Nhật ký du hành gặp vua xứ Đàng Trong của James Bean

Nguyễn Sinh Duy

Tạp chí Xưa & Nay – Số 479 (01/2017) 


Đó thật sự là nhũng trang thủ bút của James Bean, một mại biện (comprador) người Anh đã đến Đàng Trong năm 1765. Tôi may mắn thủ đắc được bản sao chụp những trang bút tích ấy trong một dịp tình cờ hi hữu.


Một ngày giữa đông năm 1995, nhân trở lại du khảo Ngũ Hành Sơn, tôi gặp một giáo sư người Anh tại chùa Quan Thế Âm (núi Kim Sơn). Trong cuộc đàm thoại với các tu sĩ Phật giáo, ông giáo sư sử dụng cả tiếng Anh lẫn tiếng Pháp. Qua câu chuyện, tôi được biết ông giáo sư từ Anh quốc sang Ân Độ sưu tra sao chụp tài liệu rồi đến Việt Nam để khảo sát thực địa dấu vết cuộc du hành của tổ tiên xa đời của ông là James Bean vào thế kỷ XVIII. Cuộc du hành ấy diễn ra trong tháng 1-1765 của các nhân viên "Công ty Đông Ấn thuộc Anh" (London East India Company) - trong đó có Jame Bean - đi từ Hội An (Faifoe) ra Hué Fou (Huế Phủ) đóng ở Fou-Tchouan (Phú Xuân) để yết kiến "Vua xứ Đàng Trong" (the King of Cochinchina).


Như chúng ta đã biết, từ nửa sau thế kỷ XVIII, hai cuờng quốc châu Âu, Pháp và Anh, tranh nhau ảnh huởng vùng Đông Á, nhất là các nước nằm ven bờ biến Đông.


Họ ra sức ve vãn các nguyên thủ và chính quyền các nước ấy, dâng tặng nhiều lễ vật quý hiếm nhằm tiến tới xin thiết lập thương điếm, đặt quan hệ thương mại, cạnh tranh ráo riết với các nước Hà Lan, Bồ Đào Nha vốn đã cắm cơ sở mậu dịch tại nhũng xứ ấy từ cuối thế kỷ XVI. Đặc biệt hai xứ Đông Kinh (Tong King) và Đàng Trong (Cochinchina) nằm trong bán đảo Ân Độ-China (Indochina) là cái bao lon nhìn ra Thái Bình Dương luôn luôn hấp dẫn, mời gọi các tàu viễn dương từ phương Tây tìm sang phương Đông.


Cứ như nội dung cuộc yết kiến "vua xứ Đàng Trong" của nhật ký James Bean thì các tàu viễn dương như vậy của Công ty Đông Ân thuộc Anh bị bão từ ngoài khơi dạt vào Hội An, họ nhân đấy xin diện kiến tặng phẩm vật lên vị nguyên thủ để giữ lễ, nhung rõ ràng đó chỉ là cái cớ để họ có dịp tiếp xúc mua chuộc cảm tình "Vua xứ Đàng Trong" mà khỏi phái dùng đến thủ tục chính thức của nghi lễ ngoại giao, nghĩa là phải có quốc thư của vua nước Anh. Cứ xem các món hiến vật liệt kê trong nhật ký dưới đây, đủ thấy có một sự chuẩn bị chu đáo từ nơi chính quốc của phía nhũng người cống lễ...


Ông giáo sư người Anh cất công đi tìm lại di chỉ hành trình chuyến tiến dâng lễ vật ấy của tổ tiên ông là James Bean từ Hội An theo sông Trường Giang ngang qua núi Cẩm Thạch (marble rock)(1) đến Turone (Đà Nẵng) và từ đấy thuê cáng để ra "Huế Phủ". Đó là lý do ông có mặt tại chùa Quan Thế Âm để hỏi các nhà sư về một dòng sông chảy trước mặt phía tây núi Kim Sơn mà James Bean đã mô tả trong nhật ký du hành.


