhân nào,duyên nào tạo nên
Thế giới, vũ trụ, càn khôn muôn loài.
Làm sao minh chứng được đây ?
Thôi thì chớ luận nhân nầy duyên kia.
Nhân duyên cả hai cùng lìa
Không thọ một pháp nữa là nhân duyên.
Không thọ thì khỏi đảo điên (**)
Không thọ cũng tạm gọi tên Niết Bàn .
------------------------------
(*)-“Thọ chư nhân duyên cố
Luân chuyển sanh tử trung
Bất thọ chư nhân duyên
Thị danh vi Niết Bàn.”
(Trung Luận – Long Thọ)
(**)-“Bất thọ nhất thiết thọ
Thị danh chánh thọ.”
(Duy Ma Cật)
-Kết hạt Bồ đề 3 – 2011.(NBQ682)
NIẾT BÀN (3)(*)
Chẳng cầu lìa cõi tử sanh
Mới có cảnh giới Tây thành,Lạc bang
Chẳng phải xa lánh thế gian
Mới hiện cảnh giới Niết bàn an vui.
Niết bàn ở tại đây thôi
Không thiên chuyển,không đổi dời quẩn quanh.
Phàm tâm chẳng còn vọng sanh
Thánh trí chẳng dứt tự thân Niết bàn.
Sự thật đã quá rõ ràng
Không tin hãy thử sống đàng hoàng đi.
Chẳng sanh tâm dại tà gì
Thì cũng chẳng có tội chi diệt trừ.
Không sanh không diệt thường như.
Niết bàn là thế thiên thu vĩnh hằng.
---------------------
(*)-“Bất ly ư sanh tử
Nhi biệt hữu Niết bàn
Thật tướng nghĩa như thị
Vân hà hữu phân biệt.”
(Trung Luận – Long Thọ)
-Kết hạt Bồ đề 3 – 2011.(NBQ683)
NIẾT BÀN TRÓI (*)
Nếu như đã khẳng định mình
Không còn cảm thọ nhục vinh vui buồn.
Không còn tình cảm ghét thương
Không thấy phiền não chướng ngăn Bồ đề.
Không thấy phải trái khen chê
Không chán sanh tử,chẳng mê Lạc thành.
Tánh thường tỉnh lặng bất sanh
Tâm từ bi luôn hiện hành phát huy.(**)
Nếu được, thì được cái chi ?
Có chăng sẽ bị trói khi nghĩ rằng
Mình đang có được Niết bàn
Đó là Thánh ý nhắc răn mọi người !
--------------------
(*)-“Nhược bất thọ chư pháp
Ngã đương đắc Niết bàn
Nhược nhân như thị giải
Hoàn vi thọ sở thuộc.”
(Trung Luận – Long Thọ)
(**)-“Trí bất đắc hữu vô
Nhi hưng đại bi tâm.”
(Kinh Lăng Già)
-Kết hạt Bồ đề 3 – 2011.(NBQ684)
CHƯỚNG NGHIỆP (2)(*)
Liễu rồi là liễu cái chi
Phải chăng liễu nghĩa hữu vi vô thường ?
Tất cả pháp đều gá nương
Tập chủng,tập loại nên luôn đổi dời.
Chẳng cái nào là của tôi
Nên dù có tạo nghiệp nơi Ta bà.
Cũng như gom hư không hoa
Om đòm nhưng chẳng được mà cái chi.
Nghiệp do phiền não tham si
Phiền não không thật,nghiệp thì thật sao ?(**)
Tất cả nghiệp dù nghiệp nào
Ai tạo, ai tác, ai trao, ai đòi.
Ai là người, ai là tôi
Vô ngã, vô pháp ai thời trả vay ?
Nếu như liễu ngộ chỗ nầy
Tiền khiên nghiệp thức xưa nay dứt lìa.
Bằng không thì chướng nghiệp kia
Như hình với bóng, đi về có đôi .
---------------
(*)-“Liễu tức nghiệp chướng bổn lai vô
Vị liễu ưng tu hoàn túc trái.”
(Huyền Giác – Chứng Đạo Ca)
(**)-“Nhược chư thế gian nghiệp
Tùng ư phiền não xuất
Thị phiền não bất thật
Nghiệp đương hà hữu thật.”
(Trung Luận)
-Kết hạt Bồ đề 3 – 2011.(NBQ685)
B Ồ Đ Ề (5)(*)
Giác tánh tức là Bồ đề
Người có giác tánh chẳng mê sáu trần.
Thường ngày ứng dụng sáu căn
Sáu cảnh xúc đối vẫn hằng tỉnh tâm.
Chẳng để cảm thọ sai lầm
Nhập vào ý tưởng cột cầm ngăn che.
Khiến mê mờ chơn tánh kia
Quên hết cảnh cũ quê xưa thanh bình.
Có giác tánh phá vô minh
Ra vào sáu nẻo tử sinh an nhàn.
Sáu trần bất nhập sáu căn
Duy Ma định nghĩa thị danh Bồ đề.
------------------------
(*)-“Bất nhập sắc,thinh,hương,vị ,xúc,pháp,
thị danh Bồ đề. (Duy Ma Cật)
-Kết hạt Bồ đề 3 – 2011.(NBQ686)
ĐÁNH TRỐNG (2)(*)
Trống Bát nhã đánh tan mê tối
Tiếng lôi âm vang dội khắp cùng
Đại trí, dại lực, đại hùng
Quyết đem chánh pháp soi chung muôn loài.
Mây lành che sáu đường,ba cõi
Từ bi tâm nhuần gội chúng sanh
Ngọt ngào vi diệu pháp âm
Gọi người tỉnh thức thực hành lý chơn.
Đạo hưng thạnh nhờ hàng Long tượng
Kiến pháp trường chốn chốn nơi nơi
Hết lòng vì đạo vì đời
Lưới nghi phá dẹp rạng ngời ánh dương.
-------------------
(*)-“Chấn pháp lôi,kích pháp cổ
Bố từ vân hề sái cam lộ.”
(Huyền Giác –Chứng Đạo Ca)
-Kết hạt Bồ đề 3 – 2011.(NBQ687)
B Ạ N T Ô I
Bạn tôi phần nhiều đa đoan
Áo cơm,nhà cửa chưa an thân già.
Điển kinh nghe đọc qua loa
Giới trai tùy hứng năm ba bảy ngày.
Gặp nhau đủ chuyện trên đời
Riêng chuyện Phật đạo tạm thời để bên.
Luôn bàn chuyện ngoài hành tinh
Chuyện không cần thiết để mình quan tâm.
Những cái mà chúng ta cần
Là giúp cởi mở từng phần nghiệp duyên.
Sống mà không não không phiền
Không tham không đắm tình tiền lợi danh.
Sống sao tam nghiệp trọn lành
Sống sao đạo lý phân minh rõ ràng.
Cư trần bất nhiễm trần gian
Đấy là cư sĩ họ Bàng, Duy Ma.
Chẳng cần lý luận cao xa
Chỉ sống đúng nghĩa Cư gia đủ rồi.(*)
------------------
(*)-“Cư tài chi sĩ
Cư gia chi sĩ
Tại gia chí Phật đạo giả.
(Duy Ma Cật)
-Kết hạt Bồ đề 3 – 2011.(NBQ688)
MỘNG GIÁC (2)(*)
Khi chưa tỉnh giấc chiêm bao
Trong mộng đầy ấp nỗi đau sáu đường.
Nào đắc thất, nào vui buồn
Nào vinh,nào nhục,ghét thương giận hờn.
Nào là ly biệt tang thương
Nào là oan trái chung giường chung chăn.
Nào lên tột đỉnh vinh quang
Nào phải đói khát xin ăn nhà người.
Trong mộng lại mộng xa vời
Hóa thân Thiên sứ dạo chơi Thiên đường.
Hoặc là quá cảnh Tây phương
Hoặc du địa ngục Diêm vương luận đàm.
Giật mình mộng mị tiêu tan
Tỉnh giấc mới biết mình đang với mình.
Đưa tay sờ soạng chung quanh
Ta bà bổng chốc biến thành hư không.
Ba ngàn thế giới mảy lông (1)
Hợp tan, tan hợp có không bọt bèo (2)
Cuộc đời thoáng chớp mắt nheo !
----------------
(*)-“Mộng lý minh minh hữu lục thú
Giác hậu không không vô đại thiên.”
(Huyền Giác – Chứng Đạo Ca)
(1)-“Càn khôn tận thị mao đầu thượng.”
(Thiền sư Khánh Hỷ)
(2)-“Đại thiên sa giới hải trung âu.”
(Huyền Giác)
-“Cự hải hà phòng nhất điểm âu.”
(Tuệ Trung)
-“Mao thôn cự hải,giới nạp Tu di.”
(Duy Ma)
-Kết hạt Bồ đề 3 – 2011.(NBQ689)
GIÁC LIỄU (2)(*)
Giác là giác ngộ cái chi
Liễu là liễu triệt việc gì hỡi ông ?
Phải chăng giác ngộ lý không
Vô tướng,vô tác,chẳng cần nguyện chi.(1)
Hay giác ngộ pháp hữu vi
Như mộng,như huyễn,chẳng gì bền lâu.(2)
Hoặc giác ngộ lẽ khổ đau
Sanh già bệnh chết người nào chẳn qua ?
Hoặc giác ngộ lý Thiền na
Tư duy, tĩnh lự nhận ra chính mình.
Liễu triệt sinh và bất sinh
Thường,vô thường vốn chưa từng đổi thay.
Bồ đề, phiền não không hai
Tịnh,bất tịnh tay đan tay không rời.(3)
Ngã, vô ngã cũng thế thôi
Thiện ác bất nhị,đạo đời không hai.
Liễu triệt bản thể Như lai
Pháp thân thanh tịnh tròn đầy hàm dung.
Chúng sanh tánh,Phật tánh đồng
Ly huyễn tức giác chẳng cần thời gian.(4)
Tri ly, giác liễu rõ ràng
Xin thưa,chỉ có mấy hàng xin thưa.
--------------------
(1)-Tam không.
(2)-Thập dụ (Kinh Đại Bát Nhã)
(3)-Ngũ trùng bất nhị.(Kinh Đại Bảo Tích)
(4)-Kinh Viên Giác.
-Kết hạt Bồ đề 3 – 2011.(NBQ690)
NHÀN TU (*)
Người tu nhàn nhã khi nào
Vô công dụng hạnh xếp vào tuyệt chiêu.(**)
Vượt qua tập quán,giáo điều
Vô ngã, vô pháp chẳng theo nhị thừa.
Không ghét mà cũng chẳng ưa
Vô tu, vô chứng,nhất thừa cũng không.
Chẳng dính thân,chẳng vướng tâm
Chẳng cầu tịnh quốc,chán sanh Ta bà.
Chẳng thích quả vị cao xa
Chẳng chán ba cõi,vượt qua sáu đường.
Dạo chơi pháp giới mười phương
Cởi bỏ năm dục,dẹp luôn sáu trần.
Rỗng rang tự tại thong dong
Ra vào,lui tới,xuống lên nhẹ nhàng.
Làm người tu xuất thế gian.
--------------
(*)-“Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân.”
(Huyền Giác – Chứng Đạo Ca)
(**)-“Vô công dụng đạo hạnh ngã hằng tồi.”
(Bát thức quy cũ)
-Kết hạt Bồ đề 3 – 2011.(NBQ691)
V Ô C Ầ U (4)(*)
Tại sao vọng tưởng không trừ
Tại sao tánh thể chân như không cầu ?
Phải chăng cả hai như nhau
Chỉ là đối đãi dựa vào ngữ ngôn.
Có vọng hẳn là có chơn
Vọng chẳng thật có,chơn tồn tại sao ?(**)
Đoạn trừ,trừ đoạn cái nào ?
Cầu chơn,chơn ở nơi đâu để cầu ?
Hãy như pháp mà sửa trau
Như thị tánh, tướng ,nhập vào Phật môn.
Nhân,duyên,quả,báo,tác nhơn
Thể,lực,như thị Thế tôn tuyên bày (***)
Khai, thị, ngộ, nhập Như lai…
Tánh thể thanh tịnh xưa nay tròn đầy.
Chúng sanh và Phật không hai
Phật đã thành phật muôn đời kiếp xưa.
Còn Phật mà ta đang thờ
Đó là hóa Phật độ cho muôn người.
Phật tánh vốn chẳng đổi dời
Đổi dời là để cho đời nhận ra
Con thật là con của cha
Bần cùn đói khát chỉ là cảnh duyên.
Hãy như pháp mà thừa truyền
Hội đủ điều kiện thế quyền thay cha.
Quản lý điền thổ sản gia
Không cầu cũng chẳng đoạn mà thứ chi.
Như thị, như thị tu trì.
-----------------
(*)-“Bất trừ vọng tưởng,bất cầu chơn.”
(Huyền Giác – Chứng Đạo Ca)
(**)-“Chơn như vọng niệm tổng giai không.”
(Tuệ Trung)
-“Đoạn trừ phiền não trung tăng bệnh.
Xu hướng chân như diệc thị tà.”
(Trương Chuyết)
(***)-Thập Như thị - Kinh Pháp Hoa.
-Kết hạt Bồ đề 3 – 2011.(NBQ692)
THẬT TÁNH (3)(*)
Vô minh tánh thật là chi ?
“Vô vô minh”(1)có tánh gì thật đâu.
Vô minh vốn chẳng đuôi đầu
Không sau,không trước biết đâu mà tầm ?
Vô minh phi sắc phi tâm
Bản thể thanh tịnh khắp cùng châu viên.
Vô minh giả lập đặt tên
Minh với vô minh chẳng hơn kém gì.
Vô minh chẳng hề mất đi
Vô minh cũng chẳng làm gì hại ai.
Vô minh cùng với Như lai
Như nước với sóng xưa nay không rời.
Gió giông bão tố qua rồi
Mặt nước phẳng lặng sóng mòi còn đâu ?
Trời xanh biển thẳm một màu
Vô minh tánh,Phật tánh nào khác chi.
Theo đây ngẫm nghĩ xét suy
Đại thừa khởi tín luận ghi thế nầy : (2)
Sắc,không tánh vốn không hai
Bản nhiên thanh tịnh tùy thời ứng cơ.
Tùy chúng sanh tâm hiện ra
Theo nghiệp mà có Hẳng hà cảnh duyên.
----------------------
(*)-“Vô minh thật tánh tức Phật tánh.”
(Huyền Giác – Chứng Đạo Ca)
(1)-“Vô vô minh,diệc vô vô minh tận.”
(Bát nhã tâm kinh)
(2)-“Tánh sắc chơn không,tánh không chơn sắc,
thanh tịnh bản nhiên,châu biến pháp giới,tùy
chúng sanh tâm,ứng sở tri lượng,tuần nghiệp
phát hiện.”
(Đại thừa khởi tín luận)
-Kết hạt Bồ đề 3 – 2011.(NBQ693)
HUYỄN PHÁP (3)(*)
Pháp thân không tướng không hình
Bất sanh bất diệt chưa từng đến đi.
Huyễn thân cũng chẳng khác chi
Sanh sanh mà chẳng có gì thật sanh.
Có tướng,nhưng tướng giã danh
Có sắc,nhưng sắc mong manh vô thường.
Huyễn sanh,huyễn diệt luôn luôn
Nhưng thân huyễn cũng chưa từng mất đi.
Pháp thân ứng dụng tùy nghi
Huyễn thân chẳng chút ngại khi tác thành.
Huyễn thân từ chúng duyên sanh
Pháp thân cũng chẳng mối manh đuôi đầu.
Huyễn thân pháp thân như nhau
Pháp thân thường trú nhưng nào thấy chi.
Huyễn thân sanh diệt thường khi
Nhưng là huyễn thì có gì thật đâu ?
Huyễn sanh cũng chẳng đuôi đầu
Huyễn diệt cũng chẳng trước sau đi về.
Tri huyễn ly huyễn(tức)Bồ đề (1)
Huyễn tu huyễn pháp đều là huyễn hư.(2)
Như huyễn,như hóa thường như
Pháp thân vô tướng,tướng như thế nào ?
Sống trong cõi tạm lao xao
Biết chúng không thật,pháp nào diệt sanh ? (3)
Không sanh thì diệt không thành
Không sanh không diệt pháp thân hiện tiền.
-------------------------
(*)-“Huyễn hóa không thân tức pháp thân.”
(Huyền Giác – Chứng Đạo Ca)
(1)-“Tri huyễn tức ly,ly huyễn tức giác.”
(Kinh Viên Giác)
(2)-“Huyễn pháp giai thị huyễn
Huyễn tu giai thị huyễn.”
(Hiện Quang thiền sư)
(3)-“Nhất thiết chư pháp giai như huyễn
Bản tánh tự không na dụng trừ.”
(Tuệ Trung Thượng sĩ)
-Kết hạt Bồ đề 3 – 2011.(NBQ694)
MINH XÉT (2)(*)
Hôm nay nhìn lại ngày qua
Những ngày xưa đó để mà ngẫm suy.
Ta đã học được những gì
Ta đã làm được việc chi cho người ?
Ta đã chắt lọc vun bồi
Bao nhiêu mầm hạt thiện nơi lòng nầy ?
Ta đã cố ý tạo gây
Bao nhiêu ác nghiệp những ngày đã qua ?
Ta hãy phán xét lấy ta
Và hãy can đảm tránh xa lỗi lầm.
Hãy khai hóa mảnh đất tâm
Giái phóng tam chướng(1)chướng ngăn Bồ đề.
Sẳn sàng bứng gốc si mê
Trồng cây Bát nhã sum xuê hoa vàng.
Mở đường giải thoát thênh thang
Chấp nhận bỏ lại lưới màn vô minh.
Quyết lòng nung nấu kệ kinh
Két thành một khối tinh thuần kim cương.
Phá tan ám chướng nhiễu nhương
Cái,triền,ấm,nhập(2)chẳng còn đất dung.
Việc tu cần phải phân minh
Tỏ rõ giáo pháp,xét mình thực thi.
Chẳng còn gì để ngại nghi
Kinh,Luật,Luận phải khắc ghi vào lòng.
Khi nào việc lớn đã xong
Sẽ nói đến chuyện chẳng cần thuyền ghe.
----------------------
(*)-“Kim nhật phân minh tu phẫu tích”
(Huyền Giác – Chứng Đạo Ca)
(1)-1/Báo chướng. 2/Phiền não chướng.3/Sở tri chướng.
(2)-Ngũ cái – Thập triền – Ngũ ấm(uẩn) = Thập nhị nhập.
-Kết hạt Bồ đề 3 – 2011.(NBQ695)
BUÔNG BỎ (2)(*)
Tất cả các pháp hữu vi
Thảy đều do bốn duyên nầy mà ra.
Đất nước gió lửa giao hòa
Hình thành vạn tượng,sum la các loài.
Sắc giới, vạn biệt thiên sai
Muôn hồng,nghìn tía,tướng nầy dáng kia.
Mượt mà phô sắc hương khoe
Giang sơn tú lệ, gấm hoa cuộc đời.
Nhưng kìa, vật đổi sao dời
Tang thương dâu bể,đất trời chuyển xoay.
Những gì có mặt hôm nay
Ai dám đảm bảo ngày mai vẫn còn ?
Các pháp vô ngã,vô thường
Bốn đại duyên hợp nên luôn bất hòa.
Trăm ngàn tật bệnh xảy ra
Hằng vạn ách nạn cùng là thiên tai.
Đền đài cung điện lung lay
Cửa nhà sản nghiệp chôn vùi nát tan.
Xác thân tiều tụy võ vàng
Cỏ cây héo úa, hoa tàn nhụy phai.
Vạn vật tuần hoàn đổi thay
Rượt đuổi chi phải mệt nhoài tấm thân ?
Kết cuộc chỉ nắm tay không
Và hai con mắt đứng tròng xót xa !
Than ôi ! Phú quý vinh hoa
Một mình ta giữa tha ma lạnh lùng !
Đâu người thương !
Đâu người thân ?
------------------
(*)-“Phóng tứ đại mạc bả tróc.”
(Huyền Giác – Chứng Đạo Ca)
-“Mộng huyễn không hoa
Hà lao bả tróc.”
(Tăng Xán – Tín Tâm Minh)
-Kết hạt Bồ đề 3 – 2011.(NBQ696)
THẦY TRÒ
Năm một nghìn chín trăm sáu chin
Sài Gòn xưa. Gia Định tỉnh thành
Thầy là người giảng dạy kinh
Còn con là một Tăng sinh mới vào.
Trường Phật học khóa đầu khai giảng
Tại xóm Gà với dạng biệt truyền (*)
Từ đây con được kết duyên
Quý thầy cùng với học viên các miền.
Sau 5 năm cần chuyên giới luật (1)
May mắn được đề xuất chọn vào
Hàng ngũ đào tạo nâng cao
Chuyên sâu học Phật,phong trào đang lên.
Làm giáo dục móng nền phải vững
Chớ chẳng phải hô ứng là xong
Người dạy thâm hậu nội công
Kẻ học phải có tấm lòng tôn sư.
Mô phạm phải chọn người mẫu mực
Sư môn phải có bậc kỳ tài
Đống lương quy cảnh hậu lai (2)
Thì hàng hậu học mắn may chi bằng !
Dù sao vẫn cưu mang hy vọng
Bao mái trường núp bóng tựa nương
Chỉ với mộng ước bình thường
Có chút chất vị chao tương với người.
Ba lần được vào ngồi trường lớp
Thầy Từ Thông dạy rất hăng say
Nhưng ngày xưa đó chính thầy
Còn chưa bứt phá vượt ngoài sơn môn.
Ngày nay thầy là con hổ dữ
Chẳng ngại gì gầm hú thét vang
Thỏ chồn tím mật, sôi gan
Nhưng không vì thế dễ dàng buông tha.
Thầy vì đời nói ra lẽ thật
Người không ghét mới thật lạ thường ?
Trí giả bất chấp ngu nhơn
Đạo sư vì đạo chỉ đường thẳng ngay.
Con không nghĩ mạng thầy trường thọ
Chín mươi còn chịu khó tới lui
Nhắc khuyên chỉ dạy mọi người
Lời không cạn, ý đầy vơi dâng tràn.
Nghe thầy giảng lòng càng hưng phấn
Bao buồn phiền trỉu nặng nhẹ ngay
Sai lầm trước đã tạo gây
Chẳng chút nuối tiếc,thẳng tay dẹp trừ.
Thầy nay được nhàn cư tự tại
Các con cũng gặt hái rất nhiều
Hạt mầm thầy đã trồng gieo
Hoa trái giải thoát mĩ miều ngọt ngon.
Năm mươi năm thời gian học đạo
Với những lời chỉ giáo của thầy
Các con chỉ biết chấp tay
Vâng hành quyết chẳng đơn sai trọn đời.
Thầy quả quá tuyệt vời cao cả
Mỗi lời là mỗi đóa sen thơm
Mỗi câu là mỗi châm ngôn
Giúp người vượt thoát muôn ngàn chướng nguy.
Nay con tạm kết ghi thế đấy
Kính trình thầy hoan hỷ chứng minh
Bao nhiêu cho thỏa ân tình !
Bao nhiêu cho vẹn thâm tình đệ sư ?
---------------------
(*)-( Hệ phái… )
(1)-Ngũ hạ dĩ tiền tinh chuyên giới luật
Ngũ hạ dĩ hậu phương nãi thính pháp tham thiền.
(Sa Di luật giải)
(2)-Quy Sơn cảnh sách.
Mừng ngày thầy trò hội ngộ 13.11.2016 – 14.10.Bính Thân.
NGUYỄN BÁ QUANG (697)
T H Ầ Y
Thầy nay tuổi đã chín mươi
Nhưng trông sắc diện vẫn tươi vẫn hồng.
Dù rằng sức khỏe kém dần
Song thầy vẫn bước thong dong nhẹ nhàng.
Thầy sẽ chẳng nhập Niết bàn
Vì thầy có xuất thế gian bao giờ .(1)
Xuất nhập chỉ là giấc mơ
Người trí chẳng hẹn chẳng hò khứ lai.
Ở đâu trong ? Ở đâu ngoài ?
Ngoài tâm há có nơi nầy chốn kia ?
Không giác vì có chi mê
Không bờ,không bến, đi về nơi đâu ?
Không ngủ lấy gì chiêm bao
Người luôn tỉnh thức,thức nào viễn ly ?(2)
Thời gian dù có qua đi
Lời thầy chỉ dạy con ghi khắc lòng.
Dù ngày mai vắng Từ Thông
Nhưng dòng pháp nhũ vẫn không cạn nguồn.
Thầy noi giống Thánh Pháp vương
Các con truyền xướng phu dương giáo thiền.(3)
Thich Ca từ phụ nhân thiên.
--------------------
(1)-“Vãng lai tam giới chi tân
Xuất một vị tha tác tắc.”(Quy Sơn Linh Hựu)
(2)-“Ngũ uẩn giai không.”(Bát Nhã Tâm Kinh)
(3)-“Truyền xướng phu dương,tiếp dẫn hậu lai,
báo Phật ân đức.”(Quy Sơn Linh Hựu)
-Ngày thầy trò hội ngộ 13.11.2016 – 14.10.Bính Thân.
NGUYỄN BÁ QUANG (698)
B Á N P H Ậ T
(Riêng tặng Danh Thế Sư)
Tượng Phật đồng con vừa mới tạo
Nhưng nợ nần bổn đạo quá nhiều
Muốn bán Phật để chi tiêu
Vì tiền nặng lãi tăng theo định kỳ !
Lại khổ nỗi bán gì cũng dễ
Như bán thân,bán thế,bán danh
Còn bán Phật quá khó khăn
Chẳng biết phải vái phải van ông nào ?
Xin tạm biệt vẫy chào ông Phật
Vì ông con tím mật bầm gan
Một lần biết đá biết vàng
Từ đây con chẳng còn ham Phật đồng !
-------------------
Gò Vấp 20.01.2011 – 17.12.Canh Dần.
-Kết hạt Bồ đề 3 – 2011.(NBQ699)