KHÔNG PHÁP TRAO
+ + +
Ngàn xưa pháp ở đâu ra ?
Pháp là pháp, pháp chỉ là pháp thôi.
Không pháp là đã đành rồi
Nhưng không pháp,vẫn còn thời pháp không.
Xét cho lời cạn lý cùng
Vốn chẳng có pháp nào từng có ra.
Pháp không, pháp có đều là
Không pháp,lấy pháp đâu mà để trao ?
------------
-Phỏng theo bài kệ ngôn :
“Pháp bản,pháp vô pháp
Vô pháp pháp diệc pháp
Kim phó vô pháp thời
Pháp pháp hà tằng pháp”.
Thích Ca Mưu Ni Phật Ngôn
(Phật Tổ Thuyền Uyển Kế Đăng Lục)
Nhặt cánh vô ưu 4
Mậu Dần niên 12.02.1998-(2.031)
NỘI SOI
+ + +
Mỗi ngày mỗi xét lại ta
Vẫn còn luyến ái, xót xa, cảm tình.
Vẫn còn sinh sự, sự sinh
Hoặc người mang đến,hoặc mình tự chiêu.
Dù chưa phải bịnh nặng,nhiều
Nhưng nên biết, đó là điều bất an.
Lại nhờ “Tự kỷ phản quan”
Nên đã tránh được nhiều lần nạn tai.
Đã mang lấy kiếp người nầy
Không ai đã chẳng nhúng tay vào chàm ?
Thân người một khi đã mang
Bạn già,bệnh,chết chúng đang chực chờ.
Sao chẳng chớp lấy thời cơ
Lợi dụng thân nầy mưu đồ lợi tha ?
Mỗi người hãy tự nhận ra
Sống trong tỉnh thức,chết là bình an !
-------------
Tự cảm thi
Nhặt cánh vô ưu 4
Mậu Dần niên 19.02.1998-(2.032)
CHỚ VỘI MỪNG
+ + +
Chẳng phải do hạnh Đầu đà
Chẳng phải do khéo giữ mà luật nghi.
Chẳng phải do rộng thấy nghe
Chẳng phải do đọc học nhiều kinh văn.
Chẳng phải do được tịnh tâm
Chẳng phải do ở riêng phòng độc thân.
Mà lại vội vả cho rằng :
“Hưởng được cái thú an nhàn xuất gia,
Không ai có thể bằng ta ! “
Chớ vội mừng những điều đà kể trên .
Khi não phiền quấn quít bên
Khi mê lầm chất chồng thêm mê lầm !
----------
Phỏng theo Phẩm Pháp Trụ
(Kinh Pháp Cú 271-272)
Nhặt cánh vô ưu 4
Mậu Dần niên 20.02.1998-(2.033)
TỪ ĐÂU TA ĐẾN
+ + +
Khi người vui vẻ ái ân
Ta cũng rạo rực lòng trần đến bên.
Nào ngờ gió nghiệp nổi lên
Biển ái khuấy động nhận chìm cơn mơ.
Hư vô, đâu bến, đâu bờ
Đâu quen,đâu lạ,đâu người,đâu ta ?
Kẻ mà ta gọi bằng cha
Vốn là tình địch năm xưa tương phùng.
Người mà ta gọi mẫu thân
Thương yêu,dang dở,âm thầm đắng cay !
Ai cha ! Ai mẹ ta đây ?
Phải chăng ái đẻ,dục gây,nghiệp hành .
Vô minh khởi điểm tử sanh
Ta người trói cột một vòng nhân duyên ?
Ngu si sanh tử triền miên
Lăng Nghiêm Phật thuyết căn nguyên luân hồi.
Dâm căn nếu chẳng xa rời,
Trần lao trói chặt muôn đời không tha !(1)
Hoặc như cổ đức khuyên ta
Nếu Ái bất trọng, Ta bà bất sinh.(2)
Hoặc Tứ thập nhị chương kinh
Bảo rằng thê tử nhân tình chẳng ly
Của cải nhà cửa khác gì
Tù ngục giam nhốt đến khi tàn đời !(3)
Nói chung cũng tại mình thôi !
-Ái, dục có mặt muôn đời kiếp nay.
Vô minh bất giác lầm sai
Vọng sanh,vọng khởi,trần ai Ta bà.
Vậy ta từ đâu sanh ra
Và ta nầy sẽ về mà nơi đâu ?
----------
(1)-“Dâm căn bất khả trừ
Trần lao bất khả xuất”.
(Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
(2)-“Ái bất trọng bất sanh ta bà
Niệm bất nhất bất sanh tịnh độ”.
( ? )
(3)-“Nhơn hệ ư thê tử,xá trạch thậm
ư lao ngục,lao ngục hữu tán thích
chi kỳ,thê tử vô viễn ly chi niệm…”
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương)
Nhặt cánh vô ưu 4
Mậu Dần niên 21.02.1998-(2.034)
LỖI MÌNH-LỖI NGƯỜI
+ + +
Lỗi mình tìm rất khó khăn
Do cố che giấu bít ngăn đủ điều
Sống để dạ, chết mang theo
Quyết không hé lộ những điều ác gian.
Lỗi người tìm rất dễ dàng
Nhìn đâu cũng thấy vô vàn lý do
Lỗi trong từng phút,từng giờ
Vô tình, cố ý, nhỏ to chất chồng !
----------
-Phỏng theo Phẩm Cấu Uế
(Kinh Pháp Cú 252)
Nhặt cánh vô ưu 4
Mậu Dần niên 20.02.1998-(2.035)
TRÔI SÔNG (*)
Hai bờ thiện ác chẳng vương
Quỉ người,nhân ngã chẳng nương bên nào.
Không quay lại,hồi nơi nào ?
Không cầu tịch diệt,có đâu đứng dừng ?
Bồ tát tâm nguyện vô cùng
Thường hằng bất biến,lạch nguồn dễ qua.
Làm sao tâm đạo trong ta
Mục nát giữa chốn Ta bà nhân gian.
Phật Phật tâm ấn rõ ràng
Tỳ lô tánh hải,thênh thang biển trời.
----------------------
(*)-“Phù vi đạo giả,du mộc tại thủy,tầm lưu
nhi hành,bất xúc lưỡng ngạn,bất vị nhân
thủ, bất vị quỉ thần sở giá, bất vị hồi lưu
sở trụ, diệc bất hủ bại ,ngô bảo thử mộc,
quyết định nhập hải”.
(Kinh Tứ thập nhị chương)
(Chương thứ 27)
-Nhặt cánh vô ưu 4
Mậu Dần niên 23.02.1998.(2.036)
NGÁT HƯƠNG
+ + +
Non xanh,nước biếc,mây ngàn
Bao la trời rộng, man man vô bờ.
Sen hồng nhụy điểm, phấn tô
Lung linh trước gió,hương đưa ngạt ngào.
---------
Phỏng theo kệ tụng :
“Thanh sơn đê xứ kiến thiên hoạt
Hồng ngẫu khai thời văn thủy hương”.
Khóa Hư Lục
(Trần Thái Tông}
Nhặt cánh vô ưu 4
Mậu Dần niên 12.01.1998-(2.037)
LẮNG NGHE (1)
+ + +
Lắng nghe hơi thở trong ta
Như lắng nghe tiếng âm ba suối nguồn.
Miên man mãi miết chảy luôn
Về đâu chẳng biết, bắt nguồn từ đâu .
-Lắng nghe tiếng nói trong lòng
Như lắng nghe tiếng dòng sông thì thầm
Trên mặt nước thoảng lặng căm
Nhưng tận sâu thẩm đáy sông cuộn trào .
-----------
Tự cảm thi
Nhặt cánh v[ ưu 4
27.11.1998-29.12.Đinh Sửu.(2.038)
TƯỞNG NIỆM (1)
+ + +
Hôm nay, ngày ấy xa rồi
Ngày ấy người đến,nay thời người đi.
Người đi để lại những gì
Sản nghiệp hay là Bát,Y chân truyền ?
Mười năm cày cấy gieo duyên
Công trình khai sáng,nối truyền Thích Ca.
Đoàn thể Khất sĩ Tăng già
Hoàng kim một thuở,nay xa hẳn rồi !
Hình thức vừa mới phục hồi
Đoàn người chân đất đầu trời du phang.
Thiên hạ còn đang ngỡ ngàng
Thoáng chốc người đã vội vàng đi xa…
Nay đã bốn bốn năm qua
Nhìn lại hiện tại quả là khác xưa .
Thời gian không ngừng đẩy đưa
Vô thường biến chuyển sớm trưa đổi dời.
Chẳng pháp nào ở trong đời
Mà chẳng ứng hợp theo thời,theo duyên.
Tưởng niệm hình bóng Tổ tiên
Là nhớ ân đức khai nguyên cội nguồn.
Chấp tay tôn kính tán dương
Tri ân,tưởng niệm cúng dường Tổ sư.
-----------
Nhặt cánh vô ưu 4
Mậu Dần niên 19.02.1998-(2.039)
THIỀN TỌA (*)
+ + +
Thưa ngài Xá Lợi Phất
Bất tất ngài phải ngồi
Yên lặng như thế đó
Mới gọi là thiền na .
Chẳng xa lìa chánh pháp
Hiện các tướng phàm phu
Không việc gì ngăn ngại
Thế mới gọi thiền tu .
Tâm chẳng trụ ở ngoài
Tâm chẳng trụ ở trong
Như thế mà an trụ
Gọi đó là thiền Không .
Nếu ngồi được như vậy
Như vậy quyết định rằng
Được mười phương thế giới
Tánh tướng Phật cảnh đồng .
-------
Phỏng theo Phẩm Thinh Văn
(Kinh Duy Ma Cật)
Nhặt cánh vô ưu 4
Mậu Dần niên 23.02.1998-(2.040)
Lời Thơ
THAY LỜI NÓI
+ + +
Vì không thể nói bằng lời
Nên mượn chữ nghĩa tỏ bày lý kinh.
Tránh sao khỏi vương ý mình
Ý mình chưa chứng Vô sinh đáng ngờ.(*)
Kinh, Luận vô bến vô bờ
Lý nghĩa thâm viễn,bao giờ mới thông ?
Cần nỗ lực, cần dụng công
Mỗi lần đọc càng tỏ lòng, sáng tâm.
Càng đọc, càng bớt sai lầm
Càng thấy vi diệu thậm thâm giáo truyền.
Như lai viên giác chân thuyên
Với hai con mắt không thiên bên nào.
Nghe từng chiếc lá xạc xào
Đâu đâu cũng là tiếng giao hưởng thiền.
Thiếu sót thì bổ túc thêm
Sai trái,Thánh giáo tri nguyên tận tường
Lòng thì muốn được xiển dương
Nhưng không phải dễ đãm đương hoằng truyền !
Nên chỉ tạm tạo chút duyên
Bằng những câu chữ bưng biền dễ nghe.
Nếu có ai đó khen chê
Thì xin thông cảm,thân quê phận hèn.
--------------
(*)-“Thận vật tín nhữ ý, nhữ ý bất khả tín,
thận vật dữ sắc hội,sắc hội tắc họa sanh,
đắc quả A La Hán dĩ,nãi khả tín nhữ ý”.
Kinh Tứ Thập Nhị Chương
(Chương 28)
Nhặt cánh vô ưu 4
Mậu Dần niên 28.02.1998-(2.041)
LỜI NGƯỜI VIẾT
+ + +
Thậm thâm vô thượng pháp mầu
Kinh văn diệu lý từng câu, từng lời.
Cho dù có đọc suốt đời
Cũng khó hiểu thấu những lời Thế tôn.
Huống gì đọc năm ba hôm
Nghiên cứu học hỏi lại mong giải trình.
Chẳng qua trong lúc đọc kinh
Cảm thấy nhiều đoạn khiến mình quan tâm.
Chép ghi thi hóa để dành
Hầu làm phương tiện học hành tiến tu.
Gọi là “ Nhặt cánh vô ưu ”
Kết gom lời Phật, Tổ từ xưa xa.
Qua nhiều dịch bản, thi ca
Của chư cổ đức thiền gia lưu truyền.
Mong rằng bạn lữ hữu duyên
Sẽ cùng đồng hội,đồng thuyền,đồng tu,
Cùng nghiên cứu,cùng công phu
Cùng nhặt từng cánh Vô ưu kết tràng .
------------
Nhặt cánh vô ưu 5
Mậu Dần niên 31.05.1998-(2.042)
S Á M H Ố I (1)
+ + +
Những ngày còn lại trong đời
Con không quên sám tội thời trẻ trung
Dại khờ,bảo thủ, buông lung
Luật nghi huỷ phạm, kệ kinh bỏ liều.
Bạn khuyên thầy dạy chẳng nghe
Cống cao ngã mạng tự khoe giỏi tài.
Được chút ít tưởng đủ đầy
Học chút ít ngỡ không ai sánh bằng.
Hưởng được chút ít lợi danh
Tưởng rằng đạo nghiệp có phần thăng hoa.
Được năm ba người ngợi ca
Lại tự cảm thấy mình là yếu nhân.
Mặc tình nói, mặc tình làm
Mặc tình thao túng theo tâm vọng tà.
Đến nay chợt tỉnh, hiểu ra
Than ôi ! thân nọ đã sa lưới hầm
Ấm ma quỷ quái tinh ranh
Dẫn người từng bước sai lầm niệm sanh.
May thay giữa cảnh tối tăm
Tiếng“HỒNG "Nguyện thử chung thinh...
Tiếng Bát Nhã gọi binh minh lại về.
Con từ đây hết đam mê
Chí tâm sám hối quay về tánh chơn.
--------------
Tự Cảm Thi
Nhặt cánh vô ưu 5
Mậu Dần niên 30.05.1998-(2.043)
H Ồ I G I A
+ + +
Sau ngày phản tỉnh hoàn gia
Con hay soạn lục ngâm nga huấn từ
Cho những đứa con dại ngu
Trước khi cha đến xứ người hóa sinh.
Nửa ngờ, nửa vực, nửa tin
Nhưng linh cảm bảo chớ nên nghi ngờ
Vì trong máu con hiện giờ
Có dòng máu đỏ cha cho ngày nào .
Rưng rưng lệ con tuôn trào !
Nếu không huyết thống,cớ sao sục sùi ?
Con biết, cha biết được rồi
Người khác biết,thêm nhiều lời vô ra .
Từ đây con vâng lời cha
Sáng chiều,khuya sớm cửa nhà trông nom.
Đèn hương thắp sáng ngày đêm
Sân vườn sau trước quén vun đắp bồi.
Người quen trân trọng kính mời
Kẻ lạ, xin đợi cha tôi hiên ngoài .
Con từ hồi gia đến nay
Tánh tình thay đổi,mặt mày dễ thương.
Quyết chí nối giỏi Tông đường
Thay mặt Họ tộc đảm đương gia tài.
Thương cha con hứa từ đây
Không tái phạm như những ngày đã qua !
-----------
Nhặt cánh vô ưu 5
Mậu Dần niên 13.04.1998-(2.044)
KIỂM CHỨNG
+ + +
Trước khi nhập Niết bàn
Thế tôn không ngần ngại
Tự kiểm chứng lại mình
Qua một đời hành đạo.
Bắt đầu từ khởi điểm
Thấp nhất là sơ thiền
Ngài nhập và xuất định
Trong thoải mái tự nhiên.
Tiến lên theo thứ lớp
Đến diệt tận Cửu thiền
Ngài qua lại thông suốt
Với thể trạng lặng yên.
Những ai chứng ngộ được
Trong hiện kiếp Ta bà
Ngài đều đem trắc nghiệm
Giải thích chỉ rõ ra.
Phật khác phàm ở chỗ
Giải thoát chẳng ngại ngăn
Nói được và làm được
Không mâu thuẫn sai lầm.
Quá khứ nghìn năm trước
Ngài tu chứng thế nào
Hiện tại, vạn kiếp sau
Ngài nhớ hết không sai.
Dù hôm nay là Phật
Thầy của cả trời người
Nhưng bài học cơ bản
Sơ thiền vẫn suốt thông.
Vậy mà con cứ ngỡ
Thành Phật là hẳn quên
Không còn nhớ gì nữa
Mới gọi là chơn như.
Vì làm biếng đọc kinh
Và tri tầm nghĩa lý
Nên trải đã nhiều năm
Thờ lạy kinh bạch tự ?
Rất may con chỉ là
Hàng cư sĩ tại gia
Kinh luận không thông suốt
Tạm thời xin thứ tha !
Nay nhân ngày xuất gia
Người xưa tầm lý chơn
Con cúi đầu bái lại
Viết vài hàng ngũ ngôn.
Để tỏ lòng kính ngưỡng
Đấng giác ngộ hoàn toàn
Để thấy mình ngu ngốc
Chưa giác đã vội quên !
---------
Nhặt cánh vô ưu 5
Mậu Dần niên 05.03.1998-(2.045)
NẾU PHẢI ĐỐI MẶT
+ + +
Đối trước người nữ đẹp xinh
Nếu phải tiếp xúc,nên gìn chánh tâm.
Niệm tưởng ta là Sa môn
“Tâm hình dị tục” khác hơn thế trần.
Như sen nọ ở trong đầm
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Nếu giao tiếp,làm việc chung
Với người cao tuổi cung xưng mẹ già.
Ngang bằng hoặc lớn hơn ta
Xem như chị cả trong nhà ngại chi.
Nếu như nhỏ hơn ta thì
Xem như em gái,gia quy nghiêm từ.
Còn nếu nhỏ nữa xem như
Là con, là cháu, khởi từ bi tâm
Lòng luôn tự lòng nhũ thầm
Ái là cái cùm,cái gông nhốt người.
Tỉnh thức, thức tỉnh đi thôi
Ta,người chớ có dễ vui vướng vào !
-----------
Phỏng theo Chương thứ 29
Kinh Tứ Thập Nhị Chương
Nhặt cánh vô ưu 5
Mậu Dần niên 1998-(2.046)
SỬA CHỮ
+ + +
Cứ ngỡ nguyệt minh là trăng sáng
Nào ngờ minh nguyệt lại là chim
Vọng tưởng núi cao trăng khởi chiếu
Ai dè chim nọ “khiếu” đầu non.
Hoàng khuyển rõ ràng chó chẳng sai
Chó làm sao ngọa ở tâm hoa ?
Chữ tâm lầm nhận “âm” thầm hận
Sâu bọ Vương An - chó Thức Tô .
-----------
Phỏng theo câu thơ nỗi tiếng của
2 nhân vật thời thượng:
“Minh nguyệt sơn đầu khiếu
Hoàng khuyển ngọa hoa tâm”.
(Vương An Thạch)
“Minh nguyệt sơn đầu chiếu
Hoàng khuyển ngọa hoa âm”.
(Tô Đông Pha)
Nhặt cánh vô ưu 5
Mậu Dần niên 06.03.1998-(2.047)
PHÁP HOA KHAI
+ + +
Trước khi khai thị Pháp hoa
Như lai liền nhập Xa ma tha thiền.
Hiển bày vô lượng nghĩa huyền
Hào quang khắp giáp tam thiên xa gần.
Tự tại, tự tịnh độ lòng
Tất cả hội chúng thảy đồng tịnh thanh.
Thánh phàm, Bồ tát bất phân
Uế trược, ám độn thảy cùng hiện ra.
Tâm dua dại, tâm ngụy tà
Tâm cống cao,tâm gian ngoa khinh người.
Tâm cầu an, tâm biếng lười
Tâm vọng loạn,khiến đứng ngồi không yên.
Rời pháp hội,ngài chẳng khuyên
Năm dục,năm cái,năm triền,năm căn.
Ngũ độn, ngũ lợi lăng xăng
Là đám phá giới, tạp tăng khác gì ?
Họ đi, để mặc họ đi
Còn gì lưu luyến,còn gì nhủ khuyên .
Cả hội chúng đều lặng yên
Như lai liền xuất định tuyên pháp mầu.
Liên hoa từng chữ từng câu
Mưa pháp lớn nhỏ nhìn nhau vui mừng.
Hy hữu thay, pháp chưa từng
Được Như lai dụ như thành hóa ra.
Chỉ có đức Phật Thích Ca
Như sen giữa cõi Ta bà nhân gian.
Tâm tịnh, cảnh tịnh,Niết bàn .
-----------
Nhặt cánh vô ưu 5
Mậu Dần niên 07.03.1998(2.048)
VỊNH BỐN NÚI
+ + +
Bốn núi xanh xanh liễu hỏi tùng
Cheo leo vách đá đất trời không
Vui thay ba cẳng lừa ta cởi
Thẳng cẳng tay buông vượt gió giông.
------------
-Cảm hứng theo bài kệ tụng :
“Tứ sơn liễu bích vạn thanh tùng
Bích liễu đô vô vạn vật không
Hỷ đáo lư nhi tam cước tại
Mịch kỳ đả sấm hướng cao phong”
(Trần Thái Tông)
Nhặt cánh vô ưu 5
Mậu Dần niên 08.03.1998-(2.049)
TƯỚNG DỤNG
+ + +
1.Diệu thể cùng với sắc thân
Chẳng hòa,chẳng hợp,chẳng phân,chẳng lìa.
Nếu dứt toan tính phân chia
Một cành hoa thắm trong kia lửa lò.
2.Diệu thể cùng với sắc thân
Chẳng hòa hợp,chẳng chia phân đôi đàng.
Nếu như phân biệt chẳng còn
Trong lò lửa một cành sen thắm hồng.
------------
-Phỏng theo bài kệ tụng :
“Sắc thân dữ diệu thể
Bất hợp bất phân ly
Nhược nhân yếu phân biệt
Lô trung hoa nhất chi “
(Âu Đạo Huệ Thiền Sư.TSVN)
Nhặt cánh vô ưu 5
Mậu Dần niên 08.03.1998-(2.050)
NGÃ PHÁP KHÔNG
+ + +
Lấy pháp mà biết được người
Lấy người mà biết được thời pháp kia.
Lìa pháp người ở đâu ra
Lìa người hỏi pháp có mà hay sao ?
-------------
-Cảm hứng với câu 128 :
“Dĩ pháp tri hữu nhân
Dĩ nhân tri hữu pháp
Ly pháp hà hữu nhân
Ly nhân hà hữu pháp”.
(Trung Luận-Long Thọ)
Nhặt cánh vô ưu 5
Mậu Dần niên 11.03.1998-(2.051)
KHÔNG KHỔ (+)
+ + +
Khổ không tự khổ gây nên khổ
Pháp cũng không do pháp tự thành
Tự thể vốn chẳng mối manh
Hỏi ai đó đã làm thành khổ đây ?
-------------
-Cảm hứng với câu 167 :
“Khổ bất danh tự khổ
Pháp bất tự tác pháp
Bỉ vô hữu tự thể
Hà hữu bỉ tác khổ “.
(Trung Quán-Long Thọ)
Nhặt cánh vô ưu 5
Mậu Dần niên 12.03.1998-(2.052)
TỰ SÁM HỐI
+ + +
Có người bạn hỏi tôi rằng
Anh vào đời trước hẳn rành hơn tôi.
Vậy theo anh thấy thì đời,
Có thật hạnh phúc như lời nói không ?
Anh hỏi, làm tôi mủi lòng !
Đời thật hạnh phúc,đâu cần thoát ly.
Tôi, anh đều là ngu si
Kinh,Luật,Luận học xong thì lại quên.
Tín hạnh nguyện dạ chẳng bền
Lời Phật Tổ dạy để quên bên lề.
Nào khác chi Nhất xiển đề
Hay vì đã lỡ đam mê thế trần ?
“Ái hà thiên xích lãng
Khổ hải vạn trùng ba
Dục thoát luân hồi khổ
Tảo cấp xuất tam gia”.
Sám văn miệng tụng sao đà vội quên ?
“Tam giới lửa cháy ngày đêm
Phẩm Thú dụ Pháp Hoa khuyên dạy người.
Anh hỏi làm tôi hổ ngươi
Nhưng vì sĩ diện gượng cười cho qua !
Từ vô lượng kiếp xưa xa
Nước mắt nhân thế vẫn là nhiều hơn,
So với nước của đại dương
Mà trong kinh Phật hay thường nêu ra.
Rõ ràng chẳng chút sai ngoa
Khỏi phải thân chứng mới là liễu tri.
“Thận vật tín nhữ ý
Nhữ ý bất khả tín
Thận vật dữ sắc hội
Sắc hội tức họa sinh”.
Ngẫm xem trong kiếp thế nhân
Sướng vui thì ít, khổ tâm lại nhiều.
Bằng chứng, như trên đã nêu
Đó là chân lý, giáo điều thiên thu.
“Xá trạch lao ngục thậm ư
Thê tử nếu chẳng viễn ly niệm nầy”.
Tôi xin sám hối từ đây
Còn anh em cũng nên bày tỏ đi !
-----------
Tự cảm thi .
Nhặt cánh vô ưu 5
Mậu Dần niên 10.03.1998-(2.053)
KHÔNG THẤY
+ + +
Người nào còn thấy có không
Còn thấy có tự tánh cùng tánh tha
Người nầy chưa thể thấy ra
Nghĩa chân thật Phật pháp là đương nhiên.
---------
Cảm hứng với bài kệ ngôn 192 :
“Nhược nhân kiến hữu vô
Kiến tự tánh tha tánh
Như thị tác bất kiến
Phật pháp chân thật nghĩa”.
(Trung Quán-Long Thọ)
Nhặt cánh vô ưu 5
Mậu Dần niên 12.03.1998-(2.054)
KHÔNG PHÁP(1)
+ + +
Sanh,trụ,dị,diệt chẳng thành
Hữu vi, vô vi hiện hành được sao ?
Hữu vi chẳng có, lẽ đâu
Lại còn có cái thứ nào vô vi ?
----------
-Cảm hứng với bài kệ ngôn 110 :
“Sanh trụ diệt bất thành
Cố vô hữu, hữu vi
Hữu vi, pháp vô cố ?
Hà đắc hữu vô vi ?”.
(Trung Luận-Long Thọ)
Nhặt cánh vô ưu 5
Mậu Dần niên 11.03.1998-(2.055)
BẤT ĐỊNH NGHIỆP
+ + +
Quyết định nếu có tác nhân
Dù chẳng làm cũng lãnh phần nghiệp duyên.
Không tác giả, không tác quyền
Thì cũng chẳng có cái duyên nghiệp gì .
-----------
Cảm hứng với bài kệ ngôn 112 :
“Quyết định hữu tác giả
Bất tác quyết định nghiệp
Quyết định vô tác giả
Bất tác vô định nghiệp”.
(Trung Luận-Long Thọ)
Nhặt cánh vô ưu 5
Mậu Dần niên 11.03.1998-(2.056)
KHÔNG NGHIỆP
+ + +
Tất cả các nghiệp trong đời
Nương theo phiền não,tùy thời phát sanh.
Phiền não vốn là giả danh
Ai sanh nghiệp, nghiệp tự sanh nghiệp à ?
------------
Cảm hứng với bài kệ ngôn 233 :
“Nhược chư thế gian nghiệp
Tùng ư phiền não sanh
Thị phiền não bất thật
Nghiệp đương hà hữu thât” ?
(Trung Quán-Long Thọ)
Nhặt cánh vô ưu 5
Mậu Dần niên 12.03.1998-(2.057)
TRUNG ĐẠO
+ + +
Nhân duyên sanh ra pháp đây
Nên nay ta gọi pháp nầy là không.
Đồng thời cũng là giả danh
Cũng là trung đạo do nhân duyên nầy.
------------
Cảm hứng với bài kệ ngôn :
“Chúng nhân duyên sanh pháp
Ngã thuyết tức thị vô
Diệc vi thị giả danh
Diệc thị trung đạo nghĩa”.
(Trung Luận-Long Thọ)
Nhặt cánh vô ưu 5
Mậu Dần niên 12.1.1998-(2.059)
VẤN ĐẠO(*)
+ + +
-Học sĩ Trần Tú Ngọc
Hỏi đạo sư Vạn Tùng
Vì sao đức Di Lặc
Bảo chẳng trừ phiền não
Cũng chẳng dụng tu thiền ?
-Vạn Tùng đáp học nhơn
Chơn tâm vốn thanh tịnh
Nên chẳng tu thiền định.
Phiền não vốn là không
Nên khỏi phải dụng công .
-Cũng một câu hỏi trên
Lại đem hỏi Hương Sơn
-“Tâm thể vốn sẵn định
Cớ chi lại cần tu
Phiền não vốn tịch diệt
Cần chi phải đoạn trừ “.
-Học sĩ chưa thỏa lòng
Đem hỏi ngài Trúc Lâm.
Thiền sư đáp lời ông :
“Thiền định vốn chẳng có
Não phiền lại cũng không”.
-Trần Tú Ngọc hân hoan
Tự nói với lòng rằng
Phải như thế đấy chứ
Thật khoái chí vô cùng !
--------
-Phỏng theo Kinh Lăng Nghiêm
Tông Thông .Tập 1, trang 140.
Nhặt cánh vô ưu 5
Mậu Dần niên 24.03.1998-(2.059)
ĐỐN TIỆM (+)
+ + +
Nếu như chợt ngộ lý chân
Lý chân chợt ngộ,gọi rằng đốn viên.
Tình vọng dứt chưa hẳn yên
Phải tiệm tu diệt căn nguyên từng phần.
Viên đốn như trẻ mới sanh
Sáu căn có đủ, vốn không thiếu gì.
Tiệm tu phải khéo kiên trì
Nuôi con khôn lớn trải thì nhiều năm.
(Tiệm tu, viên đốn hai phần
Giải ngộ xong, tiếp tục cần tiến tu.)
---------
-Phỏng theo Thiền Nguyên chư thuyên tập.
(Thiền sư Khuê Phong Tông Mật)
Nhặt cánh vô ưu 5
Mậu Dần niên 10.03.1998-(2.060)