Tôi lúc ấy cũng cao hứng, tham gia cuộc đàm thoại, giải thích với ông giáo sư răng dòng sông Trường Giang mà James Bean ghi dẫn từ tháng 1-1765 ấy nay đã bị bồi lấp, chỉ còn lưu dấu những lạch nước đứt tùng quãng nằm rải rác dưới các đồng ruộng kia, người dân bản địa ghi trong trích lục địa bộ là "xứ giang tắt". Ông giáo sư quay người chụp lấy tôi, tấn công tới tấp bằng máy ghi âm và tốc ký. Ông hỏi về hang động Ngũ Hành Sơn, về lộ trình cũng như thủy trình từ Đà Nẵng ra "Huế Phủ", nhũng địa danh cùng sinh hoạt dân tộc học của người dân bản địa đương đại được ký tải trong nhật ký du hành của James Bean. Cuộc đàm thoại biến thành cuộc phỏng vấn, khảo cứu sử địa. Truớc khi chia tay, ông giáo sư đã chụp ảnh lưu niệm với các nhà sư trước núi Kim Sơn và tặng tôi ba tư liệu liên hệ đến chủ đề sưu tầm nghiên cứu hiện hữu của ông.


1. Bản thủ sao những trang Nhật ký du hành gặp vua xứ Đàng Trong (Journey to meet the King of Cochinchina) được trích lục từ thủ bút của James Bean trong bộ "Suu tập BEAN" (Bean Collection) hiên lưu trữ tại "Văn phòng Đại diện Thương mại Anh tại Ân Độ" (India Office and Library) mang ký hiệu MSS. EUR. E.366. Đây là những trang tư liệu về cuộc du hành gặp gỡ giữa "Vua xứ Đàng Trong" - bấy giờ là Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát với các nhân viên Công ty Đông Ấn thuộc Anh, tại kinh đô Phú Xuân.


2. Bản sao chụp Bản đồ một phần duyên hải xứ Đàng Trong (Plan dune partie des côtes de la Cochinchine) chỉ dẫn thủy và hải đạo từ Hội An-Cù Lao Chàm (Cham-Collao & Rivière de Faifó) đến "Sông Huế" (sic) do đại úy hải quân Le Floch de la Carrière vẽ từ nhữmg năm 1755-1756 và công bố tại Lorient năm 1787, kèm theo những dòng ghi chú tỉ mỉ giang trình và hải trình từ sông Hội An ra biển, ven duyên hải đến "Sông Huế" kinh đô Phú Xuân.


Đặc biệt tại phần trên của bản đồ, có phác họa theo lối tiếu tượng (iconographe) mặt tiền kinh thành Phú Xuân thời Võ Vương chấp chính (1738-1765), với cửa Ngọ môn và hành

lang nhà cầu (galeries) nhìn ra "Sông Huế" hay còn gọi là "Sông nhà Vua" (Rivière du Roi). "Trong lớp thành bao bọc ấy - Floch de la Carrière viết - những lâu đài đủ kiểu dáng của hoàng thành 4 mặt đều nhau, mỗi bề dài khoảng 280 toises(3), khoảng cách từ nội cung ra đến Đại cung môn là 11.020 toises, giữa mỗi cột của mặt tiền nhìn ra sông có đặt một khẩu thần công bằng đồng nòng vào hạng trung...".


Toàn cảnh bố cục dòng "Sông Huế" nhìn từ thủy đạo Thuận An vào với nhũng đánh dấu a, b, c: "cung điện chính của vua" [a] bên hữu ngạn; "cung điện mùa đông và mùa mua' [b] của nhà vua bên tả ngạn; "hoàng thành cũ, nơi lưu giữ tàisản của các đời chúa Nguyễn" [c] trước Võ Vương; "khu vực Phủ quan khách lưu trú" [d]; "cồn bếp dùng cho việc nấu nuớng của các chiến thuyền và long thuyền của vua" [e]; "dinh cơ của quan coi về ngoại thương"[f]...


Floch de la Carrière ghi chú thêm trên bản đồ: "Dòng sông của Vương phủ, hay Sông Huế, chỉ có thể tiếp nhận những loại tàu nhỏ chạy vào, ngoài cửa khẩu có một chắn ngang. Ngày xưa người Nhật, Trung Hoa, Mã Lai và các nước khác buôn bán với xứ Đàng Trong, đều đi vào bằng cửa này; nhưng rồi số lượng lớn tàu thuyền và tính cách tới lui rầm rộ của chúng khiến cho vưong phủ đâm e ngại, từ đó trở về sau, việc vào Sông Huế bị cấm; và nhà vua chỉ định thay thế bằng sông Hội An và vịnh Đà Nẵng dùng làm cảng đậu cho tàu thuyền các nước muốn đến buôn bán với kinh thành".


