Post date: Oct 28, 2012 8:58:14 AM
Lời người đăng: Cao Huy Diệu người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, từng kinh qua nhiều chức vụ: Tri huyện Nam Xang, sung Hàn Lâm viện, Tri phủ Quốc Oai. Từ tháng 3-1815, Cao Huy Diệu được cử làm Chánh đốc học Gia Định. Tại đây, theo lời yêu cầu của Thoại Ngọc Hầu, Cao Huy Diệu đã khởi thảo bài ký cho bia Thoại Sơn ký tên là "Gia Định thành Đốc học Cao bá nghĩ thảo". Dưới đây xin giới thiệu một bài ký khác do Cao Huy Diệu biên soạn. Nhờ bài ký này, ta càng củng cố thêm cách hiểu hai chữ Cao bá là vị quan họ Cao được phong tước bá, bởi vì cuối bài ký Cao Huy Diệu cho biết tước phong của mình là Diệu Quang bá. Đầu đề chính do người đăng tải đặt.
VỀ MỘT BÀI VĂN CHUÔNG Ở THẾ KỈ XIX
PHẠM HOÀNG GIANG
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Hưng Yên tỉnh, Văn Lâm huyện, Đồng Xá tổng, Mỹ Xá xã, Mễ Đậu Đồng Chung nhị thôn khoán ước (kí hiệu A3/65; khổ 29 x 16cm; 213 trang) là một văn bản khoán ước được lưu trữ trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Đây là văn bản ghi chép tục lệ của hai thôn Mễ Đậu và Đồng Xá thuộc xã Mỹ Xá, tổng Đồng Xá, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Ngoài phần tục lệ, văn bản còn chép về bài ký cùng bài minh được khắc trên chuông đình vào năm Gia Long thứ 13 (1814) của thôn Mễ Đậu, gồm 5 trang (từ trang 6 đến trang 10). Tác giả là một vị Tiến sĩ thời Gia Long là Cao Huy Diệu , ông được biết đến là một tác gia Hán Nôm khá nổi tiếng ở thời Gia Long. Ông có tên hiệu là Vô Song, biệt hiệu Hồng Quế Hiên, người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh cũ (nay là thuộc ngoại thành Hà Nội); đỗ thủ khoa trong kì thi Hương năm Gia Long thứ 6 (1807); và từng làm quan Đốc học Thăng Long, Thượng thư. Tác phẩm của ông hiện được lưu giữ tại kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm có:
- Việt Điện u linh lục tiếm bình (A.751, A.2879)
- Cấn Trai thi tập (A.780) và một số thơ văn khác
Với nội dung ghi chép nguồn gốc của chuông, bài văn chuông không những đã miêu tả được khá rõ về thời gian, hoàn cảnh ra đời, hình thức, đặc điểm của quả chuông, mà còn đưa lại cho chúng ta thêm nhiều thông tin về nghề truyền thống của các tổng Đồng Xá và Đại Từ xưa.
Đặc biệt, qua nội dung của văn bản, tác giả đã cho thấy sự ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống tín ngưỡng, cũng như truyền thống ân nghĩa của nhân dân ta trong việc báo đền công đức giúp đỡ của tổ tiên, cũng như liệt vị linh thần.
Được chép ở đầu sách, bài văn chuông như làm cho văn bản vượt ra ngoài giá trị một văn bản khoán ước thông thường. Nó làm phong phú thêm nét đẹp về truyền thống văn hóa của dân tộc, cũng như thể hiện được khả năng bố trí, trình bày rất đặc biệt một văn bản Hán Nôm của các tác giả. Do vậy, chúng tôi xin giới thiệu trong Hội nghị Thông báo Hán Nôm lần này.
Toàn văn là:
Phiên âm:
Bản đình chung ký
Đại Việt quốc Kinh Bắc đạo, Thuận An phủ, Siêu Loại huyện, Đỗ Xá xã, Mễ Đỗ thôn Văn chung tự tịnh minh.
Dương dương tại chung hồ. Tại tiêu thiều vi nhạc chung, tích ung vi học chung. Hài thần nhập nhi hợp thượng hạ, dưỡng tính tình nhi toại trung hòa. Kỳ công tắc nhất thực bát âm trung chi bất khả khuyết. Ngã Đại Nam tự Lý Trần dĩ lai phạn giáo hiển hành, ấp hữu tự, tự hữu chung. Đại Thành điện cập chư tiên quán chi ngoại kì vi chung dã tiển hĩ
Cung duy
Ngô Thánh vương dĩ thi thư chi phái lâm văn hiến chi bang, hưởng thất thập niên chung cổ chi phụng miếu vu ngô Đỗ Xá, bất tri kỳ kỉ triều đại. Tương truyền cựu hữu chung, trung gian trưng ư binh tiển. Nhân tuần ngoạn dịch cánh vị hữu kế bổ tự điển chi khuyết. Ấp hữu (khuyết) chủ nhân tố dĩ thiết dã vi nghệ. Trung gian tao thanh (khuyết) kỳ hữu ân yêu linh huống (khuyết) nhi phục phấn nãi thỉ dân dân tâm thí xảo thủ. Mưu chi ấp công chi thập phương dĩ Giáp Tuất niên, Kỉ Hợi nguyệt, Canh Thân nhật, Nhâm Thân thời, khai lô luyện chú. Dực nhật phát dã, hiến vi tự chung. Cửu long kì ngu dã, Cự kình kì yêu dã, lân phượng quy xà kỳ duyên dã. Bách cân kỳ trọng, xích bách nhị kỳ quảng, mãn nguyệt kỳ hình, hồng lôi kỳ thanh, lưu vi ngô miếu thiên vạn niên chi trọng bảo. Ức ngã bang dĩ dung đồng vi nghệ, duy Đại Từ Đồng Xá chư tổng đồng khí tiền văn, giai do thử xuất. Kim dã ngọc chi dĩ hương nhân phụ chi, dĩ đồng ấp dụng ngô tổng chi nghệ chi xảo, hợp thiên hạ chi tình chi tài, Sử nhĩ lai ngô lục thập niên sở vô chi khí, hốt nhất triêu nhi ngọc kỳ thành. Hưởng văn thanh ư đông bắc chi giao, tuyên kính ý ư xuân thu chi tế, dữ Tam Á từ chi đồng thanh biệt cảnh nhi đồng thanh Lục Đầu Giang chi thủy. Chung thù đồ nhi hợp bảo, khởi bất thị hóa công chi nhất đại dung chú dã da ? Dư hạnh vi mục văn nhân, ấp nhân hỉ dư chi danh trưng văn ư dư. Dư mộ vương chi linh, nhạc chung chi linh, trọng hương nhân chi tình, tức tịch nhi vi chi tự. Hựu tòng nhi vi chi minh.
Minh viết:
Duy Chu bích ung
Ư luận cổ chung
Ngô hương cố cung
Thánh vương thị tông
Miếu tại chung không
Hữu tư toàn trùng
Minh minh hóa công
Vật cùng nhi thông
Ấp nhân hữu đồng
Thị đào thị dung
Kỳ duyên tứ linh
Kỳ ngu cửu long
Kỳ hình tư sùng
Kỳ thanh tư hồng
Túc ngã từ dung
Hương ngã hoa phong
Thử đức thử công
Dữ chung vô cùng.
Dịch nghĩa:
Bài văn khắc trên chuông ở thôn Mễ Đỗ, xã Đỗ Xá, huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thiên, đạo Kinh Bắc, nước Đại Việt.
Mênh mang thay tiếng chuông, tại chốn tiêu thiều là chuông nhạc, tại nhà học đường là chuông học. Nó là sự hòa quyện giữa thần và người, mà hợp trên dưới, nuôi dưỡng tính tình mà trọn vẹn trung hòa. Công lao đó, thực chỉ là một, trong đó bát âm không thể thiếu được. Nước Đại Nam ta, từ thời Lí - Trần đến nay, rất thịnh hành Phật giáo. Làng có chùa, chùa thì có chuông. Còn miếu (Khổng Tử) và các quán tiên, thì việc dùng chuông hiếm thay.
Kính nghĩ:
Bậc Thánh Vương chọn con đường thi thư, làm nên nền văn hiến cho nước nhà, phụng hưởng thờ cúng đã được 70 năm. Miếu ở Đỗ Xá ta, không biết đã trải qua bao triều đại. Tương truyền, xưa có chuông trong khoảng thời gian có nạn binh loạn, thì chuông không còn nữa, nên việc thờ tự bị bỏ bễ. Hội chủ vốn là người làm nghề rèn đúc, nên đã đứng ra hô hào toàn thể dân làng cùng khách thập phương tổ chức đúc một quả chuông mới, Bèn hẹn vào giờ Nhâm Thân, ngày Canh Thân, tháng Kỉ Hợi (10), năm Giáp Tuất) mở lò, luyện nấu. Trong một buổi sáng đúc xong, dâng quả chuông lên chùa cửu long để thờ phụng vậy. Chày kình đánh lên, hợp duyên với tứ linh chầu hội. Quả chuông nặng trăm cân, đường kính hai thước, hình dáng tròn như mặt nguyệt, âm thanh như tiếng sấm. Đã để ở miếu làng ta, ngàn vạn năm quý trọng. Nghĩ nước ta có nghề nấu đồng, duy ở các tổng Đại Từ và Đồng Xá có thêm nghề đúc tiền đồng, tất cả đều từ đó mà ra. Nay, cái quí báu là do người trong làng phụ giúp vào, cùng cả làng, dùng cái khéo léo của nghề riêng tổng ta, kết hợp với của cải, tình cảm của thiên hạ hợp lại, khiến cho năm ta 60 tuổi mà vẫn chưa thấy gì, bỗng nhiên vào một buổi sáng sớm, nghe thấy tiếng chuông. Cái âm hưởng quí báu đó, vang dội lên, từ phía đông bắc vọng lại, cung kính tế tự ở hai tiết xuân thu, cùng với âm thanh của khánh đồng nơi thờ thánh ở làng Tam Á, cùng hòa quyện với tiếng chuông ở sông Lục Đầu Giang. Tiếng chuông rất khác biệt và quí báu, há chẳng phải là công lao to lớn bậc nhất đúc lên vậy sao! Ta may mắn được mắt thấy tai nghe, người trong ấp biết đến ta, hiểu rõ về ta. Ta rất mến mộ, coi sự linh thiêng của tiếng chuông là đứng đầu vậy. Coi trọng tình cảm của người trong làng, cho nên ta lấy đó làm bài từ này, và theo đó mà làm bài minh:
Minh rằng:
Chuông trường học nhà Chu
Là loại chuông cổ nhất
Cung thờ của làng ta
Thực dòng thờ Thánh Vương
Miếu có, chuông thì không
Mênh mông thay hóa công
Vật cùng ắt lại thông
Người trong làng có đồng
Đem ra cùng nấu đúc
Hợp duyên với tứ linh
Chạm trổ hình cửu long
Hình thế thật hào hùng
Âm thanh đà vang rộng
Đền ta thực nghiêm trang
Âm hưởng hòa không trung
Công này với đức này
Bền vững mãi vô cùng.
Ngày tốt, mùa mai nở, năm Giáp Tuất, niên hiệu Gia Long thứ 13 (1814).
Hậu học cùng quận ở Hàn lâm viện, năm Đinh Mão, xã Phú Thị, huyện Gia Lâm là Diệu Quang Bá, Cao Huy Diệu phụng soạn./.