Post date: Jul 11, 2015 5:51:02 AM
LÊ VĂN CƯỜNG
Hội Bảo tồn Di sản chữ Nôm Việt Nam
Nhân Khê Đỗ Hạo Dưỡng (杜浩養) tên hiệu của Đỗ Lệnh Thiện (杜令善), ngườixã Nhân Mục, huyện Thanh Trì. Đỗ Tiến sĩ khoa Đinh Mùi (1787) đời vua Lê Chiêu Thống, chức Hàn lâm Kiểm thảo.Sau khi nhà Tây Sơn (1788-1802) lên nắm chính quyền, ông giữ chọn tiết tháo, trung thành với vua Lê, tìm nơi ở ẩn không chịu ra làm quan tân triều. Trong số đó có Phạm Quý Thích (1760-1825) người thi đỗ tiến sĩ cùng khoa đồng thời là bạn của ông.
Đỗ Lệnh Thiện là tác giả bài tựa trong tập Lữ trung ngâm 旅中吟 của Lê Huy Dao (黎輝瑤), hiệu Dao Trì (瑤池) tước Bá, người mà ông gọi là cậu ruột. Tập sách này cũng do Lập Trai Phạm Quý Thích (立齋范貴適) nhuận chính. Ngoài ra, ông còn là soạn giả bài văn bia Trùng tu Huy Văn điện bí kí vào năm Minh Mệnh thứ 4 (1823). Tấm bia này hiện được dựng ngay trước cổng chùa Dục Khánh, làng Văn Chương xưa, nay là ngõ Văn Chương. Ở phần lạc khoản bài văn bia có ghi Nhân Khê cư sĩ, tự Hạo Phủ soạn.
Văn bia mà chúng tôi giới thiệu ở sau có tên Hậu thần bi kí được ông soạn năm Bảo Hưng thứ 2 (1802) thời Tây Sơn. Bia đặt tại đình xã La Đôi huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương. Tấm bia này đã được in dập và lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm có kí hiệu N0 3781-3782. Bia 2 mặt, khổ 90x40cm, 29 dòng, mỗi dòng 10-29 chữ. Trán bia và diềm bia không có hoa văn.
Điểm đáng chú ý là nội dung bia ghi Hậu thần cho gia đình họ Phạm tướng công tức Phạm Đồng Viện 范同院 (1717-?) thuỵ Đôn Hòa, đỗ Đệ tam giápTiến sĩ xuất thân khoa Bính Tuất niên hiệu Cảnh Hưng thứ 27 (1766), chức Hàn lâm viện Thị giảng, từ quan về được tặng Triều liệt đại phu Đông các đại học sĩ. Từng làm quan Thị giảng,Tổng đốc Lạng Sơn. Sau ông đổi tên là Phạm Đình Toại.
Chúng tôi xin giới thiệu nguyên văn, phiên âm, dịch nghĩa nội dung bài văn bia:
Nguyên văn:
后神碑記
南策府,青林縣,堆社,鄉老員目社看仝社上下等薦拊崇先賢賜丙戌科進士,翰林院侍講,致仕贈朝列大夫東閣大學士范相公諡敦和,正室阮貴氏號慈清為后神碑記事。
碑以刻功鏤德古也。自非功德及人之深安能鎸于石以垂不杇乎?
爽惟!夫人阮貴氏本邑朝官范相公之正配也,藻孝,奉先,樛仁,逮下邑中均以賢壼則稱之。丙戌科相公登進士第,欽奉督諒山,開損官俸廠大亭為吾鄉萬世禴祠之所在。人功德莫不心扁而口碑之。相公即世,後人皆思慕祀為祔神具有碑記而夫人之碑猶未也,髫白銘思欲罄消埃之答。歲壬戌孟春再協議推崇夫人為后神,千秋潔祀永妥義馨。貴族又供肥田貳畝為繁盛之奉,厚意弗諼行將銘之崇鴻以垂永久矣。窃惟!德澤所流有思無数投桃,报玖天理在人,相公國之名臣,夫人家之賢婦,功德可以並傳爰此勒于貞珉而為之。銘曰:
先公偉望
夫人愨行
及人之澤
螭竜並峙
敬述其事
為國碩耆
為家賢妃
永世有辭
桑海不移
載勒于碑
相公男子第二郎儒生中式范廷亮。平生才俊超倫,仰体凊規撫綏,本邑經於辰,午等年四方兵燹而吾社賴以安全者。公子之力居多諒,惟相公遺愛既召之棠,公子深仁又麟之趾,一門種德鄉人咸霑其餘慶矣。歲丙午季秋公子辭世,人共追思。惟時公子夫人陳氏慎、男子范廷泰等復發家財以資民用,出肥田以恭忌日。仍此本社協議推保公子為后神。係遞年八席迎就大亭左边配享,满席迎还,又遞年九月二十五日忌。本社整礼猪一隻,𥸷一盘,酒一圩,金銀一千并芙蒥遞就亭中行礼,再待長事一具并頸后神公子弟二郎儒生中式范貴公諡智雅。
一忌田塘𣦍処二所連一畝一高「西近土阜」, 同𢀭処二所連七高「南近土阜」, 同杜処一所一高五尺「北近土阜」又一所十尺「北近土阜」
皇朝寶興弍年歲在玄黓阉茂仲春榖日
鄉校生楊廷朗,知事王公誼衛尉高炤陈輝过,阮春盈,阮公珠,縣丞同春城,阮廷將,武輝[?],阮伯權,阮城,阮世澤,皇廷 䛊仝社上下共記.
丁未科進士仁溪杜浩養甫撰,縣丞范廷晏寫.
二郎親弟弟仨公子懶齋居士范躍同撰.
Dịch nghĩa:
Bia ghi Hậu thần
Các bậc hương lão, viên mục, xã khán xã La Đôi huyện Thanh Lâm phủ Nam Sách cùng trên dưới toàn xã vì tôn sùng bậc tiên hiền, nên dựng bia suy tôn Phạm tướng công, thụy Đôn Hòa, Tiến sĩ khoa Bính Tuất, chức Hàn lâm viện Thị giảng, trí sĩ được tặng Triều liệt đại phu Đông các Đại học sĩ và chính thất Nguyễn quý thị, hiệu Từ Thanh làm Hậu thần.
Bia dùng để ghi công tạc đức từ ngàn xưa vậy. Nếu con người không làm công đức sao có thể khắc vào bia đá lưu truyền mãi mãi. Kính nghĩ! Phu nhân Nguyễn quý thị là chính thất của Phạm tướng công quan đương triều ấp ta. Bà là người hiếu thảo, phụng thờ tổ tiên, nhân đức rộng lượng, trong ấp đều ca ngợi bà hết lời. Khoa Bính Tuất, tướng công đỗ Tiến sĩ, làm Tổng đốc Lạng Sơn, đã phát tâm hưng công vào đình, vì đó là nơi thờ tự muôn đời của làng. Công đức của mọi người dù nhỏ, nhưng vẫn được người đời ghi nhớ. Sau khi tướng công mất, người đời tưởng nhớ công lao, cho được phụng thờ sau thần, dựng bia ghi lại. Nhưng bia của phu nhân thì chưa có, thảy muốn ghi ơn đền đáp lại sự thanh bạch của bà. Tháng giêng năm Nhâm Tuất, (làng) họp bàn suy tôn phu nhân làm Hậu thần, để nghìn năm được thờ tự, tiếng thơm lưu truyền mãi mãi. Quý tộc lại cúng 2 mẫu ruộng tốt có ý thờ phụng Hậu được lâu dài, nên được ghi vào bia lưu danh muôn thuở. Kính nghĩ! ân đức lưu truyền vô cùng, nghĩa lí tự nhiên phát triển như chồi xuân, đáp lại là chín phương trời ở tại người ta. Tướng công là danh thần của triều đình, phu nhân là hiền phụ của gia tộc, công đức ấy lẽ nào không lưu lại, vì vậy đem khắc vào bia đá bài minh rằng:
Tiên công vĩ đại, Vì nước đến già.
Phu nhân đức hạnh, Hiền phi vì nhà.
Gặp người ân đức, Muôn thuở có nhường.
Sánh uy cùng đứng, Tang hải không dời.
Kính thuật lại việc, Khắc ghi vào bia.
Con trai thứ hai của tướng công là nho sinh mẫu mực Phạm Đình Lượng, sinh thời tài giỏi hơn người, thân hình vạm vỡ, có đức vỗ về, giữ yên ổn cho dân bản ấp, qua các năm Thìn, Ngọ, khắp nơi binh hỏa mà xã ta nhờ đó được an toàn. Sức của công tử luôn dồi dào. Xét tình yêu thương tướng công đã để lại, công tử có lòng nhân sâu nặng, là vết dấu giống kì lân[1] đức độ, người trong làng được trau dồi nhân đức tốt đẹp ấy. Tháng 9 năm Bính Ngọ công tử qua đời, mọi người cùng truy ơn. Khi đó phu nhân của công tử Trần Thị Thận và con trai là Phạm Đình Thái lại phân phát tiền của cho dân, lưu ruộng tốt để cúng giỗ. Do vậy, bản xã họp bàn suy tôn công tử làm hậu thần. Hàng năm đến dịp tế thần lại nghênh đón (linh vị công tử) đến bên trái đình lớn để được phối hưởng, lễ xong lại nghênh đưa về nhà. Vào ngày giỗ 25 tháng 9 hàng năm chính lễ bản xã sắm sửa 1 con lợn, 1 mâm xôi, 1 vò rượu, 1 nghìn vàng mã và trầu cau đến nơi đình trung hành lễ, lễ xong đãi trưởng sự một cỗ, đồng thời tôn phụng hậu thần công tử đệ nhị lang nho sinh trúng thức Phạm quý công, thụy là Trí Nhã.
Ruộng gửi giỗ ở Đường Ngay 2 thửa liền nhau, cả thảy 1 mẫu 1 sào (Phía tây gần gò đất). Đồng Giàu 2 thửa liền nhau cả thảy 7 sào (phía nam gần gò đất). Đồng Đỗ 1 thửa, 1 sào 5 thước (phía bắc gần gò đất), lại 1 thửa 10 thước (phía bắc gần gò đất).
Ngày tốt, tháng 2, tại Huyền dực yêm mậu(2) Bảo Hưng thứ 2 (1802).
Hương lão Hiệu sinh Dương Đình Lãng, Tri sự Vương Công Nghị, Vệ úy cao chiếu Trần Huy Quá, Nguyễn Xuân Doanh, Nguyễn Công Châu, Huyện thừa Đồng Xuân Thành, Nguyễn Đình Tướng, Vũ Huy Ki, Nguyễn Bá Quyền, Nguyễn Đăng Thành, Nguyễn Thế Trạch, Hoàng Đình Thức, toàn xã trên dưới cùng kí.
Tiến sĩ Khoa Đinh Mùi (1787), Nhân Khê Đỗ Hạo Dưỡng soạn, Huyện thừa Phạm Đình Án viết chữ, em trai kết nghĩa thứ hai là Tam công tử Lãn Trai cư sĩ Phạm Dược cùng soạn.
Chú thích:
(1) Loài thú nhân đức con đực gọi là Kì, con cái là Lân.
(2) Huyền dực yêm mậu tức năm Nhâm Tuất.
Tài liệu tham khảo
3. Lê Văn Cường: Tìm hiểu văn bia Hậu thời Tây Sơn, Luận văn Thạc sĩ Hán Nôm, H. 2009.
4. Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu. Trần Nghĩa - François Gros, đồng chủ biên; Nxb. KHXH, H. 1993.
5. Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm Việt Nam. Trịnh Khắc Mạnh - Nguyễn Văn Nguyễn - Philippe Papin (Ban chỉ đạo công trình), Biên tập kĩ thuật: Trần Văn Quyền, Nguyễn Minh Quân, Vũ Thị Mai Anh, Nxb. Văn hóa - Thông tin, H. 2005.
6. Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nxb. Giáo dục, H. 1998./.
(Thông báo Hán Nôm học 2011, tr.547-552)