Bản đồ của Floch de la Carrière được tàng trữ tại Thư viện Quốc gia Pháp. Phần nói về hình vẽ kinh thành Phú Xuân thời Võ Vương, theo Paul Boudet và André Masson, chính là Tchouan-King (Xuân Kinh) vào thế kỷ XVIII, đã được xây dụng lại như kinh thành hiện nay dưới thời Gia Long và Minh Mạng.


3. "Bản đồ cảng khẩu Đà Nẵng tại duyên hải xứ Đàng Trong" (Plan of Turon Harbour on the Coast of Cochinchina) do thuyền truởng Arthur Philip (Bromfield) và sĩ quan tàu Admiral Pocock vẽ năm 1764. Chúng ta đọc được trên bản đồ: Turon (Đà Nẵng) với thương điếm và dù chống đặt hai bên bờ sông Hàn (Turon River); ngoài mũi phía tây của bán đảo Tiên Sa, nơi có đài quan sát mà năm 1845(5) - Jules Itier đã chụp bức ảnh đầu tiên tại Việt Nam, và 81 năm trước đó Arthur Philip ghi là "Look out house" với hình vẽ một trụ cao phất phới một lá phướn đuôi nheo. Đây đó, bên hữu ngạn sông Hàn thấy nhiều điểm tròn đề "chợ cá" hoặc "xóm chài" (fishing town); xa về phía nam, tại cửa Đại thấy ghi "vịnh cù lao Chàm" (Tsampello Bay) và "con đường nước dẫn thương thuyền Trung Quốc đi vào Hội An" (The Chinses junks come in this way to Faifoe)...


Trở lại Nhật ký du hành của James Bean, J. Bean khởi hành từ Hội An để ra "Huế Phủ" yết kiến "Vua xứ Đàng Trong" bắt đầu ngày 1-1-1765. Hành trình phải mất bốn ngày, ông mới đến được "Huế Phủ" lúc 12 giờ trua. Ngày 5, ông lưu lại nhà trọ. Suốt ngày 6, trời mưa, Bean than phiền không đến yết kiến nhà vua được. Từ ngày 7 đến ngày 15-1-1765, Bean được diện kiến và được chiêu đãi sau khi ông tiến dâng lễ vật. Ông được vời vào vương phủ tấu nhạc cho Võ Vương nghe, tại "cung điện mùa đông và mùa mưa" bên hữu ngạn "Sông Huế". Ngày 16, Bean lên đường trở lại Hội An. Chuyến trở về này, ông gặp mưa bão, gió lạnh, phải nghỉ chân nhiều chặng đường nên mãi đến ngày 27-1-1765 mới đặt chân lên đất Hội An vào sáng sớm. Sự ký tải trên chuyến về không có gì mới lạ, cũng leo núi, băng rừng, qua sông, đội mưa, lạnh cóng, lu trú lại những thôn làng... Điều đáng lưu ý trong ký tải là Bean đã ký âm La-tinh (romaniser) một số tiếng và danh xung bản địa như: "cô gái" ghi là "Miss Gray", "quán hộ"(7) viết là "little Ho", miếu "Thần Hổ" ghi là "joss Ho"... Và sau đây là nhật ký du hành của James Bean.


Faifoe [Hội An] ngày 1-1- 1765.


Suốt đêm ngồi trong thuyền trời lạnh cóng. Sáng hôm sau, chúng tôi đi bộ ra khoảnh đất rộng nhất của con đường dẫn xuống bờ sông. Đất cát rộng thênh thang, nhung cũng có ít ruộng lúa và lối đi có trồng cây. Rất nhiều vịt trời, tôi đã dùng súng lục bắn chúng, nhưng không trúng mục tiêu. Đến chiều, chúng tôi đến những vách núi cao và gồ ghề trên bờ sông, nơi đó có ngôi chùa và cái hồ nhỏ xinh xắn nằm trong một địa hình khá quyến rũ. Một nho sĩ ra hiệu cho chúng tôi đi theo ông ta. Chúng tôi được hướng dẫn đến một cái hang ở vách núi đầu tiên, rồi tiến lên một con dốc khá cao để ra bờ sông. Tại vách núi cẩm thạch (marble rock) thứ hai, cũng là vách núi thắng đứng và cao nhất, chúng tôi được đua vào một hang động tuyệt đẹp, tôi nghĩ rằng đó là nơi thờ tự vì có ba bậc cấp huớng tới một tảng đá dùng đích thực cho việc lễ thánh.


