SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
61-THIỀN SƯ CHÁNH GIÁC HOẰNG TRÍ (1091-1157)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Lý, quê ở Thấp Châu, Sơn Tây. Khi thọ thai sư, mẹ trai giới cẩn trọng, vì mộng thấy vị sư già đeo cho chiếc vòng vào tay. Lúc sanh sư ra, cổ tay có một quần đỏ y như chiếc vòng. Năm 14 tuổi, sư được Tịnh Minh Bổn Tông thế độ xuất gia, 14 tuổi thọ giới cụ túc, 18 tuổi du phương tham học. Lại phát thệ rằng : “Nếu chẳng phát minh được việc lớn, thề không trở lại”.
Sư đến Hương Sơn tham kiến thiền sư Thành, trông thấy thiền sư liền hứa khả. Một hôm nhân nghe vị tăng tụng kinh Pháp Hoa đến câu :”Phụ mẫu sở sanh nhãn, tất kiến tam thiên giới”.(Mắt của cha mẹ sanh ra, thấy hết ba ngàn cõi) bỗng nhiên tỉnh ngộ. Sư liền đến thiền thất trình chỗ hội. Thiền sư Thanh chỉ hương trên đài hỏi :
-Trong đây là vật gì ?
Sư thưa :
-Là tâm hạnh gì .
Thiền sư Thành hỏi :
-Chỗ ngộ của ngươi thế nào ?
Sư lấy tay vẽ một tướng tròn để trình, lại ném cái nhìn ra phía sau
Thiền sư Thành bảo :
-Kẻ đùa hòn đất có giới hạn gì ?
Sư thưa :
-Lầm .
Thiền sư Thành bảo :
-Phải thấy người khác mới được .
Sư thưa :
-Vâng ! Vâng !
Về sau sư thượng đường dạy chúng :
-“Gác vàng rèm sổ ai truyền tin nhà, màn đỏ phủ tốt ném chân châu chính khi ấy thấy nghe có chỗ chẳng đến, nói năng có chỗ chẳng kịp, làm sao thông được tin tức ? Mộng về đêm tối mờ mờ sáng, cười chỉ gia phong rực rỡ xuân”.
-“Tâm không thể duyên, niệm không thể luận, dù cho lui bước gánh vác, tối kỵ đương đầu chạm húy. Gió mát trăng trong bến đò xưa thuyền đêm chèo chuyển lưu ly dấy”.
-“Không kiếp có chơn tông, trước tiếng hỏi chính mình, đỏ cùng kế sống mới, trong trắng gia phong xưa, quả thực ngoài tam thừa, lặng lẽ trong một ấn, trở lại đi di loại, muôn dòng tự về đông”.
-“Chư thiền đức ! Người nuốt hết Phật ba đời, vì sao lại mở miệng chẳng được ? Người soi thấu bốn thiên hạ, vì sao nhắm mắt chẳng được ? Bảo người nhiều bệnh hoạn cùng ông đồng thời niêm xong vậy. Hãy làm sao được thập thành thấu suốt đi. Lại hiểu chăng ? Chẻ bể Hoa Sơn sắc nối nhau, khai thấu Hoàng Hà tiến đến biển”.
Trước khi thị tịch, sư đến từ biệt Việt Soái Triệu Công và Đàn việt trong quận. Sau đó tắm gội, mặc pháp phục ngồi nghiêm trang nói chuyện với chúng. Sư bảo vị tăng đang hầu đem giấy bút viết thơ, để lại cho thiền sư Đại Huệ ở Dục Vương việc thỉnh người kế thừa .
Lời thơ như sau :
“Mộng huyễn không hoa
Sáu mươi bảy năm
Chim trắng khói lặn
Nước thu tiếp trời”.
Viết xong, sư ném bút liền thị tịch, thọ 67 tuổi. Nhằm tháng chín âm lịch năm 1157 niên hiệu Thiệu Hưng .
--------------
*-Thiền sư Trung hoa (3). tr 67 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 103 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (2). tr 314 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
62-THIỀN SƯ CẢNH THÂM (Ở) TRÍ THÔNG ( ? - ? )
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Vương, quê ở Thai Châu. Thuở nhỏ sư chí hướng hơn người, 18 tuổi xuất gia theo ngài Đức Chỉ ở viện Quảng Độ .
Bước đầu đến yết kiến thiền sư Tượng ở Tịnh Từ. Một hôm nghe thiền sư nói : “Nghĩ mà biết, suy mà hiểu, đều là kế sống nhà quỉ, ai cũng thích giao tiếp với nó mà chẳng tự ngăn”.
Sư đến thiền sư Duy Chiếu ở Bảo Phong, xin nhập thất .
Thiền sư Phong nói :
-“Cần phải dứt niệm khởi diệt, nhằm vào kiếp Không trở về trước, quét sạch chẳng dính đến lỗi huyền diệu, sạch hết Chánh, Thiên. Hôm nay toàn thân buông xuống, buông hết lại buông, mới có phần tự do. Sư nghe qua nhanh chóng lãnh hội yếu chỉ. Bảo Phong đánh trống báo với đại chúng rằng :
-“Thâm đạt đạo “đại tử” của Xiểng đề, kẻ hậu học nên nương tựa y. Do đó sư còn được gọi là “Đại tử ông” .
Sau ở Trí Thông, sư khai pháp dạy chúng :
-“Lại chẳng vào cổng, đi thẳng ra cửa, đi lại không vết, làm sao đề xướng. Dù được cổ lộ rêu phong, dê nai bặt dấu, ngô đồng trăng phủ, phụng đỏ chẳng đậu. Vì thế nói :“Chỗ ẩn thân không dấu vết, chỗ không dấu vết chớ ẩn thân”. Nếu hay như thế, đi đứng không nương trọn không hướng bối, lại thông cảm chăng ? Mà nay phân tán như mây bạc, anh tôi đều mất chỗ chạm huyền”.
Niên hiệu Thiệu Hưng năm đầu 1131. Sư về trụ tại Bảo Tàng Nham. Đến năm Nhâm Thân, sư có bệnh, nói với chúng : ” Thế duyên đã hết”. Đến ngày mười ba tháng ba, sư vì chúng
tiểu tham, nói kệ :
Chẳng cần cạo tóc
Nào phiền tắm gội
Một đóng lửa đỏ
Ngàn chơn muôn chơn.
Tuy nhiên như thế, hướng thượng lại có việc hay không ? Sư nhắm mắt thị tịch .
---------------
*-Thiền sư Trung hoa (3). tr 83 .
*-Thiền uyển dao lâm. tr 484 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
63-THIỀN SƯ TÙNG DUYỆT (Ở) ĐẨU SUẤT (1044-1091)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Hùng, quê ở Kiến Châu, Giang Tây. Năm 15 tuổi xuất gia, 16 tuổi thọ giới cụ túc. Bước đầu sư là Thủ chúng trong thiền hội của ngài Đạo Ngô, hướng dẫn một số chúng đến yết kiến Hòa thượng Trí ở Vân Cái. Vừa đàm luận Trí đã biết chỗ uẩn tích của sư, nên cười bảo :
-Xem Thủ tọa khí chất phi phàm, tại sao lại thốt ra lời dường như kẻ say ?
Sư đỏ mặt, xuất mồ hôi thưa :
-Cúi mong Hòa thượng chẳng tiếc từ bi .
Trí lại dùng lời châm chích thêm. Sư mờ mịt liền xin nhập thất .
Trí hỏi :
-Ông từng thấy Hòa thượng ở Pháp Xướng chăng ?
Sư thưa :
-Từng xem ngữ lục của ngài, tự hiểu rõ, cũng chẳng mong thấy .
Trí hỏi :
-Từng thấy Hòa thượng Văn ở Động Sơn chăng ?
Sư thưa :
-Người Quan Tây không đầu não, mang cái quần vải khai nước đái, có chỗ nào hay ?
Trí bảo :
-Ông chỉ đến chỗ khai nước đái tham lấy .
Sư theo lời dạy, đến yết kiến Hòa thượng Văn, thâm nhận được yếu chỉ. Sư trở lại ra mắt Hòa thượng Trí .
Trí hỏi :
-Sau khi thấy người Quan Tây, đại sự thế nào ?
Sư thưa :
-Nếu chẳng được Hòa thượng chỉ dạy, đã luống qua một đời, liền lễ tạ .
Về sau sư dạy chúng :
-“Mới thấy tân xuân lại sang đầu hạ, bốn mùa dường tên bay,
sáng tối như thoi đưa, bỗng chợt mặt hồng trở thành đầu bạc, cần phải nỗ lực riêng dụng tinh thần, cày lấy vườn ruộng của mình, chớ phạm lúa mạ nhà người; tuy nhiên như thế, kéo cày, mang bừa, phải là con trâu trắng ở núi Tuyết mới được. Hãy nói lỗ mũi ở chỗ nào?
Sư im lặng giây lát lại nói : Bậy ! Bậy !”.
-“Không pháp cũng không tâm, không tâm lại xả cái gì, cần chơn trọn thuộc chơn, cần giả toàn về giả, trên đất bằng chèo thuyền, trong hư không cỡi ngựa, người chín năm nhìn vách, có miệng lại như câm. Tham !”.
-“Đêm đêm ôm Phật ngủ, ngày ngày cùng Phật đi, ngồi đứng cùng theo nhau, nói nín đồng chung ở, muốn biết chỗ Phật đi,
chỉ lời nói nầy vậy”.
-“Thường cư vật ngoại qua thời rỗi, cầm ngang ống sáo thổi lưng trâu, một bản tự yên núi tự biếc, tình nầy chẳng với mây trắng bay. Rất thích, chư thiền đức !”.
Niên hiệu Nguyên Hựu thứ sáu. Vào mùa đông , sư tắm gội, gọi chúng thuyết kệ :
Bốn mươi tám năm
Thánh phàm giết sạch
Chẳng phải anh hùng
Long An đường trơn.
Nói kệ xong, sư ngồi yên thị tịch, thọ 48 tuổi .
-Trong thất sư có đề 3 câu để nghiệm người tham vấn :
1-Vạch cỏ xem gió chỉ mong thấy tánh, chính nay Thượng tọa tánh ở chỗ nào ?
2-Biết được tự tánh mới thoát sanh tử, khi chết rồi làm sao thoát ?
3-Thoát được sanh tử liền biết chỗ đi, bốn đại phân tán nhằm chỗ nào đi ?
--------------
*-Thiền sư Trung hoa (3). tr 94 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 905 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
64-THIỀN SƯ PHÁP DIỄN (Ở) NGŨ TỔ (1024-1104)
+ + +
Thiền sư trung hoa, thời Tống, họ Đặng, hiệu Ngũ Tổ, quê ở Ba Tây, Miên Châu. Năm 35 tuổi sư mới xuất gia, khi thọ giới cụ túc xong, lại đi du học ở Thành Đô. Sư nghiên cứu và học sâu Duy thức cùng luận Bách pháp .
Một hôm sinh nghi đối với giáo môn, muốn được thân chứng thể hội, nên đã vượt sông Hoài, sông Triết đi về phương Nam. Sư tìm đến thưa hỏi với các bậc tôn túc như Viên Chiếu, Tông Bổn, Pháp Viễn ở Phù Sơn, nhưng vẫn chưa có chỗ tỉnh .
Thiền sư Viễn bảo sư :
-Ta già rồi e qua mất thời giờ của ông, vậy nên đến nương với Bạch Vân, lão nầy tuy hậu sanh, ta chưa biết mặt, chỉ thấy bài tụng ba gậy của Lâm Tế có chỗ hơn người, ắt hay làm được việc lớn cho ông .
Sư đến Bạch Vân ở Thủ Đoan, nhắc chuyện vị tăng hỏi ngài Nam Tuyền về châu Ma ni để thưa hỏi. Bạch Vân liền nạt, sư lãnh hội ý chỉ, liền làm kệ dâng :
Một mảnh đất hoang trước núi xanh
Chấp tay cẩn thận hỏi cha ông
Ba lượt bán đi rồi mua lại
Vì thương tùng trúc gió trong lành.
Âm :
“Sơn tiền nhất phiến nhàn điền địa
Xoa thủ đinh ninh vấn tổ ông
Kỷ độ mại lai hoàn tự mãi
Vị lân tùng trúc dẫn thanh phong”.
Bạch Vân ấn khả, lại phân sư coi việc trồng gai. Chẳng bao lâu Bạch Vân đến bảo :
-Có một số thiền khách từ Lô Sơn đến, đều có chỗ ngộ nhập; bảo y nói, cũng nói được rõ ràng, cử nhơn duyên hỏi, y cũng hiểu được, bảo y hạ ngữ, cũng hạ được, chỉ là chưa hiện tiền .
Khi ấy sư rất nghi, thầm nghĩ : Đã ngộ rồi, nói cũng được, rõ cũng được, tại sao chưa hiện tiền ? Sư liền tham cứu luôn nhiều ngày, bỗng nhiên tỉnh ngộ, của báu từ trước buông hết, chạy đến ra mắt Bạch Vân. Bạch Vân dùng tay múa, chân đạp,
sư chỉ một việc cười mà thôi .
Về sau sư dạy chúng :
-“Cổ nhơn nói : “ Nếu ta vì ông nói liền đứt mất lưỡi của ta. Nếu chẳng nói với ông liền câm mất miệng của ta, hãy nói lại có chỗ vì người hay không ? Tứ Diện có khi nghĩ vì ông nuốt mất, chỉ bị răng trước cửa làm ngại, nghĩ vì ông mửa hết, lại bị cổ họng nhỏ, hãy nói lại có chỗ vì người hay không ? Sư lại nói : Tứ Diện lại đến Liễu Hạ Huệ”.
-“Một bề thế ấy đi lộ vắng người thưa, một bề thế ấy đi cô phụ thánh trước, bỏ hai lối nầy Tổ Phật không thể gần, gia sử cùng Bạch Vân đồng sanh đồng tử cũng chưa xứng bình sanh. Sao vậy ? Phụng hoàng chẳng phải phàm gian vật, chẳng được ngô đồng thệ chẳng nương”.
Niên hiệu Sùng Ninh thứ ba. Ngày hai mươi lăm tháng sáu, sư thượng đường từ chúng :
-Hòa thượng Triệu Châu có câu rốt sau, các ông làm sao hội, thử nói ra xem ? Nếu hội, chẳng ngại sống thích thú tự tại, bằng chưa được thế, việc tốt nầy làm sao nói ?
Sư im lặng giây lát, lại bảo : Nói tức nói rồi, chỉ là các ông chẳng biết. Cần hiểu chăng ? Giàu hiềm nghìn miệng ít, nghèo bận một thân nhiều. Trân trọng !
Sư trở về thiền thất, tắm gội sạch sẽ, nằm nghiên bên phải theo thế kiết tường thị tịch, thọ 80 tuổi .
---------------
*-Thiền sư Trung hoa (3). tr 111 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (6). tr 5292 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt . tr 556 .
*-Thơ thiền Đường Tống. tr 39 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
65-THIỀN SƯ TÁNH KHÔNG AM CHỦ ( ? - ? )
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, người Hán Châu. Sư được ấn chứng với thiền sư Từ Tâm, đến sông Tú học theo nếp sống của Hoa Đình Thuyền Tử, dựng một am tranh ở đồng Thanh Long vui với tiêu đồng, sáo trúc .
Sư có làm nhiều thi vịnh, được người đương thời trọng quý như các bài sau đây :
DẠY CHÚNG :
Học đạo ví như giữ cấm thành
Ngày ngừa lục tặc, tối tinh tinh
Trong quân chúa tướng hay hành lệnh
Chẳng động gươm đao tự thái bình.
Âm: THỊ CHÚNG :
“Học đạo du như thủ cấm thành
Trú phòng lục tặc dạ tinh tinh
Trung quân chúa tướng năng hành lệnh
Bất động can qua trị thái bình”.
Ở NÚI :
Tâm pháp đều quên còn cách vọng
Sắc trần bất nhị vẫn thừa trần
Chẳng đến trăm chim xuân lại mất
Biết ai chính thật người trụ am.
Âm : SƠN CƯ :
“Tâm pháp song vong du cách vọng
Sắc trần bất nhị thượng dư trần
Bách điểu bất lai xuân hựu quá
Bất tri thùy thị trụ am nhơn”.
Niên hiệu Kiến Viên năm đầu 1127, sư chống gậy đi ngang qua vùng giặc loạn, giặc nghi muốn giết. Sư nói, tôi là thiền giả, có việc đi đến chùa Mật Ấn, với người trượng phu cần đầu cứ chặt lấy, có gì phải nỗi giận. Tôi ắt khó được sống, xin hãy cho một bữa ăn tống tử. Giặc bày cá thịt, sư làm phép xuất sanh xong, lại nói : Ai sẽ vì tôi làm bài văn cúng tế ? Bọn giặc tức cười không đáp. Sư đòi giấy bút viết :
-“Than ôi ! Duy linh, nhọc ta do sanh ắt lỗi khối đất, sai ta do sống ắt quấy âm dương, thiếu ta do nghèo ắt ngũ hành chẳng chánh, khốn ta do mạng ắt ngày giờ chẳng tốt. Chao ôi ! Lớn thay ! May có đạo xuất trần, ngộ được tánh của ta cùng diệu tâm kia. Hẳn diệu tâm nầy ai hay làm thân, trên đồng chơn hóa của chư Phật, dưới hiệp với vô minh của phàm phu, mảy bụi chẳng động, vốn tự nhiên thành .
Diệu vậy thay ! Diệu vậy thay ! Mặt trời mặt trăng chưa đủ làm sáng càn khôn chưa đủ là lớn, lạ lạ lùng lùng không chướng không ngại, hơn 60 năm hòa quang lẫn tục, 42 hạ tiêu dao tự tại, gặp người thì vui, thấy Phật chẳng lạy .
Cười vậy ư ! Cười vậy ư ! Đáng tiếc chàng thiếu niên, phong lưu rất tươi đẹp, thản nhiên đi về phó gió xuân, thể dường hư không trọn chẳng hoại . Lại mời ! Sư liền cầm đũa gắp ăn tự nhiên. Bọn giặc cười to. Sư ăn xong lại nói : Kiếp số đã gặp ly loạn, tôi là kẻ rất thích sống, hiện nay chính là giờ tốt, xin mời một đao hai khúc. Sư hô to : Chém ! Chém ! Giặc kinh khiếp thả sư và xin tha tội .
Niên hiệu Thiệu Hưng 1131, vào mùa đông, sư làm một cái bồn to rồi úp lại, xong biên thư cho thiền sư Trí ở Tuyết Đậu : “Tôi sắp thủy táng vậy”.
Sau đó, thiền sư trí đến thăm, thấy sư vẫn còn, liền làm thơ giễu cợt :
Dốt thay lão tánh không
Thích làm mồi cho cá
Đi chẳng đòi tánh đi
Chỉ quản nhằm người nói.
Xem qua sư cười bảo : Đợi huynh đến chứng minh .
Sư báo tin họp chúng. Chúng họp, sư thuyết pháp kệ :
Ngồi chết, đứng chết, sao bằng thủy táng
Một khỏi tốn củi, hai khỏi đào đất
Buông tay liền đi, hẳn là thích thú
Ai là tri âm, Hòa thượng Thuyền Tử
Cao phong khó nối, trăm ngàn muôn năm
Một bản ông chài, ít có người xướng.
Nói xong, sư cho bồn hạ thủy, giương buồm vải, giơ tay giã biệt chúng. Tiếng sáo xa vang rồi bặt dứt, lẫn vào biển sóng khoảng trời không. Sư ném sáo và chiếc bồn xa trôi chìm lặng. Ba ngày sau nước thủy triều rút, dân chày phát hiện thấy nhục thân sư ngồi kiết già trên bãi biển, thần sắc chẳng đổi .
-------------
*-Thiền sư Trung hoa (3). tr 146 .
*-Thiền uyển dao lâm. tr 241 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
66-THIỀN SƯ VIÊN NGỘ KHẮC CẦN PHẬT QUẢ (1063-1135)
+ + +
Thiền sư trung hoa, thời Tống, họ Lạc, tự Vô Trước, hiệu Phật Quả, quê ở Sùng Ninh, Tứ Xuyên. Dòng dỏi nhà Nho, thuở thiếu thời thông minh vượt bậc, cả nhà đều kỳ vọng vào sư .
Một hôm nhân đến chùa Diệu Tịch, thấy kinh Phật như gặp vật đã từng quen. Sư nói : “ Ta ngờ quá khứ mình là Sa môn ” liền bỏ nhà theo thầy Tự Tỉnh thế phát xuất gia. Học luật với ngài Văn Chiếu Thông, học kinh Lăng Nghiêm với thầy Mẫn Hạnh. Bỗng nhiên sư mang bệnh nặng, thầm than : “ Con đường Niết bàn của chư Phật chẳng ở trong văn cú, tôi muốn do tiếng cầu thấy sắc, nơi kia chẳng tử vậy”.
Sư du phương tham học, trải qua khắp các thiền hội của chư Thiền đức nổi tiếng đương thời, nhưng vẫn chưa được vào cửa. Cuối cùng sư đến ra mắt thiền sư Pháp Diễn ở Ngũ Tổ. Sư trình hết cơ dụng của mình, đều bị Pháp Diễn bác bỏ. Sư nghĩ thiền sư Diễn gắng xoay chuyển người, nói lời bữa bãi, tức giận bỏ đi .
Thiền sư Diễn bảo :
Đợi khi ông mắc bệnh nặng mới nghĩ đến ta .
Sư đến Kim Sơn. Sau mắc bệnh thương hàn rất nặng, đem chỗ thấy bình thường ra nghiệm đều không đắc lực. Nhớ lời Pháp Diễn sư nguyện khi bớt bệnh sẽ trở lại Ngũ Tổ. Bệnh bớt, sư đến ra mắt Pháp Diễn. Trông thấy sư Pháp Diễn cười nói : “Hãy vào nhà tham thiền”.
Một hôm, Bộ Sử về hưu đến vấn đạo .
Pháp Diễn hỏi :
-Đề Hình thuở thiếu niên từng đọc Tiểu Diễm thi chứ ? Có hai câu hỏi gần nhau : “Vừa kêu Tiểu Ngọc nguyên không việc, chỉ cốt đàn lang nhận được thinh”.
Đề Hình ứng : Dạ ! Dạ !
Pháp Diễn bảo :
-Hãy chính chắn .
Sư vừa đến ứng hầu, thưa : Nghe Hòa thượng nhắc Tiểu Diễm thi,
Đề Hình hiểu chăng ?
Pháp Diễn bảo :
-Kia nhận được thinh .
Sư thưa :
-Chỉ cốt đàn lang nhận được thinh, kia đã nhận được thinh, vì sao lại chẳng phải ?
Pháp Diễn bảo :
-Thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang, cây bá trước sân. Ghê ?
Sư chợt có tỉnh. Vừa bước ra thấy con gà đứng trên lan can vỗ cánh gáy, lại tự bảo : Đây chẳng phải là thinh ư ? Sư liền vào thất trình kệ :
Lò hương bên trướng khói vừa tan
Say khước dìu về nhạc vấn vương
Một đoạn phong lưu thời trai trẻ
Chỉ có giai nhân mới hiểu chàng.
Âm :
“Kim áp hương tiêu cẩm tú vi
Sinh ca tòng lý túy phù quy
Thiếu niên nhất đoạn phong lưu sự
Chỉ hứa giai nhân độc tự tri “.
Pháp Diễn bảo :
-“Phật Tổ đại sự chẳng phải căn nhỏ, cơ hèn hay đến được, để tôi giúp ông vậy. Ngài liền bảo khắp cho hàng kỳ cựu trong núi biết :
“Thị giả của tôi tham được thiền”. Nhân đó, sư đi đến đâu cũng được đưa lên hàng thủ tọa .
Về sau sư dạy chúng :
-“Khắp thân là mắt thấy chẳng đến, khắp thân là tai nghe chẳng thấu, khắp thân là miệng nói chẳng được, khắp thân là tâm xem xét chẳng ra. Dù cho cả đại địa rõ được không sai sót một mảy tơ, vẫn còn ở giữa đường, cử lệnh toàn đề, hãy nói diễn bày thế nào ? Trong không nhật nguyệt dọc ngang chống, một buổi trời trong vạ cổ xuân”.
-“Câu có câu không, siêu tông việt cách, như bìm nương cây, núi bạc vách sắt”. Đến khi cây ngã bìm khô, bao nhiêu người mất đi lỗ mũi. Dù cho lượm lại được, đã là ngàn dặm, muôn dặm. Chỉ như khi chưa có tin tức thế ấy, là thế nào ? Lại thấy được chăng ? Gió ấm tiếng chim hót, nhật lên bóng hoa chồng”.
-“Một lời cắt đứt tiếng ngàn thánh, một kiếm ngay đầu thân ngàn dặm nằm. Vì thế nói : Có khi câu đến ý chẳng đến, có khi ý đến câu chẳng đến, câu hay cắt ý, ý hay cắt câu, câu ý lẫn đuổi
lỗ mũi thiền tăng. Nếu hay thế ấy, chuyển đi, trời trong cũng phải ăn gậy. Hãy nói y cứ cái gì ? Đáng thương vô hạn người đùa bóng, rốt cuộc lại là sóng chết chìm”.
-“Bờ cao muôn trượng buông thõng tay, cần phải người ấy, cây nỏ ngàn quân khi ấn máy há vì chuột thỏ. Vân Môn, Mục Châu ngang mặt lầm qua. Đức Sơn, Lâm Tế nói đùa ngoài cửa. Ngoài ra lập cảnh, lập cơ, làm hang, làm ổ, thế là diệt chủng tộc nhà Phật, một câu độc thoát phải nói làm sao ? Muôn duyên thay đổi nào còn việc, tháng năm phòng núi lạnh như băng”.
Niên hiệu Thiệu Hưng thứ năm. Sư có bệnh, ngồi kiết già viết kệ để lại, rồi ném bút thị tịch, thọ 73 tuổi .
----------------
*-Thiền sư Trung hoa (3). tr 158 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 348 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (4). tr 3477 .
*-Thiền luận (1). tr 398 .
*-Thơ thiền Đường Tống. tr 35 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
67-THIỀN SƯ HUỆ CẦN PHẬT GIÁM (1059-1117)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Uông, tự Phật Giám, quê ở Thư Châu. Sư xuất gia từ thuở nhỏ, theo ngài Quảng Giáo Viên Thâm, học thông kinh luật. Khi đọc đến câu : “Chỉ đây một sự thật, còn hai thì chẳng chơn”. Liền có tỉnh .
Sư du phương tham học, đến thiền hội của thiền sư Pháp Diễn, nhiều phen tham vấn nhưng chẳng hợp cơ. Một hôm, nghe Pháp Diễn nhắc việc vị tăng hỏi ngài Triệu Châu :
-Thế nào là gia phong của Hòa thượng ?
Triệu Châu nói :
-Lão tăng lãng tai, ông hãy hỏi to lên .
Tăng nghe lời, hỏi to hơn .
Triệu Châu nói :
-Ông hỏi gia phong của ta, ta lại biết gia phong của ông .
Sư nghe qua liền đại ngộ. Xin Hòa thượng Diễn chỉ bày chỗ
tột ?
Pháp Diễn đáp :
-Sum la vạn tượng là sở ấn của một pháp .
Sư làm lễ tạ .
Sao nầy sư dạy chúng :
-“Chí đạo không khó, chỉ hiềm lựa chọn, hoa đào hồng, hoa lý trắng, ai bảo chúng chỉ một màu ? Chim yến kêu, Hoàng oanh hót, ai chỉ đồng bảo một tiếng. Chẳng thấu được then chốt của Tổ sư, nhận suông núi sông làm tròng mắt”.
