Tuyễn Tập
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
KHÔNG-VÔ NGÃ (1)
Ta không nhất định nói các pháp đều không,
mà nhất định nói các pháp đều vô ngã.
(Luận Đại Tỳ Bà Sa)
-----
Chuyển thơ :
TA CHƯA BAO GIỜ BẢO RẰNG
TÁM MUÔN BỐN VẠN PHÁP TRẦN LÀ ”KHÔNG”
TA CHỈ NÓI VỚI CÁC ÔNG
PHÁP LÀ “VÔ NGÔ, DUYÊN SANH VÔ THƯỜNG.
-------------
Gia Thất Am 23.10.2011-27.09.Tân Mão.
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
(Biên soạn)
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc truyền)
---o---
BUÔNG BỎ (*-2)
-“Chánh pháp còn bỏ đi, huống nữa là phi pháp.”
(Kinh Trung Bộ)
-“Pháp thượng ưng xả,
Hà huống phi pháp”.
--------
Giác quán :
Cẩn thận ! Chớ hiểu sai lầm
Chẳng cần phương tiện, chẳng cần thắng duyên.
Hoặc là giữa dòng bỏ thuyền
Chắc chắn sẽ bị đắm chìm mạng vong !
Nếu muốn an toàn qua sông
Người trí sáng mắt hẳn không bỏ thuyền
Hoặc là phương tiện thắng duyên.
Khi nào thật sự đến bên kia bờ,
Thì dù thuyền mộng, thuyền mơ
Thuyền hoa Bát nhã cùng từ bỏ ngay.
Vậy nên chớ hiểu lầm sai
Phá giới, phạm luật, chửi thầy, đốt kinh.
------------
Gia Thất Am 24.10.2011-28.09.Tân Mão.
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
---o---
(*)-“Nầy chư Tỳ kheo, ta thuyết pháp như chiếc bè để
vượt đưa qua, không phải để nắm giữ lấy, chư Tỳ kheo,
các ông cần hiểu ví dụ cái bè…Chánh pháp còn phải bỏ
đi, huống nữa là phi pháp.” (Trung Bộ tập 1.Kinh ví dụ
con rắn, trang 307, dòng 06. HT Minh Châu dịch. Viện
Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành năm 1992.
(*)-Kinh Đại Bảo Tích, tập 1. Pháp hội Vô Biên Trang
Nghiêm, phẩm Vô thượng Đà La Ni, trang 124,dòng 04.
Ấn bản năm 1999, do Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch.
Có đoạn tương ưng với kinh Trung Bộ, tập 1 đã dẫn
trên .
---------------
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng kinh Nam Bắc truyền)
---o---
XIN CẢM ƠN (3)
Cảm ơn Cha Mẹ sanh thân
Cảm ơn Thầy, bạn đỡ nâng dắt dìu.
Cảm ơn mọi người tin yêu
Cho niềm khích lệ với nhiều tiện nghi.
Cảm ơn Phật, Tổ từ bi
Ban cho giáo pháp tu trì an tâm .
-------------
Mùa an cư năm Giáp Thân 2004.
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
--------
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng kinh Nam Bắc truyền)
-o-
T R I Â N (4)
Kính Thầy Hoàn Hoan (*)
(Giải Năng)
Hai lần, dưới hai mái trường
Thầy là Giáo thọ, còn con học trò.
Thầy giảng thơ văn rất hay
“Chinh phụ ngâm khúc” lung lay trường thành.
Sâu vào Phật, Tổ ngũ kinh
Thầy giảng Tứ Thập Nhị Chương mỗi tuần.
Con học, nhưng chẳng tinh cần
Vì cứ lầm tưởng cho rằng “Tiểu kinh”(+)
Nay thì Tạng, Thông, Biệt, Viên…
Ngũ thừa, tối thượng giáo truyền là đây.
Con xin tạc dạ ân Thầy !
-----------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
(*)-Giáo sư Trường Cao Đẳng Phật Học
Huệ Nghiêm.(Sài Gòn)
(+)-Tiểu kinh, có 2 ý :
1-Là quyển kinh nhỏ .
2-Là kinh dùng dạy cho người tuổi nhỏ,
mới tu học, trình độ thấp .
-----------
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng kinh Nam Bắc truyền)
-o-
DẪN NHẬP (5)
-Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma từ Tây sang, há lại có ý ?
-Vĩnh Gia Huyền Giác, há chẳng nói với Lục Tổ Huệ Năng rằng :
“Phân biệt cũng chẳng phải là ý”.
Do đó, kẻ hậu học nầy làm sao dám vượt qua Tổ, Thầy, lại đa mang ý nầy hoặc ý khác .
Đây chỉ là ngẫu hứng trong lúc đọc học, thấy có chỗ tương ứng với kinh Tứ Thập Nhị Chương, liền ghi chú. Nay nhân khi nhàn tịnh, đem biên tập lại, để cùng Pháp lữ gần xa thêm một lần ôn lại bản kinh nầy.
Vì nội dung kinh quá cô đọng, lại rất cần thiết với người thật sự muốn tu hành, muốn tự thân được an lạc, giải thoát thật
sự; chớ kẻ nầy không có cái ý chi như Thiền sư Huyền Giác đã nói trong Chứng đạo ca : “Trích diệp tầm chi ngã bất năng” .
Vì thế, tôi không đề cập đến thời điểm khởi nguyên, cùng duyên do xuất xứ kinh bản, cũng chẳng phân chia chương mục,
phân loại các độ; bởi việc nầy đã có các nhà Phật học uyên bác ở Viện nghiên cứu Phật học làm rồi .
Nay, tôi chỉ xin góp một phần nhỏ, làm một công việc nhỏ,
trong các việc lớn mà các bậc Tôn túc đã làm .
-Tổ trước không có ý !
-Tổ sau không có ý !
-Chúng ta há lại có ý !
-Ý gì ?
Há chẳng nghe Tổ sư Đạt Ma trả lời “Không biết” khi Lương
Vũ Đế hỏi ngài “Đối trẫm là ai ?”.
Há có nhân ngã bỉ thử ư ?
-Thế Thân Bồ tát đâu đã chẳng tuyên bố rằng “ Như Thế tôn
ngôn, nhất thiết pháp vô ngã ”.
-Long Thọ Bồ tát thì dõng dạc bảo : “ Chúng nhân duyên sanh pháp, ngã thuyết tức thị không “.
------------------
Gò Vấp mùa An cư năm Giáp Thân 2004
Trân trọng
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
THƯ MỤC TƯƠNG ƯNG (6)
1-Đệ thất chương. (Chương thứ bảy).
-Kinh Tạp A hàm, tập 4, trang 187, ấn bản năm 1995 .
-Tương Ưng Bộ kinh, tập1,trang 352, ấn bản năm 1993 .
2-Đệ bát chương. (Chương thứ tám) .
-Kinh Tạp A Hàm, tập 4, trang 191, ấn bản năm 1995 .
-Tương Ưng Bộ kinh, tập 1, trang 36, ấn bản năm 1993 .
3-Đệ thập chương. (Chương thứ mười) .
-Kinh Hoa Nghiêm, tập 4, trang 651, ấn bản năm 1968 .
4-Đệ thập nhất chương. (Chương thứ mười một) .
-Kinh Trung A Hàm, tập 3, trang 542, ấn bản năm 1992 .
-Kinh Trung A Hàm, tập 4,113, ấn bản năm 1992 .
-Tăng Chi Bộ kinh, tập 4, trang 127, ấn bản năm 1996 .
5-Đệ thập ngũ chương. (Chương thứ mười lăm) .
-Tăng Chi Bộ kinh, tập 3, trang 587, ấn bản năm 1966 .
-Kinh Phật Di Giáo. (Phật Tổ ngũ kinh) trang 358, ấn bản
năm 1998.
6-Đệ thập lục chương. (Chương thứ mười sáu) .
-Tăng Chi Bộ kinh, tập 1, trang 23, ấn bản năm 1966 .
7-Đệ thập thất chương. (Chương thứ mười bảy) .
-Kinh Hoa Nghiêm, tập 4, trang 653, ấn bản năm 1968 .
8-Đệ nhị thập tứ chương. (Chương thứ hai mươi bốn) .
-Tăng Chi Bộ kinh, tập 2, trang 414, ấn bản năm 1996 .
-Tăng Chi Bộ kinh, tập 1, trang 09, ấn bản năm 1996 .
-Tăng Chi Bộ kinh, tập 3, trang 555, ấn bản năm 1996 .
9-Đệ nhị thập ngũ chương. (Chương thứ hai mươi lăm) .
10-Đệ tam thập chương. (Chương thứ ba mươi) .
-Kinh Trung A Hàm, tập 4, trang 505, ấn bản năm 1992 .
-Trung Bộ kinh, tập 2, trang 62, ấn bản năm 1992 .
-Tiểu Bộ kinh, tập 3, trang 731, ấn bản năm 2000 .
11-Đệ nhị thập thất chương. (Chương thứ hai mươi bảy) .
-Kinh Tăng Nhất A Hàm, tập 3, trang 159, ấn bản năm 1998 .
-Tương Ưng Bộ kinh, tập 4, trang 293, ấn bản năm 1993 .
-Kinh Hoa Nghiêm, tập 1, trang 529, ấn bản năm 1968 .
-Kinh Hoa Nghiêm, tập 4, trang 474, ấn bản năm 1968 .
-Tiểu Bộ kinh, tập 1, trang 374, ấn bản năm 1999 .
-Tiểu Bộ kinh, tập 1, trang 448, ấn bản năm 1999 .
-Kinh Tạp A Hàm, tập 4, trang 238, ấn bản năm 1995 .
-Kinh Tăng Nhất A Hàm, tập 3, trang 161, ấn bản năm 1998 .
12-Đệ nhị thập cửu chương. (Chương thứ hai mươi chín) .
-Kinh Tăng Nhất A Hàm, tập 3, trang 110, ấn bản năm 1998 .
-Kinh Trường A Hàm, tập 1, trang205, ấn bản năm 1991 .
-Kinh Tạp A Hàm, tập 4, trang 214, ấn bản năm 1995 .
-Trường Bộ kinh, tập 1, trang 644, ấn bản năm 1991 .
-Kinh Đại Bảo Tích, tập 3, trang 420, ấn bản năm 1999 .
13-Đệ tam thập nhị chương. (Chương thứ ba mươi hai) .
-Kinh Bát Đại Nhân Giác, Minh Quang dịch, ấn bản năm 2001.
-Kinh Bát Đại Nhân Giác, Thanh Từ dịch, ấn bản năm 1973 .
-Trung Bộ kinh, tập 2, trang 600, ấn bản năm 1992 .
-Kinh Diệu Pháp Liên Hoa(âm nghĩa)trang 140, ấn bản năm 1964.
-Kinh Niết Bàn, tập 1, trang 422, ấn bản năm 1967 .
-Tiểu Bộ kinh, tập 1, trang 74, ấn bản năm 1999 .
-Tương Ưng Bộ kinh, tập 4, trang 514, ấn bản năm 1993 .
-Tiểu Bộ kinh, tập 7, trang 683, ấn bản năm 2002 .
-Tương Ưng Bộ kinh, tập 2, trang 197, ấn bản năm 1993 .
-Trung Bộ Kinh, tập 2, trang 596, ấn bản năm 1993 .
-Kinh Tạp A Hàm, tập 4, trang 221, ấn bản năm 1995 .
-Kinh Tạp A Hàm, tập 3, trang 290, ấn bản năm 1994 .
-Kinh Trung A Hàm, tập 3, trang 501, ấn bản năm 1992 .
-Kinh Trung A Hàm, tập 2, trang 539, ấn bản năm 1992 .
-Tương Ưng Bộ kinh, tập 1, trang 55, ấn bản năm 1993 .
-Kinh Trung A Hàm, tập 4, trang 707, ấn bản năm 1991 .
14-Đệ tam thập tam chương. (Chương thứ ba mươi ba) .
-Tăng Chi Bộ kinh, tập 2, trang 459, ấn bản năm 1996 .
-Kinh Tăng Nhất A Hàm, tập 2, trang 281, ấn bản năm 1998 .
-Tăng Chi Bộ kinh, tập 2, trang 450, ấn bản năm 1993 .
15-Đệ tam thập tứ chương. (Chương thứ ba mươi bốn) .
-Tăng Chi Bộ kinh, tập 3, trang 115, ấn bản năm 1996 .
-Kinh Tăng Nhất A Hàm, tập 1, trang 420, ấn bản năm 1997 .
-Kinh Trung A Hàm, tập 3, trang 49, ấn bản năm 1992 .
-Kinh Tạp A Hàm, tập 1, trang 480, ấn bản năm 1993 .
16-Đệ tam thập ngũ chương. (Chương thứ ba mươi lăm) .
-Tăng Chi Bộ kinh, tập 1, trang 459, ấn bản năm 1996 .
-Kinh Tạp A Hàm, tập 4, trang 421, ấn bản năm 1995 .
-Kinh Trung A Hàm, tập 3, trang 647, ấn bản năm 1992 .
-Trung Bộ kinh, tập 3, trang 550, ấn bản năm 1992 .
17-Đệ tam thập lục chương. (Chương thứ ba mươi sáu) .
-Kinh Đại Bát Niết Bàn, tập 1, trang 65, ấn bản năm 1967 .
18-Đệ tam thập thất chương. (Chương thứ b mươi bảy) .
-Tiểu Bộ kinh, tập 1, trang 420, ấn bản năm 1999 .
-Kinh Đại Bảo Tích, tập 7, trang 376, ấn bản năm 1999 .
--------------
Mùa An cư năm Giáp Thân 2004.
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(7)
(VÀO KINH)
Dịch âm : Đệ thất chương .
-“Phật ngôn; Hữu nhơn văn ngô thủ đạo, hành đại nhân từ, cố trí
mạ Phật, Phật mặc bất đối. Mạ chỉ, vấn viết : Tử dĩ lễ tùng nhơn, kỳ nhơn bất nạp, lễ quy tử hồ ? Đối viết : Quy hỷ ! Phật ngôn : Kim tử mạ ngã, ngã kim bất nạp, tử tự trì họa, quy tử thân hỷ ! Du hưởng ứng thinh, ảnh chi tùy hình, chung vô miễn ly, thận vật
vi ác”.
---o---
Dịch nghĩa : Chương thứ bảy .
-Phật dạy : Có người nghe ta giữ đạo, thực hành lòng đại nhân từ,
nên đến mắng ta, ta làm thinh không đáp. Người kia thôi mắng, ta
hỏi rằng : Ông đem lễ vật cho người, người kia không nhận, lễ ấy có
về ông chăng ?
-Đáp rằng : Về chứ !
Phật nói rằng : Ông mắng ta, giờ ta không nhận, thì ông tự chuốc họa vào thân ông rồi, cũng như “ Vang theo tiếng, bóng theo hình” hẳn không hể rời nhau. Vậy thời cẩn thận, chớ có làm ác .
(Hoàn Quan Thích Giải Năng dịch)
Dẫn :
-Để đoạn kinh trên sáng tỏ hơn, tôi xin dẫn câu chuyện đối đáp
trong kinh Tạp A Hàm, tập 4, trang 187, ấn bản năm 1995, do nhị vị
Hòa thượng Thiện Siêu và Thanh Từ dịch.
-Tôi nghe như vầy :
Một thời Phật trú tại nước Xá Vệ, rừng cây Kỳ Đà, trong vườn Cấp
Cô Độc. Khi ấy có thiếu niên Bà la môn tên Tân Kỳ Ca, đến trước mặt Phật thốt ra những lời thô ác, bất thiện, sân si, trách mắng. Bấy giờ Thế Tôn bảo Tân Kỳ Ca :
-Vào những ngày tốt, Anh có mời bà con thân thuộc lại để đãi vật thực không ?
Tân Kỳ Ca đáp :
-Có ! Cù Đàm !
-Nếu những người bà con của Anh không nhận vật thực thì sao ?
-Nếu họ không nhận thì vật thực ấy về tôi .
-Cũng như vậy, Anh đến trước mặt Như lai thốt ra những lời thô ác bất thiện, hủy nhục, trách mắng, như Ta không nhận thì những lời trách mắng ấy thuộc về ai ?
-Đúng thế, Cù Đàm ! Người kia tuy không nhận, nhưng đã tặng nhau rồi thì coi như đã cho .
-Như thế không gọi là tặng nhau, thì đâu được gọi là cho nhau ? Tân Kỳ hỏi :
-Thế nào mới gọi là tặng nhau, cho nhau ? Thế nào là không nhận
của tặng nhau, không gọi là cho nhau ?
Phật bảo Tân Kỳ :
-Thế nầy đây : Nếu tặng mắng đáp lại mắng, tặng sân đáp lại sân,
tặng đánh đáp lại đánh, đấu đáp lại đấu; đó mới gọi là tặng nhau,
mới gọi là cho nhau. Nầy Tân Kỳ ! Nếu tặng mắng không đáp lại mắng, tặng sân không đáp lại sân, tặng đánh không đáp lại đánh,
tặng đấu không đáp lại đấu; như thế chẳng phải là tặng nhau,
chẳng gọi là cho nhau .
Tân Kỳ thưa :
-Cù Đàm ! Tôi nghe các bậc lão túc hành đạo Bà la môn cổ xưa nói : “Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác bị mắng chửi, mạ lỵ, quở trách, thì không sân, không giận”, mà nay Cù Đàm lại có sân, có giận ư ?
Thế Tôn nói kệ :
Không sân đâu nổi sân
Chánh mạng để điều phục
Tâm chánh trí giải thoát
Người trí tuệ không sân
Người lấy sân đáp sân
Thì chính là người ác.
Không lấy sân đáp sân
Điều phục giặc khó điều
Không sân thắng sân hận.
Bấy giờ Tân Kỳ bạch Phật :
-Thưa Cù Đàm ! Con xin sám hối, con thật như ngu, như si, không biện biệt, không hiền thiện, ở trước mặt Sa môn Cù Đàm dám thốt ra lời thô ác bất thiện, sân si, trách mắng .
Sau khi sám hối xong, Tân Kỳ nghe lời Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ làm lễ ra về .
---o---
-Tiếp theo là một câu chuyện khác nữa trong Tương Ưng Bộ kinh tập 1, trang 352, ấn bản năm 1993, do Hòa thượng Minh Châu dịch.
Chép rằng :
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm)
tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc .
Bà la môn Akkosaka Bhàradvàja được nghe Bà la môn thuộc dòng họ Bhàradvàja đã xuất gia với Thế Tôn, từ bỏ gia đình, sống không gia đình .
Ông phẫn nộ, không hoan hỷ, đi đến Thế Tôn; sau khi đi đến, nói những lời không tốt đẹp, ác ngữ, phỉ báng và nhiếc mắng Thế Tôn.
Được nghe nói vậy, Thế Tôn nói với Bà la môn Akkosaka -Bhàradvàja rằng :
-Nầy Bà la môn, Ông nghĩ thế nào ? Các thân hữu, bà con huyết thống, các khách có đến viếng thăm Ông không ?
-Thưa Tôn giả Gotama, thỉnh thoảng, các thân hữu, bà con huyết thống có đến viếng thăm tôi .
-Nầy Bà la môn, Ông nghĩ thế nào ? Ông có sửa soạn cho họ các món ăn loại cứng, loại mềm và các loại đồ nếm không ?
-Thưa Tôn giả Gotama, thỉnh thoảng tôi có sửa soạn cho họ các món ăn loại cứng, loại mềm và các đồ nếm .
-Nhưng nầy Bà la môn, nếu họ không thâu nhận thì các món thức ăn ấy về ai ?
-Thưa Tôn giả Gotama, nếu họ không thâu nhận, thời các món ăn ấy về lại chúng tôi .
-Cũng vậy, nầy Bà la môn, nếu Ông phỉ báng chúng tôi là người không phỉ báng; nhiếc mắng chúng tôi là người không nhiếc mắng;
gây lộn với chúng tôi là người không gây lộn; chúng tôi không thâu nhận sự việc ấy từ Ông, thời nầy Bà la môn, sự việc ấy về lại Ông .
Nầy Bà la môn, ai phỉ báng lại khi bị phỉ báng, nhiếc mắng lại khi bị nhiếc mắng, gây lộn lại khi bị gây lộn, thời như vậy, nầy Bà la môn, người ấy được xem là đã hưởng thọ, đã san sẻ với Ông. Còn chúng tôi không cùng hưởng thọ sự việc ấy với Ông, không cùng san sẻ sự việc ấy với Ông, thời nầy Bà la môn, sự việc ấy về lại Ông ! Nầy Bà la môn, sự việc ấy về lại Ông !...
Thế Tôn thuyết kệ :
Với người không phẫn nộ
Phẫn nộ từ đâu đến ?
Sống chế ngự, chánh mạng,
Giải thoát nhờ chánh trí.
Vị ấy sống như vậy
Đời sống được tịch tịnh.
Những ai bị phỉ báng,
Trở lại phỉ báng người,
Kẻ ấy làm ác mình,
Lại làm ác cho người.
Những ai bị phỉ báng,
Không phỉ báng chống lại,
Người ấy đủ thắng trận,
Thắng cho mình, cho người.
Vị ấy tìm lợi ích
Cho cả mình và người.
Và kẻ đã phỉ báng,
Tự hiểu, lắng nguôi dần,
Bậc Y sư cả hai,
Chữa mình, chữa cho người,
Quần chúng nghĩ là ngu,
Vì không hiểu chánh pháp.
Khi được nói như vậy, Bà la môn Akkosaka Bhàradvàja bạch Thế Tôn :
-Thật là vi diệu thay, Tôn giả Gotama !...
Con xin quy y Thế Tôn Gotama, quy y Pháp và quy y Tỳ Kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama cho con được xuất gia tu học với Tôn giả Gotama và xin được thọ đại giới …
---o---
Có thể nói rằng, hai mẫu chuyện kể trên rất giống với bài kinh trong chương thứ bảy của kinh Tứ thập nhị chương. Nay xin cống hiến để quý vị có thêm tài liệu đọc học; hy vọng sẽ có thêm những câu chuyện đạo tương tợ như vậy được dẫn ra từ các bản kinh khác trong Đại tạng .
--------------
Mùa An cư năm Giáp Thân 2004.
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(8)
Dịch âm : Đệ bát chương .
-Phật ngôn : Ác nhơn hại hiền giả, du ngưỡng thiên chi thóa, thóa bất chí thiên, hoàn tùng kr đọa. Nghịch phong dương trần, trần bất chí bỉ, hoàn bộn kỷ thân, hiền bất khả hủy, tội tất diệt kỷ .
Dịch nghĩa : Chương thứ tám .
-Phật dạy rằng : Kẻ ác hại người hiền chẳng khác nào ngước lên trời phun nước miếng, nước miếng chẳng đến trời mà trở lại rơi nhằm mình; ngược gió giê bụi, bụi chẳng đến người, trở lại dính vào thân. Người hiền chẳng thể hại mà họa ắt diệt mình .
(Hoàn Quan Thích Giải Năng dịch)
Dẫn :
-Xin dẫn câu chuyện tương ứng sau đây trong kinh Tạp A Hàm, tập 1,
trang 191, ấn bản năm 1995, do nhị vị Hòa thượng Thiện Siêu và Hòa thượng Thanh Từ dịch. Có ghi :
-Tôi nghe như vầy :
Một thời Phật trú tại phía đông nước Xá vệ, trong giảng đường Lộc tử mẫu .
Bấy giờ sáng sớm Thế Tôn đắp y, ôm bát vào thành Xá vệ khất thực, lúc ấy Bà la môn Kiên mạ bà la đậu bà giá, vừa thấy Thế Tôn liền phát ra những lời thô ác, bất thiện, sân si, trách mắng và hốt bụi đất ném vào Thế Tôn, khi ấy có gió thổi ngược, bụi kia bay ngược lại dính đầy người ông ta .
Thế Tôn nói kệ :
Nếu người không sân hận
Có mạ nhục cách mấy
Thanh tịnh không dính nhơ
Ác ấy trở về mình
Như người tung bụi kia
Ngược gió bám đầy mình.
Bà la môn bạch Phật :
-Thưa Cù Đàm ! Con xin sám hối, con thật như ngu, như si, không biện biệt, không hiền thiện, làm sao ở trước mặt Cù Đàm lại dám phát ra những lời thô ác, bất thiện, máng nhiếc, quở trách !
-Phật nói kinh nầy xong, Bà la môn nghe lời Phật dạy hoan hỷ, tùy
hỷ rồi lui ra .
-Và sau đây là một bài kệ trong Tương Ưng Bộ kinh, tập 1, trang 36, ấn bản năm 1993, do Hòa thượng Minh Châu dịch .
Kệ viết :
Không xúc, không có chạm
Có xúc, thời có chạm
Nên hại người không hại
Tức có xúc có chạm
Ai hại người không hại
Người tịnh, không ô nhiễm
Kẻ ngu hái quả ác
Như ngược gió tung bụi.
--------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(9)
Dịch âm : Đệ thập chương .
-Phật ngôn : Đổ nhơn thí đạo, trợ chi hoan hỷ, đắc phước thậm đại,
Sa môn vấn viết : Thử phước tận hồ ? Phật ngôn : Thí như nhất cự chi hỏa, sổ thiên bách nhơn các dĩ cự lai phân thủ, thục thực trừ minh, thử cự như cố, phước diệc như chi .
-- -o---
Dịch nghĩa : Chương thứ mười .
-Phật dạy rằng : Thấy người làm đạo bố thí, vui vẻ giúp đó thì được phước rất lớn .
Có thầy Sa môn hỏi rằng :
-Phước ấy có hết không ?
Phật dạy : Thí như lửa của một cây đuốc, vài trăm ngàn người đều dùng đuốc đến chia nhau mà lấy lửa để nấu ăn hay thấp sáng,
nhưng cây đuốc kia vẫn như cũ. Phước người bố thí cũng như thế.
.
(Hoàn Quan Thích Giải Năng dịch)
DẪN :
-Dù không thật sát với văn trong chương thứ mười, nhưng nội dung thì khá đầy đủ, như đoạn kinh sau đây trong kinh Hoa Nghiêm, tập 4, trang 651, ấn bản năm 1968, do Hòa thượng Trí
Tịnh dịch :
-Như một ngọn đèn đem thắp trăm ngàn đèn khác, mà ngọn đèn nầy không tổn giảm. Cũng vậy, Bồ đề tam của Bồ tát sanh thành tam thế Phật trí, mà tâm nầy không giảm, không hết .
-Như đem một ngọn đèn vào trong nhà tối, thời có thể phá trừ sự
tối tăm đã ngàn năm. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ tát vào
trong tâm của chúng sanh, thời có thể trừ hết những phiền não
nghiệp chướng trong trăm ngàn vạn ức bất khả tư nghì kiếp .
-Như chút ít lửa tùy đem nhúm đốt chỗ nào thời ngọn lửa càng thêm mạnh. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ tát tùy chỗ nào phan duyên thì trí tuệ càng mạnh .
------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(10)
Dịch âm : Đệ thập nhất chương .
-Phật ngôn : Phạn ác nhơn bá bất như phạn nhất thiện nhơn; phạn thiện nhơn thiên, bất như phạn nhất trì ngũ giới giả; phạn ngũ giới giả vạn, bất như phạn nhất Tu Đà Hoàn; phạn bá vạn Tu Đà Hoàn, bất như phạn nhất Tư Đà Hàm; phạn thiên vạn Tư Đà Hàm, bất như phạn nhất A Na Hàm; phạn nhất ức A Na Hàm, bất như phạn nhất
A La Hán; phạn thập ức A La Hán, bất như phạn nhất Bích Chi Phật; phạn bá ức Bích Chi Phật, bất như phạn tam thế chư Phật; phạn thiên ức tam thế chư Phật, bất như phạn nhất vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng chi giả .
---o---
Dịch nghĩa : Chương mười một .
-Phật dạy rằng : Cho một trăm người ác ăn, không bằng cho một người lành ăn; cho một ngàn người lành ăn, không bằng cho một người trì ngũ giới ăn; cho một muôn người trì ngũ giới ăn, không bằng cúng dường cho một vị Tu Đà Hoàn ăn; cúng dường cho một trăm muôn vị Tu Đà Hoàn ăn, không bằng cúng dường cho một vị Tư Đà Hàm ăn; cúng dường cho một muôn ngàn vị Tư Đà Hàm ăn,
Không bằng cúng dường cho một vị A Na Hàm ăn; cúng dường cho một ức vị A Na Hàm ăn, không bằng cúng dường cho một vị A La Hán ăn; cúng dường cho mười ức vị A La Hán ăn, không bằng cúng dường cho một vị Bích Chi Phật ăn; cúng dường cho một trăm ức vị Bích Chi Phật ăn, không bằng cúng dường cho tam thế chư Phật ăn; cúng dường cho một ngàn ức tam thế chư Phật ăn, không bằng cúng dường cho một vị vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng ăn .
(Hoàn Quan Thích Giải Năng dịch)
DẪN :
-Tương ưng với kinh thứ mười một trên, trong kinh Trung A Hàm, tập3, trang 524, ấn bản năm 1992, do Viện Cao Đẳng Phật học Hải Đức Nha Trang dịch. Có ghi lại như vầy :
…Nầy Cư sĩ, Phạm chí Tùy Lam đã thực hành đại bố thí, và bố thí
thức ăn cho phàn phu toàn cõi Diêm phù như vậy; nếu lại có bố thí thức ăn cho một vị Tu đà hoàn, thì so với sự bố thí kia, sự bố thí nầy hơn nhiều lắm .
Nầy Cư sĩ, Phạm chí Tùy Lam đã thực hành đại bố thí, bố thí thức ăn cho toàn cõi Diêm phù, bố thí thức ăn cho một trăm vị Tu đà hoàn như thế; lại nếu có người bố thí thức ăn cho một vị Tư đà hàm, thì so với sự bố thí kia, sự bố thí nầy hơn nhiều lắm .
Nầy Cư sĩ, Tùy Lam đã thực hành đại bố thí, bố thí thức ăn cho phàm phu toàn cõi Diêm phù, bố thí thức ăn cho một trăm vị Tu đà hoàn, cho một trăm vị Tư đà hàm như thế; nếu lại có người bố thí thức ăn cho một vị A na hàm, thì so với sự bố thí kia, sự bố thí nầy hơn nhiều lắm .
Nầy Cư sĩ, Phạm chí Tùy Lam thực hành đại bố thí, bố thí thức ăn cho phàm phu toàn cõi Diêm phù, bố thí thức ăn cho một trăm vị Tu đà hoàn, một trăm vị Tư đà hàm, một trăm vị A na hàm như thế; nếu lại có người bố thí thức ăn cho một vị A la hán, thì so với sự bố thí kia, sự bố thí nầy hơn nhiều lắm .
Nầy Cư sĩ, Phạm chí Tùy Lam thực hành đại bố thí, bố thí thức ăn cho phàm phu toàn cõi Diêm phù, bố thí thức ăn cho một trăm vị Tu đà hoàn, một trăm vị Tư đà hàm, một trăm vị A na hàm, một trăm vị A la hán như vậy; nếu lại có người bố thí thức ăn cho một vị Bích chi Phật, thì so với sự bố thí kia, sự bố thí nầy hơn nhiều lắm.
Nầy Cư sĩ, Phạm chí Tùy Lam thực hành đại bố thí, bố thí thức ăn cho toàn thể phàm phu cõi Diêm phù, bố thí thức ăn cho một trăm vị Tu đà hoàn, cho một trăm vị Tư đà hàm, một trăm vị A na hàm, một
trăm vị A la hán, một trăm vị Bích chi Phật như vậy; nếu lại có người bố thí thức ăn cho một đức Như lai, bậc Vô sở trước, Đẳng Chánh Giác, thì so với sự bố thí kia, sự bố thí nầy hơn nhiều lắm …
-Tiếp theo là một đoạn khác trong Tăng Chi Bộ kinh, tập 4, trang 127, ấn bản năm 1996, do Hòa thượng Minh Châu dịch. Chép rằng :
Nầy gia chủ Anàthapindika, dầu Bà la môn Velàma bố thí có rộng lớn, nếu có ai bố thí cho một người chánh kiến, bố thí nầy lớn hơn quả lớn kia. Nầy gia chủ, dầu Bà la môn Velàma bố thí có rộng lớn và có ai bố thí cho một trăm người chánh kiến, và có ai bố thí cho một trăm vị Nhất lai, bố thí nầy quả lớn hơn bố thí kia. Nầy gia chủ, dầu cho Bà la môn Velàma bố thí rộng lớn, và có ai bố thí cho một trăm vị Nhất lai, và có ai bố thí cho một trăm vị Bất lai, bố thí nầy quả lơn hơn bố thí kia. Nầy gia chủ, dầu Bà la môn Velàma bố thí có rộng lớn, và có ai bố thí cho một trăm vị Bất lai, và có ai bố thí cho một vị A la hán, bố thí nầy quả lớn hơn bố thí kia. Nầy gia chủ, dầu Bà la môn Velàma có bố thí rộng lớn, và có ai bố thí cho một trăm vị A la hán, và có ai bố thí cho một vị Độc Giác Phật, bố thí nầy quả lớn hơn bố thí kia. Nầy gia chủ, dầu Bà la môn Velàma bố thí có rộng lớn, và có người bố thí cho một trăm vị Độc Giác Phật, có ai bố thí cho Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, bố thí nầy quả lớn hơn bố thí kia …
-Sau cùng, xin dẫn thêm một đoạn khác trong kinh Trung A Hàm,
tập 4, trang113, ấn bản năm 1992, cũng do Viện Cao Đẳng Phật Học Hải Đức Nha Trang dịch .
…Nầy A Nan, thế nào là mười bốn loại bố thí cho riêng từng người
sẽ được đại phước, được đại quả, được đại công đức, được đại quảng báo ? Là Thiện nam tử, hay Thiện nữ nhơn bố thí cho đức Như Lai, bố thí cho Duyên Giác, bố thí cho A la hán hướng, bố thí cho A
na hàm, bố thí cho A na hàm hướng, bố thí cho Tư dà hàm, bố thí cho Tư đà hàm hướng, bố thí cho Tu đà hoàn, bố thí cho Tu đà hoàn
hướng, bố thí cho Tiên nhơn, ngoại đạo ly dục, bố thí cho người tinh tấn, bố thí cho người không tinh tấn, bố thí cho súc sanh .
Nầy A Nan, bố thí cho súc sanh được phước trăm lần hơn, bố thí cho người không tinh tấn được phước ngàn lần hơn, bố thí cho người tinh tấn được phước trăm lần hơn, bố thí cho Tiên nhơn,
ngoại đạo ly dục được phước ức trăm ngàn lần hơn, bố thí cho vị Tu đà hoàn hướng được phước vô lượng, bố thí cho vị đắc Tu đà hoàn được phước được phước vô lượng, bố thí cho vị Tư đà hàm hướng được phước vô lượng, bố thí cho vị đắc Tư đà hàm phước vô lượng, bố thí cho vị A na hàm hướng được phước vô lượng, bố thí cho vị đắc A na hàm được phước vô lượng, bố thí cho vị A la hán hướng được phước vô lượng, bố thí cho vị đắc A la hán được phước vô lượng, huống nữa là bố thí cho đức Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác ư ? Đây là mười bốn loại bố thí riêng cho từng người, sẽ được đại phước, được đại quả, được đại công đức,
được đại quảng báo .
---------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(11)
Dịch âm : Đệ thập ngũ chương .
-Sa môn vấn Phật : Hà giả đa lực ? Hà giả tối minh ? Phật ngôn : Nhẫn nhục đa lực, bất hoài ác cố, kiêm gia an kiện, nhẫn giả vô ác tất vi nhân tôn. Tâm cấu diệt tận, tịnh vô hà uế, thị vi tối minh. Vị hữu
thiên địa đãi ư kim nhật, thập phương sở hữu, vô hữu bất kiến, vô hữu bất tri, vô hữu bất văn, đắc nhất thiết trí, khả vị minh hỷ .
Dịch nghĩa : Chương mười lăm :
-Sa môn hỏi Phật : Những gì là rất mạnh ? Những gì là rất sáng ? Phật dạy :
Nhẫn nhục là rất mạnh, vì chẳng ôm lòng ác, lại thân an kiện; kẻ nhẫn nhục không làm ác, tất được người tôn quý. Tâm cấu diệt hết, sạch chẳng còn vết nhơ, ấy là rất sáng, bao nhiêu sự vật trong mười phương, từ khi chưa có trời đất cho đến ngày nay; chẳng có vật nào là không thấy, chẳng có điều gì là không biết, chẳng có việc gì là không nghe, được nhất thiết trí, có thể gọi là rất sáng vậy .
(Hoàn Quan Thích Giải Năng dịch)
Dẫn :
Xin dẫn một đoạn trong kinh Phật Di Giáo, để làm sáng tỏ thêm cho phần thứ nhất nơi chương thứ mười lăm về việc đức Phật trả lời vị Sa môn hỏi “ Thế nào là sức mạnh “ .
-Phật Di Giáo kinh, phẩm đối trị sân nhuế, trong tập Phật Tổ ngũ kinh, trang 358, ấn hành năm 1998, do Hòa thượng Thích Giải Năng tự Hoàn Quan dịch .
Phật dạy : Người tu hạnh nhẫn, mới có thể gọi là người có sức mạnh. Nếu ai không thể nhận lãnh những sự cai độc của lời mắng ác như uống nước cam lồ, thì không thể gọi là người trí tuệ nhập đạo .
Âm Hán : “Năng hành nhẫn giả, nãi khả danh vi hữu đại lực nhơn. Nhược kỳ bất năng nhẫn thọ ác mạ chi độc như ẩm cam lộ giả, bất danh nhập đạo trí tuệ nhơn dã” .
Và bài kinh Sức mạnh 1, trong Tăng Chi Bộ tập 3, trang 578, ấn bản năm 1996, do Hòa thượng Thích Minh Châu dịch. Có đoạn như sau:
-Nầy các Tỳ kheo, có tám sức mạnh nầy. Thế nào là tám ?
-Nầy các Tỳ kheo, sức mạnh của con nít là khóc; sức mạnh của đàn
bà là phẫn nộ; sức mạnh của người ăn cướp là vũ khí; sức mạnh của vua chúa là uy quyền; sức mạnh của kẻ ngu là áp đảo; sức mạnh của bậc Hiền trí là cảm hóa; sức mạnh của vị nghe nhiều là thẩm sát; sức mạnh của Sa môn, Bà la môn là nhẫn nhục .
Nầy các Tỳ kheo, đây là tám sức mạnh .
-----------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(12)
Dịch âm : Đệ thập lục chương .
-Phật ngôn : Nhơn hoài ái dục bất kiến đạo giả. Thí như trừng thủy trí thủ giáo chi, chúng nhơn công lâm vô hữu đồ kỳ ảnh giả, nhơn dĩ
ái dục giao thố, tâm trung trọc hưng, cố bất kiến Đạo. Nhữ đẳng Sa môn đương xả ái dục, ái dục cấu tận, Đạo khả kiến hỷ .
Dịch nghĩa : Chương mười sáu :
-Phật dạy : Người ôm giữ lòng ái dục chẳng thấy được Đạo. Thí như nước được lóng trong lại lấy tay quấy nó, mọi người cùng đến xem không thấy được bóng mình. Người vì ái dục nhau không dứt mà cấu trọc trong tâm nỗi dậy, nên không thấy Đạo .
Thế nên, Sa môn các ông phải dứt bỏ ái dục, cấu trược ái dục hết rồi mới thấy được Đạo .
(Hoàn Quan Thích Giải Năng dịch)
DẪN :
-Tương ứng với bài kinh nơi chương mười sáu, trong Tăng Chi Bộ kinh, tập 1, trang 23, ấn bản năm 1996, do Hòa thượng Minh Châu dịch. Phẩm Đặc hướng và trong sáng có đoạn :
-Ví như, nầy các Tỳ kheo, một hồ nước uế nhớp, bị khuấy động, đục bùn. Tại đấy có người có mắt, đứng bên bờ, không thể thấy các con ốc, các con sò, các hòn sạn, các hòn sỏi, các đàn cá qua lại, đứng yên. Vì cớ sao ? Vì nước bị khuấy đục. Nầy các Tỳ kheo, cũng vậy, vị Tỳ kheo với tâm bị khuấy đục biết được lợi ích của mình, hay biết được lợi ích của người, hay biết được lợi ích cả hai, hay sẽ chứng ngộ các pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng sự kiện như vậy không xảy ra. Vì cớ sao ? Vì rằng tâm bị khuấy đục, nầy các Tỳ kheo .
-Ví như, nầy các Tỳ kheo, một hồ nước trong sáng, sáng suốt không
bị khuấy đục. Tại đấy có người có mắt, đứng trên bờ, có thể thấy các con ốc, các con sò, các hòn sạn, các hòn sỏi, các đàn cá qua lại, đứng yên. Vì cớ sao ? Vì nước không bị khuấy đục biết được lợi ích của mình, hay biết được lợi ích của người, hay biết được lợi ích cả hai, hay sẽ chứng ngộ các pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng các bậc Thánh; sự kiện như vậy có xảy ra. Vì cớ sao ? Vì rằng tâm không bị khuấy đục, nầy các Tỳ kheo .
-----------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(13)
Dịch âm : Đệ thập thất chương :
-Phật ngôn : Phù kiến đạo giả, thí như trì cự nhập minh thất trung, kỳ
minh tức diệt nhi minh độc tồn, học đạo kiến đế vô minh tức diệt nhi minh thường tồn hỷ .
Dịch nghĩa : Chương mười bảy :
-Phật dạy : Luận đến việc kiến đạo, thí như cầm đuốc vào nhà tối,
bóng tối kia liền hết mà chỉ còn lại ánh sáng. Người học đạo thấy được chơn lý, thì vô minh liền dứt mà ánh sáng trí tuệ thường còn.
(Hoàn Quan Thích Giải Năng dịch)
Dẫn :
-Với đoạn kinh nơi chương thứ bảy trên, chúng tôi đọc thấy trong kinh Hoa Nghiêm, tập 4, trang 653, ấn bản năm 1968, do Hòa thượng Trí Tịnh dịch. Nơi phẩm Nhập pháp giới có đoạn :
-Như đem một ngọn đèn vào trong nhà tối, thì có thể phá trừ sự tối tăm đã ngàn năm. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ tát đem vào trong tâm của chúng sanh, thời có thể trừ hết những phiền não nghiệp chướng trong trăm vạn ức bất khả thuyết .
------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(14)
Dịch âm : Đệ nhị thập tứ chương :
-Phật ngôn : Ái dục mạc thậm ư sắc, sắc chi vi dục, kỳ đại vô ngoại. Lại hữu nhất hỷ, nhược sử nhị đồng, phổ thiên chi nhơn, vô năng giai đạo khả hỷ .
Dịch nghĩa : Chương hai mươi bốn :
-Phật dạy : Sự thèm muốn không gì hơn sắc đẹp. Sự thèm muốn sắc đẹp, ngoài nó không gì lớn bằng. Cũng may, chỉ có một mình nó mà thôi, chớ nếu có cái thứ hai bằng nó, thì người khắp trong thiên hạ không ai có thể hành đạo được vậy !
(Hoàn Quan Thích Giải Năng dịch)
Dẫn :
-Qua chương thứ hai mươi bốn trên, tôi lại đọc thấy trong Tăng Chi Bộ kinh, tập 2, trang 414, ấn bản năm 1996, do Hòa thượng Minh Châu dịch. Có đoạn tương ứng như sau :
-Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, tại Sàvatthi, cả hai mẹ và con đều an cư vào mùa mưa, nhân danh Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, họ thường xuyên muốn thấy mặt nhau. Mẹ thường xuyên muốn thấy mặt con, và con cũng thường xuyên muốn thấy mặt mẹ. Vì họ luôn luôn thấy nhau, nên có sự liên hệ. Do có sự liên hệ, nên có sự thân mật. Do có sự thân mật, nên có sự sa ngã . Với tâm sa ngã, buông bỏ sự học tập,
làm lộ liễu sự yếu đuối, họ rơi vào thông dâm với nhau .
-Rồi một số đông Tỳ kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỳ kheo ấy bạch Thế Tôn : (Lập lại như trên…)
-Thế Tôn dạy : Sao, nầy các Tỳ kheo, kẻ ngu si nầy lại nghĩ rằng : “ Mẹ không tham đắm con, hay con không tham đắm mẹ ”?. Nầy các Tỳ kheo, ta không thấy một sắc nào khác lại khả ái như vậy, đẹp đẽ như vậy, mê ly như vậy, trói buộc như vậy, say sưa như vậy, chướng ngại như vậy cho sự đạt đến an ổn khỏi các khổ ách, tức là nầy các
Tỳ kheo, sắc đẹp của nữ nhân. Và nầy các Tỳ kheo loài hữu tình nào
ái nhiễm, tham luyến, tham đắm, say đắm, say mê, sắc đẹp của nữ nhân, chúng sẽ sầu ưu lâu dài, vì bị rơi vào uy lực nữ sắc .
Nầy các Tỳ kheo, Ta không thấy một tiếng nào khác…một hương nào khác…một vị nào khác…một xúc nào khác lại khả ái như vậy, đẹp đẽ như vậy, mê ly như vậy, trói buộc như vậy, say sưa như vậy,
chướng ngại như vậy cho sự đạt đến an ổn khỏi các khổ ách, tức là, nầy các Tỳ kheo cảm xúc của nữ nhân. Và nầy các Tỳ kheo, loài hữu tình nào ái nhiễm, tham luyến, tham đắm, say đắm, say mê cảm xúc nữ nhân, chúng sẽ bị sầu ưu lâu dài, vì bị rơi vào uy lực của xúc. Nữ nhân, khi đang đi, sẽ đứng lại để chinh phục tâm người đàn ông; khi đứng, khi ngồi, khi nằm, khi cười, khi nói, khi hát, khi khóc, khi
bất tỉnh, khi chết, sẽ đứng lại để chinh phục tâm người đàn ông.
Nầy các Tỳ kheo, nếu có ai nói rằng : “ Là bầy mồi toàn diện của Màra”,thời người ấy đã nói một cách chơn chánh về nữ nhân, thật là “một bầy mồi hoàn toàn của Màra”.
Thế Tôn lại nói kệ :
Hãy nói chuyện với người
Có kiếm ở trong tay
Nói chuyện với ác quỷ
Hay ngồi thật gần kề.
Con rắn có nọc độc
Bị cắn liền mệnh chung
Nhưng chớ có một mình
Nói chuyện với nữ nhơn.
Thất niệm họ trói lại
Với nhìn với nụ cười
Với xiêm áo hở hang
Với lời nói ngọt lịm
Người ấy vẫn không thỏa
Bất tỉnh bị mệnh chung.
Năm dục công đức ấy
Được thấy trong nữ sắc
Sắc, thanh, hương, vị, xúc
Hấp dẫn và đẹp ý
Bị thác nước dục vọng
Tràn ngập và cuốn trôi
Kẻ ngu si vô trí
Không liễu tri các dục.
Lại người khi mạng chung
Sanh thú hữu, phi hữu
Họ phải bị đẫn đầu
Trong nhiều kiếp luân hồi.
Ai liễu tri các dục
Sở hành không sợ hãi
Họ đến bờ bên kia
Đạt được lậu hoặc tận.
--------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(14 tiêp-1)
-Chúng ta cảm nhận thế nào qua đoạn kinh trên, với những lời khuyên dạy của đức Phật có quá đáng lắm không ? Tô irất có cảm hứng với đoạn kinh nầy, nên xin phép được dẫn trưng thêm vài đoạn kinh khác. Như trong Tăng Chi Bộ kinh, tập 1, trang 9, ấn bản năm 1996, cũng do Hòa thượng Minh Châu dịch, nơi phẩm Sắc có ghi lại như sau :
-Tôi nghe như vầy .
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, rừng Jetavana, tại khu vườn ông Anàthapindika. Tại đấy Thế Tôn bảo các Tỳ kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông như các người đàn bà. Nầy các Tỳ kheo
các người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông .
Ta không thấy một tiếng nào khác, nầy các Tỳ kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông, như tiếng người đàn bà. Nầy các Tỳ kheo, tiếng người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
Ta không thấy một hương…một vị…một xúc nào khác, nầy các Tỳ kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông, như hương…vị…
xúc người đàn bà. Nầy các Tỳ kheo xúc người đàn bà xâm chiếm va ngự trị tâm người đàn ông .
-Ta không thấy một sắc nào khác, nầy các Tỳ kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà, như sắc người đàn ông. Nầy các Tỳ kheo
sắc người đàn ông xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà .
Ta không thấy một tiếng…một hương…một vị…một xúc nào khác
nầy các Tỳ kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà, như tiếng…hương…vị…xúc người đàn ông. Nầy các Tỳ kheo, xúc người đàn ông xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà .
Để cho gọn và dễ nhớ, năm 1997, trong tập Nhặt cánh vô ưu 2, tôi đã chuyển thể lại như thế nầy :
Xưa nay trong các loài hoa
Loài hoa đẹp nhất vẫn là nữ nhân
Xưa nay quyến rủ đàn ông
Mùi hấp dẫn nhất vẫn hương đàn bà.
Tăng Chi Bộ N I KÀ Y A
Đức Phật có nói rõ mà như sau :
Xâm chiếm tâm hồn đàn ông
Không gì qua tiếng nữ nhân thì thầm.
Ngự trị tâm người đàn ông
Không gì qua xúc chạm thân đàn bà .
Sai khiến tâm người đàn ông
Không gì qua vị mặn nồng nữ nhân.
Điên đảo tâm người đàn ông
Không gì bằng sắc mỹ nhân nõn nà.
Đồng thời đọc ngược lại với người đàn bà…
Và trong Tăng Chi Bộ kinh, tập 3, trang 555, ấn bản năm 1996, cũng do Hòa thượng Minh Châu dịch. Trong phẩm Lớn, bài kinh nói về sự trói buộc của nữ nhân viết :
-Với tám hình tướng, nầy các Tỳ kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân
.Thế nào là tám ?
-Nầy các Tỳ kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với nhan sắc; nầy các Tỳ kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với tiếng cười; nầy các Tỳ kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với lời nói; nầy các Tỳ kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với lời ca; nầy các Tỳ kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với nước mắt; nầy các Tỳ kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với áo quần; nầy các Tỳ kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với vật tặng; nầy các Tỳ kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với xúc chạm .
Với tám hình tướng nầy, nầy các Tỳ kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân. Các loài hữu tình bị khéo trói buộc bởi các hình tướng ấy,
giống như bị trói buộc bởi bẫy sập .
Ngược lại Thế Tôn cũng nói bài kinh về sự trói buộc của nam nhân với những việc trói buộc như trên chỉ khác nhau ở chỗ “Sự trói buộc của nam nhân” .
Tôi cũng chuyển thể bài kinh nầy qua tập Nhặt cánh vô ưu 2 như sau :
Đáy mắt đó, chim sa, cá lặn
Nụ cười kia, thành quách ngã nghiêng
Sợi tóc may, nhục chí hùng anh
Giọt lệ mặn, chôn đời vương giả
Bờ môi thắm, Văn quan giũ áo
Đôi má hồng, Võ tướng buông gươm
Lời nỉ non, nát dạ Tao nhân
Giọng ai oán, Lãng du dừng bước
Áo quần nọ dáng hoa tha thướt
Kỷ niệm kia vật tặng khó quên
Gần gũi rồi hồn phách đảo điên
Dẫu muôn thuở, khó quên người ngọc !
---------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(15)
Dịch âm : Đệ nhị thập ngũ chương .
-Phật ngôn : Ái dục chi nhơn, du như chấp cự nghịch phong nhi hành, tất hữu thiêu thủ chi hoạn .
Dịch nghĩa : Chương hai mươi lăm .
-Phật dạy : Người ái dục cũng như kẻ cầm đuốc ngược gió mà đi,
tất không tránh khỏi cái nạn cháy tay .
(Hoàn Quan Thích Giải Năng dịch)
---o---
Dịch âm : Đệ tam thập chương .(16)
-Phật ngôn : Phù vi đạo giả, như bị càn thảo, hỏa lai tu tị, đạo nhơn kiến dục, tất đương viễn chi .
Dịch nghĩa : Chương ba mươi .
-Phật dạy : Xét đến người hành đạo, như kẻ mang cỏ khô, lửa đến phải tránh. Người học đạo thấy sự dục lạc phải tránh xa nó .
(Hoàn Quan Thích Giải Năng dịch)
Dẫn :
-Nhận thấy giữa chương 25 và 30 nên để gần nhau sẽ đầy đủ ý nghĩa hơn, nên tôi tạm dời gần lại như vậy, và tương ứng với chương kinh trên, trong kinh Trung A Hàm, tập 4, trang 505, ấn bản năm 1992, do Viện Cao Đẳng Phật Học Hải Đức Nha Trang dịch. Có chép lại một đoạn như sau :
-Nầy Cư sĩ Bô ly đa, cũng như người tay cầm một bó đuốc đang cháy ngược gió mà đi. Ý Cư sĩ nghĩ thế nào, nếu người đó không liệng bỏ tức khắc thì nhất định sẽ bị cháy tay và các chi thể khác chăng ?
Cư sĩ đáp :
-Thật sự như vậy, thưa Cù Đàm .
-Ý Cư sĩ nghĩ sao, giả sử người ấy liệng bỏ tức khắc, thì sẽ còn bị cháy tay hay các chi thể khác nữa chăng ?
Cư sĩ đáp :
-Không phải vậy, thưa Cù Đàm .
-Nầy Cư sĩ, Đa văn Thánh đệ tử tư duy rằng : “ Dục vọng như bó đuốc đang cháy, Thế Tôn nói dục vọng như bó đuốc đang cháy, vui ít, khổ nhiều, đầy những nguy hiểm, hãy xa lánh đi. Nếu ai có sự xả ly dục, ly ác bất thiện pháp nầy, thì ở đây, tất cả vật dục thế gian vĩnh viễn đoạn tận, không dư thừa. Hãy tu tập sự kiện nầy”.
Và trong Trung Bộ kinh, tập 2, trang 62, ấn bản năm 1992, do Hòa thượng Minh Châu dịch. Ghi lại thế nầy :
-Nầy Gia chủ Potaliya, ví như người cầm một bó đuốc cỏ đang cháy rực đi ngược gió. Nầy Gia chủ, Ông nghĩ thế nào, nếu người ấy không vứt bỏ ngay bó đuốc kia, bó đuốc cỏ đang cháy rực ấy có thể đốt cháy tay, hay đốt cháy cánh tay, hay đốt cháy một phần thân của người ấy, người ấy có thể do nhân duyên ấy, đi đến chết,
hay đi đến chỗ gần như chết không ?
-Thưa có, bạch Thế Tôn .
-Cũng vậy, nầy Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau : “Thế Tôn đã nói, dục được ví như bó đuốc cỏ, khổ nhiều, não nhiều, tai họa ở đây càng nhiều hơn”. Sau khi thấy chân thật như vậy…(như trên)
với chánh trí tuệ, vị ấy tu tập loại xả như vậy .
-Còn trong Tiểu Bộ kinh, tập 3, trang 731, ấn bản năm 2000, do Trần Phương Lan dịch. Có đoạn kệ sau dây :
“Đuốc cỏ dang cháy rực
Nắm, không thả, bị đốt
Dục ví như bó đuốc
Đốt cháy ai không thoát”.
-------------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(8)
Dịch âm : Đệ bát chương .
-Phật ngôn : Ác nhơn hại hiền giả, du ngưỡng thiên chi thóa, thóa bất chí thiên, hoàn tùng kr đọa. Nghịch phong dương trần, trần bất chí bỉ, hoàn bộn kỷ thân, hiền bất khả hủy, tội tất diệt kỷ .
Dịch nghĩa : Chương thứ tám .
-Phật dạy rằng : Kẻ ác hại người hiền chẳng khác nào ngước lên trời phun nước miếng, nước miếng chẳng đến trời mà trở lại rơi nhằm mình; ngược gió giê bụi, bụi chẳng đến người, trở lại dính vào thân. Người hiền chẳng thể hại mà họa ắt diệt mình .
(Hoàn Quan Thích Giải Năng dịch)
Dẫn :
-Xin dẫn câu chuyện tương ứng sau đây trong kinh Tạp A Hàm, tập 1,
trang 191, ấn bản năm 1995, do nhị vị Hòa thượng Thiện Siêu và Hòa thượng Thanh Từ dịch. Có ghi :
-Tôi nghe như vầy :
Một thời Phật trú tại phía đông nước Xá vệ, trong giảng đường Lộc tử mẫu .
Bấy giờ sáng sớm Thế Tôn đắp y, ôm bát vào thành Xá vệ khất thực, lúc ấy Bà la môn Kiên mạ bà la đậu bà giá, vừa thấy Thế Tôn liền phát ra những lời thô ác, bất thiện, sân si, trách mắng và hốt bụi đất ném vào Thế Tôn, khi ấy có gió thổi ngược, bụi kia bay ngược lại dính đầy người ông ta .
Thế Tôn nói kệ :
Nếu người không sân hận
Có mạ nhục cách mấy
Thanh tịnh không dính nhơ
Ác ấy trở về mình
Như người tung bụi kia
Ngược gió bám đầy mình.
Bà la môn bạch Phật :
-Thưa Cù Đàm ! Con xin sám hối, con thật như ngu, như si, không biện biệt, không hiền thiện, làm sao ở trước mặt Cù Đàm lại dám phát ra những lời thô ác, bất thiện, máng nhiếc, quở trách !
-Phật nói kinh nầy xong, Bà la môn nghe lời Phật dạy hoan hỷ, tùy
hỷ rồi lui ra .
-Và sau đây là một bài kệ trong Tương Ưng Bộ kinh, tập 1, trang 36, ấn bản năm 1993, do Hòa thượng Minh Châu dịch .
Kệ viết :
Không xúc, không có chạm
Có xúc, thời có chạm
Nên hại người không hại
Tức có xúc có chạm
Ai hại người không hại
Người tịnh, không ô nhiễm
Kẻ ngu hái quả ác
Như ngược gió tung bụi.
--------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(9)
Dịch âm : Đệ thập chương .
-Phật ngôn : Đổ nhơn thí đạo, trợ chi hoan hỷ, đắc phước thậm đại,
Sa môn vấn viết : Thử phước tận hồ ? Phật ngôn : Thí như nhất cự chi hỏa, sổ thiên bách nhơn các dĩ cự lai phân thủ, thục thực trừ minh, thử cự như cố, phước diệc như chi .
-- -o---
Dịch nghĩa : Chương thứ mười .
-Phật dạy rằng : Thấy người làm đạo bố thí, vui vẻ giúp đó thì được phước rất lớn .
Có thầy Sa môn hỏi rằng :
-Phước ấy có hết không ?
Phật dạy : Thí như lửa của một cây đuốc, vài trăm ngàn người đều dùng đuốc đến chia nhau mà lấy lửa để nấu ăn hay thấp sáng,
nhưng cây đuốc kia vẫn như cũ. Phước người bố thí cũng như thế.
. (Hoàn Quan Thích Giải Năng dịch)
DẪN :
-Dù không thật sát với văn trong chương thứ mười, nhưng nội dung thì khá đầy đủ, như đoạn kinh sau đây trong kinh Hoa Nghiêm, tập 4, trang 651, ấn bản năm 1968, do Hòa thượng Trí
Tịnh dịch :
-Như một ngọn đèn đem thắp trăm ngàn đèn khác, mà ngọn đèn nầy không tổn giảm. Cũng vậy, Bồ đề tam của Bồ tát sanh thành tam thế Phật trí, mà tâm nầy không giảm, không hết .
-Như đem một ngọn đèn vào trong nhà tối, thời có thể phá trừ sự
tối tăm đã ngàn năm. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ tát vào
trong tâm của chúng sanh, thời có thể trừ hết những phiền não
nghiệp chướng trong trăm ngàn vạn ức bất khả tư nghì kiếp .
-Như chút ít lửa tùy đem nhúm đốt chỗ nào thời ngọn lửa càng thêm mạnh. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ tát tùy chỗ nào phan duyên thì trí tuệ càng mạnh .
------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(10)
Dịch âm : Đệ thập nhất chương .
-Phật ngôn : Phạn ác nhơn bá bất như phạn nhất thiện nhơn; phạn thiện nhơn thiên, bất như phạn nhất trì ngũ giới giả; phạn ngũ giới giả vạn, bất như phạn nhất Tu Đà Hoàn; phạn bá vạn Tu Đà Hoàn, bất như phạn nhất Tư Đà Hàm; phạn thiên vạn Tư Đà Hàm, bất như phạn nhất A Na Hàm; phạn nhất ức A Na Hàm, bất như phạn nhất
A La Hán; phạn thập ức A La Hán, bất như phạn nhất Bích Chi Phật; phạn bá ức Bích Chi Phật, bất như phạn tam thế chư Phật; phạn thiên ức tam thế chư Phật, bất như phạn nhất vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng chi giả .
---o---
Dịch nghĩa : Chương mười một .
-Phật dạy rằng : Cho một trăm người ác ăn, không bằng cho một người lành ăn; cho một ngàn người lành ăn, không bằng cho một người trì ngũ giới ăn; cho một muôn người trì ngũ giới ăn, không bằng cúng dường cho một vị Tu Đà Hoàn ăn; cúng dường cho một trăm muôn vị Tu Đà Hoàn ăn, không bằng cúng dường cho một vị Tư Đà Hàm ăn; cúng dường cho một muôn ngàn vị Tư Đà Hàm ăn,
Không bằng cúng dường cho một vị A Na Hàm ăn; cúng dường cho một ức vị A Na Hàm ăn, không bằng cúng dường cho một vị A La Hán ăn; cúng dường cho mười ức vị A La Hán ăn, không bằng cúng dường cho một vị Bích Chi Phật ăn; cúng dường cho một trăm ức vị Bích Chi Phật ăn, không bằng cúng dường cho tam thế chư Phật ăn; cúng dường cho một ngàn ức tam thế chư Phật ăn, không bằng cúng dường cho một vị vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng ăn .
(Hoàn Quan Thích Giải Năng dịch)
DẪN :
-Tương ưng với kinh thứ mười một trên, trong kinh Trung A Hàm, tập3, trang 524, ấn bản năm 1992, do Viện Cao Đẳng Phật học Hải Đức Nha Trang dịch. Có ghi lại như vầy :
…Nầy Cư sĩ, Phạm chí Tùy Lam đã thực hành đại bố thí, và bố thí
thức ăn cho phàn phu toàn cõi Diêm phù như vậy; nếu lại có bố thí thức ăn cho một vị Tu đà hoàn, thì so với sự bố thí kia, sự bố thí nầy hơn nhiều lắm .
Nầy Cư sĩ, Phạm chí Tùy Lam đã thực hành đại bố thí, bố thí thức ăn cho toàn cõi Diêm phù, bố thí thức ăn cho một trăm vị Tu đà hoàn như thế; lại nếu có người bố thí thức ăn cho một vị Tư đà hàm, thì so với sự bố thí kia, sự bố thí nầy hơn nhiều lắm .
Nầy Cư sĩ, Tùy Lam đã thực hành đại bố thí, bố thí thức ăn cho phàm phu toàn cõi Diêm phù, bố thí thức ăn cho một trăm vị Tu đà hoàn, cho một trăm vị Tư đà hàm như thế; nếu lại có người bố thí thức ăn cho một vị A na hàm, thì so với sự bố thí kia, sự bố thí nầy hơn nhiều lắm .
Nầy Cư sĩ, Phạm chí Tùy Lam thực hành đại bố thí, bố thí thức ăn cho phàm phu toàn cõi Diêm phù, bố thí thức ăn cho một trăm vị Tu đà hoàn, một trăm vị Tư đà hàm, một trăm vị A na hàm như thế; nếu lại có người bố thí thức ăn cho một vị A la hán, thì so với sự bố thí kia, sự bố thí nầy hơn nhiều lắm .
Nầy Cư sĩ, Phạm chí Tùy Lam thực hành đại bố thí, bố thí thức ăn cho phàm phu toàn cõi Diêm phù, bố thí thức ăn cho một trăm vị Tu đà hoàn, một trăm vị Tư đà hàm, một trăm vị A na hàm, một trăm vị A la hán như vậy; nếu lại có người bố thí thức ăn cho một vị Bích chi Phật, thì so với sự bố thí kia, sự bố thí nầy hơn nhiều lắm.
Nầy Cư sĩ, Phạm chí Tùy Lam thực hành đại bố thí, bố thí thức ăn cho toàn thể phàm phu cõi Diêm phù, bố thí thức ăn cho một trăm vị Tu đà hoàn, cho một trăm vị Tư đà hàm, một trăm vị A na hàm, một
trăm vị A la hán, một trăm vị Bích chi Phật như vậy; nếu lại có người bố thí thức ăn cho một đức Như lai, bậc Vô sở trước, Đẳng Chánh Giác, thì so với sự bố thí kia, sự bố thí nầy hơn nhiều lắm …
-Tiếp theo là một đoạn khác trong Tăng Chi Bộ kinh, tập 4, trang 127, ấn bản năm 1996, do Hòa thượng Minh Châu dịch. Chép rằng :
Nầy gia chủ Anàthapindika, dầu Bà la môn Velàma bố thí có rộng lớn, nếu có ai bố thí cho một người chánh kiến, bố thí nầy lớn hơn quả lớn kia. Nầy gia chủ, dầu Bà la môn Velàma bố thí có rộng lớn và có ai bố thí cho một trăm người chánh kiến, và có ai bố thí cho một trăm vị Nhất lai, bố thí nầy quả lớn hơn bố thí kia. Nầy gia chủ, dầu cho Bà la môn Velàma bố thí rộng lớn, và có ai bố thí cho một trăm vị Nhất lai, và có ai bố thí cho một trăm vị Bất lai, bố thí nầy quả lơn hơn bố thí kia. Nầy gia chủ, dầu Bà la môn Velàma bố thí có rộng lớn, và có ai bố thí cho một trăm vị Bất lai, và có ai bố thí cho một vị A la hán, bố thí nầy quả lớn hơn bố thí kia. Nầy gia chủ, dầu Bà la môn Velàma có bố thí rộng lớn, và có ai bố thí cho một trăm vị A la hán, và có ai bố thí cho một vị Độc Giác Phật, bố thí nầy quả lớn hơn bố thí kia. Nầy gia chủ, dầu Bà la môn Velàma bố thí có rộng lớn, và có người bố thí cho một trăm vị Độc Giác Phật, có ai bố thí cho Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, bố thí nầy quả lớn hơn bố thí kia …
-Sau cùng, xin dẫn thêm một đoạn khác trong kinh Trung A Hàm,
tập 4, trang113, ấn bản năm 1992, cũng do Viện Cao Đẳng Phật Học Hải Đức Nha Trang dịch .
…Nầy A Nan, thế nào là mười bốn loại bố thí cho riêng từng người
sẽ được đại phước, được đại quả, được đại công đức, được đại quảng báo ? Là Thiện nam tử, hay Thiện nữ nhơn bố thí cho đức Như Lai, bố thí cho Duyên Giác, bố thí cho A la hán hướng, bố thí cho A
na hàm, bố thí cho A na hàm hướng, bố thí cho Tư dà hàm, bố thí cho Tư đà hàm hướng, bố thí cho Tu đà hoàn, bố thí cho Tu đà hoàn
hướng, bố thí cho Tiên nhơn, ngoại đạo ly dục, bố thí cho người tinh tấn, bố thí cho người không tinh tấn, bố thí cho súc sanh .
Nầy A Nan, bố thí cho súc sanh được phước trăm lần hơn, bố thí cho người không tinh tấn được phước ngàn lần hơn, bố thí cho người tinh tấn được phước trăm lần hơn, bố thí cho Tiên nhơn,
ngoại đạo ly dục được phước ức trăm ngàn lần hơn, bố thí cho vị Tu đà hoàn hướng được phước vô lượng, bố thí cho vị đắc Tu đà hoàn được phước được phước vô lượng, bố thí cho vị Tư đà hàm hướng được phước vô lượng, bố thí cho vị đắc Tư đà hàm phước vô lượng, bố thí cho vị A na hàm hướng được phước vô lượng, bố thí cho vị đắc A na hàm được phước vô lượng, bố thí cho vị A la hán hướng được phước vô lượng, bố thí cho vị đắc A la hán được phước vô lượng, huống nữa là bố thí cho đức Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác ư ? Đây là mười bốn loại bố thí riêng cho từng người, sẽ được đại phước, được đại quả, được đại công đức,
được đại quảng báo .
---------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(11)
Dịch âm : Đệ thập ngũ chương .
-Sa môn vấn Phật : Hà giả đa lực ? Hà giả tối minh ? Phật ngôn : Nhẫn nhục đa lực, bất hoài ác cố, kiêm gia an kiện, nhẫn giả vô ác tất vi nhân tôn. Tâm cấu diệt tận, tịnh vô hà uế, thị vi tối minh. Vị hữu
thiên địa đãi ư kim nhật, thập phương sở hữu, vô hữu bất kiến, vô hữu bất tri, vô hữu bất văn, đắc nhất thiết trí, khả vị minh hỷ .
Dịch nghĩa : Chương mười lăm :
-Sa môn hỏi Phật : Những gì là rất mạnh ? Những gì là rất sáng ? Phật dạy :
Nhẫn nhục là rất mạnh, vì chẳng ôm lòng ác, lại thân an kiện; kẻ nhẫn nhục không làm ác, tất được người tôn quý. Tâm cấu diệt hết, sạch chẳng còn vết nhơ, ấy là rất sáng, bao nhiêu sự vật trong mười phương, từ khi chưa có trời đất cho đến ngày nay; chẳng có vật nào là không thấy, chẳng có điều gì là không biết, chẳng có việc gì là không nghe, được nhất thiết trí, có thể gọi là rất sáng vậy .
(Hoàn Quan Thích Giải Năng dịch)
Dẫn :
Xin dẫn một đoạn trong kinh Phật Di Giáo, để làm sáng tỏ thêm cho phần thứ nhất nơi chương thứ mười lăm về việc đức Phật trả lời vị Sa môn hỏi “ Thế nào là sức mạnh “ .
-Phật Di Giáo kinh, phẩm đối trị sân nhuế, trong tập Phật Tổ ngũ kinh, trang 358, ấn hành năm 1998, do Hòa thượng Thích Giải Năng tự Hoàn Quan dịch .
Phật dạy : Người tu hạnh nhẫn, mới có thể gọi là người có sức mạnh. Nếu ai không thể nhận lãnh những sự cai độc của lời mắng ác như uống nước cam lồ, thì không thể gọi là người trí tuệ nhập đạo .
Âm Hán : “Năng hành nhẫn giả, nãi khả danh vi hữu đại lực nhơn. Nhược kỳ bất năng nhẫn thọ ác mạ chi độc như ẩm cam lộ giả, bất danh nhập đạo trí tuệ nhơn dã” .
Và bài kinh Sức mạnh 1, trong Tăng Chi Bộ tập 3, trang 578, ấn bản năm 1996, do Hòa thượng Thích Minh Châu dịch. Có đoạn như sau:
-Nầy các Tỳ kheo, có tám sức mạnh nầy. Thế nào là tám ?
-Nầy các Tỳ kheo, sức mạnh của con nít là khóc; sức mạnh của đàn
bà là phẫn nộ; sức mạnh của người ăn cướp là vũ khí; sức mạnh của vua chúa là uy quyền; sức mạnh của kẻ ngu là áp đảo; sức mạnh của bậc Hiền trí là cảm hóa; sức mạnh của vị nghe nhiều là thẩm sát; sức mạnh của Sa môn, Bà la môn là nhẫn nhục .
Nầy các Tỳ kheo, đây là tám sức mạnh .
-----------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(12)
Dịch âm : Đệ thập lục chương .
-Phật ngôn : Nhơn hoài ái dục bất kiến đạo giả. Thí như trừng thủy trí thủ giáo chi, chúng nhơn công lâm vô hữu đồ kỳ ảnh giả, nhơn dĩ
ái dục giao thố, tâm trung trọc hưng, cố bất kiến Đạo. Nhữ đẳng Sa môn đương xả ái dục, ái dục cấu tận, Đạo khả kiến hỷ .
Dịch nghĩa : Chương mười sáu :
-Phật dạy : Người ôm giữ lòng ái dục chẳng thấy được Đạo. Thí như nước được lóng trong lại lấy tay quấy nó, mọi người cùng đến xem không thấy được bóng mình. Người vì ái dục nhau không dứt mà cấu trọc trong tâm nỗi dậy, nên không thấy Đạo .
Thế nên, Sa môn các ông phải dứt bỏ ái dục, cấu trược ái dục hết rồi mới thấy được Đạo .
(Hoàn Quan Thích Giải Năng dịch)
DẪN :
-Tương ứng với bài kinh nơi chương mười sáu, trong Tăng Chi Bộ kinh, tập 1, trang 23, ấn bản năm 1996, do Hòa thượng Minh Châu dịch. Phẩm Đặc hướng và trong sáng có đoạn :
-Ví như, nầy các Tỳ kheo, một hồ nước uế nhớp, bị khuấy động, đục bùn. Tại đấy có người có mắt, đứng bên bờ, không thể thấy các con ốc, các con sò, các hòn sạn, các hòn sỏi, các đàn cá qua lại, đứng yên. Vì cớ sao ? Vì nước bị khuấy đục. Nầy các Tỳ kheo, cũng vậy, vị Tỳ kheo với tâm bị khuấy đục biết được lợi ích của mình, hay biết được lợi ích của người, hay biết được lợi ích cả hai, hay sẽ chứng ngộ các pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng sự kiện như vậy không xảy ra. Vì cớ sao ? Vì rằng tâm bị khuấy đục, nầy các Tỳ kheo .
-Ví như, nầy các Tỳ kheo, một hồ nước trong sáng, sáng suốt không
bị khuấy đục. Tại đấy có người có mắt, đứng trên bờ, có thể thấy các con ốc, các con sò, các hòn sạn, các hòn sỏi, các đàn cá qua lại, đứng yên. Vì cớ sao ? Vì nước không bị khuấy đục biết được lợi ích của mình, hay biết được lợi ích của người, hay biết được lợi ích cả hai, hay sẽ chứng ngộ các pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng các bậc Thánh; sự kiện như vậy có xảy ra. Vì cớ sao ? Vì rằng tâm không bị khuấy đục, nầy các Tỳ kheo .
-----------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(13)
Dịch âm : Đệ thập thất chương :
-Phật ngôn : Phù kiến đạo giả, thí như trì cự nhập minh thất trung, kỳ
minh tức diệt nhi minh độc tồn, học đạo kiến đế vô minh tức diệt nhi minh thường tồn hỷ .
Dịch nghĩa : Chương mười bảy :
-Phật dạy : Luận đến việc kiến đạo, thí như cầm đuốc vào nhà tối,
bóng tối kia liền hết mà chỉ còn lại ánh sáng. Người học đạo thấy được chơn lý, thì vô minh liền dứt mà ánh sáng trí tuệ thường còn.
(Hoàn Quan Thích Giải Năng dịch)
Dẫn :
-Với đoạn kinh nơi chương thứ bảy trên, chúng tôi đọc thấy trong kinh Hoa Nghiêm, tập 4, trang 653, ấn bản năm 1968, do Hòa thượng Trí Tịnh dịch. Nơi phẩm Nhập pháp giới có đoạn :
-Như đem một ngọn đèn vào trong nhà tối, thì có thể phá trừ sự tối tăm đã ngàn năm. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ tát đem vào trong tâm của chúng sanh, thời có thể trừ hết những phiền não nghiệp chướng trong trăm vạn ức bất khả thuyết .
------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(14)
Dịch âm : Đệ nhị thập tứ chương :
-Phật ngôn : Ái dục mạc thậm ư sắc, sắc chi vi dục, kỳ đại vô ngoại. Lại hữu nhất hỷ, nhược sử nhị đồng, phổ thiên chi nhơn, vô năng giai đạo khả hỷ .
Dịch nghĩa : Chương hai mươi bốn :
-Phật dạy : Sự thèm muốn không gì hơn sắc đẹp. Sự thèm muốn sắc đẹp, ngoài nó không gì lớn bằng. Cũng may, chỉ có một mình nó mà thôi, chớ nếu có cái thứ hai bằng nó, thì người khắp trong thiên hạ không ai có thể hành đạo được vậy !
(Hoàn Quan Thích Giải Năng dịch)
Dẫn :
-Qua chương thứ hai mươi bốn trên, tôi lại đọc thấy trong Tăng Chi Bộ kinh, tập 2, trang 414, ấn bản năm 1996, do Hòa thượng Minh Châu dịch. Có đoạn tương ứng như sau :
-Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, tại Sàvatthi, cả hai mẹ và con đều an cư vào mùa mưa, nhân danh Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, họ thường xuyên muốn thấy mặt nhau. Mẹ thường xuyên muốn thấy mặt con, và con cũng thường xuyên muốn thấy mặt mẹ. Vì họ luôn luôn thấy nhau, nên có sự liên hệ. Do có sự liên hệ, nên có sự thân mật. Do có sự thân mật, nên có sự sa ngã . Với tâm sa ngã, buông bỏ sự học tập,
làm lộ liễu sự yếu đuối, họ rơi vào thông dâm với nhau .
-Rồi một số đông Tỳ kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỳ kheo ấy bạch Thế Tôn : (Lập lại như trên…)
-Thế Tôn dạy : Sao, nầy các Tỳ kheo, kẻ ngu si nầy lại nghĩ rằng : “ Mẹ không tham đắm con, hay con không tham đắm mẹ ”?. Nầy các Tỳ kheo, ta không thấy một sắc nào khác lại khả ái như vậy, đẹp đẽ như vậy, mê ly như vậy, trói buộc như vậy, say sưa như vậy, chướng ngại như vậy cho sự đạt đến an ổn khỏi các khổ ách, tức là nầy các
Tỳ kheo, sắc đẹp của nữ nhân. Và nầy các Tỳ kheo loài hữu tình nào
ái nhiễm, tham luyến, tham đắm, say đắm, say mê, sắc đẹp của nữ nhân, chúng sẽ sầu ưu lâu dài, vì bị rơi vào uy lực nữ sắc .
Nầy các Tỳ kheo, Ta không thấy một tiếng nào khác…một hương nào khác…một vị nào khác…một xúc nào khác lại khả ái như vậy, đẹp đẽ như vậy, mê ly như vậy, trói buộc như vậy, say sưa như vậy,
chướng ngại như vậy cho sự đạt đến an ổn khỏi các khổ ách, tức là, nầy các Tỳ kheo cảm xúc của nữ nhân. Và nầy các Tỳ kheo, loài hữu tình nào ái nhiễm, tham luyến, tham đắm, say đắm, say mê cảm xúc nữ nhân, chúng sẽ bị sầu ưu lâu dài, vì bị rơi vào uy lực của xúc. Nữ nhân, khi đang đi, sẽ đứng lại để chinh phục tâm người đàn ông; khi đứng, khi ngồi, khi nằm, khi cười, khi nói, khi hát, khi khóc, khi
bất tỉnh, khi chết, sẽ đứng lại để chinh phục tâm người đàn ông.
Nầy các Tỳ kheo, nếu có ai nói rằng : “ Là bầy mồi toàn diện của Màra”,thời người ấy đã nói một cách chơn chánh về nữ nhân, thật là “một bầy mồi hoàn toàn của Màra”.
Thế Tôn lại nói kệ :
Hãy nói chuyện với người
Có kiếm ở trong tay
Nói chuyện với ác quỷ
Hay ngồi thật gần kề.
Con rắn có nọc độc
Bị cắn liền mệnh chung
Nhưng chớ có một mình
Nói chuyện với nữ nhơn.
Thất niệm họ trói lại
Với nhìn với nụ cười
Với xiêm áo hở hang
Với lời nói ngọt lịm
Người ấy vẫn không thỏa
Bất tỉnh bị mệnh chung.
Năm dục công đức ấy
Được thấy trong nữ sắc
Sắc, thanh, hương, vị, xúc
Hấp dẫn và đẹp ý
Bị thác nước dục vọng
Tràn ngập và cuốn trôi
Kẻ ngu si vô trí
Không liễu tri các dục.
Lại người khi mạng chung
Sanh thú hữu, phi hữu
Họ phải bị đẫn đầu
Trong nhiều kiếp luân hồi.
Ai liễu tri các dục
Sở hành không sợ hãi
Họ đến bờ bên kia
Đạt được lậu hoặc tận.
--------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(14 tiêp-1)
-Chúng ta cảm nhận thế nào qua đoạn kinh trên, với những lời khuyên dạy của đức Phật có quá đáng lắm không ? Tô irất có cảm hứng với đoạn kinh nầy, nên xin phép được dẫn trưng thêm vài đoạn kinh khác. Như trong Tăng Chi Bộ kinh, tập 1, trang 9, ấn bản năm 1996, cũng do Hòa thượng Minh Châu dịch, nơi phẩm Sắc có ghi lại như sau :
-Tôi nghe như vầy .
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, rừng Jetavana, tại khu vườn ông Anàthapindika. Tại đấy Thế Tôn bảo các Tỳ kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông như các người đàn bà. Nầy các Tỳ kheo
các người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông .
Ta không thấy một tiếng nào khác, nầy các Tỳ kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông, như tiếng người đàn bà. Nầy các Tỳ kheo, tiếng người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
Ta không thấy một hương…một vị…một xúc nào khác, nầy các Tỳ kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông, như hương…vị…
xúc người đàn bà. Nầy các Tỳ kheo xúc người đàn bà xâm chiếm va ngự trị tâm người đàn ông .
-Ta không thấy một sắc nào khác, nầy các Tỳ kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà, như sắc người đàn ông. Nầy các Tỳ kheo
sắc người đàn ông xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà .
Ta không thấy một tiếng…một hương…một vị…một xúc nào khác
nầy các Tỳ kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà, như tiếng…hương…vị…xúc người đàn ông. Nầy các Tỳ kheo, xúc người đàn ông xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà .
Để cho gọn và dễ nhớ, năm 1997, trong tập Nhặt cánh vô ưu 2, tôi đã chuyển thể lại như thế nầy :
Xưa nay trong các loài hoa
Loài hoa đẹp nhất vẫn là nữ nhân
Xưa nay quyến rủ đàn ông
Mùi hấp dẫn nhất vẫn hương đàn bà.
Tăng Chi Bộ N I KÀ Y A
Đức Phật có nói rõ mà như sau :
Xâm chiếm tâm hồn đàn ông
Không gì qua tiếng nữ nhân thì thầm.
Ngự trị tâm người đàn ông
Không gì qua xúc chạm thân đàn bà .
Sai khiến tâm người đàn ông
Không gì qua vị mặn nồng nữ nhân.
Điên đảo tâm người đàn ông
Không gì bằng sắc mỹ nhân nõn nà.
Đồng thời đọc ngược lại với người đàn bà…
Và trong Tăng Chi Bộ kinh, tập 3, trang 555, ấn bản năm 1996, cũng do Hòa thượng Minh Châu dịch. Trong phẩm Lớn, bài kinh nói về sự trói buộc của nữ nhân viết :
-Với tám hình tướng, nầy các Tỳ kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân
.Thế nào là tám ?
-Nầy các Tỳ kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với nhan sắc; nầy các Tỳ kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với tiếng cười; nầy các Tỳ kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với lời nói; nầy các Tỳ kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với lời ca; nầy các Tỳ kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với nước mắt; nầy các Tỳ kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với áo quần; nầy các Tỳ kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với vật tặng; nầy các Tỳ kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với xúc chạm .
Với tám hình tướng nầy, nầy các Tỳ kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân. Các loài hữu tình bị khéo trói buộc bởi các hình tướng ấy,
giống như bị trói buộc bởi bẫy sập .
Ngược lại Thế Tôn cũng nói bài kinh về sự trói buộc của nam nhân với những việc trói buộc như trên chỉ khác nhau ở chỗ “Sự trói buộc của nam nhân” .
Tôi cũng chuyển thể bài kinh nầy qua tập Nhặt cánh vô ưu 2 như sau :
Đáy mắt đó, chim sa, cá lặn
Nụ cười kia, thành quách ngã nghiêng
Sợi tóc may, nhục chí hùng anh
Giọt lệ mặn, chôn đời vương giả
Bờ môi thắm, Văn quan giũ áo
Đôi má hồng, Võ tướng buông gươm
Lời nỉ non, nát dạ Tao nhân
Giọng ai oán, Lãng du dừng bước
Áo quần nọ dáng hoa tha thướt
Kỷ niệm kia vật tặng khó quên
Gần gũi rồi hồn phách đảo điên
Dẫu muôn thuở, khó quên người ngọc !
---------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(15-16)
Dịch âm : Đệ nhị thập ngũ chương .
-Phật ngôn : Ái dục chi nhơn, du như chấp cự nghịch phong nhi hành, tất hữu thiêu thủ chi hoạn .
Dịch nghĩa : Chương hai mươi lăm .
-Phật dạy : Người ái dục cũng như kẻ cầm đuốc ngược gió mà đi,
tất không tránh khỏi cái nạn cháy tay .
(Hoàn Quan Thích Giải Năng dịch)
---o---
Dịch âm : Đệ tam thập chương .(16)
-Phật ngôn : Phù vi đạo giả, như bị càn thảo, hỏa lai tu tị, đạo nhơn kiến dục, tất đương viễn chi .
Dịch nghĩa : Chương ba mươi .
-Phật dạy : Xét đến người hành đạo, như kẻ mang cỏ khô, lửa đến phải tránh. Người học đạo thấy sự dục lạc phải tránh xa nó .
(Hoàn Quan Thích Giải Năng dịch)
Dẫn :
-Nhận thấy giữa chương 25 và 30 nên để gần nhau sẽ đầy đủ ý nghĩa hơn, nên tôi tạm dời gần lại như vậy, và tương ứng với chương kinh trên, trong kinh Trung A Hàm, tập 4, trang 505, ấn bản năm 1992, do Viện Cao Đẳng Phật Học Hải Đức Nha Trang dịch. Có chép lại một đoạn như sau :
-Nầy Cư sĩ Bô ly đa, cũng như người tay cầm một bó đuốc đang cháy ngược gió mà đi. Ý Cư sĩ nghĩ thế nào, nếu người đó không liệng bỏ tức khắc thì nhất định sẽ bị cháy tay và các chi thể khác chăng ?
Cư sĩ đáp :
-Thật sự như vậy, thưa Cù Đàm .
-Ý Cư sĩ nghĩ sao, giả sử người ấy liệng bỏ tức khắc, thì sẽ còn bị cháy tay hay các chi thể khác nữa chăng ?
Cư sĩ đáp :
-Không phải vậy, thưa Cù Đàm .
-Nầy Cư sĩ, Đa văn Thánh đệ tử tư duy rằng : “ Dục vọng như bó đuốc đang cháy, Thế Tôn nói dục vọng như bó đuốc đang cháy, vui ít, khổ nhiều, đầy những nguy hiểm, hãy xa lánh đi. Nếu ai có sự xả ly dục, ly ác bất thiện pháp nầy, thì ở đây, tất cả vật dục thế gian vĩnh viễn đoạn tận, không dư thừa. Hãy tu tập sự kiện nầy”.
Và trong Trung Bộ kinh, tập 2, trang 62, ấn bản năm 1992, do Hòa thượng Minh Châu dịch. Ghi lại thế nầy :
-Nầy Gia chủ Potaliya, ví như người cầm một bó đuốc cỏ đang cháy rực đi ngược gió. Nầy Gia chủ, Ông nghĩ thế nào, nếu người ấy không vứt bỏ ngay bó đuốc kia, bó đuốc cỏ đang cháy rực ấy có thể đốt cháy tay, hay đốt cháy cánh tay, hay đốt cháy một phần thân của người ấy, người ấy có thể do nhân duyên ấy, đi đến chết,
hay đi đến chỗ gần như chết không ?
-Thưa có, bạch Thế Tôn .
-Cũng vậy, nầy Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau : “Thế Tôn đã nói, dục được ví như bó đuốc cỏ, khổ nhiều, não nhiều, tai họa ở đây càng nhiều hơn”. Sau khi thấy chân thật như vậy…(như trên)
với chánh trí tuệ, vị ấy tu tập loại xả như vậy .
-Còn trong Tiểu Bộ kinh, tập 3, trang 731, ấn bản năm 2000, do Trần Phương Lan dịch. Có đoạn kệ sau dây :
“Đuốc cỏ dang cháy rực
Nắm, không thả, bị đốt
Dục ví như bó đuốc
Đốt cháy ai không thoát”.
-------------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(17)
Dịch âm : Đệ nhị thập thất chương .
-Phật ngôn : Phù vi đạo giả, du mộc tại thủy, tầm lưu nhi hành, bất xúc lưỡng ngạn, bất vi nhơn thủ, bất vi quỷ thần sở giá, bất vi hồi
lưu sở trụ, diệc bất hủ bại, ngô bảo thử mộc quyết định nhập hải.
Học đạo chi nhơn, bất vi tình dục sở hoặc, bất vi chúng tà sở nhiễu,
tinh tấn vô vi, ngô bảo thử nhơn tất đắc đạo hỷ .
Dịch nghĩa : Chương hai mươi bảy .
=Phật dạy : Xét ra, người hành đạo cũng như gỗ trôi trên mặt nước
theo dòng mà đi, chẳng tấp vào hai bên bờ, chẳng bị người vớt lên,
chẳng bị quỷ thần ngăn trở, chẳng bị nước xoáy làm đứng lại, cũng chẳng bị mục nát. Ta cam đoan rằng khúc gỗ đó quyết định sẽ ra đến biển ; còn người học đạo, nếu chẳng bị tình dục làm mê hoặc,
chẳng bị các thứ tà ngoại làm nhiễu loạn, tinh tấn tu pháp vô vi, ta cam đoan rằng người đó tất sẽ được đạo .
(Hoàn Quan Thích Giải Năng dịch)
Dẫn :
-Chương hai mươi bảy chúng ta vừa xem qua, tôi lại đọc thấy trong kinh Tăng Nhất A Hàm, tập 3, trang 159, ấn bản năm 1998, do nhị vị Hòa thượng Thanh Từ và Thiện Siêu dịch. Có đoạn tương ứng như sau :
-Tôi nghe như vầy :
Một thời đức Phật ở tại nước Ma Kiệt, cùng với chúng đại Tỳ kheo năm trăm người câu hội, đi dần đến bờ sông .
Bấy giờ Thế Tôn thấy giữa dòng sông có một khúc gỗ trôi trên mặt nước. Ngài liền ngồi lại dưới một cội cây bên bờ. Thế Tôn bảo các Tỳ kheo :
-Các Thầy có thấy khúc gỗ bị nước cuốn trôi kia không ?
Các Tỳ kheo bạch Phật :
-Thưa có thấy .
Phật bảo :
- Ví như khúc gỗ kia, không bị mắc kẹt bờ bên nầy hay bờ bên kia,
cũng không chìm giữa dòng hay trôi tấp trên bờ, không bị người vớt lên, lại chẳng bị phi nhơn vớt lên, lại chẳng bị nước cuốn xoáy,
cũng không mục nát. Nó sẽ dần dần trôi đến biển cả. Vì sao ? Biển cả là nguồn cội của các sông .
Tỳ kheo các Thầy cũng lại như thế. Nếu như các Thầy không bị mắc kẹt ở bờ bên nầy hay bờ bên kia, không chìm giữa dòng, lại không nằm trên bờ, không bị người hoặc phi nhơn nắm giữ, cũng không bị nước cuốn xoáy, cũng không mục nát, các Thầy sẽ dần dần đến Niết bàn. Vì sao ? Niết bàn có chánh kiến, chánh chí (tư duy)
chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định, là nguồn cội của Niết bàn.-(. . .)
Có một Tỳ kheo đến bạch Phật :
-Thế nào là bờ bên nầy ? Thế nào là bờ bên kia ? Thế nào là chìm giữa dòng ? Thế nào là kẹt trên bờ ? Thế nào là không bị người nắm bắt ? Thế nào là không bị nước cuốn xoáy ? Thế nào là không mục nát ?
Phật dạy tỳ kheo :
-Bờ bên nầy là thân mình, bờ bên kia là thân diệt hoại. Chìm giữa dòng là dục ái. Tấp trên bờ là ngũ dục. Bị người nắm bắt là : như có người hào tộc phát thệ nguyện rằng : “ Nguyện đem công đức phước báo nầy để được làm vua, hay làm đại thần”. Bị phi nhơn nắm bắt là : như có Tỳ kheo thệ nguyện như vầy : “Sanh trong cõi Tứ thiên vương mà hành phạm hạnh. Nay ta đem công đức nầy để sanh cõi trời”. Đây gọi là bị phi nhơn nắm bắt. Bị nước cuốn xoáy là những điều tà nghi. Mục nát là tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiêp tà mạng, tà phương tiện, tà niệm, tà định. Đó là mục nát
vậy.
------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(17 tiếp 1)
Tiếp theo :
-Và trong Tương Ưng Bộ kinh, tập 4, trang 293, ấn bản năm 1993, do Hòa thượng Minh Châu dịch. Cũng có đoạn tương tợ :
-Một thời Thế Tôn trú ở Kosambi, trên bờ sông Gangà .
Thế Tôn thấy một khúc gỗ lớn trôi theo dòng nước sông Hằng,
thấy vậy liền gọi các Tỳ kheo :
-Nầy các Tỳ kheo, các ông có thấy khúc gỗ to lớn nầy đang trôi theo dòng nước sông Hằng không ?
-Thưa có, bạch Thế Tôn .
-Nầy các Tỳ kheo, nếu khúc gỗ không đâm vào bờ bên nầy, không đâm vào bờ bên kia, không chìm giữa dòng, không mắc cạn trên miếng đất nổi, không bị loài Người nhặt lấy, không bị phi nhân nhặt lấy, không bị mắc vào xoáy nước, không bị mục bên trong; như vậy
nầy các Tỳ kheo, khúc gỗ ấy sẽ hướng về biển, sẽ xuôi theo biển, sẽ nghiêng nhập vào biển. Vì sao ? Vì rằng, nầy các Tỳ kheo, dòng sông Hằng hướng về biển, xuôi theo biển, nghiêng trôi về biển. Cũng vậy, nầy các Tỳ kheo, nếu các Ông không đâm vào bờ bên nầy,
không đâm vào bờ bên kia, không chìm giữa dòng, không mắc cạn trên miếng đất nổi, không bị loài người nhặt lấy, không bị phi nhơn nhặt lấy, không bị mắc vào xoáy nước, không bị mục bên trong; như vậy, nầy các Tỳ kheo, các Ông sẽ hướng về Niết bàn, sẽ xuôi theo Niết bàn, sẽ nghiêng nhập vào Niết bàn. Vì sao ? Vì rằng, nầy các Tỳ kheo, chánh kiến hướng về Niết bàn, xuôi theo Niết bàn, nghiêng nhập vào Niết bàn .
Khi được nghe nói vậy, một Tỳ kheo bạch Thế Tôn :
-Bạch Thế Tôn, bờ bên nầy là gì ? Bờ bên kia là gì ? Thế nào là chìm giữa dòng ? Thế nào là mắc cạn trên miếng đất nổi ? Thế nào là bị loài Người nhặt lấy ? Thế nào là bị phi nhơn nhặt lấy ? Thế nào là bị mắc vào xoáy nước ? Thế nào là mục nát bên trong ?
-Bờ bên nầy, nầy các Tỳ kheo, là đồng nghĩa với nội xứ nầy .
-Bờ bên kia, nầy các Tỳ kheo, là đồng nghĩa với sáu ngoại xứ .
-Bị chìm giữa dòng, nầy các Tỳ kheo, là đồng nghĩa với hỷ tham .
-Bị mắc cạn trên miếng đất nổi, nầy các Tỳ kheo, là đồng nghĩa với ngã mạn .
-Và nầy các Tỳ kheo, thế nào là bị Người nhặt lấy ? Ở đây, Tỳ kheo sống quá liên hệ với Cư sĩ, chung vui, chung buồn, an lạc khi họ an lạc, đau khổ khi họ bị đau khổ, tự trói buộc mình trong các công việc phải làm được khởi lên của họ. Đây gọi là Tỳ kheo bị loài người nhặt lấy.
Và thế nào, nầy các Tỳ kheo, là bị phi nhân nhặt lấy ? Ở đây, Tỳ kheo sống Phạm hạnh với ước nguyện được sanh cộng trú với một hạng chư Thiên : “Mong rằng với giới luật nầy, với cấm giới nầy, với khổ hạnh nầy, với Phạm hạnh nầy, ta sẽ trở thành Thiên nhân hay một loài chư Thiên!” Đây là Tỳ kheo, được gọi là bị phi nhân nhặt lấy .
Bị mắc vào xoáy nước, nầy Tỳ kheo, là đồng nghĩa với năm dục công đức .
Và nầy Tỳ kheo, thế nào là bị mục nát bên trong ? Ở đây, nầy Tỳ kheo, có người thọ tà giới, theo ác pháp, bất tịnh, có những hành vi đáng nghi ngờ, có những hành động che đậy, không phải Sa môn nhưng hiện tướng Sa môn, không phải Phạm hạnh nhưng hiện tướng Phạm hạnh, nội tâm bị hủ bại, đầy dục vọng, là một đống rác bẩn. Đây, nầy Tỳ kheo, được gọi là bị mục nát bên trong .
------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(17 tiếp 2)
Tiếp theo :
-Lại trong kinh Tạp A Hàm, tập 4, trang 238, ấn bản năm 1995, do nhị vị Hòa thượng Thiện Siêu và Thanh Từ dịch. Có đoạn ghi lại thế nầy :
-Tôi nghe như vầy :
Một thời Phật trú tại xứ A tỳ xà, bên sông Hằng .
Khi ấy có Tỳ kheo đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, rồi lui ngồi một bên, bạch Phật :
–Lành thay ! Thưa Thế Tôn ! Ngài vì con thuyết pháp, sau khi nghe xong,con một mình ở chỗ vắng, chuyên cần, tinh tấn, tư duy, không buông lung, và hiểu được lý do những người trong các tộc tánh
cạo bỏ râu tóc, chánh tín không nhà, xuất gia học đạo, tiến tu Phạm hạnh, thấy pháp tự biết tác chứng : “Sự sanh của ta đã dứt, Phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, tự biết không còn thọ thân sau”.
Bấy giờ Thế Tôn nhìn ra sông Hằng, thấy một khúc cây lớn trôi theo dòng nước chảy xuống. Ngài bèn nói với vị Tỳ kheo ấy rằng:
-Thầy có thấy khúc cây trôi theo dòng nước của sông Hằng nầy không ?
-Bạch Thế Tôn ! Con thấy .
Phật bảo :
Khúc cây lớn nầy không vướng bờ bên nầy, không vướng bờ bên kia, không chìm xuống đáy, không bị mắc ở cù lao, không bị nước xoáy, không bị người vớt, không bị phi nhơn giữ lại, cũng không bị mục, nó sẽ trôi theo dòng nước ra biển phải không ?
-Bạch Thế Tôn ! Đúng vậy .
Phật bảo :
-Nầy Tỳ kheo cũng như thế ! Nếu không vướng bờ bên nầy, không mắc bờ bên kia, không chìm xuống nước, không mắc ở cù lao không bị dòng nước xoáy, không bị người vớt, không bị phi nhơn giữ, cũng không bị hư mục, thì sẽ chảy thẳng đến Niêt bàn.
Tỳ kheo bạch Phật :
-Bạch Thế Tôn ! Thế nào là bờ bên nầy ? Thế nào là bờ bên kia ? Thế nào là chìm mất ? Thế nào là bị mắc ở cù lao ? Thế nào là bị nước xoáy ? Thế nào là bị người vớt ? Thế nào là bị phi nhơn giữ ? Thế nào là hư mục ? Cúi xin Thế Tôn vì con mà giải nghĩa nầy. Sau khi nghe xong, con sẽ một mình ở chỗ vắng, chuyên tinh tư duy,
sống không buông lung … tự biết không còn thọ thân sau .
Phật bảo :
-Bờ bên nầy là sáu căn. Bờ bên kia là sáu trần. Bị người vớt là Tỳ kheo hay gần gũi với người thế tục, hay kết bạn với người xuất gia,
gặp những hoàn cảnh sướng, khổ, vui, buồn, theo việc làm của họ cũng phải thủy chung theo nhau. Đây gọi là bị người vớt. Bị phi nhơn giữ là người tu hành trì trai, giữ giới, khổ hạnh, hay tu các phạm hạnh để được sanh lên các cói trời. Đây gọi là bị phi nhơn giữ. Bị nước xoáy là xả giới, hoàn tục. Hư mục là phạm giới, hành các pháp bất thiện, hủ bại, ít học, giống như cỏ dại, như tiếng thổi
ốc. Những người như thế chẳng phải là Sa môn mà giống Sa môn,
chẳng phải là Phạm hạnh mà giống Phạm hạnh .
Như thế, Tỳ kheo ! Đó gọi là không dính bờ bên nầy, bờ bên kia…
chảy thẳng đến Niết bàn .
-Còn trong Tiểu Bộ kinh, tập 1, trang 374, ấn hành năm 1999, do
Hòa thượng Minh Châu dịch. Cũng có đoạn nói đến sự việc trên như sau :
-Đều nầy đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A la hán nói đến,
và tôi đã được nghe :
Với Tỳ kheo hay Tỳ kheo nào, nầy các Tỳ kheo, tham chưa đoạn tận, sân chưa đoạn tận, si chưa đoạn tận; nầy các Tỳ kheo, vị ấy được gọi là vị chưa vượt qua đại dương, với sóng biển, với sóng ngầm, với nước xoáy, với cá mập, với các loài La sát. Nầy các Tỳ kheo, với Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni nào, tham đã đoạn tận, sân đã đoạn tận, si đã đoạn tận; nầy các Tỳ kheo, vị ấy được gọi là : “Đã vượt qua đại dương, với sóng biển, với sóng ngầm, với nước xoáy,
với cá mập, với các loài La sát, đã vượt qua bờ kia, là vị Bà la môn đứng trên đất liền”.
Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa nầy. Ở đây điều nầy được nói đến :
Với ai đã từ bỏ
Tham, sân và vô minh
Vị ấy được gọi là
Đã vượt qua biển nầy
Với cá mập, Dạ xoa
Với sóng biển hãi hùng
Rất khó được vượt qua
Là vị vượt ác triền
Đã từ bỏ thần chết
Không còn có sanh y
Đã từ bỏ đau khổ
Không còn có tái sanh
Đã đi đến mục đích
Không thể ước lượng được
Ta nói rằng vị ấy
Làm ma vương si ám.
Ý nghĩa nầy được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe .
------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(17 tiếp 3)
Tiếp theo :
-Chẳng những thế, cũng trong Tiểu Bộ kinh, tập1, trang 448, Phật đã dạy :
-Nầy các Tỳ kheo, ví như có người bị dòng sông cuốn trôi, dòng sông đẹp đẽ, dễ thương. Có người có mắt, đứng trên bờ thấy người ấy, nói rằng : “Nầy người kia, tuy người bị cuốn trôi bởi dòng sông đẹp đẽ dễ thương, nhưng ở dưới kia có một cái hồ, đầy sóng và
nước xoáy, đầy cá sấu và quỷ Dạ xoa; nếu ông đến chỗ ấy. Ông sẽ bị chết, hay đau khổ gần như chết. Rồi người ấy, sau khi nghe tiếng của người kia, liền với tay và với chân, bơi ngược dòng. Nầy các Tỳ kheo,
Ta ví dụ nầy là để giải thích ý nghĩa ở đây, ý nghĩa là như sau : “Dòng sông, nầy các Tỳ kheo, là đồng nghĩa với ái. Sắc khả ái dễ thương,
nầy các Tỳ kheo, là đồng nghĩa với sáu nội xứ. Cái hồ ở dưới, nầy
các Tỳ kheo, là đồng nghĩa với năm hạ phần kiết sử. Sóng, nầy các Tỳ kheo, là đồng nghĩa với phẩn nộ, ưu não.. Nước xoáy, nầy các Tỳ kheo, là đồng nghia với năm dục tăng trưởng. Cá sấu với quỷ Dạ xoa, nầy các Tỳ kheo, là đồng nghĩa với đàn bà; ngược dòng, nầy các Tỳ kheo, là đồng nghĩa với xuất ly. Tinh tấn với tay,
với chân, là đồng nghĩa với tinh cần tinh tấn. Người có mắt đứng trên bờ, nầy các Tỳ kheo, là bậc Như Lai,A La Hán, Chánh Đẳng Giác .
-Tôi lại đọc thấy trong kinh Hoa Nghiêm, tập 1, trang 529, ấn bản năm 1966, do Hòa thượng Trí Tịnh dịch. Tuy không hoàn toàn giống chương hai mươi bảy, song cũng ghi lại để chúng ta đọc thêm :
-Bồ tát nầy dầu biết chúng sanh chẳng phải có, nhưng chẳng bỏ tất cả chúng sanh giới. Ví như thuyền trưởng chẳng dừng bờ nầy,
chẳng đậu bờ kia, chẳng dừng giữa dòng, mà có thể đưa chúng từ bờ nầy qua đến bờ kia, vì qua lại không thôi nghỉ vậy .
Bồ tát nầy cũng như thế, chẳng trụ sanh tử, chẳng trụ Niết bàn,
cũng chẳng trụ giữa dòng sanh tử, mà có thể độ chúng sanh từ bờ sanh tử nầy, đặt họ trên bờ Niết bàn kia, nơi an ổn vô úy, không ưu não.
Và sau đây là một đoạn nữa, cũng trong kinh Hoa Nghiêm, nhưng
ở tập 4, trang 474, phẩm Nhập Pháp giới, ấn bản năm 1968, do Hòa thượng Trí Tịnh dịch :
-Nầy Thiện nam tử ! Ví như nhà lái thuyền thường dùng thuyền lớn ở trong sông, chẳng đậu bờ bên nầy, chẳng ghé bờ bên kia,
chẳng dừng ở giữa dòng, nên có thể đưa mọi người không thôi nghỉ .
Cũng vậy, đại Bồ tát dùng thuyền Ba la mật ở trong biển sanh tử,
chẳng tấp bờ bên nầy, chẳng ghé bờ bên kia, chẳng dừng ở giữa dòng nên độ được chúng sanh không thôi dứt. Dầu tu Bồ tát hạnh
vô lượng kiếp, nhưng chưa từng phân biệt kiếp số dài ngắn .
------------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang