Trần Hoàng Vũ
Nửa đầu thế kỷ XVIII, ở miền Nam bất ngờ nổi lên một trung tâm văn hóa - văn học do họ Mạc