TÍN TÂM MINH (*)(18b)
+ + +
Hãy ngay đấy, chớ đừng hò hẹn
Hãy thức thời phản diện chiếu soi
Kìa gương mặt nọ xưa nay
Không nhờ phản quán,chắc gì nhận ra ?
Cảnh diễn qua đều là cảnh mộng
Cảnh hiện tiền cũng vẫn không hơn
Cho dù cảnh giả, cảnh chơn
Đều như hoa đóm,trước người mắt đau.
---------------
(*)-“Tu du phản chiếu
Thắng khước tiền không”.
(Tam Tổ Tăng Xáng)
Dẫn :
-“Chơn tánh hữu vi không
Duyên sanh cố như huyễn
Vô vi vô khởi diệt
Bất thật như không hoa”.
(Kinh Lăng Nghiêm)
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn niên 2.000.(1.400)
TỰ GIỚI THIỆU
(Tiếng chuông chiều 3)
+ + +
Tôi tự giới thiệu về tôi
Vì tôi không thích gọi mời tha nhân.
Họ viết về tôi sao bằng
Tự tôi giới thiệu về thân phận mình.
Nhờ người xác nhận chứng minh
Sao bằng ngay tự chính mình công khai.
Cái dở cũng có cái hay
Cái đúng cũng có cái sai đi cùng.
Quan trọng là ta biết dùng
Cái dở làm lớp đất bùn nuôi sen.
Dầu cặn, tận dụng đốt đèn
Phá tan hắc ám tối đen mịt mờ.
Tuổi già qua cái tuổi thơ
Không ai khôn khéo khi chưa trưởng thành.
Hãy theo truyền thống tu hành
Cho dù cải cách canh tân đổi dời.
Cái căn bản làm chưa rồi
Lại cứ nay đổi mai dời ích chi ?
Tám đoạn đường chánh bước đi
Bốn đế lý chính, liễu tri đoạn trừ.
Cái mục đích của người tu
Là đoạn tập khí nghiệp từ xa xưa.
Thì cái khổ quả dây dưa
Sẽ chẳng còn chỗ dư thừa là xong.
Dù là đông hay tây tông
Nếu chẳng dứt khoát đả thông chỗ nầy.
Thì các tông phái hiện nay
Chỉ là liều thuốc kéo dài hôn mê !
Phật là giác tánh Bồ đề
Không giác thì dẫn nhau về nơi đâu ?
Tỉnh giác tự mình hồi đầu
Bờ mê chẳng có, bến nào giác đây ?
Ngay bến đó là bờ nầy
Phi lai phi khứ, đủ đầy viên dung.
Một là khắp giáp vô cùng
Nhất chân pháp giới ngay trong hiện tiền.
Nhiều đêm thức ngủ không yên
Nay ngồi nhấp chén trà thiền,hương sen.
Ánh trăng thay thế ánh đèn
Xua tan bóng tối, sáng lên khắp trời.
Con đường mờ mịt, tỏ soi
Vậy tôi đã giới thiệu tôi còn gì !
---------------
Gia Thất Am cuối năm Ất Mùi 2.015.
-Tiếng chuông chiều 3 – 2.015.(1.397)
TÍN TÂM MINH (*)(18a)
+ + +
Ngay nơi đó mà lặng dừng
Ngay nơi đó mà tự mình thẩm suy.
Ngay nơi đó mà chiếu soi
Ngay nơi đó mà khéo khơi mạch nguồn.
Mày ngang mũi dọc tận tường
Trước mắt hiện rõ chẳng còn cách ngăn.
Vượt thời gian,vượt không gian
Vượt ngoài kiến chấp tình phàm có không.
-------------------
(*)-“Tu du phản chiếu
Thắng khước tiền không”.
(Tam Tổ Tăng Xáng)
Dẫn :
-“Nhược năng tâm trung tự kiến chơn
Hữu chơn tức thị thành Phật nhơn
Bất kiến tự tánh ngoại mích Phật
Khởi tâm tức thị đại si nhơn”.
(Pháp Bảo Đàn)
-“Bồ đề bổn tự tanh
Khởi tâm tức thị vọng
Tịnh tâm tại vọng trung
Đản tránh vô tam chướng”. (nt)
- + -
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn niên 2.000.(1.398)
TIẾNG CHUÔNG CHIỀU 3
+ + +
Đây tiếng chuông chiều thứ ba
Dịu dàng sâu lắng,ngân nga bổng trầm.
Dù hoàng hôn lấn át dần
Nhưng vẫn hy vọng ráng hồng vương lên.
Ngày mai trời quang đản hơn
Môi trường sẽ được bảo tồn nâng cao.
Mọi sự sinh hoạt tiếp giao
Truyền thông thuận tiện,đổi trao dễ dàng.
Phật học rộng mở thênh thang
Tương lai Phật pháp sẽ càng phát huy.
Sẽ có các bậc Tăng Ni
Đức tài đầy đủ duy trì Phật môn.
Không làm bẽ mặt Thế tôn
Giữa muôn ngàn vạn tông môn song hành.
Đạo Phật chẳng phải hư danh
Phật đạo chẳng phải chỉ hình thức suông.
Phật giáo thực tế tinh tường
Luôn luôn ứng dụng đa phương tiện hành.
Không ngoài Tứ đế, Duyên sanh
Bảo đảm hết khổ,không tranh luận nhiều.
Xa xa vang tiếng chuông chiều…
----------------
Gia Thất Am Ất Mùi niên 2.015.
-Tiếng chuông chiều 3-2.015.(1.399)
TÍN TÂM MINH (*)(18b)
+ + +
Hãy ngay đấy, chớ đừng hò hẹn
Hãy thức thời phản diện chiếu soi
Kìa gương mặt nọ xưa nay
Không nhờ phản quán,chắc gì nhận ra ?
Cảnh diễn qua đều là cảnh mộng
Cảnh hiện tiền cũng vẫn không hơn
Cho dù cảnh giả, cảnh chơn
Đều như hoa đóm,trước người mắt đau.
---------------
(*)-“Tu du phản chiếu
Thắng khước tiền không”.
(Tam Tổ Tăng Xáng)
Dẫn :
-“Chơn tánh hữu vi không
Duyên sanh cố như huyễn
Vô vi vô khởi diệt
Bất thật như không hoa”.
(Kinh Lăng Nghiêm)
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn niên 2.000.(1.400)
TUỔI BẢY MƯƠI
+ + +
Tuổi nay đã bảy mươi rồi
Vẫn chưa cảm thấy mình thời già sao ?
Đến bao giờ, đến khi nào
Mới chỊu dừng bước hồi đầu tỉnh tu ?
Hay là vẫn cứ chần chừ
Chờ thần chết đến đưa thư Nam tào.(giũ sổ)
Bây giờ mới tạm biệt nhau
Ngồi lại lần chuổi, niệm câu vô thường.
Liệu rằng quỷ sứ Diêm vương
Ngưu đầu, Mã diện có buông tha mình
Hay là chúng vẫn vô tình
Lạnh lùng nuốt trửng lấy sinh mạng nầy ?
Xin đừng lần lựa chiều mai
Cũng đừng hò hẹn ngày nầy,ngày kia.
Đào giếng, trước khi khát kìa
Nhảy,trước khi nước tràn trề tới trôn.
Cận tử hú vía, hoảng hồn
Thì khi viễn tử lo bòn phước duyên.
Văn, Tư, Tu luôn cần chuyên
Giới, Định, Tuệ vững như kiền ba chân.
Sống trong năm dục, sáu trần
Bất thọ,bất nhập,cõi lòng thản nhiên.(1)
Lìa các tướng, gọi là thiền (2)
Không ly,không xả các duyên bên ngoài.(3)
Cho dù tu mãn kiếp nầy
Vẫn chẳng được đức Như lai sờ đầu.
Huống là thọ ký về sau
Xách dép hay là đứng hầu Thế tôn.(4)
Tùng Phật khẩu sanh là con(tử)
Tùng pháp hóa hiện là hàng vương gia.
Phải có chỗ được mới là
Xứng danh Phật tử,(5) tam gia vĩnh lìa.(6)
Xét mình ba chướng nặng nề(7)
Nguyện tiêu,nhưng lại chẳng hề tránh xa !
Nguyện về Tịnh độ liên hoa
Tâm vọng loạn,làm sao qua Lạc thành ?
Bây giờ vẫn còn lanh quanh
Chạy xuôi,chạy ngược kiếm ăn,kiếm tiền.
Thân không an, tâm không yên
Tương lai chắc chắn sanh biên địa rồi.
Nhìn hành động, đoán được thôi
Bởi vì ta đang xa rời Phật tâm.
Nay nhân dịp sắp cuối năm
Viết vài ba đoạn thơ thầm nhắc nhau.
Bảy mươi không dễ kiếm đâu (8)
Có được, còn được…lẽ đâu phụ phàng.
Dẫu là còn chút hơi tàn
Cũng nên chăm chút ủi an tâm hồn.
Bớt việc, bớt muốn, bớt ham
Bớt lo, bớt nghĩ để tâm tịnh thiền.
Phút cuối ra đi an nhiên
Hiện tại bớt não, bớt phiền, hỷ hoan !
-----------------
(1)-“Bất nhập sắc thanh hương vị xúc
Pháp thị danh Bồ đề”.
(Tịnh Danh Duy Ma Cật)
(2)-“Ngoại ly tướng vi thiền”.
(Pháp Bảo Đàn)
(3)-“Ngoại tức chư duyên
Nội tâm vô đoan
Tâm như tường bích
Khả dĩ nhập đạo”.
(Bồ Đề Đạt Ma)
(4)-“Phật tử ly ngô số thiên lý, ức niệm ngô
ngô giới tức đắc đạo quả.Tại ngô tả hữu,
tuy thường kiến ngô,bất thuận ngô giới,
chung bất đắc đạo”.
(Chương 37 Kinh Tứ Thập Nhị Chương)
(5)-“Tùng Phật khẩu sanh
Tùng pháp hóa sanh
Đắc Phật pháp phần
Cố danh Phật tử”.
(Kinh Pháp Hoa)
(6)-1/-Ngũ ấm, thế tục gia.
2/-Phiền não, vô minh gia.
3/-Tam giới, lục đạo gia.
(7)-1/-Phiền não chướng.
2/-Nghiệp chướng.
3/-Báo chướng.
(8)-“Thất thập cổ lai hy”. (Cổ nhân)
- + -
Gia Thất Am 19.12.2017-02.11.Đinh Dậu
-Tiếng vọng 3 – 2.018.(1.401)
TÍN TÂM MINH (*)(19)
+ + +
Trưa hè chợt nổi phong ba
Tưởng đâu sóng dậy nào dè nắng hanh.(1)
Muôn hồng nghìn tía long lanh
Giữa trời mắt nhặm,ngỡ rằng trăm hoa.(2)
Vạn vật, vạn sự diễn ra
Trước mắt thấy đó đều là huyễn hư.
Bởi do vọng kiến chưa trừ
Nên luôn theo cảnh huyễn hư chuyển dời.
-----------------
(*)-“Tiền không chuyển biến
Giai do vọng kiến”.
(Tam Tổ Tăng Xáng)
(1)-Dương diệm : Sóng nắng.
(2)-Không hoa : Đóm hoa giữa hư không.
Dẫn :
-“Kiến kiến chi thời
Kiến phi thị kiến
Kiến du ly kiến
Kiến bất năng cập”.
(Kinh Lăng Nghiêm)
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn niên 2.000.(1.402)
L À M T H Ơ
+ + +
Làm thơ thì chẳng khó gì
Nhưng thơ nói viết cái chi mới là.
Không cần bóng bẫy văn hoa
Chỉ cần chơn chất thật thà thẳng ngay.
Bởi vì thơ thẩn loại nầy
Lắm khi chẳng thể nương tay nhúng nhường.
Ai dại đi làm người buồn ?
Và ai không muốn người thương mến mình ?
Nhưng thơ nầy kỵ cảm tình
Vì tình cảm dễ phát sinh não phiền.
Thơ nầy mang tính chất thiền
Thiền,nên phải dẹp các duyên bên ngoài.
Lý chân giáo pháp hiển bày
Tam tạng thánh điển cùng ai luận bàn.
Tích cực làm cho vẻ vang
Phật giáo phát triển kiện toàn khắp nơi.
Đã gần ba ngàn năm rồi
Chớ đâu phải mới có ngày hôm qua.
Mà lại ấp úng, ấp…a…
Sự thật cố giấu che mà đặng sao ?
Chẳng lẽ ngồi nhìn nỗi đau
Không chịu dứt khoát giúp nhau thật tình ?
Chỉ rõ đầu mối vô minh
Chẳng qua chỉ một chữ tình mà thôi.(1)
Tình yêu, tình cảm, tình đời
Tình dục, tình ái sắc, nơi uẩn, trần(2)(3)
Hãy nói thẳng với nhau rằng
Năm uẩn không thật, sáu trần thật sao ?
Nếu muốn chấm dứt khổ đau
Thì hãy quán niệm mấy câu thế nầy :
Các pháp hữu vi xưa nay
Như mộng,như huyễn, đổi thay vô thường.
Như diện chớp, như hơi sương
Như sóng nắng dưới mặt đường giữa trưa.
Như gió lay, mây đong đưa
Như trăng soi bóng,mặt hồ lung linh.
Như cơn mơ chợt giật mình
Như hình với bóng, bóng in chốn nào ?
Phải quán cho thật là sâu
Hành cho thuần thục,khổ nào chẳng qua ?
Chớ không thể tụng ê…a…
Nhị thời hoặc tứ thời là đã xong.
Tu hành phải biết dụng công
Dụng công không đúng,đừng mong đổi đời !
Ma Ha Bát Nhã tuyệt vời
Một câu, vượt thoát muôn đời khổ đau.
Nếu tin thì hãy cùng nhau
Hành thâm như thể là đào kim cương.
Tôi lam thơ rất bình thường
Tôi viết thơ cũng như đang thuyết trình.
“Đạo Phật đối với nhân sinh”
Đề tài nầy viết đến nghìn kiếp sau.
Tạm biệt và xin hẹn nhau.
------------
(1)-“Nhơn tùng ái dục sanh ưu,
Tùng ưu sanh bố,
Nhược ly ư ái,
Hà ưu, hà bố ?
(Chương 32 Kinh Tứ Thập Nhị Chương)
(2)-“Ái dục mạc thậm ư sắc,sắc chi vị dục,
kỳ đại vô ngoại.Lại hữu nhất hỷ,nhược
sử nhị đồng, phổ thiên chi nhơn, vô
năng giai đạo giả hỷ”.
(Chương 14 Kinh Tứ Thập Nhị Chương)
(3)-5 uẩn – 6 trần.
Gia Thất Am cuối năm Ất Mùi 2.015.
-Tiếng chuông chiều 3 – 2.015.(1.403)
TÍN TÂM MINH (*)(20)
+ + +
Cầu chân, ai chẳng mong cầu
Nhưng chân biết ở nơi nào cầu đây ?
Đơn giản thôi, hãy ngưng ngay
Chỉ cần dứt kiến, tức thời có chân.
Sáu hai thành kiến ngoại nhân
Chánh tà kiến giải biện phân chẳng còn
Triệt tiêu kiến chấp đoạn thường
Bất kiến nhất pháp là chân chánh cầu.(+)
----------------
(*)-“Bất dụng cầu chân
Duy tu tức kiến”.
(Tam Tổ Tăng Xáng)
(+)-“Bất kiến nhất pháp tức Như lai
Phương đắc danh vi Quán tự tại”.
(Chứng Đạo Ca-Huyền Giác)
Dẫn :
-“Nhược năng tự hữu chơn
Ly giả tức tâm chơn
Tự tâm bất ly giả
Vô chơn hà xứ chơn”.
(Pháp Bảo Đàn)
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn niên 2.000.(1.404)
THÂN GIỚI TÂM TUỆ
(Trích diễn phẩm Sư Tử Hống)
Kinh Niết Bàn
+ + +
Tướng bốn đại nguyên nhân duyên khởi
Thành thân nầy do bởi nghiệp căn
Nên thân chỉ là giả danh
Vô chủ, vô ngã, hợp thành mà thôi.
Thế nên chớ vun bồi quá đáng
Cũng chẳng nên nhàm chán bỏ bê
Thân hoại thì cũng khó bề
Qua sông nếu để thuyền bè hỏng hư.
Do đó kheo duy tu bảo dưỡng
Để thuyền đủ năng lượng ra khơi
Chớ đừng quá tải ăn chơi
Khiến thuyền chìm trước khi rời bến mê !
Thuyền cần được chở che bảo quản
Cũng như thân muốn đặng bình an
Phải cần giới hạn cản ngăn
Phòng phi chỉ ác, sát, dâm,đạo, tà…
Có thân chẳng thể mà không giới
Có giới mới cột trói các căn
Bốn oai nghi thuần thục dần
Tỳ ni ứng dụng trong từng cảnh duyên.
Thân không giới như thuyền không lái
Mà người tu cần phải đoan nghiêm
Thân ngoài huấn tập đã quen
Bây giờ là lúc trui rèn tâm trong.
Tâm chẳng bao giờ không nghĩ tưởng(1)
Nên ví như khỉ vượn sút chuồng
Lại như ngựa chẳng dây cương
Mặc tình chạy nhảy quên đường hồi gia.
Ngựa của mình sao mà không cỡi
Hoặc để cho chúng chở quằn vai
Ba tạng giáo pháp Như lai
Hy vọng còn có một ngày thuần chân.
Còn khỉ vượn sao không cột chặt
Kim cang luân tịnh sắc,tịch quang
Giới, Định,Tuệ đại bảo tàng
Với lòng tha thiết,luôn mang đỉnh đầu.
May ra với pháp mầu chư Phật
Tâm Từ Bi đánh bật lòng tà
Trí tuệ phá dẹp ám ma
Diệu dụng biến khắp Ta bà tam thiên.
Tâm phải như ngọn đèn sáng chói
Soi tận cùng ba cõi, sáu đường
Khắp giáp pháp giới mười phương
Thế gian vạn sự vô thường đổi thay.
Hữu vi thời không ai chẳng biết
Như ảnh bào sanh diệt huyễn hư
Khởi quán để lòng buông thư
Đối với tham ái giải trừ viễn ly.(2)
Còn vô vi lẽ chi chẳng nói
Vô vi há có cõi hay sao ?
Lại cố thuyết phục rủ nhau
Nguyện về cõi ấy, cõi nào, ở đâu ?
Vô vi chẳng khác nào hoa đóm
Giữa hư không chẳng chốn chẳng nơi
Vô vi chẳng thật có thời
Làm gì có chuyện đổi dời diệt sanh.(3)
Thấy được tánh chúng sinh là Phật(4)
Phật chính là tánh giác nguyên sơ
Như lai pháp thân Tỳ lô
Thường, Lạc, Ngã,Tịnh,hữu vô vượt bờ.
Pháp hữu thấy, pháp vô cũng thấy
Mới thật là chỗ thấy viên dung
Thấy giả lại cũng thấy chân
Là thấy trung đạo, như trong Niết bàn(kinh)(5)
Thân không giới, nói làm càn bậy
Tâm không tuệ, chỗ thấy lầm sai
Nên đối với hai việc nầy
Người tu há dám múa may khinh thường ?
Giới thân phải luôn luôn nghiêm túc
Và huệ mạng chăm chút hằng ngày
Tỳ ni chẳng thể đơn sai
Tam tạng há có phut giây hửng hờ.
Mình là kẻ sơ cơ cần phải
Tuân thủ theo Phật dạy,Tổ khuyên
Chớ nên tự phụ, tự chuyên
Bỏ hết hình thức mối giềng môn quy !
Hãy cố gắng bước đi cho vững
Bao giờ đủ tiêu chuẩn rời trường
Thì chuyện đèn sách từ chương
Không cần nữa,cũng nên nhường người sau.
Còn khi đang bước đầu tu tập
Thì ngữ ngôn kinh sách rất cần
Bảo toàn thọ mạng giới thân
Phát huy tâm tuệ tánh chân thường hằng.
------------------
(1)-“Ý thức thường hiện khởi
Trừ sanh vô tưởng thiên
Cập vô tâm nhị định
Thùy miên dữ muộn tuyệt”.
(Duy Thức Tam Thập Tụng)
(2)-“Nhơn hoài ái dục bất kiến đạo giả”.
- “Ái dục cấu tận đạo khả kiến hỷ”.
(Chương 16 Kinh Tứ Thập Nhị Chương)
(3)-“Vô vi vô khả diệt
Bất thật như không hoa”.
(Kinh Lăng Nghiêm)
(4)-“Kiến nhất thiết chúng sanh,
tức kiến Phật tánh”.
(Pháp Bảo Đàn)
(5)-“Kiến nhất thiết không,bất kiến bất
không bất danh trung đạo.
Kiến nhất thiết vô ngã, bát kiến ngã
giả bất danh trung đạo”.
(Kinh Niết Bàn Phẩm Sư Tử Hống)
(6)-“Tỳ ni tạng trụ,Phật pháp diệc trụ.
Tỳ ni tạng diệt,Phật pháp diệc diệt”.
(Luật Tạng)
Gia Thất Am 23.03.2.015-04.02.Ất Mùi.
-Tiếng chuông chiều 3 – 2.015.(1.405)
TÍN TÂM MINH (*)(21)
+ + +
Thị bất thị, phi bất phi (1)
Thấy chi phải trái,thấy chi ta người .(2)
Thấy chi suy thạnh ở đời
Thấy chi vạn vật đổi dời chuyển xoay.(3)
Thấy chi đẹp xấu dở hay
Thản nhiên chẳng thấy bên nầy,bên kia.
Chẳng thấy, hai bên tự lìa.
Chớ có tìm hiểu chi cho thêm phiền.
---------------
(*)-“Nhị kiến bất trụ
Thận vật tri tầm”.
(Tam Tổ Tăng Xáng)
(1)-“Thị bất thị,phi bất phi”.
(Chứng Đạo Ca-Huyền Giác)
(2)-“Nhược kiến tha nhân phi
Tự phi khước thị tả”.
(Pháp Bảo Đàn)
(3)-“Nhược chơn tu đạo nhân
Bất kiến thế gian quá”.
(nt)
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn niên 2.000.(1.406)
NHƯ LAI TÁNH(DỤ)
(Trích diễn phẩm Như Lai Tánh)
Kinh Niết Bàn
+ + +
Anh nông dân bạn cùng Vương tử
Nghe Tử hoàng có giữ con dao
Hiếm quý chẳng biết làm sao
Tiếp cận, chỉ biết thét gào trong mơ.
Khiến người cho ngủ nhờ nghe được
Liền báo cho vua nước đương thời
Bắt về tra hỏi đầu đuôi
Để biết ai đã là người trộm dao.
Anh nông dân trước sau trình tấu
Rằng ngu dân chẳng giấu điều chi
Từ khi Vương tử trốn đi
Cũng như đang lúc trị vì nơi đây.
Thân nhau lắm,thấy thì chưa thấy
Hình dáng con dao ấy thế nào
Dù thật lòng luôn ước ao
Cho dù chỉ thấy con dao một lần.
Bị ám ảnh khiến trong giấc ngủ
Đã thấy mình cầm thử con dao
Khiến nên la thét ồn ào
Con dao! con dao! mà nào biết chi !
Vua lại hỏi trong khi mơ thấy
Con dao ấy giống với cái gì ?
Màu sắc hình dáng nói đi
Thành thật khai báo ta thì tha cho.
Anh nông dân thật thà bộc trực
Trình bày không một chút ngại ngùng
Rằng con dao giống cái sừng
Của con dê núi cong cong đen huyền.
Vua liền bảo hai bên tả hữu
Tha cho anh và tự bảo rằng
Trong kho dao của quả nhân
Chưa từng có chứa một trong loại nầy.
Cứ ngỡ chuyện ngay đây chấm dứt
Nhưng nào ngờ chỉ được thông qua
Sau khi đức vua băng hà
Các vị Hoàng tử thay cha trị vì.
Tiếp tục vặn hỏi đi hỏi lại
Bảo các quan hãy thử nói xem
Con dao nầy được trui rèn
Kiểu dáng màu sắc trắng đen thế nào ?
Các quan,lại thay nhau trình bạch
Rằng con dao giống hệt sừng dê
Lại cũng giống như măng le
Và như trái điệp, trái me, trái cồng.
Màu sắc thì hông hồng bạch bạch
Thanh quang cùng huỳnh sắc huỳnh quang
Họ đều nói bướng, nói càn
Vì có ai thấy rõ ràng dao đâu !
Vương tử, sau bôn đào lánh nạn
Nay trở về nước đặng làm vua
Cũng nhắc lại chuyện xa xưa
Bảo quần thần hãy trình cho vua tường.
Các quan đều vô phương biện bạch
Bấy giờ vua mới thật nói ra
Rằng trong kho báu của ta
Chẳng hề có cái nào là con dao.
Vậy mà có biết bao câu hỏi
Và biết bao người vội trả lời
Đã chẳng rõ biết thì thôi
Lại còn lắm chuyện,lắm lời gần xa.
Cứ lầm tưởng cho là có thật
Có một cái kỳ đặc quái chiêu
Nói cao nói thấp đủ điều
Rốt lại thì chỉ là nghiều chuyện thôi.(1)
Nói có, để mọi người tầm kiếm
Nói không,để mọi chuyện trôi êm
Như lai há có bớt thêm
Chỉ do ta mớ cho nên lắm điều.
Chắc gì ta biết nhiều hơn họ
Chắc gì họ chẳng tỏ hơn ta
Lại làm nhân chứng thông qua
Nếu không minh tuệ,hẳn là đúng sao ?
Tánh Như lai người nào chẳng có
Giải thoát là tánh nọ hiện ra(2)
Cầm bằng chấp họ, chấp ta
Là còn trì trệ khó mà thong dong.
Lòng nên hỏi tự lòng mình lại
Có cái gì một nhảy là xong ?
Nếu chưa, thì chớ dối lòng
Dù năm ba bước cũng không ngại gì.
Tu thì phải kiên trì nhẫn nhục
Ngộ,thì chỉ thoáng chốc lướt qua
Thật chứng,chứng thật mới là
Tự tại, tự chủ, Ta bà vãng lai.(3)
Khi đã biết Như lai tạng tánh
Vốn vô cùng, vô tận, vô biên
Là chân ngã, là bản nguyên
Là Phật tánh,là vĩnh miên hàm tàng.
Sự thể đã rõ ràng trước mắt
Không nhận ra thì thật tiếc thay !
Ngộ hay không ngộ là đây
Thấy hay không thấy,tánh nầy tìm chi ?
--------------
(1)-“Kiến giải trình kiến giải
Tự niết mục tác quái”.
(Tuệ Trung Thượng Sĩ)
(2)-“Chơn giải thoát là Như lai tánh”.
(Kinh Niết Bàn)
(3)-“Vãng lai tam giới chi tân
Xuất một vị tha tác tắc”.
(Quy Sơn Cảnh Sách)
Gia Thất Am 27.03.2.015-08.02.Ất Mùi.
-Tiếng chuông chiều 3 -2.015.(1.407)
TÍN TÂM MINH(*)(22)
+ + +
Có thị thì hẳn có phi
Có phải, có trái tức thì sự sanh.(1)
Phải của tôi, trái của anh
Anh phải,tôi trái quẩn quanh lòng vòng.
Chớ để thị phi vướng chân
Dẫn người lạc bước xa dần tánh chơn.
Ngay khi phải trái thua hơn
Bản tâm kia đã không còn như nhiên.
-------------
(*)-“Tài hữu thị phi
Phấn nhiên thất tâm”.
Dẫn :
-“Tha phi ngã bất phi
Ngã phi tự hữu quá”.
(Pháp Bảo Đàn)
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn niên.2.000.(1408)
NHIẾP NIỆM TƯ DUY
(Trích diễn phẩm Quang Minh Biến Chiếu
Cao Quý Đức Vương-Kinh Niết Bàn)
+ + +
Nhiếp niệm là quay về một mối
Những ý tưởng giong ruổi đó đây
Tạm gọi tạp niệm hằng ngày
Bắt chúng có mặt,dừng ngay lại liền.
Khi đã dừng,không duyên theo cảnh
Thì cũng đừng để chúng rảnh rang
Bắt chúng phải đảm phải đang
Một công việc khác rõ ràng thích nghi.
Cái đó gọi tư duy quán tưởng
Chẳng hạn như vô tướng,quán không
Vô tác, sự lý dung thông
Vượt hai lăm cõi ở trong ba đường.(1)
Không,là không ngay đương,hiện tại
Chẳng có cõi nào ngoái nguồn tâm
Nếu ngoài tâm có cảnh sanh
Đều do bốn đại hợp thành mà thôi.
Có hợp nào không hồi tan rả
Nên gọi là tạm gá giả danh
Có đó nhưng quá mong manh
Phút chốc có thể biến thành khói mây.
Nên chẳng sanh mộng đây mộng đó
Cũng chẳng hề mộng nọ mộng kia
Vô tác là chẳng cầu về
Một cõi nào đó hoặc mê cõi nào.
Trong các tướng, tướng nào tồn tại
Vĩnh viễn và mãi mãi đời đời ?
Tướng nào chẳng đổi chẳng dời
Chẳng sanh chẳng diệt,vượt ngoài tử sanh ?
Nên đối với một trong các tướng
Thuận nghịch gì chẳng vướng bận tâm
Nhất là sắc tướng thinh âm
Sáu trần não loạn, sáu căn đọa đày.
Vì thế nên ngay đây thiền quán
Tư duy về tướng trạng các duyên
Tướng nào hằng hữu vĩnh miên
Tướng nào chẳng phải nghiệp duyên tạo thành ?
Tướng là huyễn,duyên sanh là hóa
Hóa ra nhiều tướng lạ khác nhau
Nhưng tướng,huyễn hóa ảnh bào
Không thật thì làm thế nào bền lâu ?
Quán các pháp đuôi đầu sau trước
Rõ các tướng từng bước đổi thay
Dù là thân tướng Như lai
Niết bàn,Cực lạc chẳng ngoài luật chung.
Nhờ tư duy quán thông các pháp
Nên chẳng còn cố chấp hỏi đòi
Một cảnh, một cõi xa xôi…
Hay là một chốn, một nơi an toàn.
Từ một con ngựa hoang giông ruổi
Nay đã được xỏ mũi dẫn về
Từ việc phá hoại lúa mè
Nay đã kéo được cổ xe Đại thừa.
Còn kéo,vẫn còn chưa thoải mái
Nhưng thế nào mới phải lẽ đây ?
Mặc chúng chạy nhảy đông tây
Hay là cột trói cả ngày lẫn đêm ?
Khi chúng đã thuần quen huấn tập
Thì cần chi “thừa cấp hưởn trì”
Mắn chưởi chúng cũng không đi
Đánh đuổi, chúng cũng lầm lì trơ trơ.
Đâu phải lúc nào cũng thờ ơ lảnh đạm
Hoặc là cũng châm bẩm khư khư
Phật giáo luôn tránh hai từ
Thái quá,bất cập,ngoại trừ đạo trung.
Luôn ứng dụng cho chung mọi giới
Thực hành và hướng tới thành công
Chớ chẳng riêng tư cá nhân
Hạng người nào đó linh thông khác thường.
Kinh Niết bàn chủ trương trung đạo
Không hề chia phân giáo với thiền
Thiền mà chẳng rõ căn nguyên
Giáo mà chẳng biết đến thiền là sao ?
Cả hai không thể nào thiếu được
Ví như cá với nước không rời
Vậy mà lắm kẻ buông lời
Thiền và giáo cả một trời cách xa !
Giáo đưa đến bảo tòa thiền định
Thiền khai thông tuyệt đỉnh giáo môn
Giáo thiền đều của Thế tôn
Phương tiện dạy dỗ đám con ngu đần.
Hãy thiền định mở toan đôi mắt
Hãy noi gương hạnh Phật chiếu soi
Tánh tướng lý sự thông rồi
Ngồi yên một chỗ dạo mười phương xa.
Giáo và thiền đều là con Phật
Chỉ do sự nhận thức khác nhau
Không giáo,biết hành thiền nào ?
Không theo giáo pháp,dựa vào đâu tu ?
Oai Âm vương khi người chưa có
Thì không cần ai đó chứng minh(2)
Còn nay thiết nghĩ cũng nên
Nhờ người hướng dẫn dựa trrên giáo truyền.
------------------
(1)-“Tứ vức, Tứ ác thú
Lục dục tinh Phạm thiên
Tứ thiền, tứ Vô sắc
Vô tưởng cập Bất hoàn”.
(2)-Cuộc hội ngộ giữa Huyền Giác và Huyền
Sách trong Pháp Bảo Đàn kể lại.
Gia Thất Am 27.03.2.015-08.02.Ất Mùi.
-Tiếng chuông chiều 3 – 2.015.(1.409)
TÍN TÂM MINH(*)(23)
+ + +
Có ta nên có loài người
Có ta nên có buồn vui,thăng trầm.
Có ta nên có tử sanh
Có ta nên có vọng chơn,thánh phàm.
Chỉ một cái ta làm nhân
Nhị biên sinh khởi trung trùng hằng sa.
Cái một nay đã hiểu ra
Hãy quăng bỏ quách,giữ mà làm chi ?
-------------
(*)-“Nhị do nhất hữu
Nhất diệc mạc thủ”.
(Tam Tổ Tăng Xáng)
Dẫn :
-“Nhật nhật đối cảnh thời
Cảnh cảnh tùng tâm xuất”.
(Tuệ Trung Thượng Sĩ)
-“Nhược nhơn dục liễu tri
Tam thế nhất thiết Phật
Ưng quán”pháp giới tánh”
Nhất thiết duy tâm tạo”.
(Kinh Hoa Nghiêm)
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn niên 2.000.(1.410)
CHẲNG DIỆT SANH
+ + +
Tất cả pháp, pháp nào có tướng
Thảy đều như ảnh tượng huyễn bào
Chúng luôn thay đổi duyên nhau
Đổi thay nhưng chẳng pháp nào mất đi.
Với tất cả những gì vay mượn
Tạo biết bao cảnh tượng trong đời
Nhưng khi xử dụng xong rồi
Chúng đều trở lại như thời nguyên sơ.
Và những vật đã ho vay mượn
Cũng chẳng hề hao tổn chút nào
Nước là bao, đất là bao
Phong đại, hỏa đại hòa vao hư vô.
Cứ như thế dù thô dù tế
Dù là to như quả địa cầu
Nhỏ như hạt bụi, tế bào
Vẫn là bốn đại duyên nhau hợp thành.
Chúng cứ vẫn lanh quanh lẩn quẩn
Dù muốn tăng cũng chẳng tăng thêm
Muốn giảm cũng chẳng giảm hơn
Vì đã luân chuyển trong vòng nghiệp duyên.
Nên cảnh sắc thiên nhiên vĩnh cửu
Có mặt trong vũ trụ bao la
Đặc biệt chỉ có điều là
Chúng duyên chẳng đủ,chúng mà không sinh.
-----------------
Gia Thất Am 01.04.2.015-13.02.Ất Mùi.
-Tiếng chuông chiều 3 – 2.015.(1.411)
TÍN TÂM MINH(*)(24)
+ + +
Vạn muôn từ một bắt đầu
Một không,thì vạn muôn đâu thể thành.
Một tâm kia nếu chẳng sanh
Thì vạn pháp nọ hiện hành được sao ?
Đã không có một pháp nào
Lấy chi đối đãi thấp cao chánh tà ?
Từ một pháp nọ suy ra
Thì muôn vạn pháp cũng là vậy thôi.
---------------
(*)-“Nhất tâm bất sanh
Vạn pháp vô cữu”.
(Tam Tổ Tăng Xáng)
Dẫn :
-“Tâm chi sanh hề,sanh tử sanh.
Tâm chi diệt hề, sanh tử diệt”.
(Tuệ Trung Thượng Sĩ)
-“Khởi chư thiện pháp bản thị huyễn
Tạo chư ác nghiệp diệc thị huyễn
Thân như tụ mạc, tâm như phong
Huyễn xuất vô căn vô thật tính”.
(Thi Khí Phật Ngôn}
Phật Tổ Thuyền Huyễn Kế Đăng Lục.
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn niên 2.000.(1.412)
V Ô M I N H(2)
(Phỏng theo Kinh Niết Bàn)
+ + +
Trí tuệ với vô minh đối lập
Song chưa tưng sát phạt lẫn nhau
Bởi chẳng có lý do nào
Nhưng sao lại đổ lỗi vào vô minh ?
Vô minh vốn vô hình vô tướng
Thì làm sao có thể chướng ngăn
Trí tuệ mà lại bảo rằng
Vô minh nghiệp chướng,chướng ngăn Niết bàn ?
Vô minh vốn vô tâm, vô ý
Lại bị người sánh ví đêm đen
Tối tăm là lẽ đương nhiên
Có thể do thiếu ánh đèn dạ quang.
Vô minh vốn cô thân cô thế
Không mẹ cha sanh đẻ dưỡng nuôi
Không nguyên quán sống nổi trôi
Vậy mà ai cũng ghét thời là sao ?
Vô minh chẳng đổi trao mua bán
Lại chẳng tình chẳng cảm riêng tư
Làm sao tiếp cận giao lưu
Yêu cầu thương thuyết hoặc trừ khử nhau.
Vô minh không nơi nào chẳng có
Có con người là có vô minh
Càng tìm cách để chống kình
Là càng làm tổn thương mình thêm thôi.
Vô minh vẫn muôn đời như thế
Và chưa ai phục chế vô minh
Bằng chứng là mỗi chúng sinh
Đều sẳn có chất vô minh trong người.
Vì thế nên hiện thời chẳng phải
Lúc tìm cách chống lại vô minh
Mà phải làm cho tuệ sinh
Giác ngộ thì tự vô minh chẳng còn.
Muốn tuệ trí viên tròn sáng suốt
Tam vô lậu học, trước vun bồi
Văn, Tư, Tu luôn trau giồi
Hằng ngày thì sẽ đẩy lùi vô minh.
Nếu như luôn thiền hành chánh quán
Và tuệ trí luôn vẫn sáng soi
Thì muôn việc ở trong đời
Chẳng có gì phải nhiều lời lại qua.
Vậy nên Xa ma tha từng bước
Thì không gì trói buột được mình
Còn trói là còn vô minh
Còn buột là còn tử sinh luân trầm.
Đáng sợ là mê lầm giáo pháp
Giao đời mình cho bậc toàn năng
Thích Ca còn phải than rằng
Ba việc làm được, ba không thể làm !(1)
Vô minh là do tham dục ái
Không ái dục, trái lại là minh(2)
Minh hay không đều do mình
Chớ có đổ lỗi chống kình ghét ganh.
Vô minh vốn bất sanh, bất diệt
Thì làm sao tiêu diệt vô minh ?
Như trong Bát nhã tâm kinh
Bảo rằng không có vô minh,diệt gì ?
---------------
(1)-Tam năng tam bất năng.
(2)-“Nhơn hoài ái dục bất kiến đạo giả”.
-“Ái dục cấu tận đạo khả kiến hỷ”.
(Chương 16 Kinh Tứ Thập Nhị Chương)
Gia Thất Am 08.04.2.015-20.02.Ất Mùi.
-Tiếng chuông chiều 3 – 2.015.(1.413)
TÍN TÂM MINH(*)(25)
+ + +
Nếu như chẳng lỗi lầm gì
Không ai phí sức bày chi lắm trò.
Nào phương nầy,nào chước kia
Đủ thứ phép tắc để mà chửa sai.
Còn như bàn về tâm đây
Bất sanh thì chẳng tâm nầy tâm kia.
Bất sanh thì vạn vật lìa
Bất sanh thì chẳng còn là tâm chi.
--------------
(*)-“Vô cữu vô pháp
Bất sanh bất tâm”.
(Tam Tổ Tăng Xáng)
Dẫn :
-“Chứng thật tướng vô nhân pháp
Sát na diệt khước A ỳ nghiệp”.
-“Mộng lý minh minh hữu lục thú
Giác hậu không không vô đại thiên”.
(Chứng Đạo Ca-Huyền Giác)
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn niên.2.000.(1.414)
M Ẹ Ơ I ! (2)
(Tặng bạn đồng tu Trí Hạnh
Mẹ vừa quá vãng)
+ + +
Chiều hôm qua mẹ còn lai vãng
Sáng sớm nay mẹ chẳng nói gì
Thế là mẹ đã ra đi
Về thiện cảnh giới hưởng thì phước duyên.
Người như mẹ,hiện tiền trước mắt
Không âu lo,không mắc vướng chi
Thiện hạnh luôn khéo phát huy
Tuệ hạnh tinh tấn nghiêm trì điển kinh.
Với mẹ già, lòng tin chắc chắn
Tu hành sẽ gặp đặng thắng duyên
Còn như muốn hưởng phước điền
Thì sẽ lắm của, nhiều tiền, tuổi cao.
Nhưng mẹ ơi ! của nào còn mãi
Và xác thân tứ đại tạm nầy
Sanh già bệnh chết hằng ngày
Chưa từng thấy có một ai sống đời ?
Nên mẹ tạm nghỉ ngơi đôi bữa
Rồi theo duyên chọn lựa chốn nơi
Gieo hạt,mầm sẽ xinh tươi
Tiếp tục đến với cuộc chơi đang chờ.
Nếu mẹ muốn hành Bồ tát đạo
Thì hãy nên thọ giáo Phổ Hiền
Tha phương thử giới tùy duyên
Tiếp tục thọ mạng,hoằng truyền lý chơn.
Còn như muốn hiện thân Cư sĩ
Thì Quán Âm đại sĩ chèo thuyền
Giữa cuộc trần thế đảo điên
Tịnh bình nắm giữ, cái triền độ qua.
Con mong sao mẹ già tỉnh táo
Trong ngũ thời,bát giáo,Thế tôn
Hãy chọn lấy một pháp môn
Thích hợp vừa với chánh nhơn của mình.
Con chúc mẹ sớm kinh chiểu kệ
Giữa tam canh khắc chế tịnh thiền
Chẳng phước nào bằng phước duyên
Giác ngộ giải thoát chư thiên loài người.
--------------
Gia Thất Am 30.12.2.017-13.11.Đinh Dậu.
-Tiếng vọng 3 – 2.018.(1.415)
TÍN TÂM MINH(*)(26)
+ + +
Cảnh nầy, cảnh nọ, cảnh kia
Cảnh tùng tâm khởi,cảnh lìa tâm vong.
Cảnh không thì tâm cũng không
Không tâm,không cảnh lưỡng đồng triệt tiêu.
Năng trầm thì cảnh trục theo
Tâm mất thì cảnh lẽ đâu lại còn ?
Cảnh theo tâm,cảnh sinh tồn
Tâm không thì cảnh chẳng còn cảnh chi.
-----------------
(*)-“Năng tùy cảnh diệt
Cảnh trục năng trầm”.
(Tam Tổ Tăng Xáng)
Dẫn :
-“Pháp thân giác liễu vô nhất vật
Bản nguyên tự tánh thiên chân phật
Ngũ uẩn phù hư không khứ lai
Tam độc thủy bào hư xuất một”.
(Chứng Đạo Ca-Huyền Giác)
-“Nhật nhật đối cảnh thời
Cảnh cảnh tùng tâm xuất
Tâm cảnh bổn lai vô
Xứ xứ Ba la mật”.
(Minh Châu Hương Hải)
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn niên 2.000.(1.416)
A TU LA
(Phỏng tác thoát sự hiển lý)
+ + +
Lòng tham sân hẩy hừng nung nấu
A tu la chiến đấu không ngừng
Nữ thì luyến ái sắc thân
Hình dáng trau chuốt dung nhan mĩ miều.
Còn nam nhân phần nhiều thô kệch
Người vạm vỡ tánh nết hung hăng
Chỉ biết bồi bổ mạng căn
Dựa vào sức manh hay ăn hiếp người.
Thường gây chiến với trời Đế thích
Dốt mà lại ham thích quyền cao
Lòng tham muốn gom hết vào
Chẳng được toại ý,vung đao chém bừa.
Nhưng ác tâm vẫn thua thánh thiện
Biết bao lần tử chiến với nhau
Bại trận lại phải chui vào
Ao tù nước đọng nhưng nào tỉnh ra.
Tâm hiền lương tạo mà phước nghiệp
Gieo giống lành nhiều kiếp,nhiều đời
Nay mới sanh đặng làm người
Thọ hưởng phước báu như trời Phạm thiên.
Còn ta chẳng cần chuyên tu học
Lại hội hè tu tập ăn chơi
Gian tham mong đoạt của người
Muốn chiếm địa vị cao vời là sao ?
A tu la phải đâu ai khác
Chính là lòng tham ác sân si
Ích kỷ ganh tị chi li
Chỉ thích hưởng thụ,trong khi biếng lười.
Còn chư thiên là người mẫu mực
Có tổ chức giáo dục đàng hoàng
Sống có ích cho họ hàng
Sống có lợi cho xóm làng gần xa.
Biết yêu thương chan hòa tình nghĩa
Biết quan tâm chia sẻ áo cơm
Biết gìn tiếng tốt danh thơm
Đạo đức nhân ái nêu gương hạnh lành.
Ai có thể tranh giành phước báo
Với những người có đạo, có tâm
Biết vì lợi ích nhân sanh
Biết đem giáo pháp lý chân hiển bày ?
Biết kiêu gọi những ai lầm lỗi
Sớm quay đầu sám hối ăn năn
Biết gieo bòn giống thiện căn
Biết tạo dựng một đa năng thiên đàng.(1)
Ba ba là mẫu hàng lý tưởng(2)
Khổ đau hay vui sướng tùy mình
Ai cũng có thể Thiện sinh
Thấp cao tùy phước nghiệp mình tạo xây.
Nói tóm lại kẻ hay gây chiến
Là hạng người bị kiết sử sai
Tham sắc,tham danh,tham tài
Lòng tham không đáy nên hay hỏi đòi.
Không toại ý chửi trời mắng đất
Chuyện chi cũng gay gắt hơn thua
Biết bao nhiêu của cho vừa
Quá tham,luôn thấy mình thua mọi người.
Hưởng hết phước,cuộc đời thối đọa
Còn hiện tại vất vả kiếm ăn
Đã càn quấy lại hung hăng
Xưng hùng,xưng bá,đại bàng,đại ca.
Đó là thần A tu la đấy !
Song lẽ phải công lý vẫn hơn
Nhưng theo quy luật cộng tồn
Không một ai vắng mặt trong cuộc đời.
---------------
(1)-Ở đâu cũng tìm thấy hạnh phúc an vui.
(2)-Tam thập tam thiên.(33 tầng trời)
- Viết theo yêu cầu của Dương Văn Lộc,
Gò Vấp.
Gia Thất Am 13.04.2.015-25.02.Ất Mùi.
-Tiếng chuông chiều 3 – 2.015.(1.417)
TÍN TÂM MINH(*)(27)
+ + +
Cảnh nọ ai vẽ ai bày
Ai tạo, ai tác nên nầy nên kia.
Cảnh không tự cảnh làm ra
Nên phải có cái gọi là năng sanh.
Cảnh đã sanh, cảnh đã thành
Thế rồi cảnh lại hiện hành trong năng.
Cảnh năng tương tác tương sanh
Tâm năng,cảnh sở mối manh đây rồi.
---------------
(*)-“Cảnh do năng cảnh
Năng do cảnh năng”.
(Tam Tổ Tăng Xáng)
Dẫn :
-“Cảnh lập tâm hiện hữu
Tâm vô cảnh bất sanh
Cảnh hư tâm tịch tịch
Tâm chiếu cảnh linh linh”.
(Thiền Sư Hương Hải)
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn niên 2.000.(1.418)
HẬU PHÁP HOA
(Phóng bút đầu năm)
+ + +
Hoa là pháp, pháp là hoa
Pháp hoa,hoa pháp vốn là không hai.
Mượn hoa, dụ nói pháp nầy
Quả nhân,nhân quả xưa nay không rời.
Có nhân là có quả rồi
Có quả là biết chắc thời có nhân.
Theo dõi nhau từng bước chân
Quấn quít khắn khít như nhân với tình.
Muốn quả chẳng đeo đẳng mình
Thì đừng gieo rắc nhân tình khắp nơi.
Muốn nhân vở mọng,tịt ngòi
Ý nghiệp phải chận đứng nơi đầu nguồn.
Đập tan trái kết oan ương
Vô tội, vô phước cúng dường Như lai.(+)
Pháp hoa như thị hiển bày
Hoa Vô ưu thế cho loài hoa sen.
Phi nhân, phi quả, phi duyên
Giác ngộ giải thoát xuất triền Như lai.
Linh Thứu sơn vẫn còn đây
Cành hoa ai nắm trên tay mất,còn ?
--------------
(+)-“Vô tội phước,vô tổn ích
Tịch diệt tánh trung mạc vấn mích
Tỷ lai trần kính vị tằng ma
Kim nhật phân minh tu phẩu tích”.
(Chứng Đạo Ca-Huyền Giác)
Gia Thất Am 01.01.2.018-15.11.Đinh Dậu.
-Tiếng vọng 3 – 2.018.(1.419)
TÍN TÂM MINH(*)(28)
+ + +
Đuôi đầu lưỡng đoạn đầu đuôi
Ở đâu lại có hai nơi đuôi đầu ?
Nhìn trước thì chẳng thấy sau
Bên nầy bờ đứng,biết đâu kia bờ ?
Khởi nguyên một điểm ban sơ
Vuông tròn,dài ngắn thảy từ điểm tâm.
Quẩn quanh lưỡng đoạn tri tầm
Nhất nhất một chữ nhất đồng thái hư.
----------------
(*)-“Dục tri lưỡng đoạn
Nguyên thị nhất không”.
(Tam Tổ Tăng Xáng)
Dẫn :
-“Pháp tức vô đốn tiệm
Mê ngộ hữu trì tật”.
-“Thuyết tức tuy vạn ban
Hiệp lý hoàn quy nhất”.
(Pháp Bảo Đàn)
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn niên 2.000.(1.420)
T I N (*)
Người học đạo phải nên tin chắc
Đức Phât không dối gạt chúng ta
Giáo pháp ngài đã thuyết ra
Thí như mật ngọt rót qua bát vàng.
Nói suông sao cho bằng nếm thử
Chung quanh hoặc là giữa bát đầy
Hương thơm có gì đổi thay
Vị ngọt có chỗ đồng hay không đồng ?
Kim khẩu rót vào lòng bát ngọc
Tất cả vị giải thoát như nhau
Trẻ già, trai gái trước sau
Thử nếm đều được nhập vào Thánh môn.
-----------------------
(*)-“Học Phật đạo giả,sở phật ngôn thuyết,
giai thị tín thuận,thí như thực mật,trung
biên giai điềm,ngô kinh diệt nhĩ”.
(Kinh Tứ thập nhị chương)
(Chương thứ 39)
Gia Thất Am 18.04.2015 – 30.02.Ất Mùi
-Tiếng chuông chiều 3 – 2015.(1.421)
TÍN TÂM MINH(*)(29)
+ + +
Một không thì hai cũng không
Một đã sanh khởi,hai đồng khởi sanh.
Hữu vô, bỉ thử, giả chân
Đốn tiệm,thượng hạ,sắc không,đoạn thường.
Cái một nay đã không còn
Ngã nhân chẳng có hàm tàng bao dung.
Muôn loài vạn vật sống chung
Nhập”Vô tự tánh tánh không”khắp trùm.(+)
----------------
(*)-“Nhất không đồng lưỡng
Tề hàm vạn tượng”.
(Tam Tổ Tăng Xáng)
(+)-Nhị thập không-Kinh Đại Bát Nhã.
Dẫn “
-“Tình phàm thánh hết thể lộ chân thường
Sự lý không hai tức như như Phật”.
(Quy Sơn Linh Hựu)
-“Ma ni châu nhân bất thức
Như lai tàng lý thân thâu đắc”.
(Chứng Đạo Ca-Huyền Giác)
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn niên 2.000.(1.422)
THÁP ĐỔ
(Nhân trận động đất kinh hoàng ở
Népal Ấn Độ vào ngày 25.04.2.015)
+ + +
Bên kia trời chín tầng cao tháp cổ
Nghìn năm dư đã sụp đổ tan hoang
Bên nây trời dù có dựng đền vàng
Cũng không thể chẳng băn khoăn trong dạ.
Chỉ cần cái quả bóng kia rung nhẹ
Thì xem như thổ địa phải bó tay
Bao xôi chè hoa quả cúng xưa nay
Xem như chẳng còn ai đền, ai trả.
Không cúng kiếng thì giận hờn phạt vạ
Bảo rằng chẳng hết dạ với thần linh
Dân xứ ấy luôn tế lễ linh đình
Nhưng tại sao thần không minh,không xét ?
Thần không quyền,hay là thần không phép
Lại cũng bị đè bẹp nát tan thân ?
Vậy là thần chẳng thể cứu giúp dân
Mà đa số lại còng lưng bái phục !
Bây giờ thì cả công trình kiến trúc
Ngổn ngang và quá thảm khốc thê lương
Người còn sống với trăm nỗi đau thương
Kẻ đã chết không hòm rương chôn cất.
Người tình nguyện,kiếm tìm người khuất lấp
Người thì đem phảm vật với thuốc men
Người thì gởi lương thực với bạc tiền
Đoàn y tế, đội cứu thương, cứu hộ.
Lời chia buồn, lời động viên hổ trợ
Nhiều dân tộc nhiều lảnh thổ khác nhau
Khắp năm châu luôn hướng về nỗi đau
Của đồng loại, dù chưa bao giờ gặp.
Chỉ loài người sống chung trên quả đất
Và chính họ mới ra mặt giúp nhau
Chớ chẳng thấy ông địa, ông thần nào
Đã xuất hiện dùng phép mầu cứu rỗi ?
Nếu thần linh, sao thần không chống chỏi
Lại đổ thừa, đổ lỗi cho thiên tai
Thần là ai ? và thiên lại là ai ?
Thiêng sao nỡ ra tay tàn nhẫn thế !
Nếu sự thế xảy ra là khách thể
Thì ít nhất phải khống chế thế nào
Hoặc là lên kế hoạch dẫn dắt nhau
Di tản hay rước hết vào Thánh địa ?
Lúc cấp bách tại sao còn chia rẽ
Nếu tin ta thì ta sẽ dẫn đi
Còn những ai nhạo báng với khinh khi
Trước mắt đó ! có cái chi đâu lạ !
Trời ơi ! sao người ta thâm độc quá !
Nhân nước đục lại thuốc cá thả câu
Vì có ai đã cứu được ai đâu
Nếu thật sự, nhân ban đầu đã chín ?
Vì thế nên, lòng tin phải chánh tín
Bằng không thì tiền mất bịnh vẫn mang
Lại truyền nhiễm cả thế hệ cháu con
Vậy mà vẫn cứ tô son thếp vàng !
Địa đại động, đia tâm tàng cũng động
Gậy thiền khua mở rộng địa ngục môn
Nếu ai muốn về Thiên đường Tây phương
Thì chịu khó đợi nghìn muôn kiếp khác.
Còn ai muốn địa tạng tâm dẫn dắt
Thì chớ nên để lạc mất tâm nầy
Vì tâm là bản thể tự xưa nay
Tâm là Phật, là Như lai thường trụ.
Ngay tâm nầy đừng sự sanh, sanh sự (1)
Ngay nơi tâm mà lánh dữ làm lành
Ngay nơi tâm mà thanh tịnh,tịnh thanh
Ngay nơi tâm mà nghiệp nhân báo ứng.
Ngay nơi tâm mà thiền tu,thiền chứng
Ngay nơi tâm mà hiện ứng trùng trùng
Ngay nơi tâm mà chiếu diệu pháp luân
Biến nhất thiết,tâm tâm tâm tịch chiếu.
-------------------
(1)-“Nhàn xướng vô sanh chi khúc
Dụng thù pháp nhũ chi ân”.
(Tuệ Trung Thượng Sĩ)
(2)-Sơn bản vô Phật
Duy tồn hồ tâm
Tâm tịch nhi tri
Thị vi chơn Phật”.
(Thiền Sư Viên Chứng)
Gia Thất Am 27.04.2.015-09.03.Ất Mùi.
-Tiếng chuông chiều 3 – 2.015.(1.422)
TÍN TÂM MINH(*)(30)
+ + +
Có mắt chẳng thể không nhìn
Hãy nhìn nhưng chẳng để tình ý sanh.
Phải trái,thuận nghịch,trược thanh.
Chánh tà,uế tịnh,giả chân,thánh phàm.
Dở hay, đẹp xấu, thua hơn
Ta người,vinh nhục,vui buồn,ngã nhân.
Hữu vô, thô tế bất phân
Hẳn nhiên khỏi sợ lệch sang bên nào.
----------------
(*)-“Bất kiến tinh thô
Ninh hữu thiên đảng”.
(Tam Tổ Tăng Xáng)
Dẫn :
-“Ngộ thinh ngộ sắc như thạch thượng tài hoa.
Kiến lợi kiến danh như nhãn trung trước tiết”.
(Thiền Sư Kiến Giai)
-“Tri kiến lập tri tức vô minh bổn
Tri kiến vô tiến tư tức Niết bàn”.
(Kinh Lăng Nghiêm)
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn niên 2.000.(1.424)
T Ự T R I
(Phẩm Phạm Hạnh Kinh Niết Bàn)
+ + +
Biết cơ duyên cá nhân và đại chúng
Biết nghĩa lý giải thích đúng hay sai
Biết ngôn ngữ xử dụng dở hoặc hay
Biết ứng dụng đúng vào ngay thời điểm.(1)
Hiểu biết nhiều đó lại là một chuyện
Mà thực hiện là chuyện khó khăn đây
Nhưng không thể chẳng lưu ý điều nầy
Ai là ta, ta là ai trong cuộc ?
Không tự tri khó mà thành tựu được
Nhất là đối với lảnh vực tiếp giao
Chẳng thể ỷ vào sức mạnh tài cao
Mà phải biết nương tựa vào thính giả.
Cái cần thiết,thiện cảm tình trước đã
Rồi mới đến chuyện cảm hóa cảm thông
Bằng chẳng vậy thì chỉ phí hoài công
Và tất cả chẳng như lòng mong đợi.
Giả dụ như bữa tiệc vui dạ hội
Ta là người được mời tới tham gia
Trên bàn ăn đã được dọn sẳn ra
Những đặc sản vùng sâu,xa hiếm quý.
Nếu như ta vô tư không để ý
Cơ thể mình tỳ vị có vấn đề
Không xử lý được số thực vật kia
Nếu ngoan cố, sẽ xảy ra sự cố.
Người tự tri biết đúng nơi đúng chỗ
Biết bến nào nên đỗ hoặc nên dừng
Biết làm sao tự bảo hộ lấy thân
Chớ chẳng để khi việc xong hối tiếc.
Nên tự tri chính là điều cần thiết
Sẽ giúp cho mọi việc được giản đơn
Khi tự mình biết tháo gở cùm gông
Không cố chấp tranh công và giành việc.
Tự biết mình, chẳng là thứ chi hết
Thì không nên chen vào việc của người
Tự biết mình rắc rối bởi cái tôi
Cái tôi giải phóng được thời nhẹ nhỏm.
Người tự tri biết khiêm nhường từ tốn
Luôn xét mình có xứng đáng hay không
Luôn nép mình trước danh lợi bão giông
Luôn có mặt khi đạo phần đảm bảo.
Người tự tri biết đạo và phi đạo
Đạo thì hành, phi đạo tránh xa ra
Nên luôn luôn tự cảnh báo mình là
Kẻ phàm tục,chưa vượt qua Thánh địa.
Tự tri sẽ giúp cho ta hạn chế
Mọi lỗi lầm có thể giảm bớt đi
Theo thói quen,theo tập quán duy trì
Đã lạc hậu vẫn phát huy bảo thủ.
Tự tri sẽ giúp cho mình hành xử
Có thời gian tu chỉnh tự chính mình
Có thời gian để phủ định, xác minh
Tự biết nên hay không nên hành động
Nên tự tri là biết thiền, biết sống
Biết chánh niệm,chánh quán,chánh tư duy
Thất bồ đề phần,trạch pháp giác chi
Sẽ đưa đến Chánh biến tri,đẳng giác.
Biết tự tri nên lộ trình giải thoát
Sẽ giúp ta bước từng bước vững vàng
Với thực tế, với thực lực tự thân
Mà không vượt ngoài khả năng hiện có.
Nên tự tri thật quả là quá khó
Vì có ai tự loại bỏ mình ra ?
Đã bao đời cũng cố cho cái ta
Cái ta ấy đang hiện là chủ tể.
Kẻ tự tri sẽ biết kềm biết chế
Không hoàn toàn nhưng chẳng dễ buông trôi
Vì đã biết không tôi,không của tôi
Nên vừa mê vừa chợt hồi tỉnh lại.
Tự biết mình quả thật là lợi hại
Hai, nếu chẳng chịu dừng lại khi sai
Lợi, nếu như biết xét nét hằng ngày
Không vướng mắc,ngay đây là giải thoát.
Biết tự tri sẽ tự mình định đoạt
Vì tự biết tháo, cột chính do mình
Tự biết mình là biết được chúng sinh
Thành tựu chúng là thực hành Phật đạo.(2)
Biết tự tri là biết một phần giáo
Trong bảy phần dạy bảo của Như lai
Nikaya với kinh Niết bàn nầy
Sự xắp xếp có đổi thay đôi chút.
Biết tự tri cũng lại biết tri túc
Biết đúng thời,đúng lúc,đúng ngày giờ
Biết giải nghĩa cũng biết pháp hữu vô
Biết thứ lớp, biết căn cơ sau trước.(3)
Nên tự tri phải rõ biết từng bước
Từng bước đi sẽ từng bước tự tri
Biết đang khi ngay cái đang bất tri
Và biết ngay cái đang khi cần biết.
Tự tri sẽ không cách chi kể xiết
Vì mỗi việc mỗi việc phải tự tri
Việc đã qua nhắc lại để nghiệm suy
Việc chưa,nói để tư duy thiền quán.
Nên tự tri chỉ tạm thời lược giảng
Chớ chẳng thể nói hết đặng bằng lời
Người tự tri sẽ tự hiểu lấy thôi
Néu như muốn không xa rời Phật đạo.
Thì tự tri đương nhiên là gia bảo
Mà người người tu đạo phải nương theo
Đến toàn tri thì pháp pháp thảy đều
Là thuyền giấy, còn đẳng đeo chi nữa ?
------------------
(1)-Theo Tăng Chi Bộ Kinh Nikaya.
(2)-Theo phẩm Phật quốc Kinh Duy Ma Cật.
(3)-Theo phẩm Phạm Hạnh kinh Đại Bát
Niết Bàn.
Gia Thất Am 05.05.2015-17.03.Ất Mùi.
-Tiếng chuông chiều 3 – 2.015.(1.425)