SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
91-THIỀN SƯ VẠN HẠNH ( ? -1025)
+ + +
Thiền sư Việt Nam, đời Lý, họ Nguyễn, ở làng Cổ Pháp, thuộc gia đình thờ kính đạo Phật nhiều đời. Thuở nhó, sư thông minh khác thường, gồm thông ba học, đọc hiểu ba giáo, nghiên cứu trăm nhà luận thuyết, xem thường phú quý, vinh hoa .
Năm 21 tuổi xuất gia, sư cùng với Định Huệ thờ Thiền Ông chùa Lục Tổ làm thầy. Ngoài việc chấp tác phục dịch, hầu hạ Bổn sư, việc học tập luôn chăm chỉ, chẳng khi nào biết mệt mỏi .
Tháng chín năm Canh Ngọ, niên hiệu Quảng Hựu thứ 6, sư không bệnh, muốn nhóm chúng dạy :
-“Như thân ta đây, xương thịt gân cốt đều do bốn đại hợp thành, tất không thể trường tồn được. Cũng như ngôi nhà đã
hư mục, thì rui, me, kèo, cột đều rời rả rớt rơi”. Cùng các con giả từ, hãy nghe lời ta dặn :
Thân như tường vách đã lung lay
Lật đật người đời những xót thay
Nếu được tâm không, không tướng sắc
Sắc không ẩn hiện mặc vần xoay.
Âm :
“Thân như tường bích dĩ đồi thì
Cử thế thông thông thục bất tri
Nhược đạt tâm không vô sắc tướng
Sắc không ẩn hiện nhậm duy di”.
Nói kệ xong, sư ngồi ngay thẳng an ổn ra đi, thọ 92 tuổi, 56 tuổi đạo .
Trong thời gian trụ thế hành đạo, sư để lại rất nhiều kệ tụng tỏa ngát hương thiền. Xin trưng dẫn ra đây một vài đoạn trong “Tham đồ hiển quyết” :
1.-Chăm bón ruộng dâu người hãy gắng
Chớ học ôm cây đợi thỏ va.
(Khuyến quân thả vụ nông tang khứ
Mạc học tha nhân đãi thố lao.)
2.-Ngày qua mặc trời chiếu
Đêm lại ánh trăng soi.
(Trú tắc kim ô chiếu
Dạ lai ngọc thố minh.)
3.-Đói đến hãy tìm ăn
Lạnh về nên kiếm áo.
(Cơ lai tu tầm thực
Hàn tức hướng cấu y.)
4.-Qua sông cần bè vượt
Đến bến bỏ lại ghe.
5.-Thân như điển chớp chiều tà
Cỏ xuân tươi tốt, thu qua rụng rời
Sá chi suy thạnh ở đời
Thạnh suy như hạt sương rơi đầu cành.
(Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn vật xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thành suy vô bố úy
Thạnh suy như lộ thảo đầu phô.)
-------------
*-Thiền uyển tập anh. tr 56 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 66 .
*-Tiểu truyện các thiền sư Việt Nam. tr 60.
*-Nghiên cứu thiền uyển tập anh. tr 185-358 .
*-Việt Nam Phật giáo sở lược. tr 118 .
*-Tham đồ hiển quyết và thi tụng các thiền sư
Việt Nam thời Lý.
---o--
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
92-THIỀN SƯ VIÊN CHIẾU (999-1090)
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thời Lý, họ Mai, tên Trực, quê ở Phúc Đường, Long Đàm; cha là anh của Linh Thái Hậu, vợ vua Lý Thái Tông. Thuở nhỏ sư thông minh mẫn tuệ và rất ham học .
-“Có duyên với Phật, nếu xuất gia sẽ làm được việc lớn bằng trái lại khó tránh yểu số”. Đó là lời tuyên đoán về số mệnh của sư, do một Trưởng lão tinh thông tướng số thời ấy .
Cảm ngộ lời trên, sư từ giả thân quyến tìm đến thụ nghiệp với thiền sư Định Hương. Sư suy cứu thiền giáo, thông Tam quán, Tam học; chuyên trì tụng kinh Viên Giác, sâu hiểu Tam muội ngôn ngữ, thuyết pháp trôi chảy .
Tháng chín năm Canh Ngọ, niên hiệu Quảng Hựu thứ 6, sư không bệnh, nhóm chúng chỉ dạy :
-“Như thân ta đây, xương thịt gân cốt đều do bốn đại hợp thành, tất không thể trường tồn được. Cũng như ngôi nhà đã hư mục, thì rui, mè, kèo, cột đều rời rả rớt rơi”. Cùng các con giã từ, hãy nghe lời ta dặn :
Thân như tường vách đã lung lay
Lật đật người đời những xót thay
Nếu được tâm không, không tướng sắc
Sắc không ẩn hiện mặc vần xoay.
Âm :
“Thân như tường bích dĩ đồi thì
Cử thế thông thông thục bất tri
Nhược đạt tâm không vô sắc tướng
Sắc không ẩn hiện nhậm duy di”.
Nói kệ xong, sư ngồi ngay thẳng yên ổn ra đi, thọ 92 tuổi, 56 tuổi đạo .
Trong thời gian trụ thế hành đạo, sư để lại rất nhiều kệ tụng tỏa ngát hương thiền. Xin trưng dẫn ra đây một vài đoạn trong “Tham đồ hiển quyết”. :
1.-Chăm bón ruộng dâu người hãy gắng
Chớ học ôm cây đợi thỏ va .
(Khuyến quân thả vụ nông tang khứ
Mạc học tha nhân đãi thố lao).
2.-Ngày qua mặt trời chiếu
Đêm lại ánh trăng soi.
(Trú tắc kim ô chiếu
Dạ lai ngọc thố minh).
3.-Đói đến hãy tìm ăn
Lạnh về nên kiếm áo.
(Cơ lai tu tầm thực
Hàn tức hướng cầu y).
4.-Qua sông cần bè vượt
Đến bến bỏ lại ghe.
5.-Hoang tàn loang lổ nhà xưa
Cỏ hoa loạn lạc mọc đùa trước sân
Sớm chiều vắng bóng chủ nhân
Trâu, dê dong ruổi uống ăn mạc tình.(NB)
(Kim cốc tiêu sơ hoa thảo loạn
Nhi kim hôn hiểu nhậm ngưu dương).
-------------
*-Thiền uyển tập anh. tr 56 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 66 .
*-Tiểu truyện các thiền sư Việt Nam. tr 60 .
*-Nghiên cứu thiền uyển tập anh. tr 185,358 .
*-Việt Nam Phật giáo sử lược. tr 118 .
*-Tham đồ hiển quyết và thi tụng
các thiền sư thời Lý.
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
93-THIỀN SƯ CỨU CHỈ ( )
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thời Lý, họ Đàm, quê ở Phù Đàm, Châu Minh. Thuở nhỏ sư rất ham học, đọc hết các sách Nho, Lão, Phật. Một hôm sư ôm quyển sách than rằng : “Khổng Mặc chấp có, Lão Trang chấp không, sách vở của thế tục chẳng phải là phương giải thoát; chỉ có Phật pháp chẳng chấp có, không mới có thể dứt sạch sanh tử, nhưng phải giữ giới luật tinh nghiêm, siêng năng cầu bậc thiện trí thức ấn chứng cho mới được”. Nhân đó sư bỏ học, tự tìm đến chùa Cảm Ứng ở Ba Sơn gặp Trưởng lão Định Hương cầu xuất gia học đạo .
Có lần Trưởng lão hỏi sư :
-Thế nào là nghĩa của cứu cánh ?
Sư đứng sững hồi lâu, rồi đáp :
-Thưa, chưa !
Ngài Định Hương cười dạy :
-Thế là tôi và ông cùng hiểu nghĩa cứu cánh rồi đấy .
Sư ngẫm nghĩ .
Trưởng lão bảo :
-Qua mất rồi !
Ngay câu nói nầy, sư thấu triệt ý chỉ, nên đặt tên là Cứu Chỉ .
Sư tu hạnh đầu đà, ở núi suốt năm không xuống chợ, tiếng vang đến Kinh đô, vua quan đều kính phục .
Khoảng niên hiệu Chương Thánh, Gia Khánh (1059-1065). Sư sắp tịch, cho gọi môn đồ đến dạy :
-“Phàm tất cả các pháp môn, vốn từ tánh ngươi. Tất cả các pháp tánh, vốn từ tâm ngươi. Tâm pháp như một, vốn không hai pháp. Phiền não trói buộc, tất cả đều không. Tội phước phải quấy, tất c ả đều huyễn. Không cái nào chẳng phải quả, phải nhân. Không nên ở trong nghiệp mà phân biệt báo, không nên ở trong báo mà phân biệt nghiệp. Nếu có phân biệt thì, chẳng tự tại. Tuy thấy tất cả pháp, mà như không thấy. Tuy biết tất cả pháp, mà như không biết. Biết tất cả pháp lấy nhân duyên làm gốc, thấy tất cả pháp lấy chánh chơn làm tông. Tùy duyên nơi thật tế, mà luôn biết thế gian đều như huyễn hóa. Rõ thấy chúng sanh chỉ là một pháp, pháp chẳng có hai. Không rời nghiệp cảnh, mà phương tiện khéo hay. Ở trong hữu vi, bày biện hữu vi mà không phân biệt. Tướng của vô vi là do hết dục, dứt ngã
quên niệm mà nhận lấy vậy” .
Dặn dò xong, sư lại trao kệ pháp :
Rõ biết thân tâm vốn lặng yên
Thần thông biến hóa hiện các tướng
Hữu vi, vô vi từ đây hiện
Thế giới hà sa không thể lượng
Tuy dù biến khắp cả hư không
Mỗi mỗi sanh ra chẳng hình trạng
Ngàn năm, muôn năm khó sánh đó
Xứ xứ nơi nơi đều tỏ rạng.
Âm :
“Giác liễu thân tâm bản ngưng tịch
Thần thông biến hóa hiện chư tướng
Hữu vi vô vi tùng thử xuất
Hà sa thế giới bất khả lượng
Tuy nhiên biến mãn hư không giới
Nhất nhất quán lai một hình trạng
Thiên cổ vạn cổ nan tỷ huống
Giới giới, xứ xứ thường lãng lãng”.
Nói kệ xong, sư ngồi yên lặng mà tịch .
----------------
*-Thiền uyển tập anh. tr 79 .
*-Tiểu truyện các thiền sư Việt Nam. tr 108 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 99 .
*-Nghiên cứu thiền uyển tập anh. tr 195-381 .
*-Thơ thiền Việt Nam (1). tr 56 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
94-THIỀN SƯ ĐẠO HẠNH ( ? – 1115)
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thời Lý, họ Từ, tên Lộ, cha là Từ Vinh, làm chức Tăng quan Đô án, ở làng Yên Lãng, phường Láng, quận Đống Đa Hà Nội .
Sư là người tánh tình hào hiệp, có chí lớn lại ham chơi, thích giao du với hàng Nho học. Ngày vui thú đá cầu, đánh cờ, thổi sáo ; đêm đọc sách cần mãn quên ngủ .
Mấy phen sư cầu học đạo, nhưng đạo lý vẫn không lãnh hội. Một hôm, nhân gặp thiền sư Sùng Phạm ở chùa Pháp Vân, vẫn câu trước lập lại :
-Thế nào là chân tâm ?
Thiền sư Sùng Phạm đáp :
-Cái gì chẳng phải chân tâm ?
Sư hốt nhiên nhận được ý chỉ .
Đến khi sắp tịch, sư tắm gội sạch sẽ, thay đổi y phục, gọi môn nhơn đến dạy :
-“Túc nhơn của ta chưa dứt, phải còn sanh lại đời nầy, tạm làm quốc vương. Sau khi mạng chung lại sanh lên cõi trời thứ 33 làm Thiên chủ. Khi nào thấy thân nầy hư hoại, thì ta mới thật vào nơi an nghỉ vắng lặng; chẳng còn vướng mắc trong vòng sanh diệt nầy nữa”.
Thấy môn nhơn buồn thảm, sư liền thuyết kệ :
Thu về chẳng hẹn nhạn cùng bay
Cười lạt người đời luống xót thay
Thôi hởi ! môn nhơn đừng lưu luyến
Thầy xưa mấy lượt hóa thời nay.
Âm :
“Thu lai bất báo nhạn thu phi
Lãnh tiếu nhân gian tạm phát bi
Vi báo môn nhơn hưu luyến trước
Cổ sư kỷ độ tác kim sư”.
Nói kệ xong, sư nghiễm nhiên mà hóa. Nhằm tháng sáu năm Bính Thân, Hội Tường Đại Khánh thứ 7 (1116) .
Trong cuộc đời hành đạo, sư để lại không ít những thi kệ, và sau đây là một bài kệ tụng mà trong giới học Phật hầu như không ai chẳng biết :
Tạo có, mảy may có
Làm không, tất cả không
Có không như trăng nước
Chớ vướng có vương không.
Âm :
“Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không
Hữu không như thủy nguyệt
Vật trước hữu không không”.
-------------
*-Thiền uyển tập anh. tr 198 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 103 .
*-Lịch sử Phật giáo Việt Nam (3). tr 342 .
*-Thiền sư truyện ký. tr 96 .
*-Nghiên cứu thiền uyển tập anh. tr 271-540 .
*-Thơ thiền Việt Nam (1). tr 103 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
95-THIỀN SƯ TRÌ BÁT (1043-1117)
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thời Lý, họ Vạn, quê ở Luy Lâu. Thuở nhỏ đã thiết tha sùng mộ đạo Phật, lớn lên theo xuất gia thọ giới cụ túc với thiền sư Sùng Phạm chùa Pháp Vân .
Thấy sư tánh hạnh cẩn trọng, siêng năng, nghiêm tịnh nên thiền sư Sùng Phạm đã thầm trao tâm ấn và đặt pháp danh cho sư là Trì Bát .
Sau khi thầy mình quy tịch, sư dạo khắp tòng lâm thiền tịch
tham vấn nhiều bậc tôn túc đương thời. Sư lại đến trụ trì chùa Tổ Phong nghiên cứu giảng dạy thiền học. Tất cả những vật cúng tặng, sư đều xung vào các việc Phật sự .
Đến niên hiệu Đại khánh thứ 8 (1117) đời Lý Nhân Tông. Vào ngày mười tám tháng hai, sư gọi đồ chúng đến dạy và truyền kệ pháp :
Có chết tất có sống
Có sống tất có chết
Tử thì người đời buồn
Sanh thì người đời vui
Buồn vui thật vô cùng
Bỗng nhiên thành đây đó
Đối với việc sống chết
Chẳng có gì bận lòng
Án tố rô tố rô tất rị.
Âm :
“Hữu sanh tất hữu tử
Tử vị thế sở bi
Sinh vị thế sở hỷ
Bi hỷ tướng vô cùng
Hốt nhiên thành bỉ thử
Ư chư sanh tử bất quan hoài
Án tố rô tố rô tất rị”.
Nói xong, sư ngồi ngay thẳng mà đi, thọ 69 tuổi .
----------------
*-Thiền uyển tập anh. tr 205 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 114 .
*-Nghiên cứu thiền uyển tập anh. tr 276-565 .
*-Thơ thiền Việt Nam (1). tr 110 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 3003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
96-TĂNG THỐNG HUỆ SINH ( ? – 1064)
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thời Lý ,họ Lâm, tên Khu, quê ở Đông Phù Liệt. Sư sanh ra trong một gia đình quan quyền học thức, tướng mạo khôi ngô, ăn nó i lưu loát, văn hay, chữ đẹp, vẽ khéo, ngoài giờ học Nho, sư đọc thêm kinh Phật, luận thuyết trăm nhà đều thông suốt.
Mỗi khi bàn đến chỗ trọng yếu của Phật lý, sư thường cảm thán rơi lệ .
Năm 19 tuổi bỏ tục làm tăng, cùng sư Pháp Thông chùa Hạc Lâm thờ ngài Định Huệ chùa Quang Hưng làm thầy. Từ đây sư học thiền càng ngày càng tiến. Định Huệ an ủy và ấn chứng cho sư .
Từ đây sư bắt đầu dạo khắp tòng lâm, tham vấn hầu hết các bậc thiền đức, gồm nắm yếu chỉ thiền tông, rồi lần đến đỉnh Bồ đề núi Trà, an thân lập mệnh. Mỗi lần sư vào thiền trải khoảng 5 ngày mới dậy. Người đương thời gọi sư là “Nhục thân Đại sĩ”.
Vua Lý Thái Tông nghe danh sư, sai sứ đến thỉnh về kinh, sư bảo rằng :
-“Ông không thấy con vật sắp đem tế lễ đó sao ? Khi chưa cúng lễ người ta cho nó ăn thức ăn ngon, mặc áo đẹp, đến khi dẫn
vào Thái miếu, dù muốn xin làm một con vật hèn mọn cũng không thể được, huống là việc gì khác”.
Sư cố từ chối nhưng không được, sau đó phải về kinh. Gặp
mặt sư vua rất mừng, phong làm Nội cung phụng tăng, sắc trụ trì chùa Vạn Tuế .
Một hôm tạo trai tăng trong nội điện, vua nói với sư : “Phật Tổ gốc ở tâm mình, trẫm nghĩ người học đạo chớ nên chỉ trích lẫn nhau, xin cùng với chư thạc đức các phương, mỗi vị cùng bày tỏ điều hiểu biết của mình, để xem sự dụng tâm của các vị
ra sao”. Sư liền lên tiếng đáp kệ rằng :
Pháp vốn như không pháp
Chẳng có cũng chẳng không
Nếu người biết như vậy
Cúng sanh và Phật đồng
Trăng Lăng già vằng vặc
Thuyền Bát nhã rỗng không
Hiểu không không, biết có
Tam muội mặc thong dong.
Âm :
“Pháp bản như vô pháp
Phi hữu diệc phi không
Nhược nhơn tri thử pháp
Chúng sanh dữ Phật đồng
Tịch tịch Lăng già nguyệt
Không không độ hải chu
Tri không không giác hữu
Tam muội nhậm thông châu”.
Vua nghe qua rất kính phục, phong sư chức Đô tăng lục. Bấy giờ các vị thân vương, hoàng tộc, đến lui học đạo với sư rất đông. Đến đời Lý Thái tông, lại ban cho sư chức Tả nhai đô tăng thống .
Niên hiệu Gia Khánh thứ 5 (1063). Khi sắp tịch, sư cho họp đồ chúng, truyền trao pháp kệ :
Nước lửa ngày chan hòa
Nguyên do khó nói ra
Bởi ông không xứ sở
Ba ba lại ba ba .
Âm :
“Thủy hỏa nhật tương tham
Do lai bất khả đàm
Báo quân vô xứ sở
Tam tam hựu tam tam”.
Sư lại thuyết kệ tiếp :
Người xưa khi học đạo
Hướng phương Nam dò la
Nếu ai hỏi việc mới
Việc mới trăng mùng ba.
Âm :
“Tự cổ lai tham học
Nhân nhân chỉ vị Nam
Nhược nhân vấn tâm sự
Tâm sự nguyệt sơ tam”.
Nói kệ xong, sư tắm gội, đốt hương, đến nửa đêm yên lặng ra đi.
------------------
*-Thiền uyển tập anh. tr 209 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr116 .
*-Việt Nam Phật giáo sử lược. tr 109 .
*-Nghiên cứu thiền uyển tập anh. tr 2078 .
*-Thơ thiền Việt Nam (1). tr 66 .
---o---
Gò Vấp mua thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
97-THIỀN SƯ TRÍ NHÀN TĨNH LỰ ( )
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thời Lý, họ Lê, tên Phước ; dòng dõi Ngự Nam Vương. Sư học hành giỏi, thi đậu Tiến sĩ, được phong chức Cung Hầu thư gia .
Năm 27 tuổi, theo anh đến pháp hội của ngài Giới Không, nghe giảng kinh Kim cang đến câu : “ Tất cả pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bóng, bọt, như sương lại như chớp, nên quán xét như thế ”. Sư bỗng cảm ngộ, than rằng :
-“Những lời của Như lai, chẳng phải chỉ nói suông. Các pháp thế gian đều giả dối, không thật, chỉ có đạo là thật. Ta còn tìm cầu đâu khác nữa ? Vả, nhà Nho chỉ nói được đạo vua, tôi, cha, con, còn Phật pháp thì có thể bàn đến công hạnh của bực Thanh văn, Bồ tát. Hai lời dạy dù khác, nhưng đều quy về một. Tuy nhiên, để ra khỏi cái khổ của sống chết và dứt trừ kiến chấp có không, nếu chẳng phải giáo lý của đức Phật Thích Ca, thì quyết không thể thành tựu được vậy”.
Nghĩ thế, nên sư xin xuống tóc xuất gia. Sau khi hiểu nhận được ý chỉ, sư vào thẳng núi Cao dã, ở dưới gốc cây, ngày thời đọc kinh, đêm lại thiền định, hành trì khổ hạnh, nguyện trọn sáu năm .
Một hôm sư đang ngồi, thấy con cọp đang rượt đuổi một con nai chạy đến chỗ sư. Sư khuyên dỗ rằng : “Tất cả chúng sanh đều tiếc thân mạng, ngươi chớ nên giết hại con vật yếu thế kia”. Cọp bèn cúi đầu tỏ dấu quy y, rồi quay đi. Về sau sư dựng một am tranh dưới chân núi, tăng tục đến thọ học rất đông .
Trải hai triều đại Anh Tông và Cao Tông, nhiều lần triệu thỉnh mà sư không đáp. Phụ quốc Thái Úy Tô Hiến Thành và Thái bảo Ngô Hòa Nghĩa đem lễ thờ kính sư làm thầy, trải 10 năm nhưng chưa hề gặp mặt. Bỗng một hôm, sư cùng các vị ấy gặp nhau, họ vui mừng khôn xiết. Vừa chào hỏi xong, sư liền nói kệ :
Muốn ra khỏi chốn bụi hồng
Lắng nghe đạo lý để lòng sớm hôm
Lánh xa lòng dục, tánh tham
Hằn sâu đạo lý tinh thâm ngày ngày.
Âm :
“Ký hoài xuất tố dưỡng dung trung
Văn thuyết vi ngôn ý doãn tùng
Tham dục truất trừ thân lý ngoại
Hy di chi lý nhật bao dung”.
Sư lại nói tiếp :
Lấy đức làm trọng
Thanh đạm giữ lòng
Một lời nói phải
Ghi nhớ đinh ninh
Lòng không ta người
Sáng rỡ quang minh
Đêm ngày xoay chuyển
Chẳng thấy tướng dừng
Như vang, như bóng
Mất dấu bặt tin.
Âm :
“Đạm nhiên tự thủ
Duy đức thị dụ
Hoặc vâng thiện ngôn
Quyền quyền nhất cú
Tâm vô bỉ ngã
Ký tuyệt hôn mai
Nhật dạ trắc giáng
Vô hình khả trụ
Như ảnh, như hưởng
Vô tích khả thú”.
Nói xong, sư chấp tay, ngồi thẳng, vui vẻ mà mất .
---------------
*-Thiền uyển tập anh. tr 224 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 158 .
*-Nghiên cứu thiền uyển tập anh. tr 290-601 .
*-Thơ thiền Việt Nam (1). tr 184 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
98-THIỀN SƯ MÃN GIÁC (1052-1096)
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thờ Lý, họ Nguyễn, tên Trường, quê ở Lũng Chiền, hương An Cách. Sư nghe nhiều, nhớ kỹ, học thông Nho Thích. Vào khoảng Anh Vũ Chiêu Thắng (1076-1084) Sư xuất gia học đạo với thiền sư Quảng Trí, chùa Quán Đảnh. Sau khi được truyền tâm ấn, sư thường chống gậy, mang bát vân du khắp nơi tìm cầu thiện hữu .
Có lần sư nói với nhà vua :
-“Bậc chí nhân thị hiện, cốt cứu vớt chúng sanh, không hạnh nào chẳng đủ, không việc gì chẳng tu, chẳng phải chỉ sức định tuệ, mà cũng có công giúp ích, nên phải tin nhận đó”.
Ngày 30 tháng 11 năm Hội Phong thứ 5. Sư nhuốm bệnh, cho gọi môn nhơn đến truyền đọc kệ pháp :
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Việc đời qua trước mắt
Già đến trên đầu rồi
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Ngoài sân đêm trước một cành mai.
Âm :
“Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”.
Nói đến đây, sư ngồi kiết già mà mất, thọ 45 tuổi,19 tuổi đạo.
------------------
*-Thiền uyển tập anh. tr 94 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 123 .
*-Thiền tăng truyện ký. tr 125 .
*-Lịch sử Phật giáo Việt Nam (3). tr 164 .
*-Nghiên cứu thiền uyển tập anh. tr 205-404 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
99-THIỀN SƯ GIỚI KHÔNG ( ? )
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thời Lý, họ tên là Nguyễn Tuân, thuộc gia đình hiền lương, khi còn nhỏ đã mến mộ đạo Phật. Ban đầu sư theo thiền sư Quảng Phúc chùa Nguyên Hòa, núi Chân Ma. Sư xuất gia thọ giới cụ túc, sau mấy năm thờ thầy, nhận được
thiền chỉ .
Sau đến Lịch Sơn, dựng một am nhỏ, chuyên tu thiền định. Sau đó sư xuống núi tùy duyên giảng hóa. Tới vùng Nam Sách sư vào núi Thánh Chúa, cấm túc 6 năm, tu hạnh đầu đà, đến nỗi cảm được quỷ thần hộ tá, thú dữ quy phục .
Tuổi già, sư về làng cũ, trùng tu được 95 ngôi chùa. Một hôm không bệnh, sư nói kệ dạy chúng :
Ta có một việc kỳ đặc
Chẳng xanh vàng đỏ trắng đen
Cả người tại gia xuất gia
Yêu sống ghét chết là giặc
Chẳng biết sống chết khác đường
Sống chết chỉ là được mất
Nếu bảo sống chết khác đường
Dối lừa Thích Ca Di Lặc
Nếu biết sống chết, sống chết
Mới hiểu nơi ta ẩn nấp
Các ngươi môn nhơn hậu học
Chớ có gò ép phép tắc.
Âm :
“Ngã hữu nhất sự kỳ đặc
Phi thanh hoàng xích bạch hắc
Thiên hạ tại gia xuất gia
Thân sinh ố tử vi tặc
Bất tri sanh tử dị lộ
Sinh tử chỉ vị thất đắc
Nhược ngôn sinh tử dị lộ
Trám khước Thích Ca, Di Lặc
Nhược tri sinh tử sinh tử
Phương hội lão tăng xứ nặc
Nhữ đẳng hậu học môn nhơn
Mạc nhận bàn tinh quỹ tắc”.
Nói xong, sư cười lớn một tiếng rồi mất .
--------------
*-Thiền uyển tập anh. tr 220 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 135 .
*-Nghiên cứu thiền uyển tập anh. tr 287-593 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỹ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
100-THIỀN SƯ CHÂN NGUYÊN (1046-1100)
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thời Lý, họ Vương, tên Hải Thiềm, xuất thân từ danh gia vọng tộc. Sư mồ côi cha lẫn mẹ từ thuở bé, chịu khó học tập, chẳng thích những việc vặt vãnh .
Năm 15 tuổi, học xong kinh sử. Năm 18 tuổi, dạo khắp tòng lâm cầu tìm thiền chỉ. Nhân đến pháp hội của ngài Thảo Nhất, tại chùa Tịnh Lự ở núi Đông Cửu, nghe giảng kinh Pháp Hoa
lòng bừng tỉnh ngộ. Từ đó cơ duyên khế hợp như rùa gặp bộng cây. Sư nhập thất 6 năm, học hỏi, nghiên cứu mỗi ngày thêm thăng tiến. sau nhận được tâm ấn, sư liền đến núi Phả Lại, ở đó tu trì giới luật nghiêm tịnh, tự phòng hộ suốt 20 năm không bước chân khỏi núi, tiếng khen vang khắp .
Vua Lý Thần Tông nghe được, xuống chiếu mời sư vào Đại nội giảng kinh Pháp Hoa, thính chúng tìm đến rất đông .
Bấy giờ Thái úy Lý Thường Kiệt và Thứ sử Lạng Châu là Tướng quốc Thân Công càng tăng lòng kính trọng, thường bỏ của riêng ra cúng dường. Những gì sư có được, đều đem trùng
tu chùa tháp, để lại người sau .
Lần nọ, có vị tăng đến hỏi : Thế nào là đạo huyền ?
Sư đáp : Giác ngộ rồi mới biết .
Vị tăng hỏi tiếp : Đối với giáo chỉ của người xưa, kẻ hậu học chưa hiểu. Nay thầy dạy như vậy, làm sao con hiểu được ?
Sư đáp : “Nếu đến nhà tiên trong động thẩm
Thuốc đơn đổi cốt được mang về”.
Tăng hỏi : Thế nào là thuốc đơn ?
Sư nói : “Nhiều kiếp ngu si không hiểu thấu
Bỗng nay chợt ngộ sáng thông ra “.
Tăng lại hỏi : Thế nào là sáng thông ?
Sư đáp : “Sáng thông chiếu khắp cõi Ta bà
Tất cả chúng sanh cùng một nhà “.
Tăng thưa : Đệ tử vẫn chưa hiểu ?
Sư nói: “Nơi nơi đều gặp nó”.
Tăng lại hỏi : Nó là cái gì ?
Sư đáp : “Lửa kiếp hẩy hừng thiêu rụi hết
Núi xanh như cũ mây trắng bay”.
Tăng hỏi : Khi xác thân tan rả, thì thế nào ?
Sư đáp :”Xuân đến xuân đi ngờ xuân hết
Hoa tàn hoa nở vẫn là xuân”.
Tăng còn đang nghĩ ngợi ! Sư quát :
-“Đất bằng sau binh lửa
Cây cỏ đượm hương thơm”.
Tăng cúi đầu lạy tạ .
Khi tuổi già, sư về quận nhà dựng lại chùa Bảo Cảm. Đến ngày một tháng mười một, năm Hội Phong thứ chín. Lúc sắp
tịch sư cho gọi môn đồ đến trao kệ pháp :
Trong tróng vắng sắc màu ảnh hiện
Gió chan hòa tan biến khắp nơi
Vô vi chính thật nguồn vui
Người người nhận được, nơi nơi là nhà.
Âm :
“Diệu bản hư vô nhật nhật khoa
Hòa phong xuy khởi biến hà sa
Nhân nhân tự thức vô vi lạc
Nhược đắc vô vi thủy thị gia”.
Vào nửa đêm, sư lại nói :
-“Đạo của ta đã thành, việc giáo hóa đã xong, ta ra đi tự tại”.
Nói xong, sư ngồi kiết già mà mất, thọ 55 tuổi đời, 36 tuổi đạo .
-----------------
*-Thiền uyển tập anh. tr 228 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 137 .
*-Thơ thiền Việt Nam (1). tr 83 .
*-Nghiên cứu thiền uyển tập anh. tr 292-606 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
101-THIỀN SƯ BẢO GIÁM ( ? – 1173)
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thời Lý, họ Kiều, tên Phù, quê ở làng Trung Thụy. Tánh tình sư điềm đạm, trung tín và giản dị. Thuở nhỏ học Nho, thông hiểu Thi, Thư, Lễ, Dịch; nhất là có tài viết chữ đẹp. Làm quan đến chức Công Hầu xá nhân, triều Lý Anh Tông .
Năm 30 tuổi từ quan, xuất tục làm tăng, ăn mặc nâu sòng, thô sơ gai bố. Chăm lo tu niệm, chẳng phút lãng xao, đến hết đời vẫn không thay đổi .
Sư thường bảo đồ chúng rằng :
-“Bước lên chiếc xe của Phật là phải nhờ vào siêng năng, thành tựu chánh giáo của Phật là do trí tuệ. Giống như mũi tên bắn đi, nó vượt ngoài trăm bước là nhờ vào cái lực, nhưng để trúng được đích, thì không phải nhờ vào lực vậy” .
Đến ngày 7 tháng 5 niên hiệu Chánh Long Bảo Ứng thứ 11. Khi sắp viên tịch, sư nói kệ :
Đắc thành chánh giác há nhờ tu
Chỉ chuốt nhọc nhằn, trí tuệ ưu
Rõ lý diệu huyền nên giải thoát
Như giữa trời cao tỏa nắng trưa.
Âm :
“Đắc thành chánh giác hãn bằng tu
Chỉ vị lao lung, trí tuệ ưu
Nhận đắc Ma ni huyền diệu lý
Chỉ như thiên thượng hiển kim ô”.
Sư lại đọc tiếp :
Trí tuệ như trăng chiếu khắp nơi
Sáng trùm trần thế chẳng riêng ai
Nếu người hiểu lẽ không phân biệt
Núi phủ mây chiều cây cỏ tươi.
Âm :
“Trí giả du như nguyệt chiếu thiên
Quang hàm trần sát chiếu vô biên
Nhược nhơn yếu thức tu phân biệt
Lãnh thượng phù sơ tỏa mộ yên”.
Sau cùng sư dạy :
-“Tâm và ý của Như Lai đều không thể hiểu biết được, chỉ có thể dùng vô lượng trí mới biết được. Cho nên biết, tâm Như Lai như hư không, là chỗ tựa cho tất cả. Trí tuệ của Như Lai
cũng như thế”.
Nói xong sư liền tịch .
--------------------
*-Thiền uyển tập anh. tr 104 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 150 .
*-Tiểu truyện các thiền sư Việt Nam. tr 151 .
*-Nghiên cứu thiền uyển tập anh. tr 211-417 .
*-Thơ thiền Việt Nam (1). tr 162 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
102-NI SƯ DIỆU NHÂN (1041-1113)
+ + +
Ni sư Việt Nam, thời Lý, thế danh Ngọc Kiều, con trưởng của Phụng Loát vương. Thuở nhỏ thiên tư thuần hậu, ngôn hạnh đoan. Bà sớm mất chồng, thề không tái giá .
Trước khi xuất gia bà đem cho hết tư trang rồi tìm đến thiền sư Chân Không cầu xin xuất gia học đạo. Nơi đây bà được tâm truyền.
Đương thời, ni sư được xem như người giữ giới tinh nghiêm mẫu mực nhất trong hàng Ni chúng .
Năm Hội Tường, Đại Chánh thứ 4. Ngày mùng một tháng sáu, ni sư có bệnh, nhóm chúng thuyết kệ :
Sanh, già, bệnh, chết
Từ xưa thường vậy
Muốn cầu thoát ly
Cởi trói, buột thêm
Mê mới tìm Phật
Lầm mới cầu thiền
Thiền Phật chẳng tìm
Ngậm miệng không nói.
Âm :
“Sanh lão bệnh tử
Tự cổ thường nhiên
Dục cầu xuất ly
Giải phược thêm triền
Mê chi cầu Phật
Hoặc chi cầu thiền
Thiền Phật bất cầu
Uổng khẩu vô ngôn”.
Nói kệ xong, ni sư tắm gội, ngồi kiết già an tịch, thọ 72 tuổi.
---------------
*-Thiền uyển tập anh. tr 234 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 162 .
*-Thiền tăng truyện ký. tr 146 .
*-Lịch sử Phật giáo Việt Nam (3). tr 163 .
*-Nghiên cứu thiền uyển tập anh. tr 296,613 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
103-QUỐC SƯ VIÊN THÔNG 1080-1157)
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thời Lý, họ Nguyễn, tên Nguyễn Ức, quê ở làng Cổ Hiền, dòng dõi Tăng quan. Sư bẩm tính thông minh,
tài học tinh diệu vượt bậc. Sớm có chí xuất trần, thường đến chùa An Quốc học đạo với ngài Viên Học, nhờ đó hiểu sâu yếu chỉ thiền tông .
Năm Hội Phong thứ 6 (1097) sư đổ đầu khoa thi Tam giáo và các khoa thi chọn Tăng quan sau nầy. Sư được các nhà vua
triều Lý kính trọng như bậc kỳ tài, phong tặng sư các quan
chức như sau :
-Đại văn .
-Nội cung phụng truyền giảng Pháp sư .
-Hữu nhai Tăng thống tri giáo môn công sự .
-Tả hữu nhai tăng thống nội cung phụng tri giáo môn công sự
truyền giảng Tam tạng văn chương, ứng chế hộ quốc Quân sư .
Sư tùy cơ giảng hóa, mở bày yếu chỉ, giác ngộ cho người, giải điều mê, trừ việc dốt, triệt tiêu mất dấu ngoại tà, khiến những người đến thọ nghiệp với sư về sau đều nổi danh .
Năm Đại Thuận thứ 3 (1130) Vua Lý Thần Tông thỉnh sư vào điện Sùng Khải, hỏi về kế sách hưng vong trị loạn trong thiên
hạ .
Sư đáp : “Thiên hạ cũng như đồ dùng, đặt chỗ yên thì được yên, đặt chỗ nguy tất bị nguy. Xin Bệ hạ dùng đức hiếu sinh, hành xử sao cho hợp với lòng dân, thì dân sẽ kính yêu vua như cha mẹ, trông ngóng như mặt trăng mặt trời. Đó là đặt thiên hạ vào chỗ yên vậy” .
Sư lại nói tiếp : “Việc trị loạn là do nơi quan chức, được lòng người thì trị, mất lòng người thì loạn. Thần từng xem qua vua chúa các triều đại trước, chưa từng có triều đại nào không dùng bậc quân tử mà được hưng thịnh, cũng như không dùng kẻ tiểu nhân mà bị suy vong. Nguyên nhân dẫn đến việc thạnh suy đó, chẳng phải chỉ một sớm, một chiều, mà hẳn đã có mầm mống từ trước .
Trời đất không thể sanh nóng lạnh tức khắc, mà phải dần trải từ mùa thu qua mùa xuân. Đấng nhân chủ không thể trong một lúc được hoặc mất thiên hạ, mà phải do tích tụ thiện ác từ lâu. Các bậc Thánh vương thời xưa, do biết vậy, nên học tập theo trời, không ngừng sửa mình; bắt chước đất, không ngừng tu đức, để giữ yên lòng người .
Sửa mình, thì trong lòng cẩn trọng như đi trên băng mỏng. Yên dân, thì quý yêu kẻ dưới, sợ lo như cưỡi ngựa mà nắm phải dây cương cũ mục. Được thế, thì chẳng thể không hưng. Không được thế, thì chẳng thể không suy. Sự hưng vong diễn tiến dần dần là như vậy”.
Lời sư rất hợp ý vua, nên càng được kính trọng. Sau sư về quê cũ dựng chùa Quốc Ân, ở đó an dưỡng đến cuối đời .
Ngày hai mươi mốt tháng tư nhuần, năm Tân Mùi, niên hiệu Đại Định. Sư không bệnh, cho gọi đồ chúng đến họp mặt, từ biệt rồi qua đời, thọ 72 tuổi .
----------------
*-Thiền uyển tập anh. tr 240 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 167 .
*-Việt Nam Phật giáo sử lược. tr 127 .
*-Nghiên cứu thiền uyển tập anh. tr 300-616 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
104-THIỀN SƯ TỊNH KHÔNG (1091-1170)
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thời Lý, gốc người Trung Hoa, họ Ngô, quê ở Phúc Xuyên, Trung quốc .
Sư xuất gia và thọ giới cụ túc tại chùa Sùng Phúc, Phúc Châu. Đến năm 30 tuổi, sư tha phương du hóa đến Việt Nam và dừng chân lại chùa Khai Quốc hành đạo. Sư tu hạnh Đầu đà trải khoảng 6 năm, chỉ ăn chút ít đậu, mè mỗi ngày. Thường không nằm, hay ngồi ,mỗi lần nhập định trải nhiều ngày mới xuất. Đàn chủ tín tâm đến dâng cúng, đồ vật chất đầy chùa. Có kẻ gian rình mò trộm cắp ; sư biết bảo họ vào, rồi cho những thứ cần dùng .
Bấy giờ Nam Khương Công chúa có ý muốn lìa tục xuất gia, đã cải trang đến nhờ sư chứng minh cạo tóc. Sư biết, nhưng vẫn bằng lòng thế độ. Triều đình hay chuyện, xuống chiếu bắt sư, khi đến cửa khuyết, thần sắc vẫn an nhiên, vua thấy tỏ vẻ kính trọng, phong làm “ Thạc đức danh tăng “. Sư cố từ chối không nhận, tâu cùng vua rằng :
-“Bần tăng vốn quen cảnh lều cỏ, cơm vừng, không hợp cảnh phồn hoa trói buộc, xin Bệ hạ tha cho“.
Một hôm sư lên nhà giảng, có vị thiền khách chống gậy đến hỏi :
“Thế nào là pháp thân” ?
Sư bảo : Pháp thân vốn không hình .
Tăng lại hỏi : Thế nào là pháp nhãn ?
Sư đáp : Pháp nhãn vốn không gì che mờ. Lại nói tiếp : “Trước mắt không pháp. Ý ở trước mắt, pháp chẳng phải là chỗ của tai mắt thấy nghe”.
Vị tăng bật cười ha hả ! Sư hỏi : “Cười điều chi ?”.
Tăng đáp : Hòa thượng là bậc xuất gia lâu năm mà chưa hiểu tông chỉ của đạo thiền, phải đến tham vấn với ngài Đạo Huệ thiền sư mới được .
Sư nói : Đến tham vấn người ấy, thì được việc gì ?
Vị tăng nói : “Trên không mái che, dưới không dùi cắm”.
Sư cải dạng thẳng đến núi Tiên Du, tham vấn Đạo Huệ .
Đạo Hụệ nói : “ Ở đây chẳng phải không có tông chỉ, nhưng làm sao thầy có thể tin nhận ?”.
Sư ngẫm nghĩ .
Đạo Hụệ hét ! Ngay trước mắt, ngươi đã để vuột qua rồi !
Sư liền tỉnh ngộ, lãnh hội được yếu chỉ, xin ở lại phụng sự Đạo Hụệ suốt ba năm. Sau sư trở về chùa cũ tiếp nhận đồ
chúng .
Một hôm, sư cho gọi môn đệ đến, rồi nói kệ :
Trên không miếng ngói lợp
Dưới chẳng đất cắm dùi
Người cải trang đến học
Kẻ xách gậy ra đi
Khi chuyển động giao tiếp
Tợ rồng nhảy đớp mồi.
Có vị tăng đến hỏi : Từ trước “Trực chỉ” là nói cái gì ?
Sư đáp :
-“Ngày ngày đi gặt lúa
Giờ giờ kho lẫm không”.
Tăng thưa : Con chẳng hiểu .
Sư nói :
-“Trời trăng luôn sáng
Mây nổi khuất che”.
Sư tiếp đọc bài kệ :
-Người trí không ngộ đạo
Ngộ đạo tức kẻ ngu
Nằm dài chân thẳng duỗi
Biết chi chuyện chánh tà.
Âm :
“Trí nhân vô ngộ đạo
Ngộ đạo tức ngu nhân
Thân cước cao ngọa khách
Hề thức ngụy kiêm chân”.
Niên hiệu Chính Long Bảo Ứng thứ 8,đời vua Lý Anh Tông, khi sắp tịch, sư từ giả đồ chúng và dặn bảo :
-“Các con hãy khéo giữ gìn phẩm hạnh như khi ta còn sống, chớ theo thế tục đắm trước, mà sanh tâm quyến luyến buồn rầu”.
Đến giữa đêm, sư ngồi kiết già mà mất .
---------------
*-Thiền uyển tập anh . tr 118 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 170 .
*-Tiểu truyện các thiền sư Việt Nam. tr 180 .
*-Nghiên cứu thiền uyển tập anh. tr 218,438 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
105-THIỀN SƯ TỊNH LỰC (1112-1175)
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thời Lý, họ Ngô, tên Trạm, quê ở Các Lăng, Vũ Bình. Thuở nhỏ sư rất thông minh, giỏi luận biện, thạo nghề văn và nhất là viết chữ đẹp .
Khi du học, gặp được ngài Đạo Huệ ở núi Tiên Du, sanh tâm kính quý, dứt bỏ thế tình, quyết nương cửa Phật. Sư bắt đầu thực hiện ăn rau củ, mặc áo vá chầm, chuyên tu giới, định, huệ trải thời gian lâu dài, tâm đạo vững vàng, thấm sâu Phật lý .
Đạo Huệ bảo sư : “Tâm ấn chư Phật, ngươi đã sẵn có, không phải tìm nơi khác”.
Sư thưa : Rất cảm ơn thầy chỉ dạy, song nay con nên trụ nơi nào ?
Đạo Huệ bảo : Chẳng phải đi đâu xa, chỉ về Vũ Ninh là được .
Sư vâng lời, thẳng lên núi dựng một am tranh, ngày đêm niệm Phật, sám hối miên mật, chứng nhập được pháp môn “ Niệm Phật tam muội ”. Khiến âm thanh của sư trở nên trong trẻo như tiếng nói của Phạm thiên .
Thường ngày sư giảng kinh Viên Giác, thấy văn ngữ có chỗ nào không rõ, sư tự mình cải chính tu sửa. Người đương thời tôn sư là bậc “ Khẩu trung hùng hoàng ”. Trong miệng sư có chất hùng hoàng (Chất liệu dùng để tẩy xóa mực chữ thời xưa).
Đến niên hiệu Thiên Cẩm Chí Bảo thứ 2. Sư bảo có bệnh, cho gọi môn đồ đến dạy :
-“Tất cả các ngươi đều là người theo ta học đạo, không phải tìm đạo ở đâu xa, chỉ cần siêng năng cúng dường chư Phật, không cầu cạnh điều gì khác, chỉ cần dứt các nghiệp ác. Tâm và miệng niệm Phật phải chuyên nhất, phải tin, hiểu, nghe, biết giữ tâm vắng lặng. Nên ở chỗ yên tĩnh, nên gần thiện tri thức, nên nói năng vui hòa, nên thuyết pháp đúng lúc, lòng không khiếp sợ, thông hiểu nghĩa lý, lìa xa ngu mê, an trú bất động. Nên quán tất cả pháp vô thường, vô ngã, vô tác, vô vi, dứt lìa phân biệt. Hiểu rõ được như thế, mới là người học đạo đúng đắn”. Nay duyên hóa đạo của ta đã mãn .
Đồ chúng bi ai rơi lệ ! Sư xua tay bảo :
-“Sanh tử là chuyện thông thường, các pháp đều từ nhân duyên sanh, nên cũng theo nhân duyên hoại diệt. Ta dạy các ngươi đến thế cũng đã đủ rồi, còn gì mà luyến tiếc ?”. Sư tiếp đọc bài kệ :
Trước nói rằng lành, sau nói dữ
Cứ thế nối nhau mà kiêng cữ
Bỗng thấy chuột nhắt lặng bặt tin
Chợt gặp rồng liền làm Phật tử .
Âm :
“Tiên tuy ngôn kiết, hậu ngôn hung
Tự thị thừa tiên húy bất tùng
Vị ngộ kiến long vi Phật tử
Hốt tao thử xuất tịch vô cùng”.
Nói kệ xong ,sư ngồi ngay thẳng mà mất, thọ 64 tuổi .
------------------
*-Thiền uyển tập anh. tr 126 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 182 .
*-Tiểu truyện các thiền sư Việt Nam. tr 200 .
*-Nghiên cứu thiền uyển tập anh. tr 223,450 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
106-THIỀN SƯ NGUYỆN HỌC ( ? – 1181)
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thời Lý, họ Nguyễn, quê ở Phù Cẩm. Thuở nhỏ sư thọ pháp với thầy Viên Trí chùa Mật Nghiêm. Khi lãnh hội được yếu chỉ, sư đến chùa Vệ Linh ẩn tu, chuyên hành phạm hạnh trải 12 năm. Mỗi khi nhập thiền định đến 3 ngày mới xuất. Sư thường trì
“Hương hải đại bi đà la ni”, nên đối với các việc cầu đảo, trị bệnh đều rất linh nghiệm .
Vua Lý Anh Tông trọng kính, cho phép sư được tự do ra vào cung cấm để trị bệnh cho các vị thân vương .
Sau, sư lấy cớ già yếu, xin về an dưỡng tại chùa Quảng Báo làng Châu Hộ, chúng nhơn theo học rất đông .
Đến ngày 11 tháng 6 năm Thiên Cảm Chí Bảo thứ 2. Khi sắp tịch, sư cho gọi đồ chúng đến dạy :
Đạo không hình tướng
Trước mắt chẳng xa
Quay lại mình tìm
Chớ cầu người ta
Dù cho cầu được
Được cũng không chơn
Dẫu có được chơn
Chơn là vật gì ?
Mười phương ba đời Phật
Lịch đại Tổ sư thiền
Đều nói như thế ấy
Ấn thọ với tâm truyền.
Âm :
“Đạo vô ảnh tượng
Xúc mục phi dao
Tự phản thôi cầu
Mạc cầu tha đắc
Túng nhiêu cầu đắc
Đắc tức bất chân
Thiết sử đắc chân
Chân thị hà vật
Sở dĩ tam thế chư Phật
Lịch đại Tổ sư
Ấn thọ tâm truyền
Diệc như thị thuyết”.
Sư lại đọc tiếp :
Hiểu rõ thân tâm trí huệ bừng
Linh thông biến hóa tướng chân thân
Đi đứng nằm ngồi không vướng vít
Hóa thân tùy xứ hiện vô cùng
Hư không dù lấp bít đầy thân
Xem lại không đâu thấy tướng nhân
Thế gian chẳng có gì so sánh
Rực rỡ thường minh chiếu khắp cùng
Dẫu nói không dừng,không tưởng nghĩ
Tuy nhiên chẳng để một lời gì .
Âm :
“Liễu ngộ thân tâm khai huệ nhãn
Biến hóa linh thông hiện thực tướng
Hành trụ tọa ngọa độc trác nhiên
Ứng hiện hóa thân bất khả lượng
Tuy nhiên sung tắc biến hư không
Quán lai bất kiến như hữu tướng
Thế gian vô vật khả tỷ huống
Trường hiện linh quang minh lãng lãng
Thường thời diễn thuyết bất tư nghì
Vô đắc nhất ngôn dĩ vi đương”.
Nói kệ xong, sư ngồi kiết già quy tịch .
------------
*-Thiền uyển tập anh. tr 143 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 188 .
*-Tiểu truyện các thiền sư Việt Nam. tr 237 .
*-Nghiên cứu thiền uyển tập anh. tr 234,474 .
*-Thơ thiền Việt Nam (1). tr 172 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
107-THIỀN SƯ TỊNH GIỚI ( ? - 1207)
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thời Lý, họ Chu, tên Hải Ngung, quê ở Mão Hương, Ngung Giang, Lô Hải. Sư sinh trong một gia đình nghèo ,tính tình trung thực, hiền hậu, thuở nhỏ theo Nho học, lớn lên quy ngưỡng Phật đạo .
Năm 26 tuổi, sư mắc phải bệnh nặng, nhân mộng thấy điềm lành liền khỏi; từ đấy khởi tín tâm, phát chí xuất trần. Sư bắt đầu dò tìm minh sư cầu học, trải 7 năm may gặp được ngài Bảo Giác chùa Viên Minh, chỉ cho một câu, liền tỉnh ngộ .
Tháng mười năm Quý Tỵ , niên hiệu Chính Long Bảo Ứng (1173)lúc Bảo Giác sắp quy tịch, có gọi sư đến dạy :
-“Sanh, già, bệnh, chết là lẽ thường của thế gian, ta cũng chung chịu luật ấy, há được riêng khỏi”. Và truyền lại kệ pháp :
Muôn pháp về không, không chỗ nương
Chân như lặng lẽ khá am tường
Đến tột nguồn tâm không chỗ chỉ
Nước trong trăng hiện hết tư lương.
Âm :
“Vạn pháp quy không vô sở y
Quy tịch chân như mục tiền ky(cơ)
Đạt ngộ tâm chơn vô sở chỉ
Thủy tâm thủy nguyệt dẫn tâm nghi”.
Từ đó sư du phương hành hóa và sau dừng lại ở chùa Quốc Thanh, tại đây sư tu hạnh Đầu đà khoảng 6 năm, không bước chân xuống núi, cảm hóa được thú rừng và người đương thời rất tôn kính .
Sư thường thị hiện giáo hóa bằng các việc làm linh mật như cầu đảo mưa gió, quyên đúc pháp khí. Khi lớn tuổi, sư trở về chùa cũ tiếp độ đồ chúng .
Có vị tăng hỏi sư về Phật lý .
Sư đáp : “Chính ta là ngươi”.
Sư lại nói tiếp : “Tâm là tánh nên nói Như Lai tạng, cho nên đạt được tự tâm, tự tánh, tức tự được thanh tịnh vậy”.
Ngày mùng bảy tháng bảy năm Trịnh Bình Long Ứng thứ 3. Lúc sắp tịch, sư nói kệ :
Biết nghe đạo lý mấy người
Thời nay do bởi xa rời tánh chơn
Như Tử Kỳ nghe tiếng đờn
Bá Nha liền tỏ nguồn cơn mấy người ?
Âm :
“Thuở thời thuyết đạo hãn tri âm
Chỉ vị như tư đạo tán tâm
Hề tợ Tử Kỳ đa sản sấm
Thính lai nhất đạt Bá Nha cầm”.
Sư lại đọc tiếp :
Trời thu sản khoái trong lòng
Tài cao tám đấu,thơ ngâm trăng cười
Nhà thiền sao lại có người
Ngu si dại dột đem lời truyền tâm ?
Âm :
“Thu lai lương khí sảng hung khâm
Bát đấu tài cao đối nguyệt ngâm
Khám tiếu thiền gia si độn khách
Vi hà tương ngữ dĩ truyền tâm” .
Nói xong,sư ngồi kiết già mà mất .
--------------
*-Thiền uyển tập anh. tr 135 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 193 .
*-Tiểu truyện các thiền sư Việt Nam. tr 220 .
*-Nghiên cứu thiền uyển tập anh. tr 229,461 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
108-THIỀN SƯ QUẢNG NGHIÊM (1122-1190)
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thời Lý, họ Nguyễn, quê ở Đan Phụng. Sư sớm mất cha lẫn mẹ, theo học Phật với cậu là thầy Bảo Nhạc. Không may cậu lại qua đời, sư tìm đến thụ giáo với thiến Trí Thiền ở chùa Phúc Thánh, hạt Điển Lãnh .
Nhân nghe ngài trí Thiền giảng Tuyết Đậu ngữ lục, đến đoạn Đạo Ngô và Tiệm Nguyên đối đáp về lẽ tử sanh, khi đến điếu tang nhà đàn việt. Sư có chỗ ngộ, liền thưa hỏi :
-Một câu thoại đầu nầy, người xưa nói về cái lẽ ở trong sanh tử, chẳng biết có còn hợp lý nữa hay không ?
Trí Thiền hỏi lại :
-Ông có hiểu được cái lý đó không ?
Sư hỏi lại ngài Trí Thiền :
-Thế nào là lý không sanh tử ?
Trí Thiền đáp :
-“Chỉ người trong sanh tử mới hiểu được”.
Sư thưa :
-Thế ấy là vô sanh rồi !
Trí Thiền bảo :
-Tức tự mình hiểu lấy .
Ngay câu nói nầy, sư càng thêm sáng mắt, lai hỏi :
-Lấy gì để quyết chắc ?
Trí Thiền bảo :
-Liễu ngộ rồi cũng giống như chưa liễu ngộ (Ngộ liễu đồng vị ngộ).
Sư cảm kích sụp lạy .
Đến ngày mười lăm tháng hai năm Canh Tuất, niên hiệu Thiên Tư Gia Thụy thứ 5. Sư sắp tịch, liền trao pháp kệ :
Lìa, tịch diệt rồi bàn tịch diệt
Sanh, không sanh mới nói vô sanh
Làm trai chí hướng trời cao rộng
Thôi, chớ so đo chỗ Phật làm.
Âm :
“Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ
Sanh vô sanh hậu thuyết vô sanh
Nam nhi tự hữu xung thiên chí
Hưu hướng Như lai hành xứ hành”.
Nói kệ xong, sư chấp tay vui vẻ ra đi, thọ 69 tuổi .
----------------
*-Thiền uyển tập anh. tr 146 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 196 .
*-Tiểu truyện các thiền sư Việt Nam. tr 243 .
*-Nghiên cứu thiền uyển tập anh. tr 235,447 .
*-Thơ thiền Việt Nam (1). tr 199 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
109-THIỀN SƯ THƯỜNG CHIẾU ( ? – 1203)
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thời Lý, họ Phạm, người làng Phú Ninh. Triều Lý Cao Tông (1176) sư làm quan Lệnh Đô Tào, cung Quảng Từ. Sau đó từ quan, xin xuất gia học đạo với thiền sư Quảng Nghiêm chùa Tịnh Quả. Sư được tâm ấn, đứng đầu đại chúng .
Sư theo hầu thờ thầy được mấy năm, sau đó sư đi trụ trì và thuyết pháp nhiều nơi, đệ tử quy mộ rất đông .
Có vị tăng hỏi sư :
-Khi ta và vật duyên nhau, thì làm thế nào ?
Sư đáp :
Ta vật đều quên
Tâm tánh vô thường
Dễ sinh dễ diệt
Giây phút không dừng
Ai bảo vin biết
Sinh thì vật sinh
Diệt thời vật diệt
Pháp kia có được
Thường không sanh diệt.
Âm :
“Vật ngã lưỡng vong
Tâm tính vô thường
Dị sinh dị diệt
Sát na bất đình
Thùy thị phan duyên
Sinh vi vật sinh
Diệt vi vật diệt
Bỉ pháp sở đắc
Thường vô sinh diệt”.
Vị tăng thưa :
-Người học chưa hiểu,xin sư dạy lại .
Sư bảo :
-Rõ tâm mình mà tu đạo, thì ít hao sức mà dễ thành; không rõ tâm mà tu đạo, thì chỉ phí công vô ích mà thôi. ( Liễu tâm tu đạo tỉnh lực nhi vị thành, bất liễu tâm tu đạo nãi phí công nhi vô ích ).
Đến ngày hai mươi bốn tháng chín năm Quý Hợi, niên hiệu Thiên Gia Bảo Hựu thứ 2. Sư bảo đau tim, cho gọi chúng tăng đến dạy bảo và để kệ :
Đạo vốn không hình sắc
Mỗi ngày mỗi thắm tươi
Ngoài nghìn trùng thế giới
Ở đâu cũng nhà thôi.
Âm :
“Đạo bản vô nhan sắc
Tân tiên nhật nhật khoa
Đại thiên sa giới ngoại
Hà xứ bất vi gia “.
Nói xong,sư ngồi kiết già an định mà mất .
--------------
*-Thiền uyển tập anh. tr 150 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 209 .
*-Tiểu truyện các thiền sư Việt Nam. tr 251 .
*-Việt Nam Phật giáo sử luận (1). tr 260 .
*-Nghiên cứu thiền uyển tập anh. tr 238,478 .
*-Thơ thiền Việt Nam ( 1). tr 202 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
110-THIỀN SƯ HIỆN QUANG ( ? – 1221)
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thời Lý, họ Lê, tên Thuần, quê ở Kinh Sư núi Yên Tử. Sư dung mạo đoan trang nho nhã, tiếng nói nhỏ nhẹ dịu dàng, mồ côi từ thuở bé, cuộc đời trải lắm gian nan .
Năm 11 tuổi, được thiền sư Thường Chiếu đem về nuôi dạy. Sư học vấn rất thông tuệ, có thể đọc hàng vạn chữ một ngày, chưa đầy mười năm thông cả ba Tạng. Chỉ riêng môn thiền
chưa kịp suy cứu, thì ngài Thường Chiếu lại qua đời .
Về sau khi đối đáp với người, đến chỗ thâm yếu biện luận không thông, sư hối hận tự than : “Ta ví như con nhà giàu, lúc cha mẹ còn sống, chẳng biết chăm chỉ học hành, ăn chơi lêu lổng, đến khi cha mẹ chết rồi thì mịt mờ ngu muội, không biết của báu nhà mình nằm ở đâu, khiến tự thân trở nên kẻ khốn cùn nghèo thiếu !”.
Sư bắt đầu tha hương cầu học, tham vấn thiện trí thức khắp tòng lâm, may gặp thiền sư Trí Thông ở chùa Thánh Quả nói cho một câu, chợt rõ tâm địa mình, nên ở lại đây hầu hạ tựa nương .
Trong thời gian ở đây, Công chúa Hoa Dương tới lui cúng dường, tiếng đàm tiếu vang thấu đến tai, sư nói : “Phàm được người thế tục trọng vọng, tất không tránh khỏi bị hủy nhục.
Với ta, nay là như thế sao ? Vả, con đường Bồ tát thì rộng lớn, còn Pháp Phật thì vô lượng, kẻ sĩ giữ đạo trung dung nhiều khi còn phải buồn tủi khóc thầm. Nếu như chẳng dũng mãnh tự xét, dùng sự nhẫn nhục, làm áo giáp, lấy sự tinh tấn làm khí giới, thì làm sao tránh được ma quân phá được giặc phiền não, cầu được sự giác ngộ vô thượng ?”
Sư vào núi Uyên Trừng, Nghệ An, theo thiền sư Pháp Giới thọ cụ túc giới. Một hôm thấy Thị giả bưng cơm, sẩy tay làm đổ. Vì quá sợ. Thị giả lấy tay hốt cơm lẫn lộn cả đất. Sư tự hối nói : “Ta sống không làm lợi ích gì cho ai, chỉ luống nhọc nhằn kẻ khác, đến nỗi như thế nầy !”.
Từ đây sư không ăn cơm, chỉ dùng những thứ trái lượm được. Còn áo quần chỉ dùng toàn bằng lá cây chằm kết lại .
Vua Lý Huệ Tông khâm phục đạo hạnh của sư, nên đã nhiều lần cho người mang lễ thưa thỉnh, sư đều lẫn tránh và bảo Thị giả thưa lại rằng :
-“Bần đạo sanh trên đất vua, ăn lộc của vua, được xuất gia thờ Phật trải đã nhiều năm, công đức chưa thuần thục, thật đáng hổ thẹn. Nay nếu bảo về yết kiến vua, chẳng những không ích lợi gì với việc trị an, lại e chuốt lấy sự chê bai của thiên hạ. Vả lại Phật pháp hiện nay đang hưng thạnh, các bậc
sư trưởng trong đạo đã tụ họp về cấm túc uy nghi nơi điện
các. Xét phận quê hèn thầy núi chiếc áo không lành, dám đâu
hội ngộ chốn Thành đô”.
Sau nầy có vị tăng hỏi :
-Hòa thượng ở núi lâu nay làm những việc gì ?
Sư nói kệ đáp :
Hứa Do tập theo đức
Nào biết đời mấy xuân
Vô vi đồng rộng sống
Tự tại người thong dong.
Âm :
“Na dĩ Hứa Do đức
Hà tri thế kỷ xuân
Vô vi cư khoáng dã
Tiêu diêu tự tại nhơn”.
Mùa xuân năm Tân Tỵ, niên hiệu Kiến Gia thứ mười một, đời Lý Chiêu Hoàng. Khi sắp tịch, sư ngồi ngay thẳng trên một tảng đá nói kệ :
Huyễn pháp đều là huyễn
Huyễn tu cũng là huyễn
Chẳng nhận cả hai huyễn
Tức trừ được các huyễn.
Âm :
“Huyễn pháp giai thị huyễn
Huyễn tu giai thị huyễn
Nhị huyễn giai bất tức
Tức thị trừ chư huyễn”.
Nói xong, sư an nhiên ra đi .
------------
*-Thiền uyển tập anh. tr 161 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 213 .
*-Việt Nam Phật giáo sử luận (1). tr 266 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (4). tr 2854 .
*-Nghiên cứu thiền uyển tập anh. tr 246,491 .
*-Thơ thiền Việt Nam (1). tr 223 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
111-VUA TRẦN THÁI TÔNG (1218-1277)
+ + +
Trần Thái Tông ông vua Thiền sư, tên Trần Cảnh, con thứ của Trần Thừa, sanh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần (1218) niên hiệu Kiến Gia thứ 8, triều Lý. Quê ở Tức Mặc, phủ Thiên Trường, Hà Nam Ninh. Ông cha làm nghề chài lưới ; thuở thiếu thời tính tình khoan hậu, nhân từ, thông tuệ .
Ông tự mình tham cứu học Phật. Có lần bỏ ngôi lên núi Yên Tử, tham kiến Quốc sư Trúc Lâm Viên Chứng. Quốc sư bảo : “Trong núi vốn không Phật, Phật ở ngay trong lòng mỗi người. Nếu tâm vắng lặng mà biết, đó chính là chân Phật”. (Sơn bản
vô Phật, duy tồn hồ tâm. Tâm tịch nhi tri thị vi chân Phật). Nay nếu Bệ hạ giác ngộ tâm đó thì lập tức thành Phật, chẳng phải nhọc tìm bên ngoài” Khi rỗi việc, vua thường nhóm họp các bậc kỳ túc luận bàn học hỏi.
Nhân vua bệnh, Thánh Tông vào thăm, thưa hỏi :
-Chân không và ngoan không là đồng hay khác ?
Thái Tông đáp :
-Hư không là một, nhưng do tự tâm mê ngộ nên thành có chân ngoan sai khác. Như phòng nhà, mở cửa ra thì sáng, đóng cửa
lại thì tối; sáng tối vốn chẳng đồng, nhưng phòng nhà vẫn là một .
Hôm sau Quốc sư Đại Đăng vào thăm bệnh vua, hỏi :
-Bệ hạ bệnh chăng ?
Vua đáp :
-Tứ đại là bệnh, cái nầy xưa nay sanh tử vẫn không hệ, há dính mắc nơi bệnh hoạn sao ?
Sau đó ít hôm, Thái Tông lặng thinh không nói, đuổi hết kẻ hầu hạ, đem việc nước dặn dò Thánh Tông. Thánh Tông ngỏ ý muốn nhờ hại vị Quốc sư Phù Vân và Đại Đăng đến thuyết pháp xuất thế cho vua nghe. Vua không thuận ý, bảo :
-“Đến trong đây, bớt một mảy tơ dường trên thịt khoét thương, thêm một mảy tơ, như để bụi vào mắt. Ba đời chư Phật bốn mắt nhìn nhau; sáu đời Tổ sư thối thân có phần. Dù Phù Vân có bảo huyền, hay Đại Đăng có thuyết diệu, đều chỉ
là lời thừa, có ích gì đối với cái nầy !”.
Nói xong, ngài lặng lẽ nhắm mắt, nhằm năm Kỷ Mão, niên hiệu Thiệu Bảo, thọ 60 tuổi .
Vua còn để lại nhiều tác phẩm giá trị về thiền học như :
-Thiền tông chỉ nam .
-Kim cương tam muội kinh chú giải .
-Lục thời sám hối khoa nghi .
-Bình đẳng lễ sám văn .
-Khóa hư lục .
-Thi tập, tụng cổ .
-----------------
*-Thánh đăng lục. tr 25 .
*-Thiền học Trần Thái Tông. tr 16 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 220 .
*-Việt Nam Phật giáo sử lược. tr 131 .
*-Việt Nam Phật giáo sử luận (1). tr 275 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
112=THƯỢNG SĨ TUỆ TRUNG (1230-1291)
+ + +
Cư sĩ Việt Nam, thời Trần, Thượng sĩ là danh tôn kính, Trần Quốc Tung là tên họ, tước hiệu Hưng Ninh Vương, con đầu của Thái vương Trần Liễu. Sanh năm Canh Dần, niên hiệu Kiến Trung thứ 6.
Thượng sĩ vốn khí lượng thâm trầm nhàn nhã. Khi còn để chỏm đã tỏ ra bẩm chất cao sang thuần hậu có tiếng. Ngài ưa chuộng cửa không, nên thường lui tới tham vấn thiền sư Tiêu Dao ở tịnh xá Phước Đường. Thâm ngộ được yếu chỉ, ngài từ quan lui về ấp Tịnh Bang ( sau đổi là làng Vạn Niên ) lấy thiền hạnh làm thú vui hằng ngày .
Về già, thân có chút bệnh, ngài không nằm ở phòng riêng, mà dời ra Dưỡng Chân Trang an tịnh. Tại đây ngài cho đặt một chiếc giường thô giữa gian nhà trống, rồi nằm nghiên bên phải theo thế kiết tường mà hóa. Thê thiếp và người hầu khóc than lớn tiếng. Thượng sĩ mở mắt ngồi dậy, bảo lấy nước để ngài rửa tai, súc miệng, xong quở nhẹ họ rằng :
-“Sống chết là lẽ thường tình, buồn thảm luyến tiếc làm gì cho náo động chân tánh ta”.
Dứt lời, ngái y thế cũ, nằm xuống êm thấm mà tịch, thọ 62 tuổi. Niên hiệu Trùng Hưng thứ 7, đời vua Trần Nhân Tông. Nhằm ngày mùng một tháng tư năm Tân Mão .
Thượng sĩ để lại rất nhiều tụng ngôn, lời lời, chữ chữ đều thâm thâm, diệu diệu. Và đây là một bài thơ trích ra từ bộ Ngữ lục của ngài :
Thơ bảo mọi người :
Thôi tìm núi Thiếu với khe Tào
Tánh chữa từng mê ngộ thuở nào
Trăng chiếu đâu nài đây với đó
Gió lay há nại thấp cùng cao
Thu sang đậm nhạt tùy duyên sắc
Sen nở xinh hồng mặc nước ao
Khúc diệu bổn lai tua cứ hát
Chớ tìm nam bắc kiếm đâu đâu.
Âm :
“Hưu tầm Thiếu Thất dữ Tào Khê
Thể tánh minh minh vị hữu mê
Cổ nguyệt chiếu phi quan viễn cận
Thiên phong xuy bất giản cao đê
Thu quang hắc bạch tùy duyên sắc
Liên nhụy hồng hương bất trước nê
Diệu khúc bổn lai tu cử xướng
Mạc tầm nam bắc dữ đông tê”.
---------------
*-Tuệ Trung ngữ lục. tr 152,179 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 246 .
*-Lịch sử Phật giáo Việt Nam (1). tr 751 .
*-Việt Nam Phật giáo sử lược. tr 139 .
*-Thiền tăng truyện ký. tr 220 .
*Tuệ Trung ngữ lục dịch giải. tr 510 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
113-VUA TRẦN NHÂN TÔNG (1258-1308)
+ + +
Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, sơ Tổ Thiền phái Trúc Lâm, ông vua Thiền sư Việt Nam, là con trưởng của vua Trần Thánh Tông. Ông có tên húy là Khâm, vốn ham mộ Thiền tông từ nhỏ,
Không ham danh lợi, thường hay ăn chay. Tính tình ngoan hiền, thông minh, hiếu học. Ông đọc nhiều sách kinh, suốt thông nội điển, ngoại thư ; thường mời Thiền khách đến tham vấn, giải biện tâm tông, yếu lý. Sau học đạo và thâm đạt thiền tủy với Thượng sĩ Tuệ Trung .
Tháng 10 năm Kỷ Hợi (1299) ông thoái vị, thẳng vào núi Yên Tử châm lo tu hành thuần thục. Về sau ông xuống núi du hóa, thuyết pháp, giảng đạo, tiếp dộ nhân sanh, đồ chúng .
Đén ngày 1 tháng 11 năm 1308, giữa đêm ông gọi đệ tử Bảo Sát đến hỏi :
-Đang là giờ gì ?
Bảo Sát thưa :
-Giờ Tý .
Ông tựa cửa sổ, vén màn nhìn ra ngoài trời, rồi bảo :
-Đến giờ ta đi rồi vậy .
Bảo Sát thưa :
-Tôn đức đi đâu ?
Ông đáp bằng một bài kệ :
Tất cả pháp không sanh
Tất cả pháp không diệt
Nếu hiểu đúng như thế
Chư Phật thường trước mắt
Há lại có đến đi ? .
Âm :
“Nhất thiết pháp bất sanh
Nhất thiết pháp bất diệt
Nhược năng như thị giải
Chư Phật thường hiện tiền
Hà khứ lai chi hữu ? “.
Bảo Sát thưa tiếp :
-Vả như khi chẳng sanh chẳng diệt, thì như thế nào ?
Ông liền xua tay bảo :
-Chớ có nói mớ !
Dứt lời, ông ngồi theo thế sư tử tọa, lặng lẽ mà tịch, thọ 51
tuổi.
Cũng như Tuệ Trung thầy mình, ngài đã để lại nhiều thi tụng.
Xin dẫn một bài thơ quen thuộc nhất :
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh tâm không chớ hỏi thiền.
Âm :
“Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tác miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”.
-----------------
*-Thánh đăng lục. tr 101 .
*-Tam tổ thực lục. tr 33 .
*-Toàn tập Trần Thái Tông. tr 33,398 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 288 .
*-Việt Nam Phật giáo sử lược. tr 136 .
*-Việt Nam Phật giáo sử luận (1). tr 355 .
*-Thiền tăng truyện ký. tr 215 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
114-VUA TRẦN ANH TÔNG (1276-1320)
+ + +
Trần Anh Tông là ông vua Cư sĩ Việt Nam, con của Trần Nhân Tông, lên ngôi vào ngày rằm tháng tư năm Quý Tỵ (1293) đổi niên hiệu là Hưng Long. Anh Tông trông nom thiên hạ suốt 21 năm, binh ngoài không xâm phạm, bên trong đất nước chẳng phải lo nạn lụt, đói khát, đời sống của người dân sung túc thịnh vượng.
Vua rất mực hiếu thảo, được phụ hoàng hết sức khen ngợi .
Anh Tông có viết thơ trình kiến giải với ngài Phổ Tuệ như sau :
-“”Đệ tử chợt nghe tôn thể không khỏe, kính sai Trung sứ đến hỏi thăm tin tức. Nhân đó, được thơ thầy đáp lại, hỏi đến chỗ thấy thế nào ? Lòng thẹn sợ, chẳng biết nói năng làm sao !
Nay tạm mượn bút mực để tỏ bày, kính trình lên thầy, hầu rộng mở tâm nghe đạo, xem có thật đúng chăng ? Để lấy đó nêu bày chỗ hướng đến, khiến cho trăm năm về sau nghĩ nhớ
lẽ nầy, hầu làm của báu cho tự thân”.
Mỗi mỗi hư dối
Không pháp thật được
Mắt bệnh sanh hoa
Vọng chia nam bắc
Cũng không làm dữ
Cũng chẳng tu lành
Mệt thì liền ngủ
Đói lại liền ăn
Mặc kẻ rối rít
Mặc người lăng xăng
Xưa nay như cũ
Làm chủ thế gian.
Âm
“Chủng chủng hư ngụy
Vô pháp khả đắc
Bệnh nhãn không hoa
Vọng phân nam bắc
Dã bất tạo ác
Dã bất tu thiện
Thùy lai đả miên
Cơ lai khiết phạn
Tùy tha nhiễu nhiễu
Nhậm nhĩ phân phân
Nguyên lai y tiền
Thái vũ chủ nhân”.
Ngài Phổ Tuệ thầm nhận cho .
Năm Canh Thân, niên hiệu Đại Khánh thứ bảy, vua bệnh. Thỉnh tôn giả Phổ Tuệ đến thưa hỏi :
-“Bồ tát làm những hạnh nghiệp gì, để vào lại trần lao độ thoát cho chúng sanh ?”.
Phổ Tuệ đáp :
-“Người xưa sau khi được chánh kiến rồi, hằng ngày nhồi thành một mảnh, nên hay lấy sanh tử làm nơi du hí, qua lại chẳng ngại, thân tùy theo ý sanh, tùy chỗ tạm gá. Kinh Viên Giác nói : “Bồ tát trở lại trần lao, chẳng phải do ái làm gốc”.
Vua lại hỏi thêm :
-Thế nào là dụng tâm chặt thẳng ?
Phổ Tuệ đáp :
-Điều ngự Nhân Tông có nói : “ Buông xuống ! Buông xuống ! Buông chẳng xuống, chính là kẻ ấy”. Lại người xưa có nói : “Một niệm chẳng sanh, tức Phật như như”.
Ngày hôm sau, vua lại mời ngài Phổ Tuệ vào cung nói tiếp về đạo lý “Buông xuống”. Phổ Tuệ dẫn chỗ chặt thẳng của người xưa, vua mỉm cười nói : “Đệ tử đối với lẽ nầy rất có sở đắc, thật chẳng dối vậy !”.
Phổ Tuệ bảo :
-“Dừng ! Dừng ! Chẳng cần nói, việc tốt chẳng bằng không”.
Vua mỉm cười, trở mình liền buông xả ra đi, thọ 45 tuổi .
(Theo sử chép : “Khi nọ vua Anh Tông bệnh nặng, Bảo Từ hoàng hậu có mời các tu sĩ đến để cúng cấp và để xem lẽ tử sanh, nhưng Anh Tông gạt đi và bảo : “Tăng sĩ đã chết đâu mà biết được sự chết”.)
----------------
*-Thánh đăng lục. tr 129 .
*-Việt Nam Phật giáo sử lược. tr 147 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
115-TÔN GIẢ PHÁP LOA (1284-1330)
+ + +
Pháp Loa Tôn giả, tên là Đồng Kiên Cương, sanh giờ Mão ngày 17 tháng 5 năm Giáp Thân, tại thôn Đồng Hòa, hương Cửu Loa, phủ Nam Sánh, tỉnh Hải Dương. Thuở bé sư đã có phẩm chất thiên tư đĩnh ngộ, không nói lời thô ác, không ăn vị cay nồng và thịt cá .
Năm 21 tuổi sư xuất gia, thọ giáo với Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. Năm 24 tuổi được trao truyền y bát và tiếp nhận kệ pháp ấn tâm .
Mặc dù tuổi không lớn, song sư đã làm được những việc lớn như:
-Tạo mộc bản in Đại tạng kinh .
-Thành lập và tổ chức hệ thống tăng già ở Việt Nam .
Sư nối dòng thiền Trúc Lâm, với danh nghĩa là người thừa kế thứ nhất, đã đem hết tâm quyết mở mang Phật giáo, phổ biến Thiền tông chẳng biết mệt mỏi .
Trước một ngày thị tịch, sư cho đệ tử đến gặp nhà vua dâng kệ pháp và trình chúc thư. Vua bảo Thái y đến chẩn đoán bệnh của sư, vẫn không thấy dấu hiệu báo tử, nhưng đến giờ Hợi đêm ấy bệnh lại nguy kịch. Sư Huyền Quang vào thăm, hỏi :
-Xưa nay những người sắp lâm chung, buông đi là tốt, hay giữ
lại là tốt ?
Sư đáp :
-Đi hay ở đều chẳng liên can gì !
Huyền Quang hỏi tiếp :
-Chẳng liên can gì, là như thế nào ?
Sư đáp :
-Tùy xứ Tát bà ha .
Kế đến đệ tử đồng vào thưa :
-Người xưa khi sắp quy tịch, đều có để kệ dạy chúng, vì sao thầy chẳng có ?
Sư quở trách họ ; giây lát ngồi dậy bảo, đem giấy bút lại. Sư liền viết kệ :
Muôn duyên sắp dứt, một thân nhàn
Hơn bốn mươi năm mộng đã tàn
Nhắn bảo mọi người thôi chớ hỏi
Bên kia trăng gió rộng thênh thang.
Âm :
“Vạn duyên tài đoạn nhất thân nhàn
Tứ thập dư niên mộng huyễn gian
Trân trọng chư nhơn hưu tá vấn
Na biên phong nguyệt cánh man khoan”.
Viết xong, sư quăng bút, bình ổn ra đi, thọ 47 tuổi .
Một đời hành đạo, sư để lại nhiều công trình có giá trị cao và nhiều tác phẩm, xin dẫn một đoạn tiêu biểu :
“Rộng khuyên tăng chúng học Giới, Định, Huệ thượng thừa” :
-“Là người học Phật, trước tiên cần thấy tánh. Thấy tánh, không phải là thấy những cái có thể thấy, mới gọi là thấy, mà phải thấy những cái không thể thấy. Cho nên, thấy được cái thấy không thể thấy, thì chân tánh sẽ hiện ra. Tánh thấy là vô sanh, thì cái thấy sanh chẳng có, cái tánh chẳng có là thực, nên cái thấy thực không dời đổi. Thế nên, gọi là chân thật thấy tánh”.(Tam Tổ thực lục).
Âm : “Thượng thừa tam học khuyến chúng phổ thuyết” :
-“Phù học đạo chi lưu, tiên tu kiến tánh. Kiến tánh giả, phi vị hữu khả kiến chi. Vị kiến, nải kiến vô khả kiến xứ nhi kiến chi. Cố kiến kiến phi kiến, tắc chơn tánh hiện. Tánh kiến vô sanh, tắc sanh kiến phi hữu, phi hữu tánh thật, nhi thật kiến bất thiên. Cố danh chơn thật kiến tánh giả”.
-----------------
*-Tam tổ thực lục. tr 37,57,66,154/39 b .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 309 .
*-Tam tổ Trúc lâm. tr 366,439,527 .
*-Việt Nam Phật giáo sử lược. tr 141 .
*Việt Nam Phật giáo sử luận (1). tr 399 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
116-THIỀN SƯ HƯƠNG HẢI (1628-1715)
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thời hậu Lê, thuộc hàng danh gia thế phiệt, người làng Án Độ, Nghi Lộc, Nghệ An .
Thuở nhỏ, sư thông minh tài giỏi, 18 tuổi thi đậu Hương Tiến (Cử nhân) được chọn làm quan Văn Chức, sau bổ chức Tri Phủ, Phủ Triệu Phong (Quảng Trị).Trong những năm sống chốn quan trường cũng là những ngày trui rèn ý chí, đạo lý nghiêm tầm ; sư xin cởi áo từ quan làm người thoát tục. Sư thọ giáo với thiền sư Lục Hồ Viên Cảnh và tham học với thiền sư Viên Khoan Đại Thâm.
Trong khoảng thời gian khổ tu, cũng như trong lúc làm đạo, sư gặp rất nhiều chướng nạn. Nào là ma chướng, nào là tai chướng v. v… Nhưng sư đã vượt qua tất cả, nhờ vào định lực kiên cường .
Đến năm Ất Mùi, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 11 đời Lê Dụ Tông. Sáng ngày 13 tháng 5, sư tắm gội, mặc pháp phục, ngồi
kiết già nói kệ trao pháp rồi an nhiên mà mất .
Kệ rằng :
Tuổi đương tám mươi tám
Ngồi thoát tự nhiên bỗng
Có đến cũng có đi
Không chết cũng không sống
Pháp tánh giống hư không
Sắc thân như bọt mọn
Đông độ rời ta bà
Tây phương đài sen đến.
Âm :
“Thời đương bát thập bát
Hốt nhiên đăng tọa thoát
Hữu lai diệc hữu khứ
Vô tử diệc vô hoạt
Pháp tánh đẳng hư không
Sắc thân như bào mạt
Đông độ ly ta bà
Tây phương liên ngạt pháp”.
Là một nhà sư có học vấn cao, lại tinh thâm Phật pháp, sư đã để lại rất nhiều bản sớ giải kinh luận và dồi dào thi kệ, xin lược dẫn :
-“Chỗ chí đạo gốc ở tâm pháp. Tâm pháp gốc ở vô trụ. Cai bản thể của tâm và chân tướng của tánh, vốn lặng lẽ chẳng phải có, chẳng phải không, không sinh cũng không diệt. Ta tìm nó thời không thấy, bỏ nó vẫn chẳng rời. Nếu ta mê cái bóng dáng của nó, thì khổ sở lầm lẫn lăng xăng, nếu ngộ được chân tánh của nó thì tinh thông sáng suốt. Tuy tâm tức Phật, Phật tức tâm,
song chỉ có người chứng mới biết…”.
(Âm : “Chí đạo bản hồ kỳ tâm. Tâm pháp bản hồ vô trụ. Vô trụ tâm thể, tánh tướng tịch nhiên, phi hữu, phi không, bất sanh, bất diệt. Cầu chi nhi bất đắc, khí chi nhi bất ly. Mê hiện lượng tắc hoặc khổ phiền nhiên, ngộ chân tánh tắc không minh quách triệt. Tuy tức tâm tức Phật, duy chứng giả phương tri…”.)
----------------
*-Toàn tập Minh Châu Hương Hải. tr 14,28,706 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 340 .
*-Việt Nam Phật giáo sử lược. tr 165 .
*-Việt Nam Phật giáo sử luận (2). tr 155 .
*-Lịch sử Phật giao đàng trong (1). tr 49 .
*-Lịch sử Phật giáo xứ Huế. tr 177 .
*-Thiền tăng truyện ký. tr 235 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
117-THIỀN SƯ THỦY NGUYỆT (1637-1704)
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thời hậu Lê, tên Đăng Giáp, sanh năm Đinh Sửu, tại làng Khanh Triều, huyện Hưng Nhân, Thái Bình. Thuở nhỏ Sư theo đạo Nho, lớn lên nhân ngộ lý vô thường, bỏ Nho theo đạo Phật. Năm 20 tuổi xuất gia, tham vấn nhiều bậc tôn túc nhưng vẫn không sáng đạo. Năm 28 tuổi tha phương du học, vì sư vẫn chưa bằng lòng với chỗ thấy biết của mình .
Một chiều nọ, ngồi ngắm trời xanh, nhân có con chim bay qua, sư liền giác tỉnh, tự ngâm :
Hoa xuân nở hết đến sương thu
Cuộc thế mây chiều há vững lâu
Ra thẳng ngoài trời cho thỏa chí
Càn khôn nơi chốn có hay sao .
Âm :
“Xuân hoa khai liễu phục thu sương
Phù thế ninh năng đác cửu trường
Tranh tự tiêu dao thiên ngoại thích
Càn khôn ư thử hữu hà phương”.
Khi sắp tịch, sư bảo tứ chúng rằng :
-“Nay ta lên chơi trên núi Nhẩm Dương, nếu quá bảy ngày không về, các ngươi muốn tìm, gặp chỗ nào có mùi thơm, là chỗ ta đang ở ! Tứ chúng bùi ngùi nhưng không dám theo, chờ sau bảy ngày mới đổ xô nhau lên núi chia tìm. Chúng ngửi được mùi thơm, lần theo đến một cái hang, thì thấy sư đang ngồi kiết già thác hóa. Nhục thân vẫn mềm mại, xông ra mùi thơm như hương trầm bạch đàn, nhằm ngày sáu tháng ba năm Giáp Thìn, đời Lê Hy Tông, thọ 68 tuổi .
Trước khi từ giã môn nhơn, sư có để kệ lại như sau :
Nước cốt tuôn ra rửa bụi trần
Sạch rồi nước lại trở về chân
Cho người một bát“Cam lồ thủy”
Ban tưới chan hòa khắp thế nhân.
Âm
“Thủy xuất đoan do tẩy thế trần
Trần thanh thủy phục nhập nguyên chân
Dữ quân nhất bát cam lồ thủy
Bái tác âm ba độ vạn dân”.
----------------
*-Thiền sư Việt Nam. tr 366 .
*-Thiền tăng truyện ký. tr 243 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
118-THIỀN SƯ TÔNG DIỄN (1640-1711)
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thời hậu Lê, sư có biệt hiệu là “Tổ Cáy”, quê ở Phú Quận, Cẩm Giang. Tục kể :
-“Sư mất cha khi còn nhỏ, mẹ một mình tần tảo dưỡng nuôi. Năm 12 tuổi, sáng sớm mẹ gánh hàng ra chợ bán, dặn sư : “Mẹ có mua giỏ cáy (cua) để sẵn ngoài ao, trưa con nhớ mang vào giã chúng nấu canh để mẹ con mình dùng”. Vâng lời mẹ dạy,
đến giờ nấu ăn, Sư xách giỏ cáy lên, chợt khựng lại khi thấy chúng đang thấy đang tuôn ra đầy những bọt và cảm nghe tiếng rù rì rủ rỉ. Dường như chúng đang khóc than thân phận cùng oán trách cuộc đời ! Không ngăn được lòng bi tâm xúc cảm, sư mở giỏ thả hết bọn chúng .
Trưa hè nóng bức, tan chợ mẹ về, vừa mệt vừa đói, ngồi nhìn mâm cơm không thấy canh cáy, bà liền quát hỏi. Sư nhỏ nhẹ kể lại đầu đuôi, mẹ không dằn được giận tức, đánh chửi
và đuổi sư đi”.
Vì quá sợ, sư bỏ nhà đi biệt xứ .
Hơn 30 năm sau, sư đã là Hòa thượng, trở về quê xưa tìm lại mẹ già để dẫn độ …
Hôm nọ, trên đường đi đến bến đò Bồ Đề, thấy nước sông Nhị trong veo, thuyền lớn nhỏ qua lại tự do; ngay đấy sư liền
tức cảnh nên thơ :
Ngàn tầm sông Nhị đục rồi trong
Qua lại thuyền bè rất thong dong
Mừng gặp Bồ Đề đồng đến bến
Toại lòng ta nguyện độ quần sanh.
Âm :
“Thiên tầm Nhị thủ trọc hoàn thanh
Phao quá đông tây vãng phục hành
Hỷ đáo Bồ Đề đồng đáo ngạn
Toại dư xuất thế độ quần sanh”.
Khi tuổi lớn, sư trụ trì chùa Hồng Phúc, thường lui tới giảng đạo cho vua quan nghe. Tháng ngày trôi qua, tuổi già nua đến, mình tự biết mình, sư gọi đệ tử là thiền sư Tỉnh Giác đến dạy :
-“Mặt trời trí tuệ sáng ngời, gió từ thổi mạnh, quét sạch mây mù, thổi mát trong triều ngoài nội, nhưng không hề vướng mắc ngưng đọng, vì không vốn hoàn không. Trước sau như một, ngươi nên hiểu rõ ba điểm hiển mật, nên giữ lấy trung đạo độ đời. Người nay cũng như người xưa, cõi Tây cũng như trời Đông, đạo vốn như nhau chẳng khác”. Dặn dò xong, sư liền trao kệ pháp :
Xuân đến hoa chớm nở
Thu về lá vàng rơi
Đầu cành sương lóng lánh
Cánh hoa tuyết rạng ngời
Buổi sớm mây tan rồng hiện vảy
Ngày trưa trong sáng tượng phơi bày
Vằn cọp tuy thấy một
Bầy phụng thể như nhau
Đạt Ma tây sang truyền pháp gì ?
Cành lau qua biển nổi phau phau.
Âm :
“Hoa khai xuân phương đáo
Diệp lạc tiện tri thu
Chi đầu sương oánh ngọc
Ngạt thượng tuyết liên châu
Thanh thần vân tán sản long giáp
Bạch nhật hà quang lỏa tượng khu
Báo văn tuy kiến nhất
Phụng chúng thể toàn câu
Đạt Ma tây lai truyền hà pháp ?
Lô hoa thiệp hải thủy phù phù”.
Truyền kệ xong, sư bảo : “Báo thân của ta đến đây đã mãn”. Rồi sư ngồi yên lặng trên giường t hiền mà mất, thọ 72 tuổi.
Bấy giờ là ngày mười sáu tháng bảy năm Kỷ Sửu, niên hiệu
Vĩnh Thịnh thứ 5, triều Lê Dụ Tông .
--------------
*-Thiền sư Việt Nam. tr 374 .
*-Thức biến. tr 199 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (8). tr 6864 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
119-THIỀN SƯ CHUYẾT CÔNG (1590-1544)
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thời hậu Lê, còn được gọi là Hòa thượng Chuyết Chuyết. Sư họ lý, tên Thiên Tộ, người gốc Trung quốc, quê huyện Thiên Chương, tỉnh Phúc Kiến .
Sư ở thai mẹ 3 năm mới sanh, thuở bé thông minh dĩnh ngộ, học thông cả Tứ thư, Ngũ kinh. Lớn lên xuất gia, lão thông Tam tạng giáo điển .
Trước, sư học đạo với Trưởng lão Tiệm Sơn, sau thọ giáo với Hòa thượng Tăng Đà Đà ở Nam sơn. Khi đã nhận được pháp yếu, sư vân du khắp nơi. Đến Việt Nam sư trụ tại chùa Phật Tích, huyện Tiên Du, Bắc Ninh giáo hóa; được vua chúa và các bậc công hầu thời bây giờ rất kính mến .
Trong thời gian ở Việt Nam sư đã tạo được 2 vị thiền sư Minh Lương và Minh Hành, xứng đáng nối đèn, tiếp đước, soi sáng người đương thời .
Khi sắp tịch, sư cho gọi đồ chúng đến trao kệ :
Tre gầy thông vót nước rơi thơm
Gió thoảng,trăng non mát lạnh rờn
Ai biết trời Tây người ấy ở
Chiều buông, chuông đổ đuổi hoàng hôn.
Âm :
“Sấu trúc trường tòng trích thủy hương
Lưu phong sơ nguyệt độ vi lương
Bất tri thùy trụ Nguyên Tây tự
Mỗi nhật chung thanh tống tịch dương”.
Kệ xong, sư bảo đại chúng : “Nếu ai động tâm than khóc, không phải đệ tử của ta”. Rồi ngồi yên mà hóa, mùi hương tỏa ngát, ngạt ngào .
Sư mất vào ngày rằm tháng bảy năm Giáp Thân, đời Lê Chân Tông. Nhục thân được an trí tại tháp Báo Nghiêm, chùa Bút Tháp, Bắc Ninh, Hà Bắc .
-----------------
*-Thiền sư Việt Nam. tr 396 .
*-Việt Nam Phật giáo sử luận (2). tr 115 .
*-Lịch sử Phật giáo đàng trong. tr 87 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Maoc 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
120-THIỀN SƯ MINH LƯƠNG NGUYỆT AN ( ).
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thời hậu Lê, tên họ và năm sinh không rõ. Sư ở núi Phù Lãng, nghe ngài Chuyết Công từ Trung hoa sang, bác lãm kinh sử, thấu triệt tâm tông, nên tìm đến thọ học .
Sư hỏi :
-Khi sanh tử đến phải làm sao để tránh ?
Chuyết Công đáp :
-Chọn lấy nơi không sanh tử để tránh .
Sư hỏi :
-Thế nào là nơi không sanh tử ?
Chuyết Công đáp :
-Ở trong sanh tử nhận lấy mới được .
Nghe mấy câu giải đáp trên, sư vẫn chưa tỉnh ngộ .
Chuyết Công bảo :
-Hãy lui ra ! Chiều đến quay lại .
Giữ đúng hẹn, chiều đến sư lại vào phương trượng .
Chuyết Công bảo :
-Đợi đến sáng, chúng sẽ vì ngươi minh chứng .
Sư bỗng nhiên giật tỉnh, quỳ xuống lại tạ .
Chuyết Công chứng nhận và trao truyền Tổ ấn .
Sau khi nhận được yếu chỉ, sư trở về trụ trì chùa Vĩnh Phúc, núi Côn Cương ở Phù Lãng, để truyền bá chánh pháp, tiếp dẫn hậu lai .
Đến khi sắp tịch, sư gọi thầy Chân Nguyên đến trao pháp kệ :
Trong đá ngọc kia ẩn mình
Trông đầm lầy vượt nấy mầm sen thơm
Trong tử sanh biết tận tường
Bồ đề, giác tánh rõ ràng không hai.
Âm :
“Mỹ ngọc tàng ngoan thạch
Liên hoa xuất ứ nê
Tu tri sanh tử xứ
Ngộ thức tức bồ đề”.
Nói kệ xong,sư bảo môn nhơn : “Nay ta trở về”. Liền quy tịch .
-----------------
*-Thiền sư Việt Nam . tr 400 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (5). tr 4153 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .