Post date: Aug 23, 2013 2:47:11 AM
Nguyễn Hữu Hiệp
Bài đăng trên Cổng thông tin điện tử huyện Phú Tân, ngày 25-03-2013.
Năng Gù hay Năng Cù, tên chữ Năng Gù Châu. Trương Vĩnh Ký trong Petit cours de géographie de la Base Cochinchine, 1ère édition, S., Imp. Gouvernement, 1875, viết Nang Gù. Vương Hồng Sển cho rằng “ viết như vậy là có ý giữ âm “ snèn-kô” (tiếng Cơ Me dịch là sừng con bò). Hai bản dịch mới đều dùng chữ “Năng Cù”cũng được nhưng không đúng tiếng thường dùng của người địa phương”.
Giữa đoạn đường từ thành phố Long Xuyên đến thị xã Châu Đốc (quốc lộ 91) có tấm biển to ghi “Bến phà Năng Gù”. Phà đưa khách qua sông Hậu – phía hữu ngạn thuộc huyện Châu Phú, tả ngạn thuộc huyện Phú Tân (An Giang). Xưa, Năng Gù là một cù lao khá rộng, nhưng hình thế và duyên cách buổi sơ thời cụ thể như thế nào, nay không dễ ai biết chắc, chỉ có thể mường tượng là “quanh co”, hoặc giống như “sừng con bò” như có một vài sách đã nói.
Ở mục từ Cù lao Năng Gù, sách Tự vị tiếng Việt miền Nam của Vương Hồng Sển, giải:
“Tên cù lao ở NV [Nam Việt]; tên chữ Năng Gù châu (TVK) [Trương Vĩnh Ký]. Cơ Me: Kòh snèn kô (Di cảo TVK trong le Cisbassac), (snèn kô là sừng bò) (snèn c.v.snêng).
Ở về phía trước vàm dưới Vàm Nao ở Sông Sau, dài 9 dặm, cù lao quanh co, về hướng Nam Cù lao bằng thẳng cho nên ghe đi phần nhiều noi theo bờ hướng nam, tục danh là xếp Năng Gù. (NKLTĐDC [Nam Kỳ lục tỉnh địa dư chí], tr. 87).
Thôn Bình Lâm ở về nơi này. (GĐTTC [Gia Định thành thông chí], tập 1 tr. 100).
Bản Pháp văn Aubaret, tr. 263, viết: Nang Cu, Vam Nao, village de Binh Lan [Bình Lâm].
Một thuyết khác:
Năng Gù, tiếng Miên XeNeng Cô: sừng bò, XeNeng ra Năng, Cô ra Gù (theo Sơn Nam, Lịch sử khẩn hoang miền Nam, tr. 72 Thuyết này vững và không xa lời dẫn giải của Trương Vĩnh Ký như trên)”. (hết trích sách đã dẫn).
Lý luận như vậy là có cơ sở, là một cách hiểu. Tuy nhiên với cách hiểu này không mấy sát với diễn biến “dâu bể” ở địa phương. Do vậy xin ghi chép lại những gì thu lượm được từ dân gian, mà theo tôi đó là tư liệu sống thực, và rất thuyết phục bởi không chỉ nhân dân, chính quyền mà cả nhà văn, nhà viết sử trước nay đều thống nhất thừa nhận.
Trước hết, về tiếng “Năng”: Năng là do “nàng” nói trại ra (tiếng Khơ me là nen). Tại địa phương (phía tả ngạn sông Hậu, thuộc xã Tân Hòa, huyện Phú Tân, An Giang) nhân dân vẫn còn bảo lưu một địa danh cổ: doi “Nàng Éc” (nơi này, một khúc quanh trên đường bộ bà con gọi cua “Nàng Éc”). Vậy Năng là gốc từ Nàng mà ra.
Còn “Gù” là do trại ra từ Cù. Về Cù lao Năng Cù, sách Gia Định thành thông chí, tập thượng, mô tả: “Ở phía trước hạ khẩu Phiếm Hào thuộc Hậu Giang, dài 9 dặm, có thôn Bình Lâm ở đấy. Nơi đây rừng tre rậm rịt, ao cá đầy đặc, dân ở thượng lưu Hậu Giang trước hết là nhờ tre cây cá tôm nơi ấy, sau là trồng bông vải, sau nữa là lúa thóc, để cung nhật dụng”.
Lần dở các bộ sách/ sử như Gia Định thành thông chí, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam thực lục… đều viết là Năng Cù. Ở cồn Bình Thủy phía dưới đầu Vàm Sau hay Vàm Dưới sông Vàm Nao (nay thuộc huyện Châu Phú), trước năm 1975 nhân dân vẫn còn bảo lưu một địa danh mang tên ấp Hóa Cù, và thủy danh nơi ấy có thời từng mang tên gọi Hóa Cù Đà, vì tại đây có một con rạch (“đà”) được hình thành do hiện tượng “hóa cù”. Không chỉ thế, ở hữu ngạn Vàm Dưới của sông Vàm Nao (thuộc diện địa xã Tân Hòa, huyện Phú Tân nay) cũng có một địa danh mang dấu ấn vùng đất hóa cù, đó là ấp Mỹ Hóa (Mỹ lấy gốc từ tên làng/ thôn Mỹ Lương, thời mới dựng đặt đầu triều Nguyễn; Hóa tức “hóa cù”).
Chúng ta đều biết, cù là một con vật cổ, thuộc loài rồng, đầu nhỏ, không sừng, có một gạc, là loài thú linh trưởng trong thần thoại Trung Quốc, hiểu là con sấu sống lâu năm, “thành tinh” rất dữ. Dân gian tưởng tượng rằng sấu ấy rất to lớn, ẩn mình sẵn dưới đất, chừng nào nó “dậy” (trở mình) thì nơi ấy sẽ hóa thành sông – thủy mạch thông suốt.
Liên hệ thực tế, địa hình vùng đất Năng Gù thuở xưa không như ngày nay, vì nó đã trải nhiều cuộc bể dâu do hiện tượng thủy xâm, mà nguyên nhân chính là sự phân cấp nước từ thượng nguồn đổ về hai nhánh sông Tiền Giang và Hậu Giang không đều. Mực nước thượng nguồn sông Tiền cao hơn sông Hậu dám có cả thước trong mùa nước nổi nên chảy rất siết. Xuống đến huyện lỵ Phú Tân (nói theo ngày nay), dòng chảy sông Tiền, một mặt theo thủy mạch chính của mình xuống Chợ Thủ, Cái Tàu, Cao Lãnh…, một mặt dồn sức nạo phá ráo riết rạch Vàm Nao, xâm thực mạnh một khu vực khá rộng tạo thành cái “búng”, gọi Xẻo Búng (chỗ chợ Mỹ Hội Đông) lâu ngày con rạch nhỏ Vàm Nao trở nên sâu và rộng, thành sông cái. Thế là Xẻo Búng dần dần bị xóa mờ và mất dấu. Nó chỉ tồn tại trong ký ức của ông già bà cả sống cố cựu ở địa phương.
Khi sông Vàm Nao đã hội thủy được với sông Cái Đầm (sách viết Đàm Giang – theo cách gọi ngày trước, đó là một đoạn sông của sông Hậu) tạo thành doi Nàng Éc ở hữu ngạn, rồi phá và làm lùi dần đầu cồn Bình Thủy xuống. Hiện tượng thủy xâm ngày càng mạnh thêm hơn làm cho thân rạch Vàm Nao cứ rộng ra, nhất là phía tả ngạn cứ bị lở sụp từng mảng lớn. Rạch nhỏ thành sông to, dòng chảy không còn bí tức, do đó như nguyên tắc “bình thông nhau”, sự chênh lệch của mực nước giữa hai nhánh Tiền Giang và Hậu Giang tất nhiên cũng thấp dần, dẫn đến cân bằng, ổn định.
Xưa, các ghe thương hồ miệt Cái Vừng, Chợ Vàm, từ phía sông Tiền muốn qua Bình Thạnh Đông, Cái Dầu bên sông Hậu, để đỡ phải “chèo chống mỏi mê” người ta đã biết lợi dụng dòng chảy, chờ con nước ròng thả xuống, qua hết sông Vàm Nao thì vừa lúc triều cường. Nước lớn, dòng sông Hậu chảy ngược lên hướng Châu Đốc. Vậy là ghe thương hồ vẫn đi được một mạch “nước xuôi”, tức không phải mất thời gian cặm sào chờ con nước. Do đó người ta có cảm nhận rằng đây là “con sông nước chảy vòng cầu”, nên có người đã nhân đó mà Hán hóa là “Hồi Oa thủy”!
Sự bức phá phần đất ở Vàm Dưới của sông Vàm Nao để tạo thành một thủy mạch nối liền hai nhánh Tiền Giang và Hậu Giang, dân gian gọi “hóa cù”. Sách Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca, phần Châu Đốc (1909) mô tả Vàm Nao: “Sông quanh uốn khúc tợ cù”, ta hiểu, đó không chỉ nói về hình thể (lúc ấy sông chưa lớn, thẳng như ngày nay) mà còn có hàm ý về sự “hóa cù” của một con sông thuộc diện địa của vùng đất Châu Đốc tân cương rộng lớn ngày xưa, như đã có nói ở trên.
Do biết rất tường tận hiện tượng hóa cù nên nhà thơ Bùi Hữu Nghĩa đã hạ bút viết: “Vàm Nao nước chảy đứt đuôi xà” (bài Thuyền qua Thoại Sơn). Thật chí đúng! Thay vì nói “cù”, nhà thơ văn nghệ hóa là “xà” (rắn) – cũng là chữ dùng của Đại Nam nhất thống chí: “Giang lưu xà vỉ đoạn” để làm bật lên tính “dữ” nổi tiếng của một con sông có nhiều cá sấu luôn chực hại người. Truyền thuyết ông Năm Chèo, tức sấu 5 chân với tính khí rất dữ tợn vốn ở vùng Láng Linh (huyện Châu Phú – miệt Thất Sơn), được dân gian nhắc kể và gắn vào nơi đây cũng không ngoài cái ý làm tôn lên tính dữ của con sông Vàm Nao này. Nhưng đó là chuyện thuở xa xưa, bởi dần về sau sông dữ đã hóa hiền, nên có thêm tên là Thuận Giang (xưa gọi kinh Thuận). Chính sử triều Nguyễn mô tả: “Kênh Thuận ở cách huyện Đông Xuyên 58 dặm về phía Đông Nam, rộng 4 trượng, sâu 1 trượng, cửa trên tự Tiền Giang chia ra, chảy về phía Nam chừng 13 dặm, cửa dưới thông với Hậu Giang” (Đại Nam nhất thống chí). Rõ là thời trước sông Vàm Nao còn nhỏ hẹp, chưa quá sâu, rộng như ngày nay.
Ngã ba sông Vàm Nao
Tưởng cũng cần nói thêm về địa danh có tiếng Cù, theo cách hiểu “nước chảy đứt đuôi xà” như vừa nói không phải là cá biệt chỉ ở vùng này mà, ở một số nơi khác cũng có những thủy tính tương tự như thế. Thí dụ như ở vùng chợ Tân An, xưa gọi Vũng Cù, hoặc cù lao Tân Cù ở phía Bắc sông Hàm Long. Sách Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca viết về Biên Hòa:
Thạch nang chỗ rất hãi hồn
Đá Hàn một dãy tiếng đồn thuở nay
Hợp vừa lòng lạch giữa ngay
Ghe đi lên xuống người rày đều nao
Tới mùa lạo thủy lộn đào
Chảy đứt đuôi rắn ra vào sợ ghê.
Tóm lại, viết “Vàm Nao nước chảy đứt đuôi xà” tác giả muốn nói sự chảy xiết của dòng sông, gây hiện tượng thủy xâm, khiến đứt mất hẳn một phần đất liền, làm cho nơi ấy biến thành sông, tạo một nhát cắt mạnh như “chặt đứt đuôi rắn” vậy.
Nói tóm, sách sử viết Năng Cù là sát đúng theo cách hiểu của dân gian thời ấy. Nhưng khi phát âm thì Cù bị trại thành Gù. Vì vậy cho đến nay ai ai cũng gọi địa danh này là NĂNG GÙ.
Lời người đăng: Chúng tôi không có ý định kết thúc cuộc thảo luận về vùng đất Năng Gù bằng bài viết của bản thân. Vì vậy, xin cung hiến ở đây một số ý kiến phân tích khác về tên gọi Năng Gù kèm theo một số suy nghĩ riêng. Nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Hiệp cho rằng Năng Gù gồm hai yếu tố: Năng là do từ Khmer "nen" (nàng) nói trại ra, còn Cù là con vật cổ. Trong văn hóa Nam Bộ, người dân quan niệm cù là con cá sấu tu luyện lâu năm ở dưới sông, lâu ngày sẽ hóa rồng bay lên. Vậy sao không phải là "Vàm Nao nước chảy đứt đuôi cù" mà lại là "đuôi xà", sao không phải ngạc (cá sấu) mà lại thành "rắn"? Hai loài này hoàn toàn khác nhau. Dù sau đây cũng là một lối kiến giải thú vị không thể bỏ qua. Xin cảm ơn nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Hiệp vì những thông tin này.