Tám giờ tối, chúng tôi đến Turone [Đà Nằng], từ đây tôi muốn đi tàu thủy; nhìn quanh thấy mọi người đều ngủ say; ba giờ sáng tôi trở về chỗ cũ.


Khoảng 8 giờ sáng ngày thứ nhì, chúng tôi thuê cáng hai người khiêng, lại có thêm hai người tháp tùng để thay phiên cho đỡ mệt. Cáng chúng tôi đi trên nhũng bãi cát dài, sau đó có gió thổi rồi mua to. Nghỉ chân tại một thôn nhỏ, dân làng vây quanh chúng tôi. Trong thời gian dùng chân này, một khuôn mặt khả ái đột nhiên xuất hiện trước mặt tôi, trang phục hết sức giản dị của một cô gái (Miss Gray). Chính đôi mắt ấy, cái miệng và cả sắc mặt không quá đẹp ấy, nhưng nó cũng đủ làm dâng lên trong tôi những khoái cảm kích thích nhục dục. Tôi đưa cho cô gái một ít tiền, nhung thật hết sức ngạc nhiên, cái ngoại diện khả ái ấy hoàn toàn đồng hóa với tâm hồn, vì khi tôi đến gần thì cô gái vụt chạy rất nhanh để rồi không bao giờ xuất hiện lại nữa.


Một người đàn bà có tuổi đến gần ngỏ ý tìm hộ tôi một thôn nữ nhỏ, ở đây mọi người đều cần tiền, nhưng tôi không thể nghĩ đến việc cám dỗ một cách lộ liễu mà sự lịch thiệp nhắc nhở tôi về cái đẹp vĩ đại nhất gắn liền với đức tính thanh cao nhất.


Sau đó, chúng tôi đi dọc theo bờ sông và ăn tối tại một làng khác. Chúng tôi đã vượt qua được một ngọn núi cùng vài vách đá núi cao lạ thường. Ngủ lại tại một ngôi làng.


Ngày thứ ba - Chúng tôi đi được độ một dặm thì phải leo lên ngọn núi rất rộng khiến tôi, từ trước nay, chưa bao giờ hối hả như thế vì con đường hẹp lại rậm rịt hoàn toàn thích hợp cho các loài thú hoang dã. Cuối cùng, chúng tôi lên đến đỉnh núi, nơi đây một làn khói bốc lên trông giống như ở địa ngục.


Chúng tôi đã tới quán Hộ (little Ho) nằm bên đường thiên lý, dành cho khách bộ hành những thực phẩm chế biến sẵn và bạn có thể dùng bữa với hai que tre. Chúng tôi dùng chân

lại đây lấy lại sức để xuống núi. Tôi thường thư giãn gân cốt bằng cách xuống cáng đi bộ.


Khoảng chập tối, chúng tôi xuống tới chân núi, thật là sung sướng khi thoát khỏi nanh vuốt của loài hổ đã từng xé nát nhiều khách bộ hành phải xuyên qua những lối đi rậm rịt của chúng. Một miếu thờ thần hổ (joss Ho) lộ ra khi chúng tôi ra khỏi rừng và, đi dọc theo đó, bạn sẽ đến ngôi làng và bờ sông. Qua sông, chúng tôi đến một xã lớn có rất nhiều dân làng chờ gặp chúng tôi. Chúng tôi đã ăn tối và nghỉ chân lại đây. Khoảng 8 giờ tối, chúng tôi băng qua nhiều thôn xóm rồi lưu lại suốt đêm tại một làng khác.


Ngày thứ tư - Khởi hành từ sáng sớm, tiếp cận một bãi cát dài, băng qua một ngọn đồi dốc, một đồng lúa đẹp mở ra trước mắt chúng tôi. Chúng tôi cùng xuống cáng đi bộ rất vui vẻ. Khoảng 10 giờ đến một làng lớn, ở đây chúng tôi đợi thuyền, mãi hai giờ sau mới đến. Thuyền đưa chúng tôi tới một con sông nhỏ rất đẹp với nhũng đồng lúa tươi tốt hai bên bờ. Độ 8 tiếng đồng hồ, chúng tôi đến quán Hộ và ăn tối trên thuyền. Trời rất đẹp nhưng lạnh về đêm. Gov. r và tôi thỉnh thoảng dạo bộ. Hôm sau, chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình và đã đến thủ phủ 12 giờ trưa do những người ở quán Hộ đã báo trước. Khoảng 1 giờ, tôi tìm đến cư sở của vị linh mục.