-“Quạ vàng gấp, thỏ ngọc chóng. Sáng trôi gấp gấp mười tháng bảy. Du tử không cùn chẳng về nhà; dù về chỉ ở trước cửa đứng.
Trước cửa đứng, nắm tay lôi gã chẳng chịu vào, muôn dặm xem xem tấc cỏ không, hoa rơi đầy đất không người lượm. Không người lượm, một lần mưa qua một lần ướt”.
-“Việc ngày mười lăm về trước trên gấm thêu hoa, việc ngày mười lăm về sau như biển nổi hòn bọt, chính ngày mười lăm giống hệt chiếc gương một thước soi hình tượng ngàn dặm. Tuy là chân không bặt dấu, ngại gì hải ấn phát quang, mặc tình cột cái nở hoa, nói gì mặt Phật trăm xấu. Cớ sao ? Đến nơi trăng đêm sương, dần dà rơi suối trước”.
-“Nhật nhật nhật tây chìm, nhật nhật nhật đông lên, nếu muốn học Bồ đề, chỉ xem khuôn mẫu nầy”.
Ngày mùng tám tháng chín năm 1117 , sư lên pháp đường nói : “Tâm ấn Tổ sư dáng giống máy trâu sắt, đi liền ấn đứng, đứng liền ấn phá; dù cho chẳng đi, chẳng đứng, cũng chưa phải là chỗ hành lý của Thiền tông ? Đợi tháng mười trước sau vì các ông chú phá.
Đến ngày mùng tám tháng mười, sư tắm gội, đắp y ngồi ngay thẳng, cầm bút viết thư để lại, xong dừng bút thị tịch .
----------------
*-Thiền sư trung hoa (3). tr 166 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (4). tr 3050 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
68-THIỀN SƯ THANH VIỄN PHẬT NHÂN (1067-1120)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Bắc Tống, họ Lý, quê ở Lâm Ngang, Tứ Xuyên. Sư xuất gia năm 14 tuổi, chuyên tâm học luật, sau nhân đọc kinh Pháp Hoa đến câu : “ Pháp ấy chẳng phải chỗ suy nghĩ phân biệt mà hiểu”. Sư đem hỏi, giảng sư không đáp được. Tự than rằng : “Nghĩa học danh tướng không phải nguyên nhân liễu việc lớn sanh tử”. Liền thu xếp, hướng phương Nam cầu học .
Sư đến với ngài Pháp Diễn Ngũ Tổ. Một hôm, nhân đi quyên tởi, bỗng trợt chân té xuống đất, phiền não dấy động. Chợt nghe hai người qua đường chửi nhau, người thứ ba can nói : “ Ông vẫn tự phiền não” .
Nghe lời nầy sư có tỉnh. Trở về chùa thưa hỏi .
Pháp Diễn bảo :
-Ta chẳng bằng ông, nên tự hội được thì tốt .
Sư càng nghi, liền đến hỏi Thủ tọa Nguyên Lễ .
Lễ nắm lỗ tai sư đi quanh lò sưởi mấy vòng, vừa đi vừa nói : “Ông tự hội được thì tốt”.
Sư thưa :
-Thật lòng muốn khai phát, chớ có đùa vui .
Nguyên Lễ bảo :
-Ông về sau ngộ rồi mới biết được khúc chiết ngày nay .
Một hôm nọ trời trở lạnh, sư đến bên lò, vạch thấy một đóm lửa bằng hạt đậu, tự mừng nói : “ Vạch sâu sâu đóm nhỏ xíu, việc bình sanh chỉ như đây”.
Sư lại đến bên bàn ngồi xem bộ Truyền đăng lục, đến nhân duyên ngài Phá Táo Đọa, bỗng nhiên đại ngộ, sư làm kệ :
Vang vang rừng chim hót
Mặc áo trọn đêm ngồi
Vạch lửa ngộ bình sanh
Thần tột về Phá Đọa
Việc rõ người tự mê
Nhạc nhẹ ai hòa được
Nhớ đó mãi chẳng quên
Cửa mở ít người đến.
Âm :
“Đao đao lâm điểu đề
Phi y chung dạ tọa
Bác hỏa ngộ binh sanh
Cùng thần qui Phá Đọa
Sự kiểu nhân tự mê
Khúc đạm thùy năng hòa
Niệm chi vĩnh bất vong
Môn khai thiểu nhân quá”.
Về sau sư dạy chúng :
-“Bọt huyễn đồng không ngại, tại sao chẳng liễu ngộ ? Con ngươi trong mắt kêu người thổi, đạt pháp ở trong ấy. Chẳng phải nay chẳng phải xưa, sáu chiếc đầu tử đỏ đầy bồn.
Đại chúng! Thời nhơn vì sao ngồi dưới đất xem bát bồn ở Dương Châu để gá vào mẫu mới, trên trâu cỡi trâu cười chết người”.
-“Một lá rụng thiên hạ xuân, không đường suy nghĩ cười chết người”. Dưới là trời, trên là đất, lời nầy chẳng nhập ý thời lưu. Nam làm Bắc, Đông làm Tây, động mà dừng, buồn mà vui, đầu rắn đuôi rết một thứ, trong miện cọp dữ chim sẻ sống, là lời gì? Về nhà đi !”.
-“Ngàn nói muôn nói không bằng chính mặt thấy, dù chẳng nói,
cũng tự phân minh. Dụ đao báu Vương tử, dụ đám mù rờ voi .
Trong thiền học việc cách sông đưa tay ngoắt, việc trông châu đình thấy nhau, việc xa bặt chỗ không người, việc chỗ chỗ núi sâu, bờ cao đây đều chính là mặt thấy đó, chẳng ở lời nói vậy”.
Sư viết lên vách nhà Diên thọ như sau :
-Phật cho phép người có bệnh nên ở liêu trị bệnh để có chỗ nghĩ ngơi. Trong thiền lâm, liêu nầy có nhiều tên như :
-Niết bàn, thấy pháp thân thường trụ, rõ thấu pháp bất sinh .
-Tỉnh hành, biết các duyên trói buộc nầy đều từ hành khổ .
-Diên thọ, nếu muốn được huệ mạng thì phải giữ gìn sắc thân, nhưng kỳ thật là khiến người thấu rõ chỗ sanh tử .
Nếu như nhiều kiến giải mà ít giác ngộ, là bệnh còn nhẹ thì nên vào nhà nầy, chẳng cần gượng thừa đương để tìm điều bổ ích. Cho đến người bệnh nặng, luôn nhớ nghĩ đến quê hương không khéo đẩy lui chỗ suy nghĩ để diệt trừ gốc khổ. Bậc Thánh trước nói : “Bệnh là thuốc hay của chúng sanh. Nếu người nào khéo uống thuốc, thì không bệnh nào chẳng hết”. Các bậc tôn túc nói : “ Phải biết có người chẳng bệnh ”. Nên rõ ràng viết những lời nầy để nhắc bảo kẻ hậu lai .
Niên hiệu Tuyên Hòa năm thứ hai. Sau khi thọ trai xong, sư ngồi kiết già bảo đồ chúng :
-“Chư lão túc các nơi, khi sắp tịch thường để kệ từ biệt thế gian. Thế gian có thể từ được sao ? Sắp đi an ổn, sư chấp tay
vui vẻ thị tịch .
--------------
*-Thiền sư trung hoa (3). tr 174 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 697 .
*-Thiền uyễn dao lâm. tr 487 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
69-THIỀN SƯ ĐẠO NINH (Ở) KHAI PHƯỚC (1053-1113)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Uông, quê ở Vụ Nguyên, Giang Tây. Sư trước làm đạo nhơn ở chùa Sùng Quả, lo việc trông nom nhà tắm. Một hôm đang rữa chân, nhẩm đọc câu : “Nơi chương cú nầy hay sanh lòng tin cho là thật”. ở kinh Kim cang, chợt quên mất cái thấy biết của mình, đưa chân vào chảo nước đang sôi, bỗng phát sáng ra việc lớn .
Sau sư đến với thiền sư Lão Lương ở Tuyết Đậu thế phát xuất gia. Ở đây được hai năm sư lại vân du tham học, tiếp kiến nhiều bậc danh đức đương thời. Cuối cùng đến chùa Bạch Liên; một hôm nghe thiền sư Pháp Diễn nhắc câu : “Cổ Phật tịnh bình của ngài Huệ Trung và con chó không có phật tánh của Triệu Châu”. Liền thấu triệt nguồn pháp .
Về sau sư dạy chúng :
-“Trời thu sáng đầy không, sông thu tẩm màu biếc, thương thay người cửa ngoài, nơi nơi tìm Di Lặc, trên đường chợt gặp nhau, gặp nhau mà chẳng biết ”. Chư thiền đức ! Đã là gặp nhau, vì sao lại chẳng biết nhau? Trúc trước sân cắt hết, đến khe chẳng hóa rồng”.
-“Khắp cõi chẳng từng che, toàn thân không ảnh tượng. Gặp nhau chớ than là ngu si, nhiều kiếp đến nay không kỹ lưỡng. Không kỹ lưỡng ít người hay. Trả lại ai kia xương thịt tốt, đâu cần đến kiếng vẽ mày xanh”.
-“Chưa rời Đâu Suất đã giáng vương cung, chưa ra khỏi thai đã độ người xong. Chư thiền đức ! Ngày ngày mặt trời từ bờ đông lên, sớm sớm gà nhằm canh năm gáy. Tuy nhiên chẳng phải đào hoa động, xuân đến hoa đào vẫn đầy khe”.
-“Trong vườn Tỳ Ni giáng sanh hông mặt, bước đi bảy bước nhìn xem bốn phương “ Trên trời dưới trời chỉ ta hơn hết ”. Giống hệt “ Thích Ca xem trăng trên trời, mất đi hạt châu trong tay ”. Lại biết chỗ rơi chăng ? Nếu biết chỗ rơi mới là con hiếu, cháu hiền. Nếu chưa được như thế,chỉ là lập lại lời trước”.
Niên hiệu Chính Hòa thứ ba. Sư cạo tóc, tắm gội, thọ trai xong, khuyên nhắc đại chúng siêng năng tu hành, chuyên cần làm đạo, rồi ngồi kiết già thị tịch. Nhằm ngày mười bốn tháng mười một năm 1113, thọ 60 tuổi .
------------------
*-Thiền sư Trung hoa (3). tr 181 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (3). tr 2291 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 197 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SÓNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
70-THIỀN SƯ ĐẠI HUỆ TÔNG CẢO (1089-1163)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Hề, tự Đàm Hối, quê ở Ninh Quốc, Tuyên Châu. Năm 17 tuổi xuất gia với ngài Huệ Tề ở chùa Huệ Vân, Đông Sơn, năm sau sư thọ giới cụ túc. Sư học thông kinh luật, rộng xem ngữ lục, lại du phương tham học nhiều nơi .
Trong thời gian nương ở chỗ ngài Phù Dung, thấy họ bày nhang đèn làm lễ truyền trao phó pháp chẳng dối. Sư bất bình nói:“ Thiền có truyền trao, đâu phải là pháp tự chứng, tự ngộ
của Phật, Tổ”. Sư lại tiếp tục vân du .
Sư đến thiền hội của thiền sư Chuẩn ở Trạm Đường, mặc sức tung hoành cơ biện, tuy nhiên chẳng được thừa nhận và chỉ được xem lỗ mũi chỉ có nửa bên .
Một hôm thiền sư Chuẩn bảo :
-Thượng tọa Cảo ! Tôi có thiền lý xíu nầy, ông mỗi mỗi lý hội được chăng ?
Sư thưa :
-Lý hội được .
Chuẩn bảo :
-Dạy ông nói cũng nói được, bảo ông làm cũng làm được, niêm cổ tụng cổ, tiểu tham, phổ thuyết thảy được, chỉ có một sự kiện chẳng phải; ông có biết chăng ?
Sư thưa :
-Chưa biết là sự kiện gì ?
Chuẩn bảo :
-Ông chỉ thiếu một cái à ! Vì thế, khi nói thì có, khi chẳng nói liền không, khi vào phương trượng thì có, khi ra phương trượng liền không, khi tỉnh liền có, khi ngủ mê liền không, làm sao chống lại sanh tử ?
Sư thưa :
-Chính là chỗ con nghi .
Chuẩn bịnh, sư đến hỏi : Con về sau phải thấy người nào ?
Chuẩn bảo :
-Có gã Cần, ta chẳng biết y, ông nên nương tựa đó, sẽ hay biện được việc lớn của ông. Nếu ông liễu chưa xong, nên xem Đại tạng kinh tu hành, thân sau ra đời quyết định là Thiện tri thức .
Sư đến thiền sư Viên Ngộ, tham suốt một năm, hạ 49 chuyển ngữ đều chẳng hợp. Một hôm sư hỏi Viên Ngộ : Nhờ Hòa thượng nhắc lại câu thoại đã đối đáp với Ngũ Tổ trước kia ?
Viên Ngộ nói :
-Ta hỏi : “Có câu không câu như bìm nương cây” là thế nào ? -Ngũ Tổ bảo : “Tả cũng tả chẳng được, vẽ cũng vẽ chẳng được”. Ta lại hỏi : “ Chợt gặp cây ngã bìm khô thì thế nào ? ”.- Ngũ Tổ bảo : “Theo nhau lại vậy”.
Nghe qua sư đại ngộ, thưa rằng : Con đã lãnh hội .
Viên Ngộ bảo :
-Chỉ e ông thấu công án nầy chưa đến. Viên Ngộ liền cữ liên tục nhiều công án của các bậc tiền bối, sư đều đối đáp không ngại .
Viên Ngộ khen : Cảo chẳng phải chỉ một hai đời làm Thiện tri thức lại .
Về sau sư dạy chúng :
-“Điên đảo tưởng sanh, sanh tử nối, điên đảo tưởng diệt, sanh tử dứt; chỗ sanh tử dứt, Niết bàn không, chỗ Niết bàn không trong mắt bụi. Niết bàn đã không, nói cái gì trong mắt bụi ? “ Mây trắng chợt về che núi biếc, trăng trong khó bảo xuống trời xanh ”.
-“Nước Ma Kiệt Đà vẫn ở giữa đường, trước ngọn Thiếu thất toàn không lỗ mũi, bàn huyền, nói diệu, thịt lành khoét thương,
nhắc xưa rõ nay, ném cát chọi đất. Đâu bằng đói ăn, khát uống, rảnh ngồi, mệt ngủ, mặc cho bốn mùa đổi dời chẳng can hệ việc của ta. Tuy nhiên, cũng cần phải thật đến điền địa nầy mới được. Chỉ như thật đến điền địa nầy làm sao thân cận ? Sư hét lên, lại nói : “Châm cứu trên vết thương, lại để một viên ngãi
cứu cháy”.
-“Các ngươi bảo ta nói thiền bệnh. Thiền có bệnh gì để nói ? Thiền chẳng từng bệnh nhức đầu, chẳng từng bệnh điếc tai, chẳng từng bệnh mờ mắt, chỉ là ngươi tham thiền, tham được sai biệt, dụng tâm sai biệt, nương thầy sai biệt, nhân những sai biệt nầy nên nói là bệnh. Chẳng phải nói thiền có bệnh. Như nói thế nào là Phật, đáp tức tâm là Phật, có bệnh gì ? Hỏi con chó có Phật tánh không, đáp không, có bệnh gì ? nếu nói : Bảo thanh tre là chạm, chẳng bảo thanh tre là trái, có bệnh gì ? Hỏi thế nào là Phật, đáp cục cức khô, có bệnh gì ? Ông chẳng thấu suốt, vừa khởi đạo lý, cần thấu liền ngàn dặm muôn dặm không giao thiệp. Toan đem tâm phân biệt nó, nhằm chỗ cử lên hiểu rõ, chỗ chọi đá nháng lửa lên luồng điện chớp, hội cái nầy mới là bệnh. Thầy thuốc thế gian liền bó tay. Song cứu cánh chẳng can hệ việc thiền. Ngài triệu Châu nói : Cốt cùng vua “Không” làm đệ tử, chớ bảo tâm bệnh rất khó trị”.
-“Tôi trong đây không có pháp cho người, chỉ là y bản kết án. Giống như ông ôm cái bình lưu ly đến tiếc giữ, giống cái gì?
Tôi một phen trông thấy liền vì ông đập bể. Ông lại đem hạt châu Ma ni đến, tôi lại vì ông cướp mất. Đợi ông chỉ thế ấy lại, tôi lại vì ông chặt đứt hai tay. Vì thế, Hòa thượng Lâm Tế nói : “ Gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ, gặp La hán giết La hán ”. Đã nói là Thiện tri thức, vì sao lại thích giết người vậy ? Hãy nói là đạo lý gì ?
Niên hiệu Long Hưng năm đầu. Tại Nguyệt Minh Đường ở Cảnh Sơn, ngày 10 tháng 8, khi sư sắp tịch, thị giả đến xin kệ,
sư cầm bút viết :
Sanh cũng chỉ là thế
Tử cũng chỉ là thế
Có kệ hoặc là không
Chẳng có gì quan hệ.
Viết xong, sư liền ném bút thị tịch, thọ 75 tuổi, 58 hạ lạp .
--------------
*-Thiền sư Trung hoa (3). tr 199-213 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (3). tr 2087 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
71-THIỀN SƯ TÂM ĐẠO (Ở) VĂN THÙ (1058-1129)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Từ, quê ở Đan Lăng, My Châu. Sư xuất gia năm 30 tuổi, sau đến Thành Đô học môn Duy thức, nghiên cứu sâu rộng trải 10 năm, tự cho là siêu tuyệt. Một hôm có vị tăng thân hỏi : “ Ba cõi duy tâm, vạn pháp duy thức, nay vạn tượng trước mắt rõ ràng, còn tâm thức ở đâu ? ”. Sư mờ mịt chẳng đáp được, ngay đó liền lên đường tham cứu thiền tông .
Nghe nói tông thiền chỉ thẳng, ngộ nhanh. Sư vượt sông Giang Hoài đến với thiền sư Phật Giám. Được nghe nhắc lại câu thoại : “ Cây bá trước sân của triệu Châu ”. Lại nghe Giác Thiết Chùy nói : “Tiên sư không lời nầy, chớ chê bai Tiên sư”.
Nhân đây, sư nghi tình thêm lớn và chí thiết đề khán khá lâu, một hôm bỗng nhiên khai ngộ. Liền chạy tìm Phật Giám trình chỗ đã tỏ. Trông thấy sư, Phật Giám đóng cửa lại .
Sư thưa :
-Hòa thượng chớ lừa con .
Phật Giám bảo :
-Mười phương không tường vách, sao chẳng vào cửa ?
Sư liền tung thủng cửa sổ .
Phật Giám mở cửa, liền nắm đứng sư bảo : Nói ! Nói !
Sư lấy hai tay vòng quanh đầu Phật Giám, dùng miệng cạp một cái liền bỏ đi .
Sư làm kệ trình :
Triệu Châu có một thoại cây Bá
Thiền khách truyền nhau khắp thiên hạ
Phần đông vạch lá kiếm cành cây
Không thể chẳng đến cội nguồn tỏ
Giác Công lại nói chẳng lời nầy
Chính là ngay mặt ác mắn đó
Thiền nhân nếu đủ con mắt sáng
Trong đây thật giả khó biện rõ.
Phật Giám vui nhận và khen ngợi, cùng sư chia tòa thuyết
pháp.
Sau nầy sư dạy chúng :
-“Sư tử ngáp voi chúa rống, Vân Môn trong Bắc đẩu ẩn thân, Bạch Vân vì sao gọi tác thủ. Chư Phật ba đời không thể biết,
chồn hoang trâu trắng lại biết có. Hãy nói thế nào là việc kia biết có ? Mưa xối hoa lê con bướm bay, gió đưa tơ liễu lông cừu chạy”.
-“Cầm gậy chỉ lên, sư nói : Khi thế ấy đâm phũng gót chân Kiều Thi Ca. Quay một vòng lại nói : Khi thế ấy đập bể đầu Diêm la. Chỉ bờ đông nói : Khi thế ấy xỏ qua tròng mắt cá lý ngư ở biển đông. Chỉ bờ tây nói : Khi thế ấy bít mất lỗ mũi Tây Vương Mẫu. Hãy nói khi chẳng thế ấy thì sao ? – Năm nay mưa nước nhiều, mỗi người nên phơi mắt”.
Niên hiệu Kiến Viên năm thứ ba. Vào mùa xuân, sư nhắc nhơn duyên ngài Lâm tế, khi sắp nhập diệt dặn dò Tam Thánh: “Chánh pháp nhãn tạng lừa mù diệt”. Lâm Tế đâu từng nói thế, xưa nay thời nhơn đều vọng truyền, chẳng tin chỉ xem sau tam ngoạt”.
Đến tháng ba nhuần, giặc Chung tạo phản, quấy phá giết người, đồ chúng muốn dời sư đến nơi khác. Sư bảo :
-“Học đạo sở dĩ liễu sanh tử, nào phải chạy đi đâu”.
Giặc đến, sư bảo :“Đã thấy hãy giết nhanh để lòng các ngươi vui”. Giặc liền ra tay hạ sát. Sư thọ 72 tuổi .
---------------
*-Thiền sư Trung hoa (3). tr 242 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang 97). tr 6538 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
72-THIỀN SƯ TRÍ TÀI (Ở) LONG NHA ( ? - ? )
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Thí, quê ở Thư Châu. Sư theo thờ thiền sư Phật Giám khi còn nhỏ, siêng năng chấp tác, chẳng ngại khó khăn, cả tòng lâm đều nghe tiếng tốt .
Sau sư du phương đến trú xứ của ngài Hoàng Long, gặp thiền sư Tử Tâm ở tam môn hỏi :
-Từ đâu đến ?
Sư xưng danh, Tử Tâm liền biết .
Một hôm Tử Tâm hỏi ?
-“Hội được câu tối sơ là hội được câu rốt sau, hội được câu rốt sau là hội được câu tối sơ. Tối sơ rốt sau cầm ném một bên, thoại Bá Trượng dã hồ làm sao hội ?”.
Sư thưa :
-Vào cửa đã rành kiến giải đến, đâu cần nhắc lại lối nghẽn bùn .
Tử Tâm nói :
-Trưởng lão Tâm chết trong tay Thượng tọa .
Sư thưa :
-Ngữ ngôn tuy có khác, chí lý vẫn không sai .
Tử Tâm hỏi ?
-Thế nào là việc không sai ?
Sư thưa :
-“ Chẳng gõ sừng Hoàng Long đâu biết châu dưới hàm ”. Tử Tâm liền đánh .
Về sau sư dạy chúng :
-“Hòa thượng Tử Tâm tiểu tham nói : Nếu luận việc nầy như nhà kia có ba người con. Đứa thứ nhất trí tuệ thông minh, hiếu dưỡng cha mẹ, tiếp giao đãi khách, chăm sóc gia nghiệp. Đứa thứ hai hung hăng gian xảo, mê gái, say rượu, nằm bờ, té buội,
phá hoại sản nghiệp. Đứa thưa ba mù điếc, câm ngọng chẳng biết trắng đen, mọi việc không rành, chỉ lo ăn uống. Hoàng Long cần chọn một người dùng.
Lại có bốn câu : “ Trong chết có sống, trong sống có chết. Trong chết thường chết, trong sống thường sống ”. Đem bốn câu nầy nghiệm thiền tăng trong thiên hạ .
Sư nói : Gọi cái gì là bốn câu ? Ba người tên họ là gì ? Nếu hay hiểu được, cùng Hoàng Long năm tay đồng đi, lại không mảy may ngăn cách. Nếu như chưa thế, chẳng khỏi mượn nước dâng hoa đi vậy. Ba người cộng thể dụng p hi dụng, bốn câu đồng âm không chẳng không. Muốn biết ba người cùng bốn câu. Quạ vàng mới mọc một vần hồng .
Niên hiệu Thiệu Hưng. Ngày rằm tháng tám năm Mậu Ngọ, sư họp chúng giao việc chùa. Kệ rằng :
Ngày trung thu năm Mậu Ngọ
Xuất gia, trụ trì việc đã xong
Sắp đi mình chỉn còn không
Có gì hư không lại kiếm .
Đến ngày 23 họp chúng lần cuối, sư dạy :
-“Niết bàn, sanh tử trọn là hoa đóm trong không, Phật và chúng sanh đều là Tăng ngữ, cả thảy các ông nên phải làm sao ? ”. Cả chúng hạ ngữ, nhưng đều không hợp .
Sư hét : Khổ ! Khổ !
Lại nói : Mây trắng vọt lên, trăng sáng tại trời .
Nói xong, sư ngồi yên thị tịch .
---------------
*-Thiền sư Trung hoa (3). tr 247 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
73-THIỀN SƯ THỦ TUÂN (Ở) PHẬT ĐĂNG (1.079-1.134)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Chí, quê ở Quận Châu. Trước sư tham vấn với thiền sư Anh ở Quảng Giám mà không khế hội. Sư lại sang chùa Thái Bình, ở đây theo chúng thưa hỏi nhưng vẫn chẳng thấu được, tự cuốn tấm vải trải nằm cột lại, nói rằng : “Đời nầy nếu không triệt ngộ, thề chẳng trải tấm vải nầy ra”.
Từ đây, sư ngày ngồi, đêm đứng, dốc chí tinh nghiêm, cần mẫn thiền hành, tựa hồ như mất cha, mất mẹ. Trải bốn mươi chín ngày đêm, chợt một hôm nghe Phật Giám thượng đường nói :
-“Sum la vạn tượng là sở ấn của một pháp”.
Sư liền tỏ suốt, đến ra mắt Phật Giám. Phật Giám bảo :
-“Rất tiếc ! Một viên minh châu bị gã điên nầy lượm được”.
Phật Giám lại hỏi :
-“Linh Vân nói : “ Sau ngày thấy được hoa đào ấy, mải đến ngày nay vẫn chẳng nghi”. Thế nào là chỗ chẳng nghi cua Linh Vân ?
Sư thưa :
-Chớ nói Linh Vân chẳng nghi, chính nay tìm chỗ nghi trọn không thể được .
Phật Giám bảo :
-Huyền Sa nói : “ Đúng đắn rất đúng đắn, dám bảo lão huynh còn chưa triệt ”. Trong đây chỗ nào kẻ kia chưa triệt ?
Sư thưa :
-Biết rõ Hòa thượng tâm lão bà tha thiết .
Phật Giám chứng nhận. Sư lễ tạ trình kệ :
Ngày trọn ngắm trời đâu chẳng ngước
Hoa đào lả chả mắt đưa tròng
Dù cho lấy lưới che trời lại
Vượt khỏi lao quan tin tức xong.
Âm :
“Chung nhật khán thiên bất cử đầu
Đào hoa lạn mạn thủy đài mâu
Nhiêu quân cánh hữu già thiên võng
Thấu đắc lao quan tức tiện hưu”.
Về sau sư dạy chúng :
-“Như lai thiền, Tổ sư đạo, tối kỵ đem tâm bên ngoài thảo, từ cửa mà được tức phi trân, hoàn toàn giấu kín trong y báu. Hàng thiền giả phải sớm đến, mở t oan cái chốt của Tổ sư, giặt giũ nhiều năm chiếc áo vải, phải quấy khen chê gởi cho không, đứng rộng ngang dài lẫn nhau tốt. Anh chẳng thấy Hàn Sơn lão, trọn ngày vui cười năm dài quét, người hỏi trong kia việc thế nào ? Vào ruộng hoang chẳng lựa,nắm lấy đưa ra cỏ. Tham ! “.
-“Cây dùi xoay, chiếc búa ở núi, Phật Tổ ra đời chưa dễ cho, dù khiến đề hồ đầy thế gian, ông không bát báu làm sao lấy ? Thần Sơn đập lưới, Đạo Ngô múa, dưa ngọt tận gốc ngọt, dưa đắng rễ cũng đắng”.
Niên hiệu Thiên Hưng năm Giáp Dần, ngày ra hạ, sư bảo cư sĩ Trịnh Tích : Mùng tám tháng mười là ngày kỵ Phật Giám, ắt thời tôi đến .
Ngày mùng bốn tháng mười có Đạo Như đến thăm. Sư bảo :
-Ông đến rất đúng lúc, trước một ngày cũng không tốt, sau một ngày lại qua rồi. Tôi tuy cùng Phật Giám đồng điều sanh, nhưng trọn chẳng cùng đồng điều tử. Sáng mai nên vì ta tìm một chiếc thuyền nhỏ .
Đạo Như hỏi :
-Cần dài hay cần cao ?
Sư bảo cao chừng năm thước .
Ba ngày sau, khi gà gáy sáng, sư ngồi nghiêm ngay thẳng. Thị giả đến xin kệ, sư bảo : Chẳng từng làm được .
Nói xong, sư liền thị tịch .
----------------
*-Thiền sư Trung hoa (3). tr 251 .
*-Thơ thiền Đường Tống. tr 34 .
*-Thiền luận (2). tr 316 .
*-Ngũ đăng hội nguyên. tr 495-498 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
74-THIỀN SƯ SĨ KHUÊ TRÚC AM (1083-1146)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Sử, quê ở Thành Đô, Tứ Xuyên. Sư xuất gia khi còn tuổi niên thiếu, nương với thầy Tông Nhã ở chùa Đại Từ, siêng học kinh giáo, chuyên nghiên cứu sâu kinh Lăng Nghiêm. Sau lại hướng phương Nam vân du tu học .
Sư đến Long Môn đem chỗ tâm đắc thưa hỏi thiền sư Phật Nhãn.
Phật Nhãn bảo :
-“Ông hiểu tâm đã tột, chỉ thiếu gắng sức mở mắt thôi”.
Hôm khác sư lại hỏi :
-Khi tuyệt đối đãi thì thế nào ?
Phật Nhãn đáp :
Giống hệt ông ở trong tăng đường thưa thỉnh, sư mờ mịt .
Đến chiều, sư lập lại câu thoại khi sáng thưa hỏi ?
Phật Nhãn bảo :
-Ngôn ngữ nhàn . -Ngay lời nầy sư đại ngộ .
Về sau sư dạy chúng :
-“Rõ ràng không ngộ, có pháp tức mê. Các ngươi nhằm trong ấy lập chẳng được, các ông nhằm trong ấy trụ chẳng được. Nếu lập thì nguy, nếu trụ trì thì mù. Cần phải ý chẳng dùng huyền, câu chẳng dùng ý, dụng chẳng dừng cơ. Ba điều nay đã rõ, tất cả chỗ không nên bó buộc, tự nhiên hiện tiền, chẳng phải chiếu cố, tự nhiên minh bạch. Tuy là như thế, lại phải biết có việc hướng thượng. Mưa lâu chẳng tạnh. Dốt !”.
-“Kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến, kiến du ly kiến, kiến bất năng cập”. (1) Hoa rơi có ý theo dòng nước, dòng nước vô tình luyến hoa rơi. “ Các cái có thể trả, tự nhiên chẳng phải ông, là ai ?”. Thường hận xuân về không chỗ kiếm, đâu ngờ chuyển nhập trong đây rồi. Sau ba mươi năm chớ nói Năng Nhơn chùa nầy dạy phá hoại nam nữ nhà người .
Có vị tăng hỏi :
-Thế nào là ý Tổ sư Tây sang ?
Sư đáp :
-“Nhà đông đốt đuốc, đến nhà tây ngồi tối”.
Tăng lại hỏi :
-Chưa biết ý chỉ thế nào ?
Sư đáp :
-“Ngựa nên gác yên, lừa nên cột dây”.
Tăng lễ bái . Sư bảo :
-“Ngựa nên gác yên, lừa nên cột dây, thiền tăng lanh lợi chỉ tiêu một cái ; dù khiến nhà đông đốt đèn sáng, chưa hẳn nhà tây ngồi trong tối. Tây sang ý chỉ hỏi thế nào, ông thầy lắm mồm tự chuốc họa”.
Đến ngày 18 tháng 7 năm Bính Dần, sư gọi Trưởng lão Tông Phạn đến dặn bảo việc chùa. Hôm sau, tắm gội xong, sư đánh chuông họp chúng, chúng họp, sư đến tòa ngồi yên thị tịch, thọ 63 tuổi .
----------------
*-Thiền sư Trung hoa (3). tr 257 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (7). tr 6.000 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 634 .
(1)-Cái thấy, thấy hằng ngày
Thấy chưa phải thật thấy
Cái thấy lìa cái thây
Thấy nầy khó sánh vậy.
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
75-THIỀN SƯ ĐẠO HẠNH (Ở) TUYẾT ĐƯỜNG (1089-1151)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Diệp, quê ở Kiên Châu, Giang Tây. Thuở nhỏ sư thường hay lui tới chùa Thiên Ninh học Phật với thiền sư Vi. Năm 19 tuổi xuất gia theo ngài Giác Ấn Tử Anh, lại tham học với ngài Chi Nguyên Nhuận, nhưng cơ duyên không khế hợp. Sư tiếp tục lên đường tìm đến lễ bái ngài Phật Nhãn Thanh Viễn ở chùa Long Môn. Nơi đây sư đại ngộ, nhờ Phật Nhãn nhắc lại câu thoại : “Huyền Sa chạm đến ngón chân”.
Về sau sư dạy chúng :
-“Hội tức liền hội, ngọc vốn không tỳ, nếu nói chẳng hội, tay cối sanh hoa ; thử hỏi chín năm xay mặt vào vách, sao bằng đại hội niêm hoa. Sư Nam Minh thương xót thế ấy, cũng là thuận gió ném cát “. Tham !
-“Khắp thân là miệng nói được phân nửa, khắp thân là mắt dùng được một cây ; chỗ dùng không đến nói có dư, chỗ nói không đến dùng không hết. Thế nên nói : Đang dùng không nói, đang nói không dùng, dùng nói đồng thời, dùng nói chẳng đồng thời. Các ông nếu có nghĩ nghị. Tây phong dưới gót chân ông”.
-“Trước đây Hòa thượng Cơ hỏi tăng chúng : “Thiền lấy gì làm nghĩa ? ”.Ta bảo chư Phật ba đời là chê bai, hai mươi tám vị Tổ Tây thiên là chê bai, sáu vị Tổ Trung Hoa là chê bai, Hòa thượng khắp thiên hạ là chê bai, các ngươi là chê bai, sơn tăng là chê bai, trong đây lại có người chẳng chê bai hay không ?-Bàn huyền nói diệu hà sa số, đâu giống Song Phong chê được gần”.
-“Phật nói ba thừa, mười hai phần giáo, đốn tiệm thiên viên, người si trước mặt chẳng được nói mộng, Lâm Tế tam huyền, Vân Môn tam cú, Động Sơn ngũ vị, người si trước mặt chẳng được nói mộng. Sư Nam Minh nói thế ấy, lại khỏi bị người kiểm trách hay không ? Sở dĩ cổ nhân nói : Người máy đá giống như ông, cũng biết xướng bài ca, ông nếu giống người đá, Tuyết khúc cũng nên hòa. Lại có hòa Tuyết khúc hay chăng ? Nếu có, kêu lại cùng lão tăng rửa chân”.
Sư có bệnh, đệ tử Uông Công Kiều đến thăm, sư dặn dò và để kệ:
Biết thì biết bổn tâm mình
Thấy thì thấy bổn tâm mình
Biết được bổn tâm cùng bổn tánh
Chính là tông môn đại bệnh.
Hôm sau, sư tắm gội, mặc pháp phục ngồi kiết già thị tịch, thọ 63 tuổi.
-----------------
*-Thiền sư Trung Hoa (3). tr 265 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (3). tr 2281 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 193 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
76-THIỀN SƯ MINH BIỆN CHÁNH ĐƯỜNG ( ? - ? )
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Du, quê ở Bổn Quận (?). Thuở nhỏ theo thiền sư Uẩn ở Báo Bổn. Khi thọ giới cụ túc xong, sư du phương tham vấn các bậc tôn túc tên tuổi đương thời. Sư đến Tây kinh, trú ở chùa Thiếu Lâm, được nghe tăng thân nhắc lại việc thiền sư Phật Nhãn dùng cổ thi phát minh vua nước Kế Tân chém tôn giả Sư Tử rằng :
Đầu sông Dương tử, dương liễu xuân
Hoa đương buồn chết người sang sông
Một tiếng sáo tây lìa trạm tối
Anh đến Tiêu tương, tôi đến Tần.
Sư thầm có chỗ khế hội, liền tìm đến chùa Long Môn xin nhập thất .
Phật Nhãn nói :
-Từ trước Tổ sư nhơn duyên sách vở cho ông hiểu được. Lại đưa nắm tay lên hỏi : “Cái nầy tại sao gọi là nắm ?” .
Sư toan đáp, Phật Nhãn bụm miệng sư lại, nói : “Chẳng được khởi đạo lý”. Ngay đây sư dứt hết thấy biết trước .
Sau nầy sư dạy chúng :
-“Bên miệng cọp mạnh lượm được, trên đầu rắn độc an bài, lại chẳng đóng cọc dời thuyền, xoay đầu riêng có kế sống, bà già bị ta khám phá xong, trong viện Đại bi có làng trai”.
-“Hoa nở trên gò tơ liễu bên bờ, hoàng oanh điệu đàn thúc dạ, cỏ thơm vào câu Tạ công. Nào hẳn nghe tiếng ngộ đạo, thấy sắc minh tâm. Chẳng những trên nước tìm bọt, đã là trong mắt dính bụi. Hãy trong ngực nầy : “Các ông thử xem thân sắc vàng tía của ta đây, ngày nay thì còn, ngày mai ắt không”. Giống như không gió lại nối sóng, toàn chẳng biết hổ thẹn. Hãy nói việc ngày nay là thế nào ? Khéo kẻ mê gặp Đạt Ma, chẳng biết hiểu tiếp nối”.
Ngày kỵ thiền sư Phật Nhãn, sư niêm hương : Hòa thượng Long Môn xiểng đề lạo đảo, chẳng tin Phật pháp diệt trừ thiền đạo, đập vở Tỳ lô cổng tiến lên, con mèo rửa mặt tự nói tốt. Một cây hương trầm đốt trên lò, kéo tay vạch ngực luống sầu thảm. Thôi buồn thảm !”.
Sư làm bài tán Đạt Ma rằng :
-“Trước gác Thăng Nguyên bối rối, bờ ngọc Lạc Dương trái bài, da tủy truyền thành nói cán, chiếc giày không đâu chôn vùi : Chẳng phải một phen sương lạnh buốt, đâu được hoa mai ngát mùi thơm”.
Khi sắp lâm chung, sư lên tòa cầm gậy, quơ bên trái một cái nói : Ba mươi hai tướng không tướng nầy. Sư quơ bên phải một cái nói : Tám mươi vẻ đẹp không vẻ đẹp nầy. Cây viết Tăng Dao vẽ chẳng thành, Chí Công bày ra cỏ khô. Sư lại quơ gậy nhìn đại chúng nói :
“Chớ áo não, thẳng đây thừa kế thôi lại thảo”. Sư xuống tòa về phương trượng, ngồi kiết già an nhiên thị tịch .
--------------------
*-Thiền sư Trung hoa (3). tr 269 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
77-CƯ SĨ PHÓ ĐẠI SĨ (497-569)
+ + +
Cư sĩ Trung hoa, đời nhà Lương, họ tên Phó Hấp, tự Huyền Phong, hiệu Thiện Huệ, quê ở Ô Thương, Chiết Giang. Năm 16 tuổi lấy vợ, sau đó có được 2 con, thường theo dân làng đi đánh cá, khi bắt được cá ông bỏ vào rộng tre, thỉnh thoảng dìm chúng xuống nước bảo : “ Con nào muốn đi thì đi, con nào không muốn đi thì ở lại ”. Người bấy giờ cho ông là kẻ ngu .
Năm 24 tuổi, nhân lúc đi đánh cá ở sông Nghi, chợt gặp vị tăng người Ấn là Tung Đầu Đà khai hóa, liền bỏ lưới thuyền đi thẳng vào núi Tùng, kết một am tranh, cạnh cây song đào, lấy hiệu là Song lâm Đại sĩ .
Ban ngày ông cấy cày để sống, ban đêm miên mật hành thiền trải 7 năm gian khó, đắc được định Thủ Lăng Nghiêm, suốt thấu tông Thiền. Người đương thời truyền dẫn nhau tìm đến tham học rất đông, tất cả đều chí thành tha thiết, chẳng tiếc thân mạng .
Ông thuyết kệ pháp khai thị chúng như sau :
Tay không nắm cán cuốc
Đị bộ cỡi lưng trâu
Trên cầu người qua lại
Cầu trôi nước chẳng trôi.
Âm :
“Không thủ bả sừ đầu
Bộ hành kỵ thủy ngưu
Nhơn tùng kiều thượng quá
Kiều lưu thủy bất lưu”.
Vua Lương Vũ Đế thỉnh ông vào nội cung giảng kinh. Tại điện Trùng Vân, vua đích thân đến nghe ; khi vua đến tất cả đều đứng dậy, chỉ mỗi mình ông là ngồi im. Quần thần thấy thế thưa hỏi .
Ông đáp :” Đất pháp nếu động thì tất cả chẳng an ”. Việc nầy về sau trở thành giai thoại trong nhà thiền. Một lần khác, cũng tại điện Trung Vân, ông đang giảng kinh Bát nhã, các vị thân vương thấy ông ngồi chẳng ngay, liền hỏi :
-Sao chẳng ngồi ngay thẳng ?
Ông trả lời :
-“Ngồi ngay mà tánh chẳng ngay, ngồi nghiêng mà tâm không nghiêng”.
Trong thời gian hành hóa, ông có thuyết nhiều pháp kệ dạy chúng, như bài kệ tụng sau đây :
Đêm đêm ôm Phật ngủ
Sáng sáng cùng Phật dậy
Đứng ngồi vẫn theo nhau
Nói nín đồng vừa vặn
Mảy tơ cũng chẳng rời
Tương tợ như hình bóng
Muốn biết chỗ Phật ở
Lời nói âm thanh đó .
Âm :
“Dạ dạ bảo Phật miên
Triêu triêu hoàn cộng khởi
Khởi tọa trấn tương tùy
Ngữ mặc đồng cư chỉ
Túng hào bất tương ly
Như thân ảnh tương tự
Dục thức Phật khứ xứ
Chỉ giá ngữ thanh thị”.
Trước khi nhập diệt, ông có để lại để lại cho chúng đệ tử pháp kệ:
Có vật trước trời đất
Không hình vốn lặng yên
Hay làm chủ muôn tượng
Bốn mùa chẳng đổi thay.
Âm :
“Hữu vật tiên thiên địa
Vô hình bổn tịch liêu
Năng vi vạn tượng chủ
Bất trục tứ thời diêu”.
Niên hiệu Thái Nguyên, năm đầu. Ngày mười bốn tháng hai năm Kỷ Sửu, ông cho nhóm họp chúng đệ tử đến để răn dạy dặn dò, rồi ngồi kiết già thị tịch, thọ 73 tuổi .
-----------------
*-Ngũ đăng hội nguyên. tr 36 .
*-Thiền luận (1). tr 442 .
*-Tuệ Trung ngữ lục dịch giải. tr 465 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (6). tr 5584 .
*-Thiền uyển dao lâm. tr 192 .
*-Lăng Nghiêm tông thông (1). tr 73 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
78-ĐẠI SƯ CHÂU HOẰNG VÂN THÊ (1532-1612)
+ + +
Cao tăng Trung hoa, đời Minh, người Hàng Châu, họ Thẩm, tự Phật Huệ, hiệu Liên trì. Thuở nhỏ sư theo Nho học, lớn lên quy hướng Phật đạo, năm 32 tuổi xuất gia với ngài Vô Môn Tánh Thiên ở Tây Sơn và thọ giới cụ túc với ngài Vô Trần ở Chiêu Khánh. Sau đó sư du phương tham học khắp nơi .
Khi chưa làm tăng, nhân nghe bà lão bên cạnh nhà mỗi đêm thường niệm Phật, số đếm rất nhiều. Sư để ý hỏi, được bà lão đáp :
“Nếu lúc sanh thời chuyên tâm niệm Phật, khi lâm chung sẽ tránh được bệnh khổ, vui vẻ từ giã mọi người ra đi”. Từ đây sư bắt đầu lưu tâm pháp môn Tịnh độ, tự viết bốn chữ : “Sanh tử sự đại” treo trước bàn để tự răn nhắc .
Sau khi làm tăng, sư chủ trương Tịnh độ, chuyên tu niệm Phật thực hành các điều thiện, ra sức ca ngợi phát triển Thiền Tịnh song tu, cật lực bài bác các hạng cuồng thiền, không ngừng trước tác kinh luận .
Đến niên hiệu Vạn Lịch thứ bốn mươi, sư vào thành từ biệt tăng tục, đồng thời bảo họ rằng : “Tôi sắp đi nơi khác”. Sư trở lại Vân Thê, đãi trà từ biệt chúng. Mọi người thấy lạ, nhưng chẳng hiểu duyên cớ .
Chiều ngày mùng một tháng bảy năm 1612, sư vào nhà tăng nói :
“Mai tôi đi”.
Sáng hôm sau, sư nói mệt, lui vào Phật thất, ngồi ngay thẳng nhắm mắt, tăng chúng và mọi người tụ tập, sư mở mắt nhìn chung rồi bảo :
-“Đại chúng phải niệm Phật cho đến chính chắn, chớ nghi ngờ.
”Dặn xong, sư chấp tay hướng về tây niệm hồng danh A Di Đà Phật mà tịch, thọ 81 tuổi .
------------------
*-Đường về cực lạc (1). tr 163 .
*-Lịch sử Phật giáo Trung quốc. tr 258 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (2). tr 396 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 401 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
79-NGẪU ÍCH TRÍ HÚC (1599-1655)
+ + +
Cao tăng Trung hoa, đời Minh, họ Chung, tự Chấn Chi, hiệu Ngẫu Ích, Bát bất đạo nhân, quê ở Mộc Độc, huyện Ngô. Lúc nhỏ theo Nho học, thề sẽ tiêu diệt Phật, Lão. Sau nhân được đọc “Tự tri lục và Trúc song tùy bút” của ngài Châu Hoằng, liền đốt bộ “Tịch Phật luận” của mình .
Năm 20 tuổi nhân nghe kinh Địa Tạng bổn nguyện,cảm được tâm nguyện của Bồ tát, liền phát khởi ý hướng xuất tục và chuyên tâm niệm Phật từ đấy .
Năm 24 tuổi, sư theo ngài Tuyết Lãnh thế phát xuất gia, rộng học giáo nghĩa các tông Duy Thức, Hoa Nghiêm, Thiên Thai, Thiền, Tịnh và Luật. Sư chủ trương dung hợp các Tông, đề xướng niệm Phật tức Thiền, tuy nhiên vẫn duy về niệm Phật. Sư lại cho rằng, người tu thiền cần phải học tập kinh điển, lấy giáo làm kẻ chỉ đạo .
Sư thường dạy môn nhơn :
-“Người chân thật niệm Phật, trong thì quên thân, ngoài thì quên cảnh, đó là Đại bố thí. Không sanh lòng tham, sân, si là Đại trì giới.
Chẳng chấp thị phi nhân ngã, là Đại nhẫn nhục. Niệm Phật không gián đoạn, là Đại tinh tấn. Vọng tưởng không móng khởi, là Đại thiền định. Không bị ngoại sự “khác” và ngoại pháp “khác” làm mê lầm, là Đại trí tuệ .
“Thử kiểm soát lại mình, nếu chưa quên được thân tâm, thế giới, còn tham, sân, si, còn thị phi nhân ngã, còn trì trệ gián đoạn, còn vọng tưởng tạp niệm, còn bị việc khác, môn khác lôi kéo, thì chưa phải là “Chân thật niệm Phật”.
-“Người tu Tịnh độ niệm Phật ! Rất kỵ nay vầy mai khác. Gặp người nghĩa học, liền muốn học văn, học luận. Gặp người
tu thiền, liền muốn tham thoại, khán ngữ. Gặp người trì luật, liền mộ khất thực khổ hành. Như thế thì chẳng xong việc gì, bởi trong lòng lăng xăng đủ thứ” .
-“Tha hồ cho ai đó giảng hết mười hai phần giáo, tam tạng kinh điển không thiếu, giải phá cả ngàn công án cũng chỉ là việc bên ngoài lề sanh tử. Đến phúc lâm chung quyết định đem dùng chẳng được”.
Ngày 21 tháng giêng năm 1655, niên hiệu Thuận Trị thứ 12, đời Thanh. Sư dậy sớm, dù có bệnh, song trông sư vẫn khỏe khoắn tươi tỉnh bình thường. Đến giờ ngọ, sư ngồi kiết già, mặt hướng về Tây chấp tay thị tịch, thọ 57 tuổi .
---------------
*-Đường về cực lạc (1). tr 171 .
*-Lịch sử Phật giáo Trung quốc. tr 260 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (5). tr 4366 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 865 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
80-ĐẠI SƯ THIỆT HIỀN TỈNH AN ( ? - ? )
+ + +
Cao tăng Trung hoa, đời Thanh, quê ở Trường Thục, tự Tư Tề, hiệu Tỉnh An. Từ bé sư đã không dùng thịt cá, khi lớn lên xuất gia, chuyên tâm tham cứu câu : “Niệm Phật đó là ai ?”. Được tỉnh ngộ liền nói : “Tôi đã tỉnh giấc mơ”. Sau đó, tại chùa Chân Tịnh, sư đống cửa thất ba năm, ngày xem kinh đêm lại niệm Phật .
Sư có soạn văn “Phát Bồ đề tâm” lời tha thiết rất đáng cảm thán như sau :
-“Trong đời có người tu hành chẳng tham cứu tự tâm, chỉ biết việc bên ngoài. Hoặc cầu tài lợi, hoặc ưa danh tiếng, hoặc ham vui sướng hiện tại, hoặc trông quả báo tương lai, phát tâm như thế gọi là tà”.
-“Còn người tu hành chẳng cần danh lợi, chẳng tham sung sướng, chẳng trông quả báo, chỉ vì thoát ly sanh tử, chỉ vì đạo Bồ đề, đấy gọi là chánh”.
-“Niệm niệm trên cầu Phật đạo, tâm tâm dưới độ quần sanh, xem Phật đạo xa vời mà lòng không khiếp, thấy chúng sanh khó độ mà chí chẳng sờn, như trèo núi quyết đến đảnh, như leo tháp quyết đến chót, phát tâm như đây gọi là chơn”.
-“Có tội không sám hối, có lỗi chẳng chịu chừa, ngoài xem như trong sạch, bên trong lại nhơ nhớp, trước thì tinh tấn, sau lại biếng lười, dù cũng có tâm tốt, song có lộn lợi danh, dù là có thiện pháp lại nhiễm ô tội nghiệp, đó gọi là ngụy”…
Sư dạy chúng :
-“Một câu “A Di Đà Phật” là đầu tắc công án, không thương lượng gì khác, thẳng tiến đến chốn. Như đống lửa lớn, vật bỏ vào liền cháy. Như gươm Thái a, chém vật liền đứt lìa. Tám muôn bốn ngàn pháp môn, không ngoài sáu chữ. Một ngàn bảy trăm công án, một câu đoán đủ. Mặc ai không ưa nghe Phật, ta tự nhớ Phật, niệm Phật, chẳng cần biện luận nhiều lời, chỉ nên nhất tâm bất loạn”.
Năm Ứng Chính thứ 11, ngày mùng tám tháng chạp, sư bảo đại chúng : “Tháng tư năm sau tôi đi” rồi đóng cửa thất chuyên tâm niệm Phật, mỗi ngày mười vạn câu.
Năm sau, ngày mười ba tháng tư, sư không ăn uống, ngồi ngay thẳng nhắm mắt. Đến canh năm ngày mười bốn, sư tắm gội thay y phục, đến giờ ngọ, hướng về Tây ngồi nhắm mắt yên lặng. Đại chúng vân tập đông đủ, sư chợt mở mắt nhìn
mọi người nói :
-“Tôi về Cực lạc, chẳng bao lâu sẽ trở lại. Thoát ly sanh tử là việc lớn, mọi người nên tự giữ lòng thanh tịnh, siêng năng niệm Phật”.
Dặn xong, sư chấp tay xướng to danh hiệu A Di Đà Phật liền thị tịch, thọ 49 tuổi .
---------------
*-Đường về cực lạc (1). tr 180-195 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
81-PHÁP SƯ HUỆ ĐỨC (452-535)
+ + +
Cao tăng Trung hoa, đời Lương, quê ở Ô Thương, Tứ Xuyên, họ Lâu, tự Đức Tố .
Sư biết đi chùa, lễ Phật, tụng kinh năm lên bảy tuổi, đến năm mười bảy tuổi theo thầy Huệ Tịnh xuất gia, tại chùa Đông Sơn. Sau khi bổn sư tịch, sư lên núi ẩn tu, dùng rễ lá làm thức
ăn qua ngày .
Tề Trung Thư là Châu Ngung kỉnh mộ, thỉnh sư về trụ trì chùa Thảo Đường ở Chung Sơn. Tại đây sư truyền giảng các bộ kinh Đại thừa như : Tịnh Danh, Thắng Man, Pháp Hoa và Đại phẩm Bát nhã, học nhơn các nơi đến nghe học rất đông .
Ngày mùng tám tháng tư năm 520, niên hiệu Thiên Giám năm thứ 18. Vua Lương Vũ Đế thỉnh sư vào cung, thiết lập đại hội Vô giá, cầu sư truyền trao cho vua giới Bồ tát .
Nguyên hiệu Đại Đồng, nguyên niên, sư có bệnh. Vũ Đế cho người đến thăm viếng, sư nói :
-Đêm nay ta đi .
Đến canh năm đêm ấy, hương thơm ngào ngạt, môn nhơn lặng đứng, sư dạy :
-“Có sanh thì có tử, đó là thường sự. Hãy siêng tu niệm huệ, chớ khởi loạn tưởng”.
Nói xong, sư chấp tay thị tịch, thọ 84 tuổi .
--------------
*-Cao tăng dị truyện. tr 89 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (4). tr 3102 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
82-THIỀN SƯ HUỆ TƯ NAM NHẠC (515-577)
+ + +
Cao tăng Trung hoa, thời Nam Bắc triều, họ Lý, quê ở Vũ Tân, Hà Nam. Sư hâm mộ Phật pháp từ thuở nhỏ, năm lên 15 tuổi xuất gia theo thiền sư Huệ Văn, chuyên tụng kinh Pháp Hoa số đến ngàn biến. Ngày đêm sư nhiếp tâm chuyên nhất, hông không dính chiếu, trải qua 21 ngày đêm trong hạ, có được phần chứng .
Sau đó bỗng dưng báo chướng nổi lên, tay chân suy yếu, đi lại không được, sư tự nghĩ :
-“Bệnh từ nghiệp sanh, nghiệp từ tâm khởi, nếu nguồn tâm không khởi, thì ngoại cảnh đâu có hình trạng bệnh; bệnh, nghiệp cùng với thân nầy đều như bóng huyễn”.
Sư quán như thế, thân trở lại nhẹ nhàng khỏe mạnh như cũ. Nhưng hết mùa hạ năm ấy, kết quả tu tập rốt chẳng được gì
sư ôm lòng hổ thẹn, tự than : Đã để tuổi trẻ luống qua, chán nản buông thân tựa vào tường, bất chợt ngay đó liền tỏ ngộ “Pháp Hoa tam muội”.
Sư dạy chúng :
-“Nguồn đạo không xa, biển tánh rất gần, chỉ hướng mình tìm, chớ theo kẻ khác. Tìm thì chẳng được, dù được cũng chẳng phải chân thật”.
Sư là người đầu tiên chủ trương có thời kỳ “Mạt pháp” nên đã xác lập tín ngưỡng giữa Phật Di Đà và Di Lặc. Đồng thời cũng đề xướng việc thực hành thiền pháp, cùng việc nghiên cứu giáo lý .
Thời gian trụ ở Nam Nhạc, có người hỏi sư : “Sao cứ ngắm mây trời cảnh đẹp, chẳng chịu xuống núi giáo hóa chúng sanh ?”.
Sư đáp :
-“Ba đời chư Phật bị ta nuốt trọn, còn có chúng sanh nào để giáo hóa”.
Ngày sáu tháng sáu năm 577, niên hiệu Thái Kiến năm thứ 9. Sư bảo môn nhân rằng :
-“Nếu có được mười người chẳng tiếc thân mạng, thường tu Pháp hoa, Bát nhã, niệm Phật tam muội, Phương đẳng, sám hối, hẹn phải kiến chứng, thì tùy chỗ cần ta sẽ cung cấp cho.
Nếu chẳng có người như thế, thì đã xa cách ta rồi vậy”.
Bấy giờ đại chúng đều cho là việc khó khăn khổ hành, nên tất cả im lặng chẳng thưa hỏi. Sư đuổi chúng ra hết rồi nhập diệt. Bỗng có vị tiểu tăng tên Linh Biện kêu khóc, sư mở mắt ra nói :
-“Sao đặng kinh động ta ? Đồ ngu ! Đi ra ! Rồi sư chấp tay niệm Phật thị tịch, thọ 63 tuổi .
-----------------
*-Cao tăng dị truyện. tr 44 .
*-Lịch sử Phật giáo Trung quốc. tr 90 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (4). tr 3095 .
---o---
Gò vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
83-ĐẠI SƯ TRÍ KHẢI THIÊN THAI (518-597)
+ + +
Cao Tăng Trung hoa, đời Tùy, quê ở Kinh Châu, Hồ Nam, họ Trần, tự Đức An, thường được gọi là Trí Giả hay Thiên Thai Đại sư .
Dù tuổi đời còn ngây thơ non trẻ, song sư đã biết tới lui chùa và làm thân với chư tăng. Năm 18 tuổi cầu xuất gia thế độ với ngài Pháp Tự chùa Quả Nguyện .
Trước, sư học luật với ngài Huệ Khoáng, kế đọc các kinh Phương đẳng thông suốt và trì tụng kinh Pháp hoa, Vô lượng thọ, Phổ hiền, tinh quán trong hai tuần đã thâm đạt được lý nghĩa .
Đời Trần, năm 560, sư đến núi Đại Tô tham kiến ngài Huệ Tư, được triệt ngộ “Pháp hoa tam muội và Nhất tâm tam quán”. Sau đó sư vân du giáo hóa, đến núi Thiên thai dừng tại đây thuyết giảng suốt chín năm, nên có danh gọi là Thiên Thai Đại
sư .
Sư dạy chúng :
-“Muốn quyết định sanh về Cực lạc, cần phải có hai hạnh “Yểm ly và Hân nguyện”.
1.-Thế nào là Yểm ly ?
-“Phải quán xét thân nầy chứa đủ đầy nhơ nhớp, chịu nhiều nỗi khổ đau bức ngặt, chẳng có chi thật vui, nên sanh lòng nhàm chán lìa xa. Khi quán tưởng như thế, lửa dâm dục, phiền não dần dần thuyên giảm. Lại phát nguyện cầu được vĩnh viễn xa lìa cảnh trần khổ lụy, không còn thọ cái nghiệp mang thân nam, nữ máu mủ tanh nhơ, không còn đắm mê theo ngũ dục; lại cầu mau được sanh về Tịnh độ, chứng chân thân pháp tánh trong sạch quang minh”.
2.-Thế nào là Hân nguyện ?
-“Vì nghĩ đến chúng sanh đang chìm trong bể khổ, nếu mình là phàm phu thì không đủ sức cứu độ. Nên nay tha thiết muốn cầu về Cực lạc, để được gần Phật Thánh, nương tựa tu hành mau chứng được vô sanh, để dẫn dắt chúng sanh thoát khổ não, hầu báo đáp bốn ân trọng. Đó là mục đích cầu sanh .
Lại quán cảnh Cực lạc bảy báu trang nghiêm, đầy đủ sự an vui mầu nhiệm, khiến sanh tâm ưa thích. Nhân đó gắng tu bố thí, trì giới, niệm Phật cùng các việc lành khác, và đem tất cả điều lành làm được hồi hướng, nguyện mình cùng chúng sanh đồng sanh về Tịnh độ. Tin rằng, làm như thế quyết định sẽ vãng sanh. Đó là Hân nguyện”.
Mùa đông năm 597, niên hiệu Khai Hoàng thứ 17, sư ngồi trước tượng đá lớn trên núi, hướng về Tây niệm Phật thị tịch, thọ 60 tuổi, 40 tuổi hạ .
------------
*-Hương quê Cực lạc. tr 28 .
*-Lịch sử Phật giáo Trung quốc. tr 124 .
*-Cao tăng dị truyện. tr 48 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (10). tr 8685)
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
84-ĐẠI SƯ DIÊN THỌ VĨNH MINH (904-975)
+ + +
Cao tăng Trung hoa, thời Ngũ Đại, người xứ Dư Hàng, Lâm An, họ Vương, tự Trọng Huyền, hiệu Bào nhất tử. Sư nối pháp Quốc sư Đức Thiều, là Tổ thứ ba dòng thiền Pháp Nhãn, Tổ thứ sáu tông môn Tịnh độ .
Trước sư làm quan, sau theo thiền sư Thúy Nham, xuất gia ở chùa Long Sách năm 30 tuổi. Sư đến núi Thiên Thai tham kiến Quốc sư Đức Thiều, tu tập thiền định, đạt được yếu chỉ thâm huyền. Lại đến chùa Quốc Thanh, ở đây sư trì kinh Pháp Hoa, phóng sanh, thí thực, chuyên hành tịnh nghiệp .
Sư có viết tập “Vạn thiện đồng quy” lời lẽ thiết yếu !
-“Sanh về duy tâm Tịnh độ là phần của bậc liễu đạt tự tâm. Kinh “Như lai bất tư nghì cảnh giới ” nói : “ Tất cả ba đời chư Phật đều duy tâm lượng, đặng tùy thuận nhẫn, hoặc nhập sơ địa, xả thân mau sanh Cực lạc quốc độ”. Do đây nên biết, người đạt tự tâm mới sanh duy tâm Tịnh độ, còn hàng chấp cảnh, chỉ hạn cuộc trong cảnh sở duyên. Nhân quả đã chẳng sai, mới rõ ngoài tâm không thật có pháp”.
-“Thập nghi luận nói : “ Người trí dẫu mạnh mẽ cầu sanh tịnh độ, nhưng đạt được lý sanh, thể bất khả đắc, mới là chơn vô sanh. Đây là nghĩa ”Vi tâm tịnh là Phật độ tịnh ”. Người ngu bị sanh nó trói buộc, nghe sanh liền cho là sanh, nghe vô sanh liền cho là vô sanh mà chẳng hiểu “ Lý sanh là vô sanh ” nên thị phi bỉ thử với nhau. Đây là kẻ tà kiến báng pháp”.
Sư có làm bốn bài kệ, nhằm hóa giải những so đo giữa người tu Thiền và Tịnh, sau đây :
1.-Có Thiền tông không Tịnh độ
Mười người tu, chín người gảy đổ
Ấm cảnh đến hiện ra
Hốt hoảng xuôi tay theo nó.
2.-Không Thiền tông, có Tịnh độ
Mười người tu, mười người đến chỗ
Đặng gần Phật Di Đà
Lo gì không khai ngộ .
3.-Có Thiền tông, có Tịnh độ
Như thêm sừng cho mảnh hổ
Hiện đời làm thầy người
Kiếp sau làm Phật Tổ .
4.-Không Thiền tông, không Tịnh độ
Giường sắt cột đồng đang chờ đó
Muôn kiếp nghìn đời sau
Không chỗ nơi nương tựa.
Âm :
1.-Hữu Thiền vô Tịnh độ
Thập nhơn cửu ta lộ
Ấm cảnh nhược hiện tiền
Miết nhĩ tùy tha khứ.
2.-Vô Thiền hữu Tịnh độ
Vạn tu vạn nhơn khứ
Nhược đắc kiến Di Đà
Hà sầu bất khai ngộ.
3.-Hữu Thiền hữu Tịnh độ
Dụ như đới giác hổ
Hiện tiền vi nhơn sư
Lai sanh tác Phật Tổ.
4.-Vô Thiền vô Tịnh độ
Thiết sàng tinh đồng trụ
Vạn kiếp dữ thiên sanh
Một cá nhơn y hộ.
Năm thứ tám Khải Bảo nhà Tống. Sáng ngày 26 tháng 2, sư dậy sớm thấp hương lễ Phật, rồi nhóm chúng dạy bảo. Sau đó sư an nhiên ngồi kiết già trên pháp tòa thị tịch,thọ 72 tuổi .
-----------------
*-Đường về Cực lạc (1). tr 152-161 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (2). tr 634 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
85-ĐẠI SƯ TẾ TỈNH TRIỆT NGỘ (1741-1810)
+ + +
Cao tăng Trung hoa, đời Thanh, họ Mã, tự Triệt Ngộ, Nội Đường,
hiệu Mộng Đông,quê ở Phong Nhuận,Hà Bắc .
Thuở thiếu thời tinh thông kinh sử, năm 22 tuổi nhân bị bạo bệnh, giác ngộ được lẽ vô thường, liền đến am Tam Thánh ở Hà Bắc,cầu xin xuất gia với ngài Vinh Trì. Sau đó sư du phương tham học các nơi, nghiên cứu thông suốt cả hai tông Tánh,Tướng như các kinh: Viên Giác,Pháp Hoa,Kim Cang,Lăng Nghiêm và Duy Thức. Cuối cùng sư lại nhận được huyền chỉ thâm diệu nơi ngài Túy Như
Từ khi kế thừa trụ trì chùa Quảng Thông, sư đề xướng Thiền Tịnh song tu, được rất nhiều người ngưỡng mộ tu tập. Riêng bản thân sư thì thời giờ luôn hạn định, chỉ dạy chúng và tiếp khách không quá một cây hương,ngoài ra lo lạy Phật và niệm Phật .
Sư dạy chúng :
-“Đầu mối quan hệ trong vòng sanh tử có hai năng lực :
1.-“Tâm chữ đa đoan,trọng xứ thiên trụy”. Đây là tâm lực (1)
2.-“Như nhơn phụ trái,cường giả tiên thiên”. Đó là nghiệp lực. (2)
-“Nghiệp lực rất lớn, nhưng tâm lực lại lớn hơn. Vì nghiệp không tự tánh, luôn nương gá nơi tâm ; thế nên nếu tâm chú trọng thì sẽ làm cho nghiệp mạnh theo. Do đó nếu dụng tâm chú trọng để tu tịnh nghiệp, thì tịnh nghiệp sẽ phát triển mạnh, và đến khi báo tận mạng chung quyết chẳng sanh cõi khác”.
-“Đang lúc ở trong cảnh mộng, vui khổ vẫn rõ ràng. Cảnh mộng chịu khổ ở thế gian, sao bằng cảnh mộng an vui nơi Cực lạc. Hơn nữa cảnh mộng ở thế gian là từ mộng vào mộng, càng lúc càng vùi sâu vào chỗ mê say. Còn cảnh mộng ở Cực lạc, là từ mộng ra khỏi mộng,thành tựu đại giác. Cõi uế và cõi tịnh dù đồng là cảnh huyễn mộng, nhưng kết quả ảnh hưởng khác nhau rất xa, vì thế nên tự xét suy,sớm hướng tu tịnh nghiệp”.
Tháng hai năm Gia Khánh thứ 15,sư biết trước ngày giờ thác hóa,
nên đi từ biệt các nơi và dặn bảo rằng :
-“Thân nầy như huyễn chẳng bền lâu ,mỗi người nên nỗ lực niệm Phật,nơi Tịnh độ chúng ta sẽ gặp nhau”.
Đến ngày mùng hai tháng chạp,sư bảo đại chúng :
-“Ta sắp về Cực lạc “ và dạy mọi người luân phiên niệm Phật. Đến 5 giờ chiều ngày 17 tháng chạp, sư ngồi ngay thẳng hướng về Tây bảo đại chúng :
-“Ta sắp đi đây “ mọi người hãy niệm Phật, dứt lời, sư kiết ấn thị tịch,thọ 70 tuổi .
----------------
*-Đường về Cực lạc (1). tr 195 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (7). tr 6636 .
(1)-Như người mắc nợ,kẻ mạnh đòi trước.
(2)-Tơ lòng trăm mối,nặng đâu rơi đấy.
(Quy Sơn Cảnh Sách)
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2.003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
86-THƯỢNG TỌA THÁI NGUYÊN ( )
+ + +
Thượng tọa Thái Nguyên Phù, buổi đầu ở chùa Quang Hiếu
Dương Châu. Sư giảng kinh Niết Bàn, có vị thiền tăng nhân đi ngang ghé nghe, đến đoạn “Tam thân Phật tánh, tam đức pháp thân” thiền tăng không nín cười được. Khi thời giảng xong, sư thỉnh thiền tăng vào thất uống trà,rồi thưa hỏi :
-Tôi vốn kiến giải non kém hẹp hòi, chỉ theo văn giảng nghĩa. May nhờ thầy thấy được mà cười, rất mong thầy hoan hỷ chỉ cho chỗ kém thiếu .
Thiền tăng bảo :
-Sở dĩ tôi cười,vì Tọa chủ không biết Pháp thân .
Sư thưa :
-Tôi hiểu như thế,có chỗ nào không đúng ?
Thiền tăng bảo :
-Mời Tọa chủ giảng lại đoạn ấy .
Sư nói : “Lý Pháp thân như bầu thái hư, dọc suốt ba đời, ngang trùm mười phương, tóm gọn tám cực, bao quát âm dương, tùy duyên cơ cảm,không đâu chẳng khắp”.
Thiền tăng bảo :
-Chẳng phải tôi nói thầy giảng không đúng. Nhưng đó chỉ nói được bên cạnh Pháp thân,chứ thực chưa hề biết Pháp thân .
Sư thưa :
-Nếu thế,xin thiền đức cho tôi được nghe ?
Thiền tăng bảo :
-Nhưng liệu Tọa chủ có chịu tin chăng ?
Sư thưa :
-Tôi đâu dám chẳng tin .
Thiền tăng bảo :
-Tọa chủ thử ngưng giảng một tuần, đóng cửa thất ngồi yên thu nhiếp tâm niệm,thiện ác các duyên một lúc buông hết .
Sư theo lời khuyên, thực hành từ đầu hôm đến canh năm, nghe tiếng trống canh,hốt nhiên khai ngộ. Liền đến gõ cửa thiền tăng.
Thiền tăng quát! Tôi bảo ông chuyên trì đại giáo,thay Phật thuyết pháp,giờ nầy đang nửa đêm,sao lại say sưa nằm giữa đường vậy ?
Sư thưa :
-Thiền đức ! Từ trước đến nay, tôi giảng kinh đều lấy lỗ mũi của cha mẹ sanh ra. Từ nay về sau,trọn không dám thế nữa .
Hôm nọ, sư gặp thiền sư Tuyết Phong. Tuyết Phong thấy sư liền chỉ mặt trời,sư phất tay bỏ đi .
Tuyết Phong nói :
Ông không chấp nhận ta sao ?
Sư thưa :
-Hòa thượng lắc đầu, con vẫy đuôi. Có chỗ nào con chẳng chấp nhận đâu ?
Tuyết Phong nói :
-Rốt ráo cũng không kiên tránh .
Sư chẳng xuất thế như các vị tăng, song mọi người đều gọi là Thượng tọa Thái Nguyên Phù. Sau nầy sư về Duy Dương, Thượng Thư họ Trần thỉnh lại cúng dường .
Một hôm sư bảo Thượng Thư rằng; “Mai tôi sẽ giảng một biến kinh Đại Niết Bàn để đáp lại tình ông .
Hôm sau Thượng Thư thiết trai cúng dường, khi uống trà xong sư lên tòa,im lặng hồi lâu,chợt đập thước xuống bàn nói :
-“Tôi nghe như vầy”. Rồi gọi :
-Thượng Thư !
Thượng Thư ứng dạ !
Sư nói :
-“Nhất thời Phật tại”. Liền thị tịch .
----------------
*-Cao tăng dị truyện. tr 177 .
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2.003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
87-SƯ PHỔ MINH
+ + +
Cao tăng Trung hoa, thời Lưu Tống, pháp danh Phổ Minh, tự là Tịch Chiếu, ở am Diệu Thường, Gia Thiện. Từ khi xuất gia đến ngày thọ cụ túc giới, sư ngày đêm thường hay tụng kinh Pháp Hoa và kinh Duy Ma. Sau đó sư lên núi Cô Hàng, đóng cửa thất, buông bỏ muôn duyên,hết đọc kinh lại tĩnh tọa .
Sư tụng kinh Pháp Hoa đến phẩm Khuyến phát, chiêu cảm thấy được Bồ tát Phổ Hiền thị hiện và khi tụng kinh Duy Ma chiêu cảm
nghe được tiếng nhạc trời trỗi dậy trên không .
Sư thường dùng chân ngôn mật chú độ người, nên cao tăng truyện xếp sư vào hàng Thần nhân trong thiên tụng kinh .
Một hôm sư bảo đệ tử :
-“Ngày mười tám tháng năm,ta thị tịch”.
Đệ tử thưa :
-Tháng năm không được tốt .
Sư nói :
-Thế thì tháng tám vậy .
Sư dặn bảo đệ tử rồi trở về Gia Thiện .
Đến tháng tám, đệ tử đến thăm, gặp sư đang quét sân. Sư cười nói :
-Ông không đến thì ta quên mất !
Sư bảo đánh chuông họp chúng và viết kệ :
-Cái lão già nầy
Tuyệt không tính toán
Thiền chẳng biết tham
Kinh chẳng biết đọc
Một đời vụng về vô dụng
Dấu vết bờ núi rặng tùng
Tĩnh như thạch bàn núi Thái
Động như điện chớp sấm rền.
Âm :
“Giá cá lão hán
Thân vô tư toán
Thiền bất hội tham
Kinh bất hội khán
Sinh bình bá chuyết vô năng
Hối tích thanh tùng nham bạn
Tĩnh như thạch bàn Thái sơn
Động nhược lôi oanh xế diện”.
Viết xong, sư ném bút ngồi yên thị tịch, thọ khoảng 86 tuổi,nhằm thời Lưu Tống,niên đại khoảng 454-456 .
---------------
*-Cao tăng dị truyện. tr 191 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (6). tr 5615 .
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2.003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
88-THIỀN SƯ PHÁP KHÁNH ( )
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống,pháp danh Pháp Khánh,ở chùa Đại Giác,phủ Hàm Bình. Buổi đầu sư ở chùa Phổ Chiếu,Tứ Châu,sau sư đến chùa Thiếu Lâm ở Trung Sơn, rồi lên phương Bắc và cuối cùng đến Đông Kinh .
Một hôm thị giả đọc ngữ lục của Động Sơn Lương Giới, đến chỗ thiết trai “ngu si”. Thị giả nói :
-Cổ nhân thật kỳ lạ !
Sư bảo :
-Như ta chết rồi, ông gọi thử xem. Nếu ta sống lại, cũng là có đạo lực vậy .
Sau sư làm bài tụng,báo trước ngày giờ chết :
Năm nay ngày năm tháng năm
Tứ đại xa rời cố chủ
Xương trắng theo gió xa bay
Khỏi chiếm đất đai tín thí.
Âm :
“Kim niên ngũ nguyệt sơ ngũ
Tứ đại tương vi bổn chủ
Bạch cốt đương phong dương khước
Miễn chiếm Đàn na địa thổ”.
Sư đem hết tài vật giao cho thị giả,thiết trai cúng tăng chúng .
Hoàng hôn vừa buông, tiếng chuông đêm vừa điểm, sư ngồi yên thị tịch. Thị giả chợt nhớ việc cũ,vội đến gọi sư .
Sư mở mắt lên tiếng : Thế nào ?
Thị giả thưa :
-Hòa thượng tại sao lại mình trần,chân trụi ra đi vậy ?
Sư bảo :
-Khi mới sanh, lại có những gì ?
Thị giả ép sư mặc áo, sư bảo :
-Để lại cho người sau dùng .
Thị giả thưa :
-Ngay khi ấy thế nào ?
Sư nói :
-Cũng chỉ như thế. Sư lại thuyết kệ :
Bảy mươi ba năm như điện chớp
Lên đường vì anh thông một lối
Trâu sắt nhãy dựng qua Tân la
Hư không đập vỡ bảy tám mảnh.
Âm :
“Thất thập tam niên như xế điện
Lâm hành vị quân thông nhất tuyến
Thiết ngưu bột phá quá Tân la
Trãng phá hư không thất bát phiến”.
Thuyết kệ xong, sư liền tịch, thọ 73 tuổi, nhằm ngày mùng năm tháng năm, năm 1143, niên hiệu Hoàng Thống, năm thứ ba nhà Tống .
-------------
*-Cao tăng dị truyện. tr 193 .
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
89-THIỀN SƯ VÔ NGÔN THÔNG (759-826)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Đường, họ Trịnh, quê ở Quảng Châu. Thuở nhỏ sư đã mộ đạo, không màng gia sản thế sự, lớn lên xuất gia thọ giới tại chùa Song Lâm, Vũ Châu. Sư tánh tình trầm hậu, ít nói, lặng lẽ mà hay biết,thông minh hiểu rõ mọi sự. Cho nên người đương thời gọi là Vô Ngôn Thông; hoặc cũng còn gọi là Bất Ngữ
Thông .
Một hôm sư đang lễ Phật,có một thiền khách đến hỏi :
-Tọa chủ đang làm gì đó ?
Sư đáp :
-Lễ Phật .
Thiền khách chỉ tượng Phật hỏi :
-Cái nầy là cái gì ?
Sư không đáp được .
Đêm đó sư pháp phục nghiêm chỉnh,đến làm lễ thiền khách,thưa rằng :
-Điều ngài hỏi khi nãy,tôi chưa hiểu ý chỉ như thế nào ?
Thiền khách hỏi :
-Tọa chủ xuất gia đến nay đã được mấy hạ rồi ?
Sư thưa :
-Mười hạ .
Thiền khách hỏi :
-Lại từng xuất gia chưa ?
Sư lại càng thêm mù mịt !
Thiền khách bảo :
-Nếu không biết chỗ đó,thì dù có trăm hạ cũng chẳng ích gì !
Tháng chín năm Canh Tý, Đường Nguyên Hòa thứ 15 (820) sư sang Việt Nam ở chùa Kiến Sơ, làng Phù Đỗng, huyện Tiên du, Bắc Ninh. Ngoài chuyện cơm cháo, sư chẳng đoái hoài việc chi, chỉ vui với cái vui thiền duyệt, thường ngồi quay mặt vào vách chẳng nói năng, suốt mấy năm mà không ai biết. Chỉ có sư Cảm Thành,trụ trì chùa nầy, âm thầm tỏ thấu, lòng càng tôn kính hầu hạ, nhận ngài làm thầy .
Sư không bệnh, bữa nọ tắm gội, thay y phục, gọi Cảm Thành đến dạy :
-Xưa Tổ ta là Nam Nhạc Hoài Nhượng,khi sắp tịch có để kệ :
Mọi sự, mọi vật
Đều từ tâm sanh
Tâm đã không sanh
Pháp không chỗ tựa
Nếu rõ lòng nầy
Làm gì có ngại
Chẳng gặp cao nhân
Cẩn thận chớ nói.
Âm :
“Nhất thiết chư pháp
Giai tồn tâm sanh
Tâm vô sở sanh
Pháp vô sở trụ
Nhược đạt tâm địa
Sở trụ vô ngại
Phi ngộ thiện căn
Thận vật khinh hứa”.
Đọc xong, sư chấp tay mà mất. Bấy giờ là mười hai tháng giêng năm Bính Ngọ. Niên hiệu Đường Bảo Lịch thứ hai,thọ 68 tuổi .
-----------------
*-Việt Nam Phật giáo sử luận.(1). tr 183 .
*-Thiền uyển tập anh. tr 29 .
*-Tiểu truyện các thiền sư Việt Nam. tr 15 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 29 .
*-Nghiên cứu thiền uyển tập anh. tr 170-313 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (10). tr 9127 .
*-Việt Nam Phật giáo sử lược. tr 79 .
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
90-THÁI SƯ KHUÔNG VIỆT (933-1011)
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thời Đinh-Lê, họ Ngô, tên Chân Lưu, dòng giỏi của Ngô Thuận Đế . Sư diện mạo khôi ngô tuấn tú, tính tình phóng khoáng,nhỏ theo học Nho,lơn lên quy y Phật .
Sư thọ cụ túc giới và thụ nghiệp với thiền sư Vân Phong, chùa Khai Quốc. Nhân đây sư được đọc học nhiều kinh sách Phật giáo và sâu hiểu yếu chỉ Thiền tông .
Năm 40 tuổi, tiếng tăm sư vang khắp chốn. Vua Đinh Tiên Hoàng mến phục, truy tặng chức Tăng Thống và phong tặng chức Thái Sư Khuông Việt .
Về sau, sư viện lẽ già yếu, xin từ quan về núi du hí huyện nhà, lập chùa và trụ trì. Tại đây học giả bốn phương tìm đến rất đông .
Một hôm, đệ tử Đa Bảo thưa hỏi :
-Thế nào là chung thủy của sự học đạo ?
Sư đáp :
-“Thủy chung không vật, diệu hư không
Hiểu được chân như,thể tự đồng”.
(Thủy chung vô vật diệu hư không
Hội đác chân như thể tự đồng.)
Đa Bảo thưa :
-Làm sao bảo đảm được ?
Sư đáp :
-Không có chỗ cho ngươi xuống tay .
Đa Bảo thưa :
-Hòa thượng nói xong rồi .
Sư hỏi :
-Ông hiểu gì ?
Đa Bảo hét một tiếng lớn !
Ngày 15 tháng 2 năm Thuận Thiên thứ 7, triều Lý, trước lúc quy tịch,sư gọi Đa Bảo đến trao pháp kệ :
Trong cây sẵn có lửa
Có lửa,lửa mới sanh
Nếu bảo cây không lửa
Hãy cọ thử cây xem.
Âm :
“Mộc trung nguyên hữu hỏa
Nguyên hỏa phục hoàn sanh
Nhược vị mộc vô hỏa
Toản toại hà do manh”.
Nói kệ xong,sư ngồi kiết già mà chết,thọ 82 tuổi .
-----------------
*-Thiền uyển tập anh. tr 44 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 45 .
*-Việt Nam Phật giáo sử luận (1). tr 231 .
*-Tiểu truyện các thiền sư Việt Nam. tr 40 .
*-Nghiên cứu thiền uyển tập anh. tr 179-332 .
*-Thơ thiền Việt Nam (1). tr 33 .
*-Việt Nam Phật giáo sử lược. tr 95 .
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 . SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
61-THIỀN SƯ CHÁNH GIÁC HOẰNG TRÍ (1091-1157)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Lý, quê ở Thấp Châu, Sơn Tây. Khi thọ thai sư, mẹ trai giới cẩn trọng, vì mộng thấy vị sư già đeo cho chiếc vòng vào tay. Lúc sanh sư ra, cổ tay có một quần đỏ y như chiếc vòng. Năm 14 tuổi,sư được Tịnh Minh Bổn Tông thế độ xuất gia, 14 tuổi thọ giới cụ túc, 18 tuổi du phương tham học. Lại phát thệ rằng : “Nếu chẳng phát minh được việc lớn,thề không trở lại”.
Sư đến Hương Sơn tham kiến thiền sư Thành,trông thấy sư,thiền sư liền hứa khả. Một hôm nhân nghe vị tăng tụng kinh Pháp Hoa đến câu :”Phụ mẫu sở sanh nhãn,tất kiến tam thiên giới”.(Mắt của cha mẹ sanh ra, thấy hết ba ngàn cõi) bỗng nhiên tỉnh ngộ. Sư liền đến thiền thất trình chỗ hội. Thiền sư Thanh chỉ hương trên đài hỏi :
-Trong đây là vật gì ?
Sư thưa :
-Là tâm hạnh gì .
Thiền sư Thành hỏi :
-Chỗ ngộ của ngươi thế nào ?
Sư lấy tay vẽ một tướng tròn để trình,lại ném cái nhìn ra phía sau
Thiền sư Thành bảo :
-Kẻ đùa hòn đất có giới hạn gì ?
Sư thưa :
-Lầm .
Thiền sư Thành bảo :
-Phải thấy người khác mới được .
Sư thưa :
-Vâng ! Vâng !
Về sau sư thượng đường dạy chúng :
-“Gác vàng rèm sổ ai truyền tin nhà, màn đỏ phủ tốt ném chân châu chính khi ấy thấy nghe có chỗ chẳng đến, nói năng có chỗ chẳng kịp, làm sao thông được tin tức ? Mộng về đêm tối mờ mờ
sáng,cười chỉ gia phong rực rỡ xuân”.
-“Tâm không thể duyên,niệm không thể luận,dù cho lui bước gánh vác,tối kỵ đương đầu chạm húy. Gió mát trăng trong bến đò xưa
thuyền đêm chèo chuyển lưu ly dấy”.
-“Không kiếp có chơn tông,trước tiếng hỏi chính mình, đỏ cùng kế sống mới,trong trắng gia phong xưa,quả thực ngoài tam thừa,lặng lẽ trong một ấn,trở lại đi di loại,muôn dòng tự về đông”.
-“Chư thiền đức ! Người nuốt hết Phật ba đời, vì sao lại mở miệng chẳng được ? Người soi thấu bốn thiên hạ,vì sao nhắm mắt chẳng được ? Bảo người nhiều bệnh hoạn cùng ông đồng thời niêm xong vậy. Hãy làm sao được thập thành thấu suốt đi. Lại hiểu chăng ? Chẻ bể Hoa Sơn sắc nối nhau,khai thấu Hoàng Hà tiến đến biển”.
Trước khi thị tịch, sư đến từ biệt Việt Soái Triệu Công và Đàn việt trong quận. Sau đó tắm gội, mặc pháp phục ngồi nghiêm trang nói chuyện với chúng. Sư bảo vị tăng đang hầu đem giấy bút viết thơ,
để lại cho thiền sư Đại Huệ ở Dục Vương việc thỉnh người kế thừa .
Lời thơ như sau :
“Mộng huyễn không hoa
Sáu mươi bảy năm
Chim trắng khói lặn
Nước thu tiếp trời”.
Viết xong, sư ném bút liền thị tịch, thọ 67 tuổi. Nhằm tháng chín âm lịch năm 1157 niên hiệu Thiệu Hưng .
--------------
*-Thiền sư Trung hoa (3). tr 67 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 103 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (2). tr 314 .
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2.003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
62-THIỀN SƯ CẢNH THÂM (Ở) TRÍ THÔNG ( ? - ? )
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Vương, quê ở Thai Châu. Thuở nhỏ sư chí hướng hơn người, 18 tuổi xuất gia theo ngài Đức Chỉ ở viện Quảng Độ .
Bước đầu đến yết kiến thiền sư Tượng ở Tịnh Từ. Một hôm nghe thiền sư nói : “Nghĩ mà biết,suy mà hiểu, đều là kế sống nhà quỉ,ai cũng thích giao tiếp với nó mà chẳng tự ngăn”.
Sư đến thiền sư Duy Chiếu ở Bảo Phong,xin nhập thất .
Thiền sư Phong nói :
-“Cần phải dứt niệm khởi diệt, nhằm vào kiếp Không trở về trước,
quét sạch chẳng dính đến lỗi huyền diệu, sạch hết Chánh, Thiên. Hôm nay toàn thân buông xuống, buông hết lại buông, mới có phần tự do.Sư nghe qua nhanh chóng lãnh hội yếu chỉ. Bảo Phong đánh trống báo với đại chúng rằng :
-“Thâm đạt đạo “đại tử” của Xiễn đề,kẻ hậu học nên nương tựa y.
Do đó sư còn được gọi là “Đại tử ông” .
Sau ở Trí Thông, sư khai pháp dạy chúng :
-“Lại chẳng vào cổng, đi thẳng ra cửa, đi lại không vết, làm sao đề xướng. Dù được cổ lộ rêu phong, dê nai bặt dấu, ngô đồng trăng phủ,phụng đỏ chẳng đậu. Vì thế nói :“Chỗ ẩn thân không dấu vết,
chỗ không dấu vết chớ ẩn thân”. Nếu hay như thế, đi đứng không nương trọn không hướng bối, lại thông cảm chăng ? Mà nay phân tán như mây bạc,anh tôi đều mất chỗ chạm huyền”.
Niên hiệu Thiệu Hưng năm đầu 1131. Sư về trụ tại Bảo Tàng Nham. Đến năm Nhâm Thân, sư có bệnh, nói với chúng : ” Thế duyên đã hết”. Đến ngày mười ba tháng ba,sư vì chúng tiểu tham,
nói kệ :
Chẳng cần cạo tóc
Nào phiền tắm gội
Một đóng lửa đỏ
Ngàn chơn muôn chơn.
Tuy nhiên như thế, hướng thượng lại có việc hay không ? Sư nhắm mắt thị tịch .
---------------
*-Thiền sư Trung hoa (3). tr 83 .
*-Thiền uyển dao lâm. tr 484 .
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2.003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
63-THIỀN SƯ TÙNG DUYỆT (Ở) ĐẨU SUẤT (1044-1091)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Hùng, quê ở Kiến Châu, Giang Tây. Năm 15 tuổi xuất gia, 16 tuổi thọ giới cụ túc. Bước đầu sư là Thủ chúng trong thiền hội của ngài Đạo Ngô, hướng dẫn một số chúng đến yết kiến Hòa thượng Trí ở Vân Cái. Vừa đàm luận Trí đã biết chỗ uẩn tích của sư,nên cười bảo :
-Xem Thủ tọa khí chất phi phàm,tại sao lại thốt ra lời dường như kẻ say ?
Sư đỏ mặt,xuất mồ hôi thưa :
-Cúi mong Hòa thượng chẳng tiếc từ bi .
Trí lại dùng lời châm chích thêm. Sư mờ mịt liền xin nhập thất .
Trí hỏi :
-Ông từng thấy Hòa thượng ở Pháp Xướng chăng ?
Sư thưa :
-Từng xem ngữ lục của ngài,tự hiểu rõ,cũng chẳng mong thấy .
Trí hỏi :
-Từng thấy Hòa thượng Văn ở Động Sơn chăng ?
Sư thưa :
-Người Quan Tây không đầu não,mang cái quần vải khai nước đái,
có chỗ nào hay ?
Trí bảo :
-Ông chỉ đến chỗ khai nước đái tham lấy .
Sư theo lời dạy, đến yết kiến Hòa thượng Văn, thâm nhận được yếu chỉ. Sư trở lại ra mắt Hòa thượng Trí .
Trí hỏi :
-Sau khi thấy người Quan Tây,đại sự thế nào ?
Sư thưa :
-Nếu chẳng được Hòa thượng chỉ dạy,đã luống qua một đời,liền lễ tạ .
Về sau sư dạy chúng :
-“Mới thấy tân xuân lại sang đầu hạ, bốn mùa dường tên bay,sáng tối như thoi đưa, bỗng chợt mặt hồng trở thành đầu bạc, cần phải nỗ lực riêng dụng tinh thần, cày lấy vườn ruộng của mình, chớ
phạm lúa mạ nhà người;tuy nhiên như thế,kéo cày,mang bừa,phải là con trâu trắng ở núi Tuyết mới được. Hãy nói lỗ mũi ở chỗ nào?
Sư im lặng giây lát lại nói : Bậy ! Bậy !”.
-“Không pháp cũng không tâm, không tâm lại xả cái gì, cần chơn trọn thuộc chơn, cần giả toàn về giả, trên đất bằng chèo thuyền,
trong hư không cỡi ngựa, người chín năm nhìn vách, có miệng lại như câm. Tham !”.
-“Đêm đêm ôm Phật ngủ, ngày ngày cùng Phật đi, ngồi đứng cùng theo nhau,nói nín đồng chung ở, muốn biết chỗ Phật đi, chỉ lời nói nầy vậy”.
-“Thường cư vật ngoại qua thời rỗi, cầm ngang ống sáo thổi lưng trâu,một bản tự yên núi tự biếc,tình nầy chẳng với mây trắng bay. Rất thích, chư thiền đức !”.
Niên hiệu Nguyên Hựu thứ sáu. Vào mùa đông , sư tắm gội, gọi chúng thuyết kệ :
Bốn mươi tám năm
Thánh phàm giết sạch
Chẳng phải anh hùng
Long An đường trơn.
Nói kệ xong, sư ngồi yên thị tịch, thọ 48 tuổi .
-Trong thất sư có đề 3 câu để nghiệm người tham vấn :
1-Vạch cỏ xem gió chỉ mong thấy tánh, chính nay Thượng tọa tánh ở chỗ nào ?
2-Biết được tự tánh mới thoát sanh tử,khi chết rồi làm sao thoát ?
3-Thoát được sanh tử liền biết chỗ đi, bốn đại phân tán nhằm chỗ nào đi ?
--------------
*-Thiền sư Trung hoa (3). tr 94 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 905 .
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2.003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
64-THIỀN SƯ PHÁP DIỄN (Ở) NGŨ TỔ (1024-1104)
+ + +
Thiền sư trung hoa, thời Tống, họ Đặng, hiệu Ngũ Tổ, quê ở Ba Tây, Miên Châu. Năm 35 tuổi sư mới xuất gia, khi thọ giới cụ túc xong,lại đi du học ở Thành Đô. Sư nghiên cứu và học sâu Duy thức cùng luận Bách pháp .
Một hôm sinh nghi đối với giáo môn, muốn được thân chứng thể hội, nên đã vượt sông Hoài, sông Triết đi về phương Nam. Sư tìm đến thưa hỏi với các bậc tôn túc như Viên Chiếu,Tông Bổn,Pháp Viễn ở Phù Sơn,nhưng vẫn chưa có chỗ tỉnh .
Thiền sư Viễn bảo sư :
-Ta già rồi e qua mất thời giờ của ông,vậy nên đến nương với Bạch Vân, lão nầy tuy hậu sanh, ta chưa biết mặt, chỉ thấy bài tụng ba gậy của Lâm Tế có chỗ hơn người, ắt hay làm được việc lớn cho ông .
Sư đến Bạch Vân ở Thủ Đoan, nhắc chuyện vị tăng hỏi ngài Nam Tuyền về châu Ma ni để thưa hỏi. Bạch Vân liền nạt, sư lãnh hội ý chỉ,liền làm kệ dâng :
Một mảnh đất hoang trước núi xanh
Chấp tay cẩn thận hỏi cha ông
Ba lượt bán đi rồi mua lại
Vì thương tùng trúc gió trong lành.
Âm :
“Sơn tiền nhất phiến nhàn điền địa
Xoa thủ đinh ninh vấn tổ ông
Kỷ độ mại lai hoàn tự mãi
Vị lân tùng trúc dẫn thanh phong”.
Bạch Vân ấn khả, lại phân sư coi việc trồng gai. Chẳng bao lâu Bạch Vân đến bảo :
-Có một số thiền khách từ Lô Sơn đến,đều có chỗ ngộ nhập; bảo y nói, cũng nói được rõ ràng, cử nhơn duyên hỏi, y cũng hiểu được,
bảo y hạ ngữ, cũng hạ được, chỉ là chưa hiện tiền .
Khi ấy sư rất nghi, thầm nghĩ : Đã ngộ rồi, nói cũng được, rõ cũng được, tại sao chưa hiện tiền ? Sư liền tham cứu luôn nhiều ngày,
bỗng nhiên tỉnh ngộ, của báu từ trước buông hết, chạy đến ra mắt Bạch Vân. Bạch Vân dùng tay múa, chân đạp, sư chỉ một việc cười mà thôi .
Về sau sư dạy chúng :
-“Cổ nhơn nói : “ Nếu ta vì ông nói liền đứt mất lưỡi của ta. Nếu chẳng nói với ông liền câm mất miệng của ta, hãy nói lại có chỗ vì người hay không ? Tứ Diện có khi nghĩ vì ông nuốt mất, chỉ bị răng trước cửa làm ngại, nghĩ vì ông mửa hết,lại bị cổ họng nhỏ,hãy nói lại có chỗ vì người hay không ? Sư lại nói : Tứ Diện lại đến Liễu Hạ Huệ”.
-“Một bề thế ấy đi lộ vắng người thưa, một bề thế ấy đi cô phụ thánh trước,bỏ hai lối nầy Tổ Phật không thể gần,gia sử cùng Bạch Vân đồng sanh đồng tử cũng chưa xứng bình sanh. Sao vậy ? Phụng hoàng chẳng phải phàm gian vật,chẳng được ngô đồng thệ chẳng nương”.
Niên hiệu Sùng Ninh thứ ba. Ngày hai mươi lăm tháng sáu, sư thượng đường từ chúng :
-Hòa thượng Triệu Châu có câu rốt sau, các ông làm sao hội, thử nói ra xem ? Nếu hội, chẳng ngại sống thích thú tự tại, bằng chưa được thế,việc tốt nầy làm sao nói ?
Sư im lặng giây lát, lại bảo : Nói tức nói rồi, chỉ là các ông chẳng biết. Cần hiểu chăng ? Giàu hiềm nghìn miệng ít, nghèo bận một thân nhiều. Trân trọng !
Sư trở về thiền thất, tắm gội sạch sẽ, nằm nghiên bên phải theo thế kiết tường thị tịch,thọ 80 tuổi .
---------------
*-Thiền sư Trung hoa (3). tr 111 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (6). tr 5292 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt . tr 556 .
*-Thơ thiền Đường Tống. tr 39 .
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2.003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
65-THIỀN SƯ TÁNH KHÔNG AM CHỦ ( ? - ? )
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, người Hán Châu. Sư được ấn chứng với thiền sư Từ Tâm, đến sông Tú học theo nếp sống của Hoa Đình Thuyền Tử, dựng một am tranh ở đồng Thanh Long vui với tiêu đồng,sáo trúc .
Sư có làm nhiều thi vịnh, được người đương thời trọng quý như các bài sau đây :
DẠY CHÚNG :
Học đạo ví như giữ cấm thành
Ngày ngừa lục tặc,tối tinh tinh
Trong quân chúa tướng hay hành lệnh
Chẳng động gươm đao tự thái bình.
Âm: THỊ CHÚNG :
“Học đạo du như thủ cấm thành
Trú phòng lục tặc dạ tinh tinh
Trung quân chúa tướng năng hành lệnh
Bất động can qua trị thái bình”.
Ở NÚI :
Tâm pháp đều quên còn cách vọng
Sắc trần bất nhị vẫn thừa trần
Chẳng đến trăm chim xuân lại mất
Biết ai chính thật người trụ am.
Âm : SƠN CƯ :
“Tâm pháp song vong du cách vọng
Sắc trần bất nhị thượng dư trần
Bách điểu bất lai xuân hựu quá
Bất tri thùy thị trụ am nhơn”.
Niên hiệu Kiến Viên năm đầu 1127, sư chống gậy đi ngang qua vùng giặc loạn, giặc nghi muốn giết. Sư nói, tôi là thiền giả, có việc đi đến chùa Mật Ấn, với người trượng phu cần đầu cứ chặt lấy, có gì phải nỗi giận. Tôi ắt khó được sống, xin hãy cho một bữa ăn tống tử. Giặc bày cá thịt, sư làm phép xuất sanh xong,lại nói : Ai sẽ vì tôi làm bài văn cúng tế ? Bọn giặc tức cười không đáp. Sư đòi giấy bút viết :
-“Than ôi ! Duy linh, nhọc ta do sanh ắt lỗi khối đất, sai ta do sống ắt quấy âm dương, thiếu ta do nghèo ắt ngũ hành chẳng chánh,
khốn ta do mạng ắt ngày giờ chẳng tốt. Chao ôi ! Lớn thay ! May có đạo xuất trần,ngộ được tánh của ta cùng diệu tâm kia.Hẳn diệu
tâm nầy ai hay làm thân, trên đồng chơn hóa của chư Phật, dưới
hiệp với vô minh của phàm phu,mảy bụi chẳng động, vốn tự nhiên thành .
Diệu vậy thay ! Diệu vậy thay ! Mặt trời mặt trăng chưa đủ là sáng càn khôn chưa đủ là lớn, lạ lạ lùng lùng không chướng không ngại, hơn 60 năm hòa quang lẫn tục, 42 hạ tiêu dao tự tại, gặp người thì vui,thấy Phật chẳng lạy .
Cười vậy ư ! Cười vậy ư ! Đáng tiếc chàng thiếu niên, phong lưu rất tươi đẹp, thản nhiên đi về phó gió xuân, thể dường hư không trọn chẳng hoại . Lại mời ! Sư liền cầm đủa gắp ăn tự nhiên. Bọn giặc cười to. Sư ăn xong lại nói : Kiếp số đã gặp ly loạn, tôi là kẻ rất thích sống, hiện nay chính là giờ tốt, xin mời một đao hai khúc. Sư hô to : Chém ! Chém ! Giặc kinh khiếp thả sư và xin tha tội .
Niên hiệu Thiệu Hưng 1131, vào mùa đông,sư làm một cái bồn to rồi úp lại, xong biên thư cho thiền sư Trí ở Tuyết Đậu : “Tôi sắp thủy táng vậy”.
Sau đó,thiền sư trí đến thăm, thấy sư vẫn còn, liền làm thơ giễu cợt :
Dốt thay lão tánh không
Thích làm mồi cho cá
Đi chẳng đòi tánh đi
Chỉ quản nhằm người nói.
Xem qua sư cười bảo : Đợi huynh đến chứng minh .
Sư báo tin họp chúng. Chúng họp,sư thuyết pháp kệ :
Ngồi chết,đứng chết,sao bằng thủy táng
Một khỏi tốn củi,hai khỏi đào đất
Buông tay liền đi,hẳn là thích thú
Ai là tri âm,Hòa thượng Thuyền Tử
Cao phong khó nối,trăm ngàn muôn năm
Một bản ông chài, ít có người xướng.
Nói xong, sư cho bồn hạ thủy, giương buồm vải, giơ tay giã biệt chúng. Tiếng sáo xa vang rồi bặ dứt, lẫn vào biển sóng khoảng trời không. Sư ném sáo và chiếc bồn xa trôi chìm lặng.Ba này sau nước thủy triều rút, dân chày phát hiện thấy nhục thân sư ngồi kiết già trên bãi biển,thần sắc chẳng đổi .
-------------
*-Thiền sư Trung hoa (3). tr 146 .
*-Thiền uyển dao lâm. tr 241 .
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2.003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
66-THIỀN SƯ VIÊN NGỘ KHẮC CẦN PHẬT QUẢ (1063-1135)
+ + +
Thiền sư trung hoa,thời Tống,họ Lạc,tự Vô Trước,hiệu Phật Quả,
quê ở Sùng Ninh, Tứ Xuyên. Dòng dỏi nhà Nho, thuở thiếu thời thông minh vượt bậc, cả nhà đều kỳ vọng vào sư .
Một hôm nhân đến chùa Diệu Tịch,thấy kinh Phật như gặp vật đã từng quen. Sư nói : “ Ta ngờ quá khứ mình là Sa môn ” liền bỏ nhà theo thầy Tự Tỉnh thế phát xuất gia. Học luật với ngài Văn Chiếu Thông, học kinh Lăng Nghiêm với thầy Mẫn Hạnh. Bỗng nhiên sư mang bệnh nặng, thầm than : “ Con đường Niết bàn của chư Phật chẳng ở trong văn cú,tôi muốn do tiếng cầu thấy sắc,nơi kia chẳng tử vậy”.
Sư du phương tham học, trải qua khắp các thiền hội của chư Thiền đức nổi tiếng đương thời, nhưng vẫn chưa được vào cửa. Cuối cùng sư đến ra mắt thiền sư Pháp Diễn ở Ngũ Tổ. Sư trình hết cơ dụng của mình, đều bị Pháp Diễn bác bỏ. Sư nghĩ thiền sư Diễn gắng xoay chuyển người, nói lời bữa bãi, tức giận bỏ đi .
Thiền sư Diễn bảo :
Đợi khi ông mắc bệnh nặng mới nghĩ đến ta .
Sư đến Kim Sơn. Sau mắc bệnh thương hàn rất nặng, đem chỗ thấy bình thường ra nghiệm đều không đắc lực.Nhớ lời Pháp Diễn
sư nguyện khi bớt bệnh sẽ trở lại Ngũ Tổ. Bệnh bớt,sư đến ra mắt Pháp Diễn. Trông thấy sư Pháp Diễn cười nói : “Hãy vào nhà tham thiền”.
Một hôm,Bộ Sử về hưu đến vấn đạo .
Pháp Diễn hỏi :
-Đề Hình thuở thiếu niên từng đọc Tiểu Diễm thi chứ ? Có hai câu hỏi gần nhau : “Vừa kêu Tiểu Ngọc nguyên không việc, chỉ cốt đàn lang nhận được thinh”.
Đề Hình ứng : Dạ ! Dạ !
Pháp Diễn bảo :
-Hãy chính chắn .
Sư vừa đến ứng hầu,thưa : Nghe Hòa thượng nhắc Tiểu Diễm thi,
Đề Hình hiểu chăng ?
Pháp Diễn bảo :
-Kia nhận được thinh .
Sư thưa :
-Chỉ cốt đàn lang nhận được thinh, kia đã nhận được thinh, vì sao lại chẳng phải ?
Pháp Diễn bảo :
-Thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang, cây bá trước sân. Ghê ?
Sư chợt có tỉnh. Vừa bước ra thấy con gà đứng trên lan can vỗ cánh gáy, lại tự bảo : Đây chẳng phải là thinh ư ? Sư liền vào thất trình kệ :
Lò hương bên trướng khói vừa tan
Say khước dìu về nhạc vấn vương
Một đoạn phong lưu thời trai trẻ
Chỉ có giai nhân mới hiểu chàng.
Âm :
“Kim áp hương tiêu cẩm tú vi
Sinh ca tòng lý túy phù quy
Thiếu niên nhất đoạn phong lưu sự
Chỉ hứa giai nhân độc tự tri “.
Pháp Diễn bảo :
-“Phật Tổ đại sự chẳng phải căn nhỏ,cơ hèn hay đến được, để tôi giúp ông vậy. Ngài liền bảo khắp cho hàng kỳ cựu trong núi biết :
“Thị giả của tôi tham được thiền”. Nhân đó, sư đi đến đâu cũng được đưa lên hàng thủ tọa .
Về sau sư dạy chúng :
-“Khắp thân là mắt thấy chẳng đến, khắp thân là tai nghe chẳng thấu, khắp thân là miệng nói chẳng được, khắp thân là tâm xem xét chẳng ra. Dù cho cả đại địa rõ được không sai sót một mảy tơ,
vẫn còn ở giữa đường,cử lệnh toàn đề, hãy nói diễn bày thế nào ? Trong không nhật nguyệt dọc ngang chống, một buổi trời trong vạ cổ xuân”.
-“Câu có câu không, siêu tông việt cách, như bìm nương cây, núi bạc vách sắt”. Đến khi cây ngã bìm khô, bao nhiêu người mất đi lỗ mũi. Dù cho lượm lại được, đã là ngàn dặm, muôn dặm. Chỉ như khi chưa có tin tức thế ấy, là thế nào ? Lại thấy được chăng ? Gió ấm tiếng chim hót,nhật lên bóng hoa chồng”.
-“Một lời cắt đứt tiếng ngàn thánh, một kiếm ngay đầu thân ngàn dặm nằm. Vì thế nói : Có khi câu đến ý chẳng đến,có khi ý đến câu chẳng đến,câu hay cắt ý, ý hay cắt câu, câu ý lẫn đuổi lỗ mũi thiền tăng. Nếu hay thế ấy, chuyển đi, trời trong cũng phải ăn gậy. Hãy nói y cứ cái gì ? Đáng thương vô hạn người đùa bóng, rốt cuộc lại là sóng chết chìm”.
-“Bờ cao muôn trượng buông thỏng tay, cần phải người ấy, cây nỏ ngàn quân khi ấn máy há vì chuột thỏ. Vân Môn, Mục Châu ngang mặt lầm qua. Đức Sơn, Lâm Tế nói đùa ngoài cửa. Ngoài ra lập cảnh, lập cơ, làm hang, làm ổ, thế là diệt chủng tộc nhà Phật, một câu độc thoát phải nói làm sao ? Muôn duyên thay đổi nào còn việc,tháng năm phòng núi lạnh như băng”.
Niên hiệu Thiệu Hưng thứ năm. Sư có bệnh, ngồi kiết già viết kệ để lại, rồi ném bút thị tịch, thọ 73 tuổi .
----------------
*-Thiền sư Trung hoa (3). tr 158 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 348 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (4). tr 3477 .
*-Thiền luận (1). tr 398 .
*-Thơ thiền Đường Tống. tr 35 .
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2.003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
67-THIỀN SƯ HUỆ CẦN PHẬT GIÁM (1059-1117)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Uông, tự Phật Giám,quê ở Thư Châu. Sư xuất gia từ thuở nhỏ, theo ngài Quảng Giáo Viên Thâm,
học thông kinh luật. Khi đọc đến câu : “Chỉ đây một sự thật, còn hai thì chẳng chơn”. Liền có tỉnh .
Sư du phương tham học, đến thiền hội của thiền sư Pháp Diễn,
nhiều phen tham vấn nhưng chẳng hợp cơ. Một hôm, nghe Pháp Diễn nhắc việc vị tăng hỏi ngài Triệu Châu :
-Thế nào là gia phong của Hòa thượng ?
Triệu Châu nói :
-Lão tăng lãng tai,ông hãy hỏi to lên .
Tăng nghe lời,hỏi to hơn .
Triệu Châu nói :
-Ông hỏi gia phong của ta,ta lại biết gia phong của ông .
Sư nghe qua liền đại ngộ. Xin Hòa thượng Diễn chỉ bày chỗ tột ?
Pháp Diễn đáp :
-Sum la vạn tượng là sở ấn của một pháp .
Sư làm lễ tạ .
Sao nầy sư dạy chúng :
-“Chí đạo không khó,chỉ hiềm lựa chọn,hoa đào hồng,hoa lý trắng,
ai bảo chúng chỉ một màu ? Chim yến kêu, Hoàng oanh hót, ai chỉ đồng bảo một tiếng. Chẳng thấu được then chốt của Tổ sư, nhận suông núi sông làm tròng mắt”.
-“Quạ vàng gấp, thỏ ngọc chóng. Sáng trôi gấp gấp mười tháng bảy. Du tử không cùn chẳng về nhà; dù về chỉ ở trước cửa đứng.
Trước cửa đứng, nắm tay lôi gã chẳng chịu vào, muôn dặm xem xem tấc cỏ không, hoa rơi đầy đất không người lượm. Không người lượm,một lần mưa qua một lần ướt”.
-“Việc ngày mười lăm về trước trên gấm thêu hoa, việc ngày mười lăm về sau như biển nổi hòn bọt.,chính ngày mười lăm giống hệt chiếc gương một thước soi hình tượng ngàn dặm. Tuy là chân không bặt dấu, ngại gì hải ấn phát quang, mặc tình cột cái nở hoa
nói gì mặt Phật trăm xấu. Cớ sao ? Đến nơi trăng đêm sương, dần dà rơi suối trước”.
-“Nhật nhật nhật tây chìm,nhật nhật nhật đông lên,nếu muốn học Bồ đề,chỉ xem khuôn mẫu nầy”.
Ngày mùng tám tháng chín năm 1117 , sư lên pháp đường nói : “Tâm ấn Tổ sư dáng giống máy trâu sắt, đi liền ấn đứng, đứng liền ấn phá;dù cho chẳng đi,chẳng đứng,cũng chưa phải là chỗ hành lý của Thiền tông ? Đợi tháng mười trước sau vì các ông chú phá.
Đến ngày mùng tám tháng mười, sư tắm gội, đắp y ngồi ngay thẳng, cầm bút viết thư để lại, xong dừng bút thị tịch .
----------------
*-Thiền sư trung hoa (3). tr 166 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (4). tr 3050 .
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2.003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
68-THIỀN SƯ THANH VIỄN PHẬT NHÂN (1067-1120)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Bắc Tống, họ Lý, quê ở Lâm Ngang, Tứ Xuyên. Sư xuất gia năm 14 tuổi,chuyên tâm học luật,sau nhân đọc kinh Pháp Hoa đến câu : “ Pháp ấy chẳng phải chỗ suy nghĩ phân biệt mà hiểu”. Sư đem hỏi,giảng sư không đáp được. Tự than rằng : “Nghĩa học danh tướng không phải nguyên nhân liễu việc lớn sanh tử”. Liền thu xếp, hướng phương Nam cầu học .
Sư đến với ngài Pháp Diễn Ngũ Tổ. Một hôm, nhân đi quyên tởi,
bỗng trợt chân té xuống đất, phiền não dấy động. Chợt nghe hai người qua đường chửi nhau, người thứ ba can nói : “ Ông vẫn tự phiền não” .
Nghe lời nầy sư có tỉnh. Trở về chùa thưa hỏi .
Pháp Diễn bảo :
-Ta chẳng bằng ông, nên tự hội được thì tốt .
Sư càng nghi, liền đến hỏi Thủ tọa Nguyên Lễ .
Lễ nắm lỗ tai sư đi quanh lò sưởi mấy vòng, vừa đi vừa nói : “Ông tự hội được thì tốt”.
Sư thưa :
-Thật lòng muốn khai phát,chớ có đùa vui .
Nguyên Lễ bảo :
-Ông về sau ngộ rồi mới biết được khúc chiết ngày nay .
Một hôm nọ trời trở lạnh, sư đến bên lò, vạch thấy một đóm lửa bằng hạt đậu,tự mừng nói : “ Vạch sâu sâu đóm nhỏ xíu, việc bình sanh chỉ như đây”.
Sư lại đến bên bàn ngồi xem bộ Truyền đăng lục,đến nhân duyên ngài Phá Táo Đọa,bỗng nhiên đại ngộ,sư làm kệ :
Vang vang rừng chim hót
Mặc áo trọn đêm ngồi
Vạch lửa ngộ bình sanh
Thần tộtv vềv Phá Đọa
Việc rõ người tự mê
Nhạc nhẹ ai hòa được
Nhớ đó mãi chẳng quên
Cửa mở ít người đến.
Âm :
“Đao đao lâm điểu đề
Phi y chung dạ tọa
Bác hỏa ngộ binh sanh
Cùng thần qui Phá Đọa
Sự kiểu nhân tự mê
Khúc đạm thùy năng hòa
Niệm chi vĩnh bất vong
Môn khai thiểu nhân quá”.
Về sau sư dạy chúng :
-“Bọt huyễn đồng không ngại, tại sao chẳng liễu ngộ ? Con ngươi trong mắt kêu người thổi, đạt pháp ở trong ấy. Chẳng phải nay
chẳng phải xưa,sáu chiếc đầu tử đỏ đầy bồn.
Đại chúng! Thời nhơn vì sao ngồi dưới đất xem bát bồn ở Dương Châu để gá vào mẫu mới,trên trâu cỡi trâu cười chết người”.
-“Một lá rụng thiên hạ xuân, không đường suy nghĩ cười chết người”. Dưới là trời,trên là đất,lời nầy chẳng nhập ý thời lưu. Nam làm Bắc, Đông làm Tây, động mà dừng, buồn mà vui, đầu rắn đuôi rết một thứ,trong miện cọp dữ chim sẻ sống,là lời gì? Về nhà đi !”.
-“Ngàn nói muôn nói không bằng chính mặt thấy, dù chẳng nói,
cũng tự phân minh. Dụ đao báu Vương tử, dụ đám mù rờ voi .
Trong thiền học việc cách sông đưa tay ngoắt,việc trông châu đình thấy nhau, việc xa bặt chỗ không người, việc chỗ chỗ núi sâu, bờ cao đây đều chính là mặt thấy đó,chẳng ở lời nói vậy”.
Sư viết lên vách nhà Diên thọ như sau :
-Phật cho phép người có bệnh nên ở liêu trị bệnh để có chỗ nghĩ ngơi. Trong thiền lâm, liêu nầy có nhiểu tên như :
-Niết bàn, thấy pháp thân thường trụ,rõ thấu pháp bất sinh .
-Tỉnh hành,biết các duyên trói buộc nầy đều từ hành khổ .
-Diên thọ, nếu muốn được huệ mạng thì phải giữ gìn sắc thân,
nhưng kỳ thật là khiến người thấu rõ chỗ sanh tử .
Nếu như nhiều kiến giải mà ít giác ngộ, là bệnh còn nhẹ thì nên vào nhà nầy,chẳng cần gượng thừa đương để tìm điều bổ ích. Cho đến người bệnh nặng, luôn nhớ nghĩ đến quê hương không khéo đẩy lui chỗ suy nghĩ để diệt trừ gốc khổ. Bậc Thánh trước nói : “Bệnh là thuốc hay của chúng sanh. Nếu người nào khéo uống thuốc, thì không bệnh nào chẳng hết”. Các bậc tôn túc nói : “ Phải biết có người chẳng bệnh ”. Nên rõ ràng viết những lời nầy để nhắc bảo kẻ hậu lai .
Niên hiệu Tuyên Hòa năm thứ hai. Sau khi thọ trai xong, sư ngồi kiết già bảo đồ chúng :
-“Chư lão túc các nơi, khi sắp tịch thường để kệ từ biệt thế gian. Thế gian có thể từ được sao ? Sắp đi an ổn, sư chấp tay vui vẻ thị tịch .
--------------
*-Thiền sư trung hoa (3). tr 174 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 697 .
*-Thiền uyễn dao lâm. tr 487 .
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2.003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
69-THIỀN SƯ ĐẠO NINH (Ở) KHAI PHƯỚC (1053-1113)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống,họ Uông, quê ở Vụ Nguyên, Giang Tây. Sư trước làm đạo nhơn ở chùa Sùng Quả, lo việc trông nom nhà tắm. Một hôm đang rữa chân,nhẩm đọc câu : “Nơi chương cú nầy hay sanh lòng tin cho là thật”. ở kinh Kim cang, chợt quên mất cái thấy biết của mình, đưa chân vào chảo nước đang sôi, bỗng phát sáng ra việc lớn .
Sau sư đến với thiền sư Lão Lương ở Tuyết Đậu thế phát xuất gia. Ở đây được hai năm sư lại vân du tham học, tiếp kiến nhiều bậc danh đức đương thời. Cuối cùng đến chùa Bạch Liên;một hôm nghe thiền sư Pháp Diễn nhắc câu : “Cổ Phật tịnh bình của ngài Huệ Trung và con chó không có phật tánh của Triệu Châu”. Liền thấu triệt nguồn pháp .
Về sau sư dạy chúng :
-“Trời thu sáng đầy không, sông thu tẩm màu biếc, thương thay người cửa ngoài, nơi nơi tìm Di Lặc,trên đường chợt gặp nhau,gặp nhau mà chẳng biết ”. Chư thiền đức ! Đã là gặp nhau, vì sao lại chẳng biết nhau? Trúc trước sân cắt hết,đến khe chẳng hóa rồng”.
-“Khắp cõi chẳng từng che,toàn thân không ảnh tượng. Gặp nhau chớ than là ngu si, nhiều kiếp đến nay không kỹ lưỡng. Không kỹ lưỡng ít người hay. Trả lại ai kia xương thịt tốt, đâu cần đến kiếng vẽ mày xanh”.
-“Chưa rời Đâu Suất đã giáng vương cung, chưa ra khỏi thai đã độ người xong. Chư thiền đức ! Ngày ngày mặt trời từ bờ đông lên,
sớm sớm gà nhằm canh năm gáy. Tuy nhiên chẳng phải đào hoa động,xuân đến hoa đào vẫn đầy khe”.
-“Trong vườn Tỳ Ni giáng sanh hông mặt, bước đi bảy bước nhìn xem bốn phương “ Trên trời dưới trời chỉ ta hơn hết ”. Giống hệt “ Thích Ca xem trăng trên trời, mất đi hạt châu trong tay ”. Lại biết chỗ rơi chăng ? Nếu biết chỗ rơi mới là con hiếu, cháu hiền. Nếu chưa được như thế,chỉ là lập lại lời trước”.
Niên hiệu Chính Hòa thứ ba. Sư cạo tóc, tắm gội, thọ trai xong,
khuyên nhắc đại chúng siêng năng tu hành, chuyên cần làm đạo
rồi ngồi kiết già thị tịch. Nhằm ngày mười bốn tháng mười một năm 1113, thọ 60 tuổi .
------------------
*-Thiền sư Trung hoa (3). tr 181 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (3). tr 2291 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 197 .
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2.003 .
SÓNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
70-THIỀN SƯ ĐẠI HUỆ TÔNG CẢO (1089-1163)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Hề, tự Đàm Hối, quê ở Ninh Quốc,Tuyên Châu. Năm 17 tuổi xuất gia với ngài Huệ Tề ở chùa Huệ Vân, Đông Sơn, năm sau sư thọ giới cụ túc. Sư học thông kinh luật, rộng xem ngữ lục,lại du phương tham học nhiều nơi .
Trong thời gian nương ở chỗ ngài Phù Dung, thấy họ bày nhang đèn làm lễ truyền trao phó pháp chẳng dối. Sư bất bình nói:“Thiền có truyền trao,đâu phải là pháp tự chứng, tự ngộ của Phật,Tổ”. Sư lại tiếp tục vân du .
Sư đến thiền hội của thền sư Chuẩn ở Trạm Đường,mặc sức tung hoành cơ biện, tuy nhiên chẳng được thừa nhận và chỉ được xem lỗ mũi chỉ có nửa bên .
Một hôm thiền sư Chuẩn bảo :
-Thượng tọa Cảo ! Tôi có thiền lý xíu nầy, ông mỗi mỗi lý hội được chăng ?
Sư thưa :
-Lý hội được .
Chuẩn bảo :
-Dạy ông nói cũng nói được, bảo ông làm cũng làm được, niêm cổ tụng cổ,tiểu tham,phổ thuyết thảy được, chỉ có một sự kiện chẳng phải; ông có biết chăng ?
Sư thưa :
-Chưa biết là sự kiện gì ?
Chuẩn bảo :
-Ông chỉ thiếu một cái à ! Vì thế, khi nói thì có, khi chẳng nói liền không, khi vào phương trượng thì có, khi ra phương trượng liền không, khi tỉnh liền có, khi ngủ mê liền không, làm sao chống lại sanh tử ?
Sư thưa :
-Chính là chỗ con nghi .
Chuẩn bịnh, sư đến hỏi : Con về sau phải thấy người nào ?
Chuẩn bảo :
-Có gã Cần, ta chẳng biết y, ông nên nương tựa đó, sẽ hay biện được việc lớn của ông. Nếu ông liễu chưa xong, nên xem Đại tạng kinh tu hành,thân sau ra đời quyết định là Thiện tri thức .
Sư đến thiền sư Viên Ngộ,tham suốt một năm, hạ 49 chuyển ngữ đều chẳng hợp. Một hôm sư hỏi Viên Ngộ : Nhờ Hòa thượng nhắc lại câu thoại đã đối đáp với Ngũ Tổ trước kia ?
Viên Ngộ nói :
-Ta hỏi : “Có câu không câu như bìm nương cây” là thế nào ? -Ngũ Tổ bảo : “ Tả cũng tả chẳng được, vẽ cũng vẽ chẳng được ”. Ta lại hỏi : “ Chợt gặp cây ngã bìm khô thì thế nào ? ”.- Ngũ Tổ bảo : “Theo nhau lại vậy”.
Nghe qua sư đại ngộ,thưa rằng : Con đã lãnh hội .
Viên Ngộ bảo :
-Chỉ e ông thấu công án nầy chưa đến. Viên Ngộ liền cữ liên tục nhiều công án của các bậc tiền bối,sư đều đối đáp không ngại .
Viên Ngộ khen : Cảo chẳng phải chỉ một hai đời làm Thiện tri thức lại .
Về sau sư dạy chúng :
-“Điên đảo tưởng sanh, sanh tử nối, điên đảo tưởng diệt, sanh tử dứt; chỗ sanh tử dứt, Niết bàn không, chỗ Niết bàn không trong mắt bụi. Niết bàn đã không, nói cái gì trong mắt bụi ? “ Mây trắng chợt về che núi biếc,trăng trong khó bảo xuống trời xanh ”.
-“Nước Ma Kiệt Đà vẫn ở giữa đường, trước ngọn Thiếu thất toàn không lỗ mũi,bàn huyền,nói diệu,thịt lành khoét thương,nhắc xưa rõ nay,ném cát chọi đất. Đâu bằng đói ăn, khát uống, rảnh ngồi,
mệt ngủ, mặc cho bốn mùa đổi dời chẳng can hệ việc của ta. Tuy nhiên,cũng cần phải thật đến điền địa nầy mới được. Chỉ như thật đến điền địa nầy làm sao thân cận ? Sư hét lên,lại nói : “Châm cứu trên vết thương,lại để một viên ngãi cứu cháy”.
-“Các ngươi bảo ta nói thiền bệnh. Thiền có bệnh gì để nói ? Thiền chẳng từng bệnh nhức đầu, chẳng từng bệnh điếc tai, chẳng từng bệnh mờ mắt, chỉ là ngươi tham thiền, tham được sai biệt, dụng tâm sai biệt, nương thầy sai biệt, nhân những sai biệt nầy nên nói là bệnh. Chẳng phải nói thiền có bệnh. Như nói thế nào là Phật,
đáp tức tâm là Phật,có bệnh gì ? Hỏi con chó cóa Phật tánh không,
đáp không,có bệnh gì ? nếu nói : Bảo thanh tre là chạm,chẳng bảo thanh tre là trái, có bệnh gì ? Hỏi thế nào là Phật, đáp cục cức khô,
có bệnh gì ? Ông chẳng thấu suốt, vừa khởi đạo lý, cần thấu liền ngàn dặm muôn dặm không giao thiệp. Toan đem tâm phân biệt nó, nhằm chỗ cử lên hiểu rõ, chỗ chọi đá nháng lửa lên luồng điện chớp hội,cái nầy mới là bệnh.Thầy thuốc thế gian liền bó tay. Song
cứu cánh chẳng can hệ việc thiền. Ngài triệu Châu nói : Cốt cùng vua “Không” làm đệ tử,chớ bảo tâm bệnh rất khó trị”.
-“Tôi trong đây không có pháp cho người,chỉ là y bản kết án.Giống
như ông ôm cái bình lưu ly đến tiếc giữ,giống cái gì? Tôi một phen
trông thấy liền vì ông đập bể. Ông lại đem hạt châu Ma ni đến, tôi lại vì ông cướp mất. Đợi ông chỉ thế ấy lại, tôi lại vì ông chặt đứt hai tay. Vì thế, Hòa thượng Lâm Tế nói : “ Gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ, gặp La hán giết La hán ”. Đã nói là Thiện tri thức, vì sao lại thích giết người vậy ? Hãy nói là đạo lý gì ?
Niên hiệu Long Hưng năm đầu. Tại Nguyệt Minh Đường ở Cảnh Sơn, ngày 10 tháng 8, khi sư sắp tịch, thị giả đến xin kệ,sư cầm bút viết :
Sanh cũng chỉ là thế
Tử cũng chỉ là thế
Có kệ hoặc là không
Chẳng có gì quan hệ.
Viết xong,sư liền ném bút thị tịch,thọ 75 tuổi,58 hạ lạp .
--------------
*-Thiền sư Trung hoa (3). tr 199-213 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (3). tr 2087 .
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2.003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
71-THIỀN SƯ TÂM ĐẠO (Ở) VĂN THÙ (1058-1129)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Từ, quê ở Đan Lăng, My Châu.
Sư xuất gia năm 30 tuổi, sau đến Thành Đô học môn Duy thức,
nghiên cứu sâu rộng trải 10 năm, tự cho là siêu tuyệt. Một hôm
có vị tăng thân hỏi : “ Ba cõi duy tâm, vạn pháp duy thức, nay vạn tượng trước mắt rõ ràng,còn tâm thức ở đâu ?”. Sư mờ mịt chẳng
đáp được,ngay đó liền lên đường tham cứu thiền tông .
Nghe nói tông thiền chỉ thẳng, ngộ nhanh. Sư vượt sông Giang Hoài đến với thiền sư Phật Giám. Được nghe nhắc lại câu thoại : “ Cây bá trước sân của triệu Châu ”. Lại nghe Giác Thiết Chùy nói : “Tiên sư không lời nầy,chớ chê bai Tiên sư”.
Nhân đây, sư nghi tình thêm lớn và chí thiết đề khán khá lâu,một hôm bỗng nhiên khai ngộ. Liền chạy tìm Phật Giám trình chỗ đã tỏ. Trông thấy sư,Phật Giám đóng cửa lại .
Sư thưa :
-Hòa thượng chớ lừa con .
Phật Giám bảo :
-Mười phương không tường vách,sao chẳng vào cửa ?
Sư liền tung thủng cửa sổ .
Phật Giám mở cửa,liền nắm đứng sư bảo : Nói ! Nói !
Sư lấy hai tay vòng quanh đầu Phật Giám, dùng miệng cạp một cái liền bỏ đi .
Sư làm kệ trình :
Triệu Châu có một thoại cây Bá
Thiền khách truyền nhau khắp thiên hạ
Phần đông vạch lá kiếm cành cây
Không thể chẳng đến cội nguồn tỏ
Giác Công lại nói chẳng lời nầy
Chính là ngay mặt ác mắn đó
Thiền nhân nếu đủ con mắt sáng
Trong đây thật giả khó biện rõ.
Phật Giám vui nhận và khen ngợi,cùng sư chia tòa thuyết pháp.
Sau nầy sư dạy chúng :
-“Sư tử ngáp voi chúa rống, Vân Môn trong Bắc đẩu ẩn thân, Bạch Vân vì sao gọi tác thủ. Chư Phật ba đời không thể biết,chồn hoang trâu trắng lại biết có. Hãy nói thế nào là việc kia biết có ? Mưa xối hoa lê con bướm bay, gió đưa tơ liễu lông cừu chạy”.
-“Cầm gậy chỉ lên, sư nói : Khi thế ấy đâm phủng gót chân Kiều Thi Ca. Quay một vòng lại nói : Khi thế ấy đập bể đầu Diêm la. Chỉ bờ đông nói : Khi thế ấy xỏ qua tròng mắt cá lý ngư ở biển đông. Chỉ bờ tây nói : Khi thế ấy bít mất lỗ mũi Tây Vương Mẫu. Hãy nói khi chẳng thế ấy thì sao ? – Năm nay mưa nước nhiều, mỗi người nên phơi mắt”.
Niên hiệu Kiến Viên năm thứ ba. Vào mùa xuân, sư nhắc nhơn duyên ngài Lâm tế, khi sắp nhập diệt dặn dò Tam Thánh: “Chánh pháp nhãn tạng lừa mù diệt”. Lâm Tế đâu từng nói thế, xưa nay thời nhơn đều vọng truyền,chẳng tin chỉ xem sau tam ngoạt”.
Đến tháng ba nhuần,giặc Chung tạo phản,quấy phá giết người,đồ chúng muốn dời sư đến nơi khác. Sư bảo :
-“Học đạo sở dĩ liễu sanh tử,nào phải chạy đi đâu”.
Giặc đến,sư bảo :“Đã thấy hãy giết nhanh để lòng các ngươi vui”. Giặc liền ra tay hạ sát. Sư thọ 72 tuổi .
---------------
*-Thiền sư Trung hoa (3). tr 242 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang 97). tr 6538 .
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2.003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
72-THIỀN SƯ TRÍ TÀI (Ở) LONG NHA ( ? - ? )
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Thí, quê ở Thư Châu. Sư theo thờ thiền sư Phật Giám khi còn nhỏ, siêng năng chấp tác, chẳng ngại khó khăn, cả tòng lâm đều nghe tiếng tốt .
Sau sư du phương đến trú xứ của ngài Hoàng Long, gặp thiền sư Tử Tâm ở tam môn hỏi :
-Từ đâu đến ?
Sư xưng danh,Tử Tâm liền biết .
Một hôm Tử Tâm hỏi ?
-“Hội được câu tối sơ là hội được câu rốt sau,hội được câu rốt sau là hội được câu tối sơ. Tối sơ rốt sau cầm ném một bên, thoại Bá Trượng dã hồ làm sao hội ?”.
Sư thưa :
-Vào cửa đã rành kiến giải đến,đâu cần nhắc lại lối nghẽn bùn .
Tử Tâm nói :
-Trưởng lão Tâm chết trong tay Thượng tọa .
Sư thưa :
-Ngữ ngôn tuy có khác,chí lý vẫn không sai .
Tử Tâm hỏi ?
-Thế nào là việc không sai ?
Sư thưa :
-“ Chẳng gõ sừng Hoàng Long đâu biết châu dưới hàm ”. Tử Tâm liền đánh .
Về sau sư dạy chúng :
-“Hòa thượng Tử Tâm tiểu tham nói : Nếu luận việc nầy như nhà kia có ba người con. Đứa thứ nhất trí tuệ thông minh, hiếu dưỡng cha mẹ,tiếp giao đãi khách,chăm sóc gia nghiệp. Đứa thứ hai hung hăng gian xảo,mê gái,say rượu,nằm bờ,té bụi,phá hoại sản nghiệp
. Đứa thưa ba mù điếc, câm ngọng chẳng biết trắng đen, mọi việc không rành, chỉ lo ăn uống. Hoàng Long cần chọn một người dùng.
Lại có bốn câu : “ Trong chết có sống, trong sống có chết. Trong chết thường chết, trong sống thường sống ”. Đem bốn câu nầy nghiệm thiền tăng trong thiên hạ .
Sư nói : Gọi cái gì là bốn câu ? Ba người tên họ là gì ? Nếu hay hiểu được, cùng Hoàng Long năm tay đồng đi, lại không mảy may ngăn cách. Nếu như chưa thế, chẳng khỏi mượn nước dâng hoa đi vậy. Ba người cộng thể dụng phi dụng, bốn câu đồng âm không chẳng không. Muốn biết ba người cùng bốn câu. Quạ vàng mới
mọc một vần hồng .
Niên hiệu Thiệu Hưng. Ngày rằm tháng tám năm Mậu Ngọ, sư họp chúng giao việc chùa. Kệ rằng :
Ngày trung thu năm Mậu Ngọ
Xuất gia, trụ trì việc đã xong
Sắp đi mình chỉn còn không
Có gì hư không lại kiếm .
Đến ngày 23 họp chúng lần cuối, sư dạy :
-“Niết bàn, sanh tử trọn là hoa đóm trong không, Phật và chúng sanh đều là Tăng ngữ, cả thảy các ông nên phải làm sao ? ”. Cả chúng hạ ngữ,nhưng đều không hợp .
Sư hét : Khổ ! Khổ !
Lại nói : Mây trắng vọt lên,trăng sáng tại trời .
Nói xong, sư ngồi yên thị tịch .
---------------
*-Thiền sư Trung hoa (3). tr 247 .
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2.003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
73-THIỀN SƯ THỦ TUÂN (Ở) PHẬT ĐĂNG (1.079-1.134)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống,họ Chí,quê ở Quận Châu. Trước sư tham vấn với thiền sư Anh ở Quảng Giám mà không khế hội. Sư lại
sang chùa Thái Bình, ở đây theo chúng thưa hỏi nhưng vẫn chẳng thấu được,tự cuốn tấm vải trải nằm cột lại,nói rằng : “Đời nầy nếu không triệt ngộ,thề chẳng trải tấm vải nầy ra”.
Từ đây, sư ngày ngồi, đêm đứng, dốc chí tinh nghiêm, cần mẫn thiền hành, tựa hồ như mất cha, mất mẹ. Trải bốn mươi chín ngày đêm,chợt một hôm nghe Phật Giám thượng đường nói :
-“Sum la vạn tượng là sở ấn của một pháp”.
Sư liền tỏ suốt,đến ra mắt Phật Giám. Phật Giám bảo :
-“Rất tiếc ! Một viên minh châu bị gã điên nầy lượm được”.
Phật Giám lại hỏi :
-“Linh Vân nói : “ Sau ngày thấy được hoa đào ấy, mải đến ngày nay vẫn chẳng nghi”. Thế nào là chỗ chẳng nghi cua Linh Vân ?
Sư thưa :
-Chớ nói Linh Vân chẳng nghi, chính nay tìm chỗ nghi trọn không thể được .
Phật Giám bảo :
-Huyền Sa nói : “ Đúng đắn rất đúng đắn, dám bảo lão huynh còn chưa triệt ”. Trong đây chỗ nào kẻ kia chưa triệt ?
Sư thưa :
-Biết rõ Hòa thượng tâm lão bà tha thiết .
Phật Giám chứng nhận. Sư lễ tạ trình kệ :
Ngày trọn ngắm trời đâu chẳng ngước
Hoa đào lả chả mắt đưa tròng
Dù cho lấy lưới che trời lại
Vượt khỏi lao quan tin tức xong.
Âm :
“Chung nhật khán thiên bất cử đầu
Đào hoa lạn mạn thủy đài mâu
Nhiêu quân cánh hữu già thiên võng
Thấu đắc lao quan tức tiện hưu”.
Về sau sư dạy chúng :
-“Như lai thiền, Tổ sư đạo, tối kỵ đem tâm bên ngoài thảo, từ cửa mà được tức phi trân, hoàn toàn giấu kín trong y báu. Hàng thiền giả phải sớm đến, mở toan cái chốt của Tổ sư, giặt giũ nhiều năm chiếc áo vải, phải quấy khen chê gởi cho không, đứng rộng ngang dài lẫn nhau tốt. Anh chẳng thấy Hàn Sơn lão, trọn ngày vui cười năm dài quét, người hỏi trong kia việc thé nào ? Vào ruộng hoang chẳng lựa,nắm lấy đưa ra cỏ. Tham ! “.
-“Cây dùi xoay, chiếc búa ở núi, Phật Tổ ra đời chưa dễ cho, dù khiến đề hồ đầy thế gian, ông không bát báu làm sao lấy ? Thần Sơn đập lưới, Đạo Ngô múa, dưa ngọt tận gốc ngọt, dưa đắng rễ cũng đắng”.
Niên hiệu Thiên Hưng năm Giáp Dần, ngày ra hạ, sư bảo cư sĩ Trịnh Tích : Mùng tám tháng mười là ngày kỵ Phật Giám,ắt thời tôi đến .
Ngày mùng bốn tháng mười có Đạo Như đến thăm. Sư bảo :
-Ông đến rất đúng lúc, trước một ngày cũng không tốt, sau một ngày lại qua rồi. Tôi tuy cùng Phật Giám đồng điều sanh, nhưng trọn chẳng cùng đồng điều tử. Sáng mai nên vì ta tìm một chiếc thuyền nhỏ .
Đạo Như hỏi :
-Cần dài hay cần cao ?
Sư bảo cao chừng năm thước .
Ba ngày sau, khi gà gáy sáng, sư ngồi nghiêm ngay thẳng. Thị giả đến xin kệ,sư bảo : Chẳng từng làm được .
Nói xong,sư liền thị tịch .
----------------
*-Thiền sư Trung hoa (3). tr 251 .
*-Thơ thiền Đường Tống. tr 34 .
*-Thiền luận (2). tr 316 .
*-Ngũ đăng hội nguyên. tr 495-498 .
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2.003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
74-THIỀN SƯ SĨ KHUÊ TRÚC AM (1083-1146)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Sử, quê ở Thành Đô,Tứ Xuyên. Sư xuất gia khi còn tuổi niên thiếu, nương với thầy Tông Nhã ở chùa Đại Từ, siêng học kinh giáo,chuyên nghiên cứu sâu kinh Lăng Nghiêm. Sau lại hướng phương Nam vân du tu học .
Sư đến Long Môn đem chỗ tâm đắc thưa hỏi thiền sư Phật Nhãn.
Phật Nhãn bảo :
-“Ông hiểu tâm đã tột,chỉ thiếu gắng sức mở mắt thôi”.
Hôm khác sư lại hỏi :
-Khi tuyệt đối đãi thì thế nào ?
Phật Nhãn đáp :
Giống hệt ông ở trong tăng đường thưa thỉnh, sư mờ mịt .
Đến chiều,sư lập lại câu thoại khi sáng thưa hỏi ?
Phật Nhãn bảo :
-Ngôn ngữ nhàn . -Ngay lời nầy sư đại ngộ .
Về sau sư dạy chúng :
-“Rõ ràng không ngộ, có pháp tức mê. Các ngươi nhằm trong ấy lập chẳng được, các ông nhằm trong ấy trụ chẳng được. Nếu lập thì nguy, nếu trụ trì thì mù. Cần phải ý chẳng dùng huyền, câu chẳng dùng ý, dụng chẳng dừng cơ. Ba điều nay đã rõ, tất cả chỗ không nên bó buộc, tự nhiên hiện tiền, chẳng phải chiếu cố, tự nhiên minh bạch. Tuy là như thế, lại phải biết có việc hướng thượng Mưa lâu chẳng tạnh. Dốt !”.
-“KIến kiến chi thời,kiến phi thị kiến, kiến du ly kiến, kiến bất năng cập”. (1) Hoa rơi có ý theo dòng nước, dòng nước vô tình luyến hoa rơi. “ Các cái có thể trả, tự nhiên chẳng phải ông, là ai ?”. Thường hận xuân về không chỗ kiếm, đâu ngờ chuyển nhập trong đây rồi. Sau ba mươi năm chớ nói Năng Nhơn chùa nầy dạy phá hoại nam nữ nhà người .
Có vị tăng hỏi :
-Thế nào là ý Tổ sư Tây sang ?
Sư đáp :
-“Nhà đông đốt đuốc,đến nhà tây ngồi tối”.
Tăng lại hỏi :
-Chưa biết ý chỉ thế nào ?
Sư đáp :
-“Ngựa nên gác yên,lừa nên cột dây”.
Tăng lễ bái . Sư bảo :
-“Ngựa nên gác yên, lừa nên cột dây, thiền tăng lanh lợi chỉ tiêu một cái ; dù khiến nhà đông đốt đèn sáng, chưa hẳn nhà tây ngồi trong tối. Tây sang ý chỉ hỏi thế nào, ông thầy lắm mồm tự chuốc họa”.
Đến ngày 18 tháng 7 năm Bính Dần, sư gọi Trưởng lão Tông Phạn đến dặn bảo việc chùa. Hôm sau, tắm gội xong, sư đánh chuông họp chúng,chúng họp,sư đến tòa ngồi yên thị tịch,thọ 63 tuổi .
----------------
*-Thiền sư Trung hoa (3). tr 257 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (7). tr 6.000 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 634 .
(1)-Cái thấy,thấy hằng ngày
Thấy chưa phải thật thấy
Cái thấy lìa cái thây
Thấy nầy khó sánh vậy.
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
75-THIỀN SƯ ĐẠO HẠNH (Ở) TUYẾT ĐƯỜNG (1089-1151)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Diệp, quê ở Kiên Châu, Giang Tây. Thuở nhỏ sư thường hay lui tới chùa Thiên Ninh học Phật với thiền sư Vi. Năm 19 tuổi xuất gia theo ngài Giác Ấn Tử Anh, lại tham học với ngài Chi Nguyên Nhuận, nhưng cơ duyên không khế hợp. Sư tiếp tục lên đường tìm đến lễ bái ngài Phật Nhãn Thanh Viễn ở chùa Long Môn. Nơi đây sư đại ngộ,nhờ Phật Nhãn nhắc lại câu thoại : “Huyền Sa chạm đến ngón chân”.
Về sau sư dạy chúng :
-“Hội tức liền hội, ngọc vốn không tỳ, nếu nói chẳng hội, tay cối sanh hoa ; thử hỏi chín năm xay mặt vào vách, sao bằng đại hội niêm hoa. Sư Nam Minh thương xót thế ấy, cũng là thuận gió ném cát “. Tham !
-“Khắp thân là miệng nói được phân nửa, khắp thân là mắt dùng được một cây ; chỗ dùng không đến nói có dư, chỗ nói không đến dùng không hết. Thế nên nói : Đang dùng không nói, đang nói không dùng, dùng nói đồng thời, dùng nói chẳng đồng thời. Các ông nếu có nghĩ nghị. Tây phong dưới gót chân ông”.
-“Trước đây Hòa thượng Cơ hỏi tăng chúng : “Thiền lấy gì làm nghĩa ?”.Ta bảo chư Phật ba đời là chê bai, hai mươi tám vị Tổ Tây thiên là chê bai, sáu vị Tổ Trung Hoa là chê bai, Hòa thượng khắp thiên hạ là chê bai, các ngươi là chê bai, sơn tăng là chê bai, trong đây lại có người chẳng chê bai hay không ?-Bàn huyền nói diệu hà sa số,đâu giống Song Phong chê được gần”.
-“Phật nói ba thừa,mười hai phần giáo, đốn tiệm thiên viên, người si trước mặt chẳng được nói mộng, Lâm Tế tam huyền, Vân Môn tam cú,Động Sơn ngũ vị,người si trước mặt chẳng được nói mộng.
Sư Nam Minh nói thế ấy, lại khỏi bị người kiểm trách hay không ? Sở dĩ cổ nhân nói : Người máy đá giống như ông, cũng biết xướng bài ca, ông nếu giống người đá, Tuyết khúc cũng nên hòa. Lại có hòa Tuyết khúc hay chăng ? Nếu có, kêu lại cùng lão tăng rửa chân”.
Sư có bệnh, đệ tử Uông Công Kiều đến thăm, sư dặn dò và để kệ:
Biết thì biết bổn tâm mình
Thấy thì thấy bổn tâm mình
Biết được bổn tâm cùng bổn tánh
Chính là tông môn đại bệnh.
Hôm sau, sư tắm gội, mặc pháp phục ngồi kiết già thị tịch, thọ 63 tuổi.
-----------------
*-Thiền sư Trung Hoa (3). tr 265 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (3). tr 2281 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 193 .
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2.003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
76-THIỀN SƯ MINH BIỆN CHÁNH ĐƯỜNG ( ? - ? )
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Du, quê ở Bổn Quận (?). Thuở nhỏ theo thiền sư Uẩn ở Báo Bổn. Khi thọ giới cụ túc xong, sư du phương tham vấn các bậc tôn túc tên tuổi đương thời. Sư đến Tây kinh,trú ở chùa Thiếu Lâm,được nghe tăng thân nhắc lại việc thiền sư Phật Nhãn dùng cổ thi phát minh vua nước Kế Tân chém tôn giả Sư Tử rằng :
Đầu sông Dương tử,dương liễu xuân
Hoa đương buồn chết người sang sông
Một tiếng sáo tây lìa trạm tối
Anh đến Tiêu tương,tôi đến Tần.
Sư thầm có chỗ khế hội, liền tìm đến chùa Long Môn xin nhập thất .
Phật Nhãn nói :
-Từ trước Tổ sư nhơn duyên sách vở cho ông hiểu được. Lại đưa nắm tay lên hỏi : “Cái nầy tại sao gọi là nắm ?” .
Sư toan đáp, Phật Nhãn bụm miệng sư lại,nói : “Chẳng được khởi đạo lý”. Ngay đây sư dứt hết thấy biết trước .
Sau nầy sư dạy chúng :
-“Bên miệng cọp mạnh lượm được, trên đầu rắn độc an bài, lại chẳng đóng cọc dời thuyền, xoay đầu riêng có kế sống, bà già bị ta khám phá xong,trong viện Đại bi có làng trai”.
-“Hoa nở trên gò tơ liễu bên bờ, hoàng oanh điệu đàn thúc dạ, cỏ thơm vào câu Tạ công. Nào hẳn nghe tiếng ngộ đạo,thấy sắc minh tâm. Chẳng những trên nước tìm bọt, đã là trong mắt dính bụi. Hãy trong ngực nầy : “Các ông thử xem thân sắc vàng tía của ta đây,ngày nay thì còn,ngày mai ắt không”. Giống như không gió lại nối sóng,toàn chẳng biết hổ thẹn. Hãy nói việc ngày nay là thế nào ? Khéo kẻ mê gặp Đạt Ma,chẳng biết ai hiểu tiếp nối”.
Ngày kỵ thiền sư Phật Nhãn, sư niêm hương : Hòa thượng Long Môn xiển đề lạo đảo, chẳng tin Phật pháp diệt trừ thiền đạo, đập vở Tỳ lô cổng tiến lên,con mèo rửa mặt tự nói tốt. Một cây hương trầm đốt trên lò, kéo tay vạch ngực luống sầu thảm. Thôi buồn thảm !”.
Sư làm bài tán Đạt Ma rằng :
-“Trước gác Thăng Nguyên bối rối, bờ ngọc Lạc Dương trái bài, da tủy truyền thành nói cán, chiếc giày không đâu chôn vùi : Chẳng phải một phen sương lạnh buốt, đâu được hoa mai ngát mùi thơm”.
Khi sắp lâm chung, sư lên tòa cầm gậy, quơ bên trái một cái nói : Ba mươi hai tướng không tướng nầy. Sư quơ bên phải một cái nói : Tám mươi vẻ đẹp không vẻ đẹp nầy. Cây viết Tăng Dao vẽ chẳng thành,Chí Công bày ra cỏ khô. Sư lại quơ gậy nhìn đại chúng nói :
“Chớ áo não, thẳng đây thừa kế thôi lại thảo”. Sư xuống tòa về phương trượng,ngồi kiết già an nhiên thị tịch .
--------------------
*-Thiền sư Trung hoa (3). tr 269 .
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2.003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
77-CƯ SĨ PHÓ ĐẠI SĨ (497-569)
+ + +
Cư sĩ Trung hoa,đời nhà Lương,họ tên Phó Hấp,tự Huyền Phong, hiệu Thiện Huệ, quê ở Ô Thương,Chiết Giang. Năm 16 tuổi lấy vợ,
sau đó có được 2 con, thường theo dân làng đi đánh cá, khi bắt được cá ông bỏ vào rộng tre,thỉnh thoảng dìm chúng xuống nước
bảo : “ Con nào muốn đi thì đi, con nào không muốn đi thì ở lại ”. Người bấy giờ cho ông là kẻ ngu .
Năm 24 tuổi, nhân lúc đi đánh cá ở sông Nghi, chợt gặp vị tăng người Ấn là Tung Đầu Đà khai hóa, liền bỏ lưới thuyền đi thẳng vào núi Tùng,kết một am tranh,cạnh cây song đào,lấy hiệu là Song lâm Đại sĩ .
Ban ngày ông cấy cày để sống, ban đêm miên mật hành thiền,trải 7 năm gian khó, đắc được định Thủ Lăng Nghiêm, suốt thấu tông Thiền. Người đương thời truyền dẫn nhau tìm đến tham học rất đông,tất cả đều chí thành tha thiết,chẳng tiếc thân mạng .
Ông thuyết kệ pháp khai thị chúng như sau :
Tay không nắm cán cuốc
Đị bộ cỡi lưng trâu
Trên cầu người qua lại
Cầu trôi nước chẳng trôi.
Âm :
“Không thủ bả sừ đầu
Bộ hành kỵ thủy ngưu
Nhơn tùng kiều thượng quá
Kiều lưu thủy bất lưu”.
Vua Lương Vũ Đế thỉnh ông vào nội cung giảng kinh. Tại điện Trùng Vân, vua đích thân đến nghe ; khi vua đến tất cả đều đứng dậy, chỉ mỗi mình ông là ngồi im. Quần thần thấy thế thưa hỏi .
Ông đáp :” Đất pháp nếu động thì tất cả chẳng an ”. Việc nầy về sau trở thành giai thoại trong nhà thiền. Một lần khác, cũng tại điện Trung Vân, ông đang giảng kinh Bát nhã, các vị thân vương thấy ông ngồi chẳng ngay,liền hỏi :
-Sao chẳng ngồi ngay thẳng ?
Ông trả lời :
-“Ngồi ngay mà tánh chẳng ngay, ngồi nghiêng mà tâm không nghiêng”.
Trong thời gian hành hóa, ông có thuyết nhiều pháp kệ dạy chúng,như bài kệ tụng sau đây :
Đêm đêm ôm Phật ngủ
Sáng sáng cùng Phật dậy
Đứng ngồi vẫn theo nhau
Nói nín đồng vừa vặn
Mảy tơ cũng chẳng rời
Tương tợ như hình bóng
Muốn biết chỗ Phật ở
Lời nói âm thanh đó .
Âm :
“Dạ dạ bảo Phật miên
Triêu triêu hoàn cộng khởi
Khởi tọa trấn tương tùy
Ngữ mặc đồng cư chỉ
Túng hào bất tương ly
Như thân ảnh tương tự
Dục thức Phật khứ xứ
Chỉ giá ngữ thanh thị”.
Trước khi nhập diệt,ông có để lại để lại cho chúng đệ tử pháp kệ:
Có vật trước trời đất
Không hình vốn lặng yên
Hay làm chủ muôn tượng
Bốn mùa chẳng đổi thay.
Âm :
“Hữu vật tiên thiên địa
Vô hình bổn tịch liêu
Năng vi vạn tượng chủ
Bất trục tứ thời diêu”.
Niên hiệu Thái Nguyên, năm đầu. Ngày mười bốn tháng hai năm Kỷ Sửu, ông cho nhóm họp chúng đệ tử đến để răn dạy dặn dò,rồi ngồi kiết già thị tịch,thọ 73 tuổi .
-----------------
*-Ngũ đăng hội nguyên. tr 36 .
*-Thiền luận (1). tr 442 .
*-Tuệ Trung ngữ lục dịch giải. tr 465 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (6). tr 5584 .
*-Thiền uyển dao lâm. tr 192 .
*-Lăng Nghiêm tông thông (1). tr 73 .
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2.003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
78-ĐẠI SƯ CHÂU HOẰNG VÂN THÊ (1532-1612)
+ + +
Cao tăng Trung hoa,đời Minh,người Hàng Châu,họ Thẩm, tự Phật Huệ, hiệu Liên trì. Thuở nhỏ sư theo Nho học, lớn lên quy hướng Phật đạo, năm 32 tuổi xuất gia với ngài Vô Môn Tánh Thiên ở Tây Sơn và thọ giới cụ túc với ngài Vô Trần ở Chiêu Khánh. Sau đó sư du phương tham học khắp nơi .
Khi chưa làm tăng, nhân nghe bà lão bên cạnh nhà mỗi đêm thường niệm Phật,số đếm rất nhiều. Sư để ý hỏi,được bà lão đáp :
“Nếu lúc sanh thời chuyên tâm niệm Phật, khi lâm chung sẽ tránh được bệnh khổ, vui vẻ từ giã mọi người ra đi”. Từ đây sư bắt đầu lưu tâm pháp môn Tịnh độ, tự viết bốn chữ : “Sanh tử sự đại” treo trước bàn để tự răn nhắc .
Sau khi làm tăng, sư chủ trương Tịnh độ, chuyên tu niệm Phật
thực hành các điều thiện,ra sức ca ngợi phát triển Thiền Tịnh song tu, cật lực bài bác các hạng cuồng thiền, không ngừng trước tác kinh luận .
Đến niên hiệu Vạn Lịch thứ bốn mươi, sư vào thành từ biệt tăng tục, đồng thời bảo họ rằng : “Tôi sắp đi nơi khác”. Sư trở lại Vân Thê, đãi trà từ biệt chúng. Mọi người thấy lạ, nhưng chẳng hiểu duyên cớ .
Chiều ngày mùng một tháng bảy năm 1612, sư vào nhà tăng nói :
“Mai tôi đi”.
Sáng hôm sau,sư nói mệt,lui vào Phật thất,ngồi ngay thẳng nhắm mắt, tăng chúng và mọi người tụ tập, sư mở mắt nhìn chung rồi bảo :
-“Đại chúng phải niệm Phật cho đến chính chắn,chớ nghi ngờ”Dặn xong, sư chấp tay hướng về tây niệm hồng danh A Di Đà Phật mà tịch,thọ 81 tuổi .
------------------
*-Đường về cực lạc (1). tr 163 .
*-Lịch sử Phật giáo Trung quốc. tr 258 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (2). tr 396 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 401 .
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2.003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
79-NGẪU ÍCH TRÍ HÚC (1599-1655)
+ + +
Cao tăng Trung hoa, đời Minh, họ Chung, tự Chấn Chi, hiệu Ngẫu Ích, Bát bất đạo nhân, quê ở Mộc Độc, huyện Ngô. Lúc nhỏ theo Nho học, thề sẽ tiêu diệt Phật, Lão. Sau nhân được đọc “Tự tri lục và Trúc song tùy bút” của ngài Châu Hoằng, liền đốt bộ “Tịch Phật luận” của mình .
Năm 20 tuổi nhân nghe kinh Địa Tạng bổn nguyện,cảm được tâm nguyện của Bồ tát, liền phát khởi ý hướng xuất tục và chuyên tâm niệm Phật từ đấy .
Năm 24 tuổi, sư theo ngài Tuyết Lãnh thế phát xuất gia, rộng học giáo nghĩa các tông Duy Thức, Hoa Nghiêm, Thiên Thai,Thiền, Tịnh và Luật. Sư chủ trương dung hợp các Tông, đề xướng niệm Phật tức Thiền, tuy nhiên vẫn duy về niệm Phật. Sư lại cho rằng, người tu thiền cần phải học tập kinh điển,lấy giáo làm kẻ chỉ đạo .
Sư thường dạy môn nhơn :
-“Người chân thật niệm Phật, trong thì quên thân, ngoài thì quên cảnh, đó là Đại bố thí. Không sanh lòng tham, sân, si là Đại trì giới.
Chẳng chấp thị phi nhân ngã, là Đại nhẫn nhục. Niệm Phật không gián đoạn, là Đại tinh tấn. Vọng tưởng không móng khởi, là Đại thiền định. Không bị ngoại sự “khác” và ngoại pháp “khác”làm mê lầm,là Đại trí tuệ .
“Thử kiểm soát lại mình, nếu chưa quên được thân tâm, thế giới,
còn tham, sân, si, còn thị phi nhân ngã, còn trì trệ gián đoạn, còn vọng tưởng tạp niệm, còn bị việc khác, môn khác lôi kéo, thì chưa phải là “Chân thật niệm Phật”.
-“Người tu Tịnh độ niệm Phật ! Rất kỵ nay vầy mai khác. Gặp người nghĩa học, liền muốn học văn, học luận. Gặp người tu thiền,
liền muốn tham thoại, khán ngữ. Gặp người trì luật, liền mộ khất thực khổ hành. Như thế thì chẳng xong việc gì, bởi trong lòng lăng xăng đủ thứ” .
-“Tha hồ cho ai đó giảng hết mười hai phần giáo, tam tạng kinh điển không thiếu, giải phá cả ngàn công án cũng chỉ là việc bên ngoài lề sanh tử. Đến phúc lâm chung quyết định đem dùng chẳng được”.
Ngày 21 tháng giêng năm 1655, niên hiệu Thuận Trị thứ 12, đời Thanh. Sư dậy sớm, dù có bệnh, song trông sư vẫn khỏe khoắn tươi tỉnh bình thường. Đến giờ ngọ, sư ngồi kiết già, mặt hướng về Tây chấp tay thị tịch, thọ 57 tuổi .
---------------
*-Đường về cực lạc (1). tr 171 .
*-Lịch sử Phật giáo Trung quốc. tr 260 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (5). tr 4366 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 865 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
80-ĐẠI SƯ THIỆT HIỀN TỈNH AN ( ? - ? )
+ + +
Cao tăng Trung hoa, đời Thanh, quê ở Trường Thục, tự Tư Tề, hiệu Tỉnh An. Từ bé sư đã không dùng thịt cá, khi lớn lên xuất gia, chuyên tâm tham cứu câu : “Niệm Phật đó là ai ?”. Được tỉnh ngộ liền nói : “Tôi đã tỉnh giấc mơ”. Sau đó, tại chùa Chân Tịnh
sư đống cửa thất ba năm, ngày xem kinh đêm lại niệm Phật .
Sư có soạn văn “Phát Bồ đề tâm” lời tha thiết rất đáng cảm thán như sau :
-“Trong đời có người tu hành chẳng tham cứu tự tâm, chỉ biết việc bên ngoài. Hoặc cầu tài lợi, hoặc ưa danh tiếng, hoặc ham vui sướng hiện tại, hoặc trông quả báo tương lai, phát
tâm như thế gọi là tà”.
-“Còn người tu hành chẳng cần danh lợi, chẳng tham sung sướng, chẳng trông quả báo, chỉ vì thoát ly sanh tử, chỉ vì đạo
Bồ đề, đấy gọi là chánh”.
-“Niệm niệm trên cầu Phật đạo, tâm tâm dưới độ quần sanh, xem Phật đạo xa vời mà lòng không khiếp, thấy chúng sanh khó độ mà chí chẳng sờn, như trèo núi quyết đến đảnh, như leo tháp quyết đến chót, phát tâm như đây gọi là chơn”.
-“Có tội không sám hối, có lỗi chẳng chịu chừa, ngoài xem như trong sạch, bên trong lại nhơ nhớp, trước thì tinh tấn, sau lại biếng lười, dù cũng có tâm tốt, song có lộn lợi danh, dù là có thiện pháp lại nhiễm ô tội nghiệp, đó gọi là ngụy”…
Sư dạy chúng :
-“Một câu “A Di Đà Phật” là đầu tắc công án, không thương lượng gì khác, thẳng tiến đến chốn. Như đống lửa lớn, vật bỏ vào liền cháy. Như gươm Thái a, chém vật liền đứt lìa. Tám muôn bốn ngàn pháp môn, không ngoài sáu chữ. Một ngàn bảy trăm công án, một câu đoán đủ. Mặc ai không ưa nghe Phật, ta tự nhớ Phật, niệm Phật, chẳng cần biện luận nhiều lời, chỉ nên nhất tâm bất loạn”.
Năm Ứng Chính thứ 11, ngày mùng tám tháng chạp, sư bảo đại chúng : “Tháng tư năm sau tôi đi” rồi đóng cửa hất chuyên tâm niệm Phật, mỗi ngày mười vạn câu.
Năm sau, ngày mười ba tháng tư, sư không ăn uống, ngồi ngay thẳng nhắm mắt. Đến canh năm ngày mười bốn, sư tắm gội thay y phục, đến giờ ngọ, hướng về Tây ngồi nhắm mắt yên lặng. Đại chúng vân tập đông đủ,sư chợt mở mắt nhìn mọi người nói :
-“Tôi về Cực lạc, chẳng bao lâu sẽ trở lại. Thoát ly sanh tử là việc lớn, mọi người nên tự giữ lòng thanh tịnh, siêng năng niệm Phật”.
Dặn xong, sư chấp tay xướng to danh hiệu A Di Đà Phật lền thị tịch, thọ 49 tuổi .
---------------
*-Đường về cực lạc (1). tr 180-195 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
81-PHÁP SƯ HUỆ ĐỨC (452-535)
+ + +
Cao tăng Trung hoa, đời Lương, quê ở Ô Thương, Tứ Xuyên, họ Lâu, tự Đức Tố .
Sư biết đi chùa, lễ Phật, tụng kinh năm lên bảy tuổi, đến năm mười bảy tuổi theo thầy Huệ Tịnh xuất gia, tại chùa Đông Sơn. Sau khi bổn sư tịch, sư lên núi ẩn tu, dùng rễ lá làm thức ăn qua ngày .
Tề Trung Thư là Châu Ngung kỉnh mộ, thỉnh sư về trụ trì chùa Thảo Đường ở Chung Sơn. Tại đây sư truyền giảng các bộ kinh Đại thừa như : Tịnh Danh, Thắng Man, Pháp Hoa và Đại phẩm Bát nhã, học nhơn các nơi đến nghe học rất đông .
Ngày mùng tám tháng tư năm 520, niên hiệu Thiên Giám năm thứ 18. Vua Lương Vũ Đế thỉnh sư vào cung, thiết lập đại hội Vô giá, cầu sư truyền trao cho vua giới Bồ tát .
Nguyên hiệu Đại Đồng, nguyên niên, sư có bệnh. Vũ Đế cho người đến thăm viếng, sư nói :
-Đêm nay ta đi .
Đến canh năm đêm ấy, hương thơm ngào ngạt, môn nhơn lặng đứng, sư dạy :
-“Có sanh thì có tử, đó là thường sự. Hãy siêng tu niệm huệ, chớ khởi loạn tưởng”.
Nói xong, sư chấp tay thị tịch, thọ 84 tuổi .
--------------
*-Cao tăng dị truyện. tr 89 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (4). tr 3102 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
82-THIỀN SƯ HUỆ TƯ NAM NHẠC (515-577)
+ + +
Cao tăng Trung hoa, thời Nam Bắc triều, họ Lý, quê ở Vũ Tân, Hà Nam. Sư hâm mộ Phật pháp từ thuở nhỏ, năm lên 15 tuổi xuất gia theo thiền sư Huệ Văn, chuyên tụng kinh Pháp Hoa số đến ngàn biến. Ngày đêm sư nhiếp tâm chuyên nhất, hông không dính chiếu, trải qua 21 ngày đêm trong hạ, có được phần chứng .
Sau đó bỗng dưng báo chướng nổi lên, tay chân suy yếu, đi lại không được, sư tự nghĩ :
-“Bệnh từ nghiệp sanh, nghiệp từ tâm khởi, nếu nguồn tâm không khởi, thì ngoại cảnh đâu có hình trạng bệnh; bệnh, nghiệp cùng với thân nầy đều như bóng huyễn”.
Sư quán như thế, thân trở lại nhẹ nhàng khỏe mạnh như cũ. Nhưng hết mùa hạ năm ấy, kết quả tu tập rốt chẳng được gì, sư ôm lòng hổ thẹn, tự than : Đã để tuổi trẻ luống qua, chán nản buông thân tựa vào tường, bất chợt ngay đó liền tỏ ngộ “Pháp Hoa tam muội”.
Sư dạy chúng :
-“Nguồn đạo không xa, biển tánh rất gần, chỉ hướng mình tìm, chớ theo kẻ khác. Tìm thì chẳng được, dù được cũng chẳng phải chân thật”.
Sư là người đầu tiên chủ trương có thời kỳ “Mạt pháp” nên đã xác lập tín ngưỡng giữa Phật Di Đà và Di Lặc. Đồng thời cũng đề xướng việc thực hành thiền pháp, cùng việc nghiên cứu giáo lý .
Thời gian trụ ở Nam Nhạc, có người hỏi sư : “Sao cứ ngắm mây trời cảnh đẹp, chẳng chịu xuống núi giáo hóa chúng sanh ?”.
Sư đáp :
-“Ba đời chư Phật bị ta nuốt trọn, còn có chúng sanh nào để giáo hóa”.
Ngày sáu tháng sáu năm 577, niên hiệu Thái Kiến năm thứ 9. Sư bảo môn nhân rằng :
-“Nếu có được mười người chẳng tiếc thân mạng, thường tu Pháp hoa, Bát nhã, niệm Phật tam muội, Phương đẳng, sám hối, hẹn phải kiến chứng, thì tùy chỗ cần ta sẽ cung cấp cho.
Nếu chẳng có người như thế, thì đã xa cách ta rồi vậy”.
Bấy giờ đại chúng đều cho là việc khó khăn khổ hành, nên tất cả im lặng chẳng thưa hỏi. Sư đuổi chúng ra hết rồi nhập diệt. Bỗng có vị tiểu tăng tên Linh Biện kêu khóc, sư mở mắt ra nói :
-“Sao đặng kinh động ta ? Đồ ngu ! Đi ra ! Rồi sư chấp tay niệm Phật thị tịch, thọ 63 tuổi .
-----------------
*-Cao tăng dị truyện. tr 44 .
*-Lịch sử Phật giáo Trung quốc. tr 90 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (4). tr 3095 .
---o---
Gò vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
83-ĐẠI SƯ TRÍ KHẢI THIÊN THAI (518-597)
+ + +
Cao Tăng Trung hoa, đời Tùy, quê ở Kinh Châu, Hồ Nam, họ Trần, tự Đức An, thường được gọi là Trí Giả hay Thiên Thai Đại sư .
Dù tuổi đời còn ngây thơ non trẻ, song sư đã biết tới lui chùa và làm thân với chư tăng. Năm 18 tuổi cầu xuất gia thế độ với ngài Pháp Tự chùa Quả Nguyện .
Trước, sư học luật với ngài Huệ Khoáng, kế đọc các kinh Phương đẳng thông suốt và trì tụng kinh Pháp hoa, Vô lượng thọ, Phổ hiền, tinh quán trong hai tuần đã thâm đạt được lý nghĩa .
Đời Trần, năm 560, sư đến núi Đại Tô tham kiến ngài Huệ Tư, được triệt ngộ “Pháp hoa tam muội và Nhất tâm tam quán”. Sau đó sư vân du giáo hóa, đến núi Thiên thai dừng tại đây thuyết giảng suốt chín năm, nên có danh gọi là Thiên Thai Đại sư .
Sư dạy chúng :
-“Muốn quyết định sanh về Cực lạc, cần phải có hai hạnh “Yểm ly và Hân nguyện”.
1.-Thế nào là Yểm ly ?
-“Phải quán xét thân nầy chứa đủ đầy nhơ nhớp, chịu nhiều nỗi khổ đau bức ngặt, chẳng có chi thật vui, nên sanh lòng nhàm chán lìa xa. Khi quán tưởng như thế, lửa dâm dục, phiền não dần dần thuyên giảm. Lại phát nguyện cầu được vĩnh viễn xa lìa cảnh trần khổ lụy, không còn thọ cái nghiệp mang thân nam, nữ máu mủ tanh nhơ, không còn đắm mê theo ngũ dục; lại cầu mau được sanh về Tịnh độ, chứng chân thân pháp tánh trong sạch quang minh”.
2.-Thế nào là Hân nguyện ?
-“Vì nghĩ đến chúng sanh đang chìm trong bể khổ, nếu mình là phàm phu thì không đủ sức cứu độ. Nên nay tha thiết muốn cầu về Cực lạc, để được gần Phật Thánh, nương tựa tu hành mau chứng được vô sanh, để dẫn dắt chúng sanh thoát khổ não, hầu báo đáp bốn ân trọng. Đó là mục đích cầu sanh .
Lại quán cảnh Cực lạc bảy báu trang nghiêm, đầy đủ sự an vui mầu nhiệm, khiến sanh tâm ưa thích. Nhân đó gắng tu bố thí, trì giới, niệm Phật cùng các việc lành khác, và đem tất cả điều lành làm được hồi hướng, nguyện mình cùng chúng sanh đồng sanh về Tịnh độ. Tin rằng, làm như thế quyết định sẽ vãng sanh. Đó là Hân nguyện”.
Mùa đông năm 597, niên hiệu Khai Hoàng thứ 17, sư ngồi trước tượng đá lớn trên núi, hướng về Tây niệm Phật thị tịch, thọ 60 tuổi, 40 tuổi hạ .
------------
*-Hương quê Cực lạc. tr 28 .
*-Lịch sử Phật giáo Trung quốc. tr 124 .
*-Cao tăng dị truyện. tr 48 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (10). tr 8685)
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
84-ĐẠI SƯ DIÊN THỌ VĨNH MINH (904-975)
+ + +
Cao tăng Trung hoa, thời Ngũ Đại, người xứ Dư Hàng, Lâm An, họ Vương, tự Trọng Huyền, hiệu Bào nhất tử. Sư nối pháp Quốc sư Đức Thiều, là Tổ thứ ba dòng thiền Pháp Nhãn, Tổ thứ sáu tông môn Tịnh độ .
Trước sư làm quan, sau theo thiền sư Thúy Nham, xuất gia ở chùa Long Sách năm 30 tuổi. Sư đến núi Thiên Thai tham kiến Quốc sư Đức Thiều, tu tập thiền định, đạt được yếu chỉ thâm huyền. Lại đến chùa Quốc Thanh, ở đây sư trì kinh Pháp Hoa, phóng sanh, thí thực, chuyên hành tịnh nghiệp .
Sư có viết tập “Vạn thiện đồng quy” lời lẽ thiết yếu !
-“Sanh về duy tâm Tịnh độ là phần của bậc liễu đạt tự tâm. Kinh “ Như lai bất tư nghì cảnh giới ” nói : “ Tất cả ba đời chư Phật đều duy tâm lượng, đặng tùy thuận nhẫn, hoặc nhập sơ địa, xả thân mau sanh Cực lạc quốc độ”. Do đây nên biết, người đạt tự tâm mới sanh duy tâm Tịnh độ, còn hàng chấp cảnh, chỉ hạn cuộc trong cảnh sở duyên. Nhân quả đã chẳng sai, mới rõ ngoài tâm không thật có pháp”.
-“Thập nghi luận nói : "Người trí dẫu mạnh mẽ cầu sanh tịnh độ, nhưng đạt được lý sanh, thể bất khả đắc, mới là chơn vô sanh. Đây là nghĩa ”Vì tâm tịnh là Phật độ tịnh ”. Người ngu bị sanh nó trói buộc, nghe sanh liền cho là sanh, nghe vô sanh liền cho là vô sanh mà chẳng hiểu “ Lý sanh là vô sanh ” nên thị phi bỉ thử với nhau. Đây là kẻ tà kiến báng pháp”.
Sư có làm bốn bài kệ, nhằm hóa giải những so đo giữa người tu Thiền và Tịnh, sau đây :
1.-Có Thiền tông không Tịnh độ
Mười người tu, chín người gảy đổ
Ấm cảnh đến hiện ra
Hốt hoảng xuôi tay theo nó.
2.-Không Thiền tông,có Tịnh độ
Mười người tu,mười người đến chỗ
Đặng gần Phật Di Đà
Lo gì không khai ngộ .
3.-Có Thiền tông,có Tịnh độ
Như thêm sừng cho mảnh hổ
Hiện đời làm thầy người
Kiếp sau làm Phật Tổ .
4.-Không Thiền tông,không Tịnh độ
Giường sắt cột đồng đang chờ đó
Muôn kiếp nghìn đời sau
Không chỗ nơi nương tựa.
Âm :
1.-Hữu Thiền vô Tịnh độ
Thập nhơn cửu ta lộ
Ấm cảnh nhược hiện tiền
Miết nhĩ tùy tha khứ.
2.-Vô Thiền hữu Tịnh độ
Vạn tu vạn nhơn khứ
Nhược đắc kiến Di Đà
Hà sầu bất khai ngộ.
3.-Hữu Thiền hữu Tịnh độ
Dụ như đới giác hổ
Hiện tiền vi nhơn sư
Lai sanh tác Phật Tổ.
4.-Vô Thiền vô Tịnh độ
Thiết sàng tinh đồng trụ
Vạn kiếp dữ thiên sanh
Một cá nhơn y hộ.
Năm thứ tám Khải Bảo nhà Tống. Sáng ngày 26 tháng 2, sư dậy sớm thấp hương lễ Phật, rồi nhóm chúng dạy bảo. Sau đó sư an nhiên ngồi kiết già trên pháp tòa thị tịch, thọ 72 tuổi .
-----------------
*-Đường về Cực lạc (1). tr 152-161 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (2). tr 634 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
85-ĐẠI SƯ TẾ TỈNH TRIỆT NGỘ (1741-1810)
+ + +
Cao tăng Trung hoa, đời Thanh, họ Mã, tự Triệt Ngộ, Nội Đường, hiệu Mộng Đông, quê ở Phong Nhuận, Hà Bắc .
Thuở thiếu thời tinh thông kinh sử, năm 22 tuổi nhân bị bạo bệnh, giác ngộ được lẽ vô thường, liền đến am Tam Thánh ở Hà Bắc, cầu xin xuất gia với ngài Vinh Trì. Sau đó sư du phương tham học các nơi, nghiên cứu thông suốt cả hai tông Tánh
Tướng như các kinh: Viên Giác, Pháp Hoa, Kim Cang, Lăng Nghiêm và Duy Thức. Cuối cùng sư lại nhận được huyền chỉ thâm diệu nơi ngài Túy Như
Từ khi kế thừa trụ trì chùa Quảng Thông, sư đề xướng Thiền Tịnh song tu, được rất nhiều người ngưỡng mộ tu tập. Riêng bản thân sư thì thời giờ luôn hạn định, chỉ dạy chúng và tiếp khách không quá một cây hương, ngoài ra lo lạy Phật và niệm Phật .
Sư dạy chúng :
-“Đầu mối quan hệ trong vòng sanh tử có hai năng lực :
1.-“Tâm chữ đa đoan, trọng xứ thiên trụy”. Đây là tâm lực (1)
2.-“Như nhơn phụ trái, cường giả tiên thiên”. Đó là nghiệp lực. (2)
-“Nghiệp lực rất lớn, nhưng tâm lực lại lớn hơn. Vì nghiệp không tự tánh, luôn nương gá nơi tâm ; thế nên nếu tâm chú trọng thì sẽ làm cho nghiệp mạnh theo. Do đó nếu dụng tâm chú trọng để tu tịnh nghiệp, thì tịnh nghiệp sẽ phát triển mạnh, và đến khi báo tận mạng chung quyết chẳng sanh cõi khác”.
-“Đang lúc ở trong cảnh mộng, vui khổ vẫn rõ ràng. Cảnh mộng chịu khổ ở thế gian, sao bằng cảnh mộng an vui nơi Cực lạc. Hơn nữa cảnh mộng ở thế gian là từ mộng vào mộng, càng lúc càng vùi sâu vào chỗ mê say. Còn cảnh mộng ở Cực lạc, là từ mộng ra khỏi mộng, thành tựu đại giác. Cõi uế và cõi tịnh dù đồng là cảnh huyễn mộng, nhưng kết quả ảnh hưởng khác nhau rất xa, vì thế nên tự xét suy, sớm hướng tu tịnh nghiệp”.
Tháng hai năm Gia Khánh thứ 15, sư biết trước ngày giờ thác hóa, nên đi từ biệt các nơi và dặn bảo rằng :
-“Thân nầy như huyễn chẳng bền lâu, mỗi người nên nỗ lực niệm Phật, nơi Tịnh độ chúng ta sẽ gặp nhau”.
Đến ngày mùng hai tháng chạp, sư bảo đại chúng :
-“Ta sắp về Cực lạc “ và dạy mọi người luân phiên niệm Phật. Đến 5 giờ chiều ngày 17 tháng chạp, sư ngồi ngay thẳng hướng về Tây bảo đại chúng :
-“Ta sắp đi đây “ mọi người hãy niệm Phật, dứt lời, sư kiết ấn thị tịch, thọ 70 tuổi .
----------------
*-Đường về Cực lạc (1). tr 195 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (7). tr 6636 .
(1)-Như người mắc nợ, kẻ mạnh đòi trước.
(2)-Tơ lòng trăm mối, nặng đâu rơi đấy.
(Quy Sơn Cảnh Sách)
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
86-THƯỢNG TỌA THÁI NGUYÊN ( )
+ + +
Thượng tọa Thá Nguyên Phù, buổi đầu ở chùa Quang Hiếu,
Dương Châu. Sư giảng kinh Niết Bàn, có vị thiền tăng nhân đi ngang ghé nghe, đến đoạn “Tam thân Phật tánh, tam đức pháp thân” thiền tăng không nín cười được. Khi thời giảng xong, sư thỉnh thiền tăng vào thất uống trà, rồi thưa hỏi :
-Tôi vốn kiến giải non kém hẹp hòi, chỉ theo văn giảng nghĩa. May nhờ thầy thấy được mà cười, rất mong thầy hoan hỷ chỉ cho chỗ kém thiếu .
Thiền tăng bảo :
-Sở dĩ tôi cười, vì Tọa chủ không biết Pháp thân .
Sư thưa :
-Tôi hiểu như thế, có chỗ nào không đúng ?
Thiền tăng bảo :
-Mời Tọa chủ giảng lại đoạn ấy .
Sư nói : “Lý Pháp thân như bầu thái hư, dọc suốt ba đời, ngang trùm mười phương, tóm gọn tám cực, bao quát âm dương, tùy duyên cơ cảm, không đâu chẳng khắp”.
Thiền tăng bảo :
-Chẳng phải tôi nói thầy giảng không đúng. Nhưng đó chỉ nói được bên cạnh Pháp thân, chứ thực chưa hề biết Pháp thân .
Sư thưa :
-Nếu thế, xin thiền đức cho tôi được nghe ?
Thiền tăng bảo :
-Nhưng liệu Tọa chủ có chịu tin chăng ?
Sư thưa :
-Tôi đâu dám chẳng tin .
Thiền tăng bảo :
-Tọa chủ thử ngưng giảng một tuần, đóng cửa thất ngồi yên thu nhiếp tâm niệm, thiện ác các duyên một lúc buông hết .
Sư theo lời khuyên, thực hành từ đầu hôm đến canh năm, nghe tiếng trống canh, hốt nhiên khai ngộ. Liền đến gõ cửa
thiền tăng.
Thiền tăng quát! Tôi bảo ông chuyên trì đại giáo, thay Phật thuyết pháp ,giờ nầy đang nửa đêm, sao lại say sưa nằm giữa đường vậy ?
Sư thưa :
-Thiền đức ! Từ trước đến nay, tôi giảng kinh đều lấy lỗ mũi của cha mẹ sanh ra. Từ nay về sau, trọn không dám thế nữa .
Hôm nọ, sư gặp thiền sư Tuyết Phong. Tuyết Phong thấy sư liền chỉ mặt trời, sư phất tay bỏ đi .
Tuyết Phong nói :
Ông không chấp nhận ta sao ?
Sư thưa :
-Hòa thượng lắc đầu, con vẫy đuôi. Có chỗ nào con chẳng chấp nhận đâu ?
Tuyết Phong nói :
-Rốt ráo cũng không kiên tránh .
Sư chẳng xuất thế như các vị tăng, song mọi người đều gọi là Thượng tọa Thái Nguyên Phù. Sau nầy sư về Duy Dương, Thượng Thư họ Trần thỉnh lại cúng dường .
Một hôm sư bảo Thượng Thư rằng; “Mai tôi sẽ giảng một
biến kinh Đại Niết Bàn để đáp lại tình ông .
Hôm sau Thượng Thư thiết trai cúng dường, khi uống trà xong sư lên tòa, im lặng hồi lâu, chợt đập thước xuống bàn nói :
-“Tôi nghe như vầy”. Rồi gọi :
-Thượng Thư !
Thượng Thư ứng dạ !
Sư nói :
-“Nhất thời Phật tại”. Liền thị tịch .
----------------
*-Cao tăng dị truyện. tr 177 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
87-SƯ PHỔ MINH
+ + +
Cao tăng Trung hoa, thời Lưu Tống, pháp danh Phổ Minh, tự là Tịch Chiếu, ở am Diệu Thường, Gia Thiện. Từ khi xuất gia đến ngày thọ cụ túc giới, sư ngày đêm thường hay tụng kinh Pháp Hoa và kinh Duy Ma. Sau đó sư lên núi Cô Hàng, đóng cửa thất, buông bỏ muôn duyên, hết đọc kinh lại tĩnh tọa .
Sư tụng kinh Pháp Hoa đến phẩm Khuyến phát, chiêu cảm thấy được Bồ tát Phổ Hiền thị hiện và khi tụng kinh Duy Ma chiêu cảm nghe được tiếng nhạc trời trỗi dậy trên không .
Sư thường dùng chân ngôn mật chú độ người, nên cao tăng truyện xếp sư vào hàng Thần nhân trong thiên tụng kinh .
Một hôm sư bảo đệ tử :
-“Ngày mười tám tháng năm, ta thị tịch”.
Đệ tử thưa :
-Tháng năm không được tốt .
Sư nói :
-Thế thì tháng tám vậy .
Sư dặn bảo đệ tử rồi trở về Gia Thiện .
Đến tháng tám, đệ tử đến thăm, gặp sư đang quét sân. Sư cười nói :
-Ông không đến thì ta quên mất !
Sư bảo đánh chuông họp chúng và viết kệ :
-Cái lão già nầy
Tuyệt không tính toán
Thiền chẳng biết tham
Kinh chẳng biết đọc
Một đời vụng về vô dụng
Dấu vết bờ núi rặng tùng
Tĩnh như thạch bàn núi Thái
Động như điện chớp sấm rền.
Âm :
“Giá cá lão hán
Thân vô tư toán
Thiền bất hội tham
Kinh bất hội khán
Sinh bình bá chuyết vô năng
Hối tích thanh tùng nham bạn
Tĩnh như thạch bàn Thái sơn
Động nhược lôi oanh xế diện”.
Viết xong, sư ném bút ngồi yên thị tịch, thọ khoảng 86 tuổi,
nhằm thời Lưu Tống, niên đại khoảng 454-456 .
---------------
*-Cao tăng dị truyện. tr 191 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (6). tr 5615 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
88-THIỀN SƯ PHÁP KHÁNH ( )
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, pháp danh Pháp Khánh, ở chùa Đại Giác, phủ Hàm Bình. Buổi đầu sư ở chùa Phổ Chiếu, Tứ Châu, sau sư đến chùa Thiếu Lâm ở Trung Sơn, rồi lên phương Bắc và cuối cùng đến Đông Kinh .
Một hôm thị giả đọc ngữ lục của Động Sơn Lương Giới, đến chỗ thiết trai “ngu si”. Thị giả nói :
-Cổ nhân thật kỳ lạ !
Sư bảo :
-Như ta chết rồi, ông gọi thử xem. Nếu ta sống lại, cũng là có đạo lực vậy .
Sau sư làm bài tụng, báo trước ngày giờ chết :
Năm nay ngày năm tháng năm
Tứ đại xa rời cố chủ
Xương trắng theo gió xa bay
Khỏi chiếm đất đai tín thí.
Âm :
“Kim niên ngũ nguyệt sơ ngũ
Tứ đại tương vi bổn chủ
Bạch cốt đương phong dương khước
Miễn chiếm Đàn na địa thổ”.
Sư đem hết tài vật giao cho thị giả, thiết trai cúng tăng chúng .
Hoàng hôn vừa buông, tiếng chuông đêm vừa điểm, sư ngồi
yên thị tịch. Thị giả chợt nhớ việc cũ, vội đến gọi sư .
Sư mở mắt lên tiếng : Thế nào ?
Thị giả thưa :
-Hòa thượng tại sao lại mình trần, chân trụi ra đi vậy ?
Sư bảo :
-Khi mới sanh, lại có những gì ?
Thị giả ép sư mặc áo, sư bảo :
-Để lại cho người sau dùng .
Thị giả thưa :
-Ngay khi ấy thế nào ?
Sư nói :
-Cũng chỉ như thế. Sư lại thuyết kệ :
Bảy mươi ba năm như điện chớp
Lên đường vì anh thông một lối
Trâu sắt nhảy dựng qua Tân la
Hư không đập vỡ bảy tám mảnh.
Âm :
“Thất thập tam niên như xế điện
Lâm hành vị quân thông nhất tuyến
Thiết ngưu bột phá quá Tân la
Trảng phá hư không thất bát phiến”.
Thuyết kệ xong, sư liền tịch, thọ 73 tuổi, nhằm ngày mùng năm tháng năm, năm 1143, niên hiệu Hoàng Thống, năm thứ ba nhà Tống .
-------------
*-Cao tăng dị truyện. tr 193 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
89-THIỀN SƯ VÔ NGÔN THÔNG (759-826)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Đường, họ Trịnh, quê ở Quảng Châu. Thuở nhỏ sư đã mộ đạo, không màng gia sản thế sự, lớn lên xuất gia thọ giới tại chùa Song Lâm, Vũ Châu. Sư tánh tình trầm hậu, ít nói, lặng lẽ mà hay biết, thông minh hiểu rõ mọi sự. Cho nên người đương thời gọi là Vô Ngôn Thông; hoặc cũng còn gọi là Bất Ngữ Thông .
Một hôm sư đang lễ Phật, có một thiền khách đến hỏi :
-Tọa chủ đang làm gì đó ?
Sư đáp :
-Lễ Phật .
Thiền khách chỉ tượng Phật hỏi :
-Cái nầy là cái gì ?
Sư không đáp được .
Đêm đó sư pháp phục nghiêm chỉnh, đến làm lễ thiền khách,
thưa rằng :
-Điều ngài hỏi khi nãy, tôi chưa hiểu ý chỉ như thế nào ?
Thiền khách hỏi :
-Tọa chủ xuất gia đến nay đã được mấy hạ rồi ?
Sư thưa :
-Mười hạ .
Thiền khách hỏi :
-Lại từng xuất gia chưa ?
Sư lại càng thêm mù mịt !
Thiền khách bảo :
-Nếu không biết chỗ đó, thì dù có trăm hạ cũng chẳng ích gì !
Tháng chín năm Canh Tý, Đường Nguyên Hòa thứ 15 (820) sư sang Việt Nam ở chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng, huyện Tiên du, Bắc Ninh. Ngoài chuyện cơm cháo, sư chẳng đoái hoài việc chi, chỉ vui với cái vui thiền duyệt, thường ngồi quay mặt vào vách chẳng nói năng, suốt mấy năm mà không ai biết. Chỉ có sư Cảm Thành, trụ trì chùa nầy, âm thầm tỏ thấu, lòng càng tôn kính hầu hạ, nhận ngài làm thầy .
Sư không bệnh, bữa nọ tắm gội, thay y phục, gọi Cảm Thành đến dạy :
-Xưa Tổ ta là Nam Nhạc Hoài Nhượng, khi sắp tịch có để kệ :
Mọi sự, mọi vật
Đều từ tâm sanh
Tâm đã không sanh
Pháp không chỗ tựa
Nếu rõ lòng nầy
Làm gì có ngại
Chẳng gặp cao nhân
Cẩn thận chớ nói.
Âm :
“Nhất thiết chư pháp
Giai tồn tâm sanh
Tâm vô sở sanh
Pháp vô sở trụ
Nhược đạt tâm địa
Sở trụ vô ngại
Phi ngộ thiện căn
Thận vật khinh hứa”.
Đọc xong, sư chấp tay mà mất. Bấy giờ là mười hai tháng giêng năm Bính Ngọ. Niên hiệu Đường Bảo Lịch thứ hai, thọ 68 tuổi .
-----------------
*-Việt Nam Phật giáo sử luận.(1). tr 183 .
*-Thiền uyển tập anh. tr 29 .
*-Tiểu truyện các thiền sư Việt Nam. tr 15 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 29 .
*-Nghiên cứu thiền uyển tập anh. tr 170-313 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (10). tr 9127 .
*-Việt Nam Phật giáo sử lược. tr 79 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
90-THÁI SƯ KHUÔNG VIỆT (933-1011)
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thời Đinh-Lê, họ Ngô, tên Chân Lưu, dòng giỏi của Ngô Thuận Đế . Sư diện mạo khôi ngô tuấn tú, tính tình phóng khoáng, nhỏ theo học Nho, lơn lên quy y Phật .
Sư thọ cụ túc giới và thụ nghiệp với thiền sư Vân Phong, chùa Khai Quốc. Nhân đây sư được đọc học nhiều kinh sách Phật giáo và sâu hiểu yếu chỉ Thiền tông .
Năm 40 tuổi, tiếng tăm sư vang khắp chốn. Vua Đinh Tiên Hoàng mến phục, truy tặng chức Tăng Thống và phong tặng chức Thái Sư Khuông Việt .
Về sau, sư viện lẽ già yếu, xin từ quan về núi du hí huyện nhà, lập chùa và trụ trì. Tại đây học giả bốn phương tìm đến rất đông .
Một hôm, đệ tử Đa Bảo thưa hỏi :
-Thế nào là chung thủy của sự học đạo ?
Sư đáp :
“Thủy chung không vật, diệu hư không
Hiểu được chân như, thể tự đồng”.
(Thủy chung vô vật diệu hư không
Hội đác chân như thể tự đồng.)
Đa Bảo thưa :
-Làm sao bảo đảm được ?
Sư đáp :
-Không có chỗ cho ngươi xuống tay .
Đa Bảo thưa :
-Hòa thượng nói xong rồi .
Sư hỏi :
-Ông hiểu gì ?
Đa Bảo hét một tiếng lớn !
Ngày 15 tháng 2 năm Thuận Thiên thứ 7, triều Lý, trước lúc quy tịch, sư gọi Đa Bảo đến trao pháp kệ :
Trong cây sẵn có lửa
Có lửa, lửa mới sanh
Nếu bảo cây không lửa
Hãy cọ thử cây xem.
Âm :
“Mộc trung nguyên hữu hỏa
Nguyên hỏa phục hoàn sanh
Nhược vị mộc vô hỏa
Toãn toại hà do manh”.
Nói kệ xong, sư ngồi kiết già mà chết, thọ 82 tuổi .
-----------------
*-Thiền uyển tập anh. tr 44 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 45 .
*-Việt Nam Phật giáo sử luận (1). tr 231 .
*-Tiểu truyện các thiền sư Việt Nam. tr 40 .
*-Nghiên cứu thiền uyển tập anh. tr 179-332 .
*-Thơ thiền Việt Nam (1). tr 33 .
*-Việt Nam Phật giáo sử lược. tr 95 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .