Post date: Oct 15, 2011 3:37:27 PM
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÙNG ĐẤT VÀ CON NGƯỜI THOẠI SƠN
Nguyễn Quốc Khánh
Thoại Sơn ngày nay là vùng đất rộng lớn, là tên gọi của 1 huyện trong 11 huyện, thị, thành của tỉnh An Giang. Nói đến Thoại Sơn, người ta liên tưởng ngay đến vị danh thần Thoại Ngọc Hầu, người đã có công trong việc khai phá vùng đất Nam Bộ nói chung và vùng đất Thoại Sơn nói riêng. Thoại Sơn từ thời mở đất chỉ là một làng gắn liền với sự kiện đào kinh, lập làng và tên người đã khai sinh vùng đất mới.
Từ cuối thế kỷ XVII, những người Việt đầu tiên đã dừng chân ở khu vực Chợ Mới (An Giang) khai phá đất hoang, lập làng xóm, tiến dần lên biên giới và vượt sông Hậu đến vùng Tam Khê, Đông Xuyên cảng đạo, Thuỵ Hà… để khai hoang sinh sống. Đầu thế kỷ XIX, vùng Núi Sập bấy giờ còn hoang vu, mịt mù cây rừng cỏ dại, “vẫn che phủ um tùm và là nơi hang ổ cho hươu nai” (1), đất đai khai khẩn chưa được là bao, dân cư thưa thớt. Lạch nước đã có sẵn, nhưng nhỏ hẹp và bùn đọng cỏ lấp, ghe thuyền không qua lại được. Trước đây, con sông Đông Xuyên (nay là Long Xuyên) chỉ kéo dài đến Ba Bần, mọi sự đi lại của ghe tàu từ Long Xuyên và đồng bằng sông Cửu Long sang Rạch Giá, Hà Tiên hay ngược lại phải đi đường biển vòng xuống Cà Mau.
Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa, người gần gũi với dân khai hoang nghèo khó, đã từng dong ruổi đất An Giang – Núi Sập, thấu hiểu bao nhiêu trở ngại thiên nhiên, đã viết:
“Một thuyền cầm hạc một mình ta
Đường hiểm gian nan khắp trải qua
Núi Sập sấm rền vang tiếng muỗi…”
Sau khi thành lập (1802), triều đình nhà Nguyễn đã chủ trương đẩy mạnh khai hoang vùng đất phía nam. Năm 1817, khi làm Trấn thủ Vĩnh Thanh, Nguyễn Văn Thoại kiến nghị lên vua Gia Long việc đào kinh Đông Xuyên, nối vàm rạch Đông Xuyên (Long Xuyên ngày nay) với ngọn Giá Khê (Rạch Giá) được triều đình chấp nhận.
Mùa xuân năm Mậu Dần (1818), công việc đào kênh được tiến hành. Nguyễn Văn Thoại điều động dân Việt và Khmer khoảng 1.500 người chặt cây cối, đào vét bùn lầy. Lương thực và thực phẩm của sưu dân trong thời gian đào kinh do Nhà nước đài thọ. Kinh đào theo lạch nước cũ nên thuận lợi dễ dàng. Công việc tiến hành hơn một tháng là xong. Kinh nối liền Long Xuyên – Rạch Giá (đầu kinh là Ba Bần thuộc xã Vĩnh Trạch ngày nay), bề ngang 20 tầm, chiều dài một vạn hai nghìn bốn trăm mười tầm (khoảng 30 km). Kinh Đông Xuyên – Rạch Giá là một con kinh đào sớm nhất ở miền Nam, nó có một vị trí rất quan trọng trong việc giao thông vận tải đường sông và phát triển nông nghiệp, nâng cao đời sống kinh tế và văn hoá của nhân dân Thoại Sơn từ trước đến nay (2).
Sau khi đào kinh xong, Nguyễn Văn Thoại cho vẽ hoạ đồ kinh và núi Sập trình lên vua. Để ghi công lao Nguyễn Văn Thoại, vua Gia Long đặt tên cho kinh mới đào là Thoại Hà và Sạp Sơn (núi Sập) là Thoại Sơn. Cho nên địa danh Thoại Sơn và Thoại Hà ra đời từ đó. Kinh Thoại Hà là công trình mang tầm vóc chiến lược quan trọng trong lịch sử khai phá đồng bằng sông Cửu Long. Cư dân An Giang theo truyền thống cư dân Nam Bộ đối với người có công với cộng đồng, đã đặt tên ngôi chùa trên Núi Sập là “Thoại Sơn tự”, làng bên Núi Sập là Thoại Sơn, cầu bắc ngang kinh Thoại Hà là cầu Thoại Giang!
Sau cuộc đào kinh, triều đình khuyến khích dân chúng đến khai phá đất đai và lập làng, lập ấp. Việc đào kinh Thoại Hà và nạo vét 2 lần vào năm 1897 và 1914 đã tạo cơ sở hình thành nhiều cụm dân cư ven sông. Cũng từ đó, thuyền bè từ miền sông Hậu qua phía tây Rạch Giá, Hà Tiên trở nên thuận lợi, không còn phải đi vòng ra biển.
Để đánh dấu kỷ niệm trọng đại trong cuộc đời mình, Thoại Ngọc Hầu soạn một bài văn khắc vào bia đá. Năm Minh Mạng thứ ba (1822), Nguyễn Văn Thoại lập làng Thoại Sơn, cho khắc và dựng bia Thoại Sơn. Đầu bia đá chạm to hai chữ THOẠI SƠN, chiều cao 3 m, ngang 1,2 m, bề dày 2 m, mặt bia chạm đúng 629 chữ. Bia Thoại Sơn là một trong ba công trình lịch sử loại bia ký nổi tiếng ở Việt Nam dưới chế độ phong kiến còn lưu lại đến ngày nay được nhiều người truyền tụng (3).
Đáp ứng nguyện vọng đời sống tâm linh của nhân dân, Nguyễn Văn Thoại còn cho lập một ngôi chùa thờ Phật ở triền Núi Sập (4), là một trong ba ngôi chùa lừng danh nhất của An Giang ngày xưa (5). Nơi đây đã trở thành một danh lam thắng cảnh của An Giang. Nhiều nhà thơ, nhà văn, chí sĩ yêu nước đã đến đây dịch văn bia, làm thơ…, khách thương hồ qua lại “chuyện trò lý thú, bàn việc núi được ban tên” (bia Thoại Sơn). Từng đoàn du khách đến viếng sơn lâm, lễ Phật đầu non, xem bia trong thần miếu. Đó là cơ sở cho việc hình thành một vùng đất trù phú như ngày nay.
Tự hào về một danh nhân có công mở đất, lập làng, những người già ở đây thường kể cho con cháu nghe: “Nơi đây khi xưa là nơi hang sâu rừng thẳm, ngày cọp gầm, đêm beo thét, ma thiêng nước độc, không một bóng người”. Nhờ công ông Thoại mà núi dần hiện ra. Trải qua non 200 năm, dân tứ xứ tụ về làm ăn sinh sống, xây dựng vùng quê mới tươi đẹp “trên thì muông thú ngập rừng, dưới thì tôm cá đầy sông”. Bà con vui sống chan hoà, chơn chất thật thà đùm bọc lẫn nhau. Người Việt, người Hoa sống đoàn kết, gắn bó với nhau hình thành một xã hội có nghề nghiệp đơn giản. Có vài hãng khai thác đá để bán đi khắp nơi, làm đường sá, xây nhà cửa, công nghệ đơn sơ phần lớn chỉ làm bằng tay. Người Hoa phần lớn buôn bán hàng xén, vải vóc, thịt gạo. Quanh làng là đồng ruộng trải dài, ở đấy những người nông dân hiền hậu lao động cần cù trên cánh đồng nhà (6).
Người dân làng Thoại Sơn thường tự hào vì làng không thờ ông Thành hoàng nào xa lạ mà lập đình thờ một danh tướng hẳn hoi (7). Ngôi đình Thoại Ngọc Hầu là một thắng cảnh nằm bên triền núi, có nhiều cây cổ thụ bao quanh. Lễ hội Kỳ yên ở đình làng được tổ chức trong 3 ngày (14,15 và 16 tháng 7 âm lịch) là một hội lớn trong năm của người dân Thoại Sơn. Phần tế lễ được tiến hành hết sức nghiêm trang. Đồ lễ do dân làng dâng tiến tùy theo khả năng và tâm nguyện. Ngân quỹ của đình cũng do dân làng đóng góp. Một ban tế tự được cử ra gồm có Chánh bái, Bồi bái và các học trò lễ. Ông Sáu Chí là người có uy tín trong làng lại giỏi chữ nên được cử giữ chức Chánh bái trong nhiều năm.
Phục vụ lễ hội có một gánh hát bội không bán vé vào cửa nên gọi là thả giàng. Gánh hát diễn những tuồng tích về trung hiếu, tiết nghĩa và nhất thiết phải có tuồng “San hậu”. Những trò chơi như đá gà, đá dế, đá cá lia thia của trẻ em là những cuộc đọ sức, đọ tài, không nặng về ăn thua, sát phạt. Ngày hội thu hút cả người Việt và người Hoa ở khắp nơi quanh vùng. Đây là dịp để nhân dân tỏ lòng tri ân đối với danh thần Thoại Ngọc Hầu và cũng là dịp tổ chức vui chơi cho mọi người sau những tháng ngày lao động mệt nhọc.
Trên con đường làng chạy vòng chân núi, quanh năm toả bóng mát rượi bởi dừa, xoài, vú sữa… cuộc sống của người dân thật đầm ấm, nghĩa tình. Nhân dân Núi Sập - Thoại Sơn luôn trân trọng và tự hào với những thành quả mà cha ông đã đổ bao mồ hôi, nước mắt và xương máu để tạo dựng nên.