Ngày thứ sáu - Trời mưa quá, chúng tôi không thể đến hầu vua.


Ngày thứ bảy - Sau khi đã chuẩn bị cho nhà vua, gồm: 1 cây gậy có đầu tay cầm bịt vàng, 1 thanh đoản kiếm, 2 bộ lễ phục cực sang của nhà thêu may Nabob, một áo gi-lê thêu lộng lẫy, 2 tay áo măng sét rất đắt tiền, 2 khẩu súng lục, 3 bức tranh gương, 2 dây thắt lưmg bóng nhoáng và 2 cây can trị giá đến 500 dols.


Chúng tôi khởi hành bằng đường thủy bờ sông, cũng với con đường chúng tôi đã đến, và phía dưới chiếc cầu gỗ nhỏ trên một hòn đảo, bên hữu ngạn đã có một sứ giả chực sẵn để báo cho nhà vua biết chúng tôi đã đến nơi. Người sứ giả trở ra và các linh mục Lorrairo, Petrena muốn làm huớng đạo. Đi bộ trên một con đường mới hoàn thành để đến một cung môn có nhiều lính gác. Tại đây, các linh mục đã đón tiếp chúng tôi. Cánh cửa mở ra và chúng tôi buớc vào sân rất rộng và đẹp, dưới rải soi, trên trang trí rất tráng lệ. Ở một phía kia là tàu tượng, nơi voi của vua ở, đối diện là tàu ngựa. Những bức tường cao 3 bộ (feet) đối nhau. Bên phải là một sảnh khá rộng giống như chỗ ngồi của quan tòa, cuối nơi này nhìn ra con kênh lớn và lù lù vài khẩu trong số những đại thần công đẹp nhất tôi đã từng thấy. Dọc theo lối đi rải sỏi, chúng tôi được đưa đến một cửa khác, ở đây cũng có lính gác. Chính tại nơi này, chúng tôi bị khám xét rất kỹ vì sợ chúng tôi có mang theo vũ khí. Một cánh cửa khác mở ra cho chúng tôi tiến vào một cung điện lộng lẫy, đồng thời 6 cận vệ của nhà vua cũng theo sát chúng tôi để giới thiệu lên đức vua. Điện vua ngự là một tòa nhà chống đỡ bởi năm hàng cột, dưới lót săn quang dầu bóng láng, ngồi ngay chính giữa chiếc ngai là đức vua, xung quanh có 50 lính ngự túc trực. Ngoại diện nhà vua thật oai vệ. Vua đã tiếp chúng tôi với một vẻ mặt vui tươi khiến cho, ngay giữa cung điện nguy nga này, chúng tôi phải nhất nhất tuân theo lời nhà vua. Đức vua muốn chúng tôi tiến lại gần ngài, chúng tôi đã răm rắp bước tới 3 bước rồi đồng loạt quỳ xuống. Như rất hài lòng, ngài tươi cười về cử chỉ ra mắt của chúng tôi. Ngài bảo Gov. r ngồi bên tay phải ngài, ông Nodes và tôi an tọa bên tay trái để nhà vua có thể nói chuyện thân mật với từng chúng tôi. Gov. r trình với vua rằng ông ấy rất lấy làm hãnh diện được hầu chuyện với một hoàng đế và ông cũng sung sướng thấy vua vẫn khỏe mạnh. Vua hỏi lý do chúng tôi đến đất nước của ngài.


Gov.r trả lời sau một cơn bão dữ dội, chúng tôi được cứu sống và Thượng đế đã vô tình đẩy đưa chúng tôi dạt vào vương thổ của ngài. Vua an ủi rằng dường như chúng tôi vẫn mập mạnh, ấy là nhờ vào thực phẩm đặc sản của đất nước ngài.


Vua hỏi tuổi tác mỗi chúng tôi, rồi hỏi niên tuế của vua nước Anh, cả đến vóc dáng diện mạo, đặc biệt hỏi vua Anh có mập béo như chúng tôi không. Vua lại quay sang hỏi tôi có cha mẹ, anh em gì không và có biết bắn súng thần công không. Tôi thưa có. Ngài hỏi tiếp chúng tôi thích bắn chim không. Chúng tôi thưa vâng. Ngài gạn hỏi chúng tôi có thể bắn được chim bay hay khi đậu, và ai trong chúng tôi bắn giỏi nhất. Tôi đáp rằng từng tập bắn bằng thuốc súng nhiều nhất. Nhà vua sốt sắng đặt câu hỏi với tất cả chúng tôi, riêng Gov. r ngài nói ngài rất thích cái đầu tóc của ông ấy. Ngài cũng cười hỏi trong chúng tôi ai là nguời ăn nhiều nhất.


Đức vua nhận lễ vật tiến dâng của chúng tôi với sự ngạc nhiên, rồi hứa hẹn sẽ ban cấp một thẻ bài cho phép một con tàu nhập cảnh đất nước ngài nếu tàu ấy chịu gởi đến cho vua một xe song mã cùng với hai con ngựa. Vị giáo sĩ trình với vua rằng chúng tôi có thể chơi được những nhạc cụ mà, từ lâu, nhà vua rất muốn thuởmg thức và đã nhắn chúng tôi đến. Vua sai người đem trà và cùng chúng tôi nhấm nháp. Dường như vua rất thực lòng.


Chúng tôi xin phép được quan chiêm cung điện của vua. Ngài trả lời rằng đây không phải là cung điện nguy nga mà chỉ là "phủ mùa đông"; ở đây cũng có cung phi mỹ nữ. Chúng tôi tản bộ ra ngoài, ngắm nghía mọi thứ. Lúc trở vào, vua bảo chúng tôi ngồi, ban cho bánh biscuits và nước trà, đó là một vinh dự lớn được ngồi chung với vua.


Cuộc tấu nhạc bắt đầu, tôi lên dây đàn bị đứt, vua muốn tôi sửa lại cây đàn. Chúng tôi khởi sự tấu nhạc, vua nhìn chúng tôi và thuởng thức đầy ngạc nhiên. Ngài tỏ ý muốn nghe những điệu hùng tráng, nhũng khúc nhạc uy nghiêm cũng làm vua hài lòng không kém. Ngài chỉ cho chúng tôi nhìn quân sĩ ở trần trùi trụi bên ngoài, bảo rằng họ thường như vậy để sẵn sàng xông xáo. Trông vua đường bệ với nhũng đặc điểm của một người Âu châu, nước da trắng. Vẻ mặt của vua là một cái gì dễ chịu, nhưng oai nghiêm đáng kính phục. Quân sĩ trong vương phủ là 1000, 4000 ở kinh thành và lực lượng vũ trang hiện dịch của Phú Xuân có thể lên tới 40.000. Triều chính ổn định, luật lệ đều nằm trong tay nhà vua. Một ngày kia, vua mất 14 thoi vàng; tất cả người trong vương phủ đều bị nhốt lại và cuộc tra khảo bắt đầu, cho tới khi kẻ trộm được phát hiện. Vua uống một thứ nước gì đó, rồi sửa lại bộ râu của mình. Chúng tôi cúi đầu chào tạm biệt.


Ngày thứ tám - Một ngày thật đẹp trời.


Ngày thứ chín - Thứ Tư; tôi đưa cho Gov.r 45 dols. Buổi chiều đi thăm linh mục và ra bờ sông xem nhũng bức tường thành của Đại cung môn, rất đẹp, rất rộng! Quang cảnh tráng lệ, kiến trúc đối xúng hòa hợp. Dọc bờ sông có nhiều bến, thuyền buồm (galleys) đậu san sát. Một ngày đẹp trời.


Ngày 10-1-1765 - Tôi đi dạo ra ngoài, hàng ngàn người vây quanh lấy tôi. Một cậu bé chèo chờ tôi xuống bến sông, đám đông cổ vũ mạnh mẽ. Một quảng trường rất rộng, đặt nhũng khẩu thần công vĩ đại yên nghỉ trên nhũng xe súng cực lớn, kiên cố. Bên trong hoàng thành có từ 800 đến 1000 khẩu súng, hầu hết là nhũng khẩu súng đồng (copper) xinh xắn.


Ngày 11-1-1765 - Nhà vua mời chúng tôi cùng ăn tối với ngài. Chúng tôi xin tuân lời. Vào tiệc, điều trước tiên vua muốn biết chúng tôi có mang theo nhạc cụ hay không. Chúng tôi trình có. Một bàn dài được trải ra, thức ăn đã chuẩn bị; chúng tôi ngồi vào bàn cùng với vua. Tất cả đều phục vụ lịch sự, vua tó ra rất vui vẻ thích thú, thúc giục chúng tôi ăn và uống rượu nhiều như ngài. Sau bữa ăn tối, chúng tôi làm hài lòng vua bằng âm nhạc và ngài tò mò thử cây đàn violon của tôi. Sự hứa hẹn đối với nước Anh đạt được những khích lệ lớn lao. Vua ban cho một giấy thông hành để đáp lại cử chỉ hào phóng của chúng tôi. Vua hỏi tên mỗi chúng tôi, khi phát âm chúng ngài cười rất thân thiện; tôi chưa bao giờ thấy một người đàn ông đầy vẻ dễ chịu như vậy. Vua muốn ghi lại tên của chúng tôi. Sau khi thỏa mãn thú vui giải trí của vua, chúng tôi xin cáo từ, lui ra. Ngài tỏ ý chỉ e ngại Gov. r và chúng tôi là quân nhân, nhưng khi rõ chúng tôi là nhân viên mại biện, ngài liền vui.


Ngày 12-1-1765 - Một ngày đẹp. Gov.r than phiền đau đầu vì đã uống rượu nhiều ở vương phủ.


Ngày thứ 13 - Viết lá thư chuyển cho Rybus và Call. Giao cho linh mục chiếc nhẫn của tôi và Pe. một cây vải để bán.


Ngày 14-1-1765 - Trời rất đẹp. Được mời vào vương phủ. Nhưng đến nơi, nhà vua đã đi khỏi.


Ngày thứ 15 - Mưa rất to. Vua phái một võ quan hầu cận đến chúc chúng tôi thượng lộ bình an. Khoảng 4 giờ khởi hành để trở lại Faifoe (Hội An), chèo thuyền suốt đêm trên sông, vào sáng 16 đặt chân đến một vịnh rộng lớn. Rồi đến một làng khoảng 12 giờ. Ăn tối xong, vượt qua nhiều ngọn núi nhỏ và hai bãi cát dài, sau đó đến bờ sông. Bỏ qua hai ngôi làng, đến một xã thứ ba thì trời vào đêm. Suốt đêm bão dữ dội, lạnh cóng, thời tiết rất khó chịu.


Ngày 17-1-1765 - Xuất hành sáng sớm. Băng qua một bãi cát dài và ăn tối tại một làng lớn ở bờ sông lúc 12 giờ. Một giờ tiếp tục đi và bắt đầu vào son phận đại ngàn, bắt buộc chúng tôi phải xuống cáng đi bộ; núi rất dựng dốc, cuối cùng chúng tôi đến được một xã rồi nghỉ lại đó. Lại tiếp tục đi bộ đến thác nước đổ ào ào, hơn 4 giờ thì đạt tới đỉnh cao đại ngàn. Đổ xuống một ngọn đồi, Gov.r và tôi đi bộ suốt cả quãng đường để đến ngôi làng; chúng tôi lưu lại cuối làng suốt đêm.


Ngày thứ 18 - 6 giờ sáng, bắt đầu đi bộ dọc theo bãi cát. Vượt qua một ngọn núi nhỏ, đường đi khá tốt và thoải mái. 8 giờ đến một làng ven biển, nghỉ chân rồi tiếp tục qua nhũng bãi cát rất dài, ăn tối xong qua sông, đến ba miền quê khác nhau. Gov.r và tôi đi bộ suốt quãng đường dài. Miền quê thật đẹp và thời tiết quang đãng. Đến một làng xinh xắn, ăn tối rồi lại tiếp tục đi.


Ngày thứ 19 - Các ông quan đón tiếp Gov.r đầy kính trọng. Đưa cho đứa con trai của linh mục 4 đồng rupi, người đàn ông già 2 dols; 4 đứa con trai nhỏ 3 dols và "con Hai" (sic) 5 dols.


Ngày thứ 20 - Viết thư cho thuyền truởng.


Ngày 21-1-1765 - Cả ngày không có gì đặc biệt. "Con Hai" nghi ngờ Gov.r đã bị đánh cắp một cây lụa và tôi có cớ để hoài nghi việc mất mát này.


Ngày thứ 25 - Nhận từ Gov.r để bỏ vào rương của ông ấy 6 thoi vàng và 1 thoi bạc 10t; 2 nén vàng nhỏ hơn, 10 cây lụa, 10 đồng rupi. Đưa cho Francois 6 rupi để cạo râu. Đưa cho Gov.r 29 rupi, rồi thêm 11 rupi, cộng là 40 rupi. Tôi đem theo mình 20 rupi. Để lại trong rương 271. Lại đưa cho Gov. r 10 rupi để nhờ Naga đổi ra tiền bản xứ. Khoảng 10 giờ tiếp tục lên đường và có mặt ở Turone (Đà Nẵng) 5 giờ sáng. Đưa cho ông quan 3 rupi, 1 rupi để mua đường ăn.


Ngày 26-1-1765 - Lên tàu lúc 9 giờ và thuyền trưởng tiếp đón lạnh nhạt. Thuyền truởng rất ngạc nhiên, tỏ vẻ không hài lòng khi thấy tôi đến. Ông ta mang vẻ mặt nhắn nhó, xấu xí, tôi cố kiên nhẫn chịu đựng. Tôi xuống phòng tàu để xem cái rương của Orendains và nhận ra rương có thể đã được mang lên boong tàu, và thuyền truởng cho biết ai đã hắt hủi, chửi bới nó [rương] nhiều. Cuối cùng tôi đã năn nỉ mang nó để vào nơi bảo đảm hơn.


Ngày thứ27 - Trở lại Faifoe vào sáng sớm. Dùng bũa bằng thực phẩm chế biến sơ sài mang theo từ trên tàu Beacha de Mon. Để lại cho ông Gore 700 rupi. Thuyền trưởng đã hứa mang rương đựng vàng của tôi vào phòng khách của ông ấy. Có nhiều thiệt hại ở trên tàu. Tai sản của Công ty bị thất thoát 2000 rupi, thậm chí vàng trên đầu cây "can" của tôi cũng bị tháo gỡ.


Ngày thứ 28 - Buổi sáng linh mục đợi Gov.r và nói chuyện về miếng sườn cừu, như thể chúng tôi chưa bao giờ biết đến nó trước đây. Số lượng danh mục hàng liệt kê của nhà vua không thể đáp ứng được. Linh mục ăn tối tại đây.


Ngày thứ 29 - Gov.r được chào hàng cái đĩa, trị giá dols và các đĩa chênh lệch nhau quá. Họ tính bán tới 10t.50 sepu.


Chiều này, người Trung Hoa làm áp lực tôi.

[Nhật ký du hành gặp vua xứ Đàng Trong chấm dút ngang đây).


CHÚ THÍCH:

1. Tức núi Non Nước (Ngũ Hành Sơn) nằm hướng đông nam cách Đà Nẵng độ 7-8km.

2.Trước James Bean сó Bowyear và sau James Bean có Chapman đều là đại diện thương mại của Anh đến Đàng Trong và đều có ghi chép. Cũng trong thời khoảng Võ Vương chấp chính, Công ty Đông Ân thuộc Pháp ráo riết ve vãn để lập quan hệ thương mại. Tất cả hồ sơ này được lưu trữ tại Pondichéry (Ấn Độ). Năm 1937, M. Gaudart đã cho công bố trên B.A.V.H. số 4-1937, tr.353-380 với bài nhan đề "Les Archives de Pondichéry et les entreprises de la Compagnie Francaise des Indes en Indochine au XVIII" siècle".

3. Thước đo châu Âu xưa bằng 1m949/toise.

4. Về tấm bản đồ của Le Floch de la Carrière, xem: PAUL BOUDET-ANDRÉ MASSON, Iconographiehistorique de l'Indochine Francaise,Paris. Cũng xem: VŨ HỮU MINH,

"Tấm bản đồ Huế của Le Floch de la Carrière năm 1787", Phú XuânHuế, từ đô thị cổ đến hiện đại, Huế 1999, tr.100-111.

5. Xem: NGUYÊN SINH DUY, "Bức ảnh đầu tiên chụp ở Việt Nam", Tạp chí Xưa&Nay, số 31-1996. tr.29-30.

6. Nguyên văn của Floch de la Carrière: Palais d'hiver et de pluie, vì bên kinh thành chính (Palais principal) ở Huế vào mùa đông thường bị ngập lụt, nên chúa Nguyễn xây dựng một "vương phủ" ở Dương Xuân để tiện làm việc.

7. Ngày xưa, tại mỗi trạm dịch có một quán nhỏ để phục vụ ăn uống cho khách bộ hành đồng thời giúp (hộ) họ lưu lại nghỉ dưỡng sức, gọi là Quán Hộ. Tại Thanh Khê, Đà Nẵng hiện vẫn còn sử dụng địa danh Quán Hộ trong giới vận tải giao thông.