Post date: Jun 26, 2012 2:29:51 AM
LỜI TỰA
Cuốn đặc san mà quý độc giả đang cầm trên tay là một loạt bài nghiên cứu của hội viên Hội Khoa học Lịch sử thành phố Đà Nẵng lần đầu tiên được biên soạn và xuất bản kể từ sau Đại hội lần thứ II (tháng 9/2011) đến nay. Ý định ban đầu của Hội chúng tôi khi biên soạn đặc san này là nhằm gửi đến quý độc giả và gửi đến nhau một món quà tinh thần nhân dịp đầu năm mới Nhâm Thìn, nhưng do nhiều nguyên nhân, món quà nhỏ nhoi này lại trở thành một cành mai xuân... nở muộn.
Như mọi người đều biết, hoạt động của Hội Khoa học Lịch sử là hoạt động tập thể, nhất là những hoạt động bề nổi như tổ chức hội thảo, trao giải thưởng sử học đòi hỏi mọi hội viên phải có tinh thần và khả năng hợp tác vì công việc chung của cả Hội. Chính nhờ tinh thần và khả năng hợp tác vì công việc chung của số đông hội viên mà đặc san này có được một lượng bài khá là phong phú. Mặt khác, hoạt động nghề nghiệp của hội viên Hội Khoa học Lịch sử lại đòi hỏi phải rất cô đơn, được hiểu là rất độc lập, bởi muốn sáng tạo cái mới trong khoa học và trong nghệ thuật, cụ thể là muốn góp mặt trong đặc san này với những nét mới trong nghiên cứu lịch sử địa phương, không thể không độc lập về tư duy. Nếu quý độc giả có thể rộng lòng chấp nhận một số nội dung trong đặc san như là những nét mới thì xem như các tác giả của đặc san đã đủ... cô đơn để sáng tạo (theo cách nói của Inrasara - một nhà nghiên cứu văn hóa Chăm).Khi chúng ta nói làm sử chủ yếu nhằm “ôn cố tri tân” - ôn chuyện cũ để biết chuyện mới - là chúng ta đang chạm đúng ngón tay vào bản chất của lịch sử. Lịch sử không bao giờ là dĩ vãng, lịch sử chỉ là quá khứ, mà quá khứ thì suy đến cùng chính là hiện tại. Một nhà triết học từng cho rằng hiện tại của những cái đã qua là trí nhớ, hiện tại của những điều sắp tới là sự đợi chờ; trí nhớ và sự đợi chờ cả hai đều là những sự kiện thuộc về hiện tại. Cho nên không phải ngẫu nhiên mà quý độc giả có thể tìm thấy trong đặc san này những tiểu luận nóng hổi tính thời sự về chủ quyền huyện đảo Hoàng Sa thân yêu của người Đà Nẵng. Đáng chú ý là trong tiểu luận của Ngô Văn Minh, quý độc giả có thể tiếp cận với một số thông tin về việc quản lý nhà nước của chính quyền cách mạng Đà Nẵng đối với quần đảo Hoàng Sa vào năm 1950: “Căn cứ vào các cuộc thảo luận của Hội đồng nhân dân Đà Nẵng, được sự đồng ý của Ủy ban kháng chiến hành chánh Liên khu V, tôi (tức Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chánh Đà Nẵng Chế Viết Tấn - BVT chú thích) có ký một quyết định và một chỉ thị. Quyết định là của Ủy ban kháng chiến hành chánh Đà Nẵng thành lập Ủy ban kháng chiến hành chánh Hoàng Sa gồm 5 người để quản lý khoảng từ 250 người đến hơn 300 người dân sinh sống ở đảo (…) Còn chỉ thị là của Thành đội bộ dân quân Đà Nẵng giao nhiệm vụ cho Hoàng Sa lập một trung đội dân quân tự vệ; tôi đã ký chỉ thị này với tư cách là chính trị viên Thành đội bộ”.
Diện mạo đô thị của Đà Nẵng trước năm 1975 cũng có thể được hình dung khá rõ nét qua tiểu luận của Lưu Trang và Lại Thị Huyền Trang về công nghiệp Đà Nẵng thời kỳ 1954- 1975, hay của Nguyễn Duy Phương về đường phố Đà Nẵng thời Pháp thuộc... Thật thú vị khi tiếp cận với thông tin về “cái thuở ban đầu” của con đường Bạch Đằng hiện đại ngày nay: “Đại lộ đầu tiên được xây dựng là Quai Courbet chạy dọc theo bờ tả sông Hàn. Tiền thân của nó là một con đường đất nhỏ hẹp, xuất hiện từ thế kỷ XVII, khi thành phố này mới chỉ là một tiền cảng. Dọc bờ Tây sông Hàn lúc đó, chỉ có những làng chài lơ thơ với những người sửa chữa ghe thuyền, những người buôn bán và nấu muối. Cho tới thế kỷ XIX, dưới thời tự chủ của triều Nguyễn, thương mại trên con đường này phát triển mạnh mẽ nhưng nó vẫn là con đường đất nhỏ hẹp. Khi Đà Nẵng trở thành nhượng địa, phần Tây bờ sông dần được kè lên, con đường đất nhỏ bắt đầu được mở rộng, chiều dài 2.550m, lòng đường được quy hoạch rộng 9m, lát đá, phía Bắc nối với một con đường nằm trên cửa chính thành Điện Hải - Pierre Poirre. Dọc theo con đường, một bên trồng cây xanh, một bên là các cầu tàu và mặt nước để tàu thuyền neo đậu. Lòng đường được chia đôi bởi tuyến đường ray của hỏa xa thành phố”…
Cuộc cách mạng 1916 hay còn gọi là cuộc khởi nghĩa Duy Tân cũng là một nội dung khá đậm nét trong đặc san này. Lần đầu tiên, Nguyễn Trương Đàn cho công bố bản dịch từ bản tiếng Pháp (do chưa tìm được nguyên bản chữ Hán) chiếu chỉ khởi nghĩa của vua Duy Tân đề ngày 29 tháng 4 năm 1916 (bản gốc tiếng Pháp đang được lưu trữ trong Trung tâm lưu trữ Quốc gia Hải ngoại của Pháp ở Aix-en-Provence ANOM, tại Văn khố Toàn quyền Đông Dương, hồ sơ số 9.588 nhan đề “Triều đình An Nam - Cuộc mưu loạn ở Huế - Việc chạy trốn và lưu đày vua Duy Tân, 1916”). Bên cạnh đó, nghĩ về nhà cách mạng Trần Cao Vân, người viết lời tựa này cho rằng: “Xưa nay Thái Phiên vẫn được xem là kiến-trúc-sư-trưởng của cuộc cách mạng 1916, thế nhưng xứng đáng suy tôn là lãnh tụ tối cao của cách mạng 1916 theo tôi không ai khác ngoài Trần Cao Vân. Quả là cuộc nổi dậy dưới ngọn cờ vua Duy Tân không thể và vĩnh viễn không thể thắp lên ngọn lửa báo hiệu giờ khởi nghĩa trên đèo Hải Vân, song lại làm bừng sáng nhãn quan chính trị của riêng Trần Cao Vân”…
Và còn nhiều nội dung phong phú nữa trên cành - mai - xuân - nở - muộn này, Hội Khoa học Lịch sử thành phố Đà Nẵng xin được trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả gần xa; đồng thời rất mong được chỉ giáo trên tinh thần học thuật.
Bùi Văn Tiếng
Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử
thành phố Đà Nẵng