Mộ ký hiệu 07Q5:01 - Cấu trúc mộ Mộ nằm trong hẻm 151, đường Nguyễn Trãi, phường 2, Quận 5, trước mặt là nhà số 151/24, cách mộ ký hiệu 07Q5:02 khoảng 20m về phía đông. Mộ nằm trên địa thế bằng phẳng và cao khoảng 3m so với đường Trần Hưng Đạo ở phía nam. Do bị lấn chiếm để làm nhà và đường hẻm, mộ hiện chỉ còn lộ một phần phía trên tường thành ở phần tiền, một phần mui luyện và bia. Bề mặt kiến trúc bị bong tróc nặng và sàn bị các vữa thời kỳ muộn phủ lên cao che lấp nên không thể nhận diện hết các đề tài trang trí. Đây là ngôi mộ đơn, được xây hoàn toàn bằng hợp chất. Mộ bị lấn chiếm nên chiều dài hiện còn trên 6m, rộng khoảng 7,4m, cao nhất khoảng 1,4m. Mộ có mui nằm ở phần hậu, dạng khối vum cao gần hình vòm. Mui luyện nằm theo hướng nam lệch đông 120. Bia được đặt trong một đường diềm hợp chất - mà 2 góc trên của đường diềm đắp nổi đồ án con dơi dang cánh nối liền với dây lá hình sin - nằm trước và âm vào mui, được xây liền với 2 khuôn nằm ở hai bên (dạng tam sơn) ôm cong theo mui tạo ô đắp nổi: khuôn bên hữu là đồ án 2 con hươu, khuôn bên tả bị bong tróc không thể nhận diện. Dưới chân bia hiện xây thêm kỷ hương (bản ảnh 9). Bia làm bằng đá, trên trán bia là vòng tròn nằm trên mây, hai cạnh hông là đồ án hoa 4 cánh, con dơi, đồng tiền nằm rải rảc trong các ô của đường hồi văn (bản dập 9). Chữ trên bia được khắc sâu, nét chân phương và bố cục làm 3 hàng dọc: Hàng dọc giữa, đọc từ trên xuống: Thanh cáo phong Cung nhân Đoan chính Trần môn, Nguyễn Thị mộ ( 清 誥 封 恭 人 端 正 陳 門 阮 氏 墓 ) Hàng dọc bên tả, đọc từ trên xuống: Tân tỵ niên mạnh hạ cát đán ( 辛 己 年 孟 夏 吉 旦 ) Hàng dọc bên hữu, đọc từ trên xuống: Hiếu nam Vĩnh ( Thời ( nữ ân gian đồng lập thạch ( 孝 男 永 ( 時 ( 女 恩 艰 仝 立 石 ) Vòng thành gồm những tường ngang có đầu cong nhẹ, bẻ vuông góc tạo tường dọc rồi nối với cuốn thư (?) của tường thành hình móng ngựa bao quanh mui luyện ở phần hậu. Tường thành chia mộ thành 2 phần: tiền, hậu. Tường thành dày khoảng 0,5m, bề mặt tường phẳng, cao từ 0,5m – 0,7m, trong đó thấp ở phần tiền và cao dần ở phần hậu. Kiến trúc bị hủy hoại do lấn chiếm nên rất khó nhận diện các trụ. Khả năng ở đầu tường ngang lối vào mộ là trụ sen; mặt trong tường dọc của phần tiền là chân quỳ; và dưới trụ cuốn thư lối vào phần hậu có ô hộc âm trang trí. - Nhận định sơ bộ Mộ được xây dựng hoàn toàn bằng hợp chất và được đổ theo từng lớp rất mỏng khoảng 4 - 6cm, dấu vết này hiện thấy rất rõ trên mui luyện và tường thành. Phía trên mui luyện các lớp thường dày nhất ở đỉnh và mỏng về phía các rìa - có lẽ do cấu tạo gần dạng vòm của mui. Kỹ thuật trang trí chủ đạo là đắp nổi đồ án hươu – tùng (?), dơi, dây lá và chạm nổi trên bia đồ án mây và dơi, hoa, đồng tiền trong các ô của đường hồi văn. Căn cứ vào minh văn khắc trên bia, cho thấy chủ nhân ngôi mộ là bà họ Nguyễn, làm dâu nhà họ Trần, được nhà vua / chúa phong làm Cung nhân Đoan chính. Cung nhân là chức vua phong cho vợ các quan tứ phẩm , tức chồng bà là quan tứ phẩm của triều đình. Người lập mộ là các con trai và gái. Trên bia khắc Thanh cáo phong…., nếu Thanh ở đây được hiểu là nhà Thanh (Trung Quốc) thì thời điểm lập mộ vào tháng 4 năm Tân tỵ có những năm sau: 1641, 1701, 1761, 1821, 1881. Và sẽ có 2 trường hợp: đây là mộ vợ quan tứ phẩm của triều đình Trung Quốc lại định cư ở nước ngoài; hoặc đây mộ vợ quan tứ phẩm của triều đình vua / chúa Nguyễn được triều đình Trung Quốc cáo phong. Nếu Thanh cáo phong… được hiểu là thông báo rõ ràng và được vua / chúa phong… và vua / chúa ở đây được hiểu là vua / chúa Nguyễn. Hình thức phong làm phu nhân, mỹ nhân, cung nhân, cung tân, nhụ nhân,…. cho vợ các quan lại tùy theo phẩm trật của chồng là hình thức rất phổ biến từ thời chúa Nguyễn đến các vua Nguyễn. Do vậy, có thể đây là mộ một quan lại thời Nguyễn và tháng 4 năm Tân tỵ có thể là năm 1761, 1821 hoặc 1881. Tuy nhiên, căn cứ vào vật liệu xây dựng mộ thuần là hợp chất, đề tài trang trí trên mộ và bia cho thấy nhiều khả năng niên đại mộ là năm 1761 hoặc năm 1821. Chủ nhân ngôi mộ này có thể là vợ Hoa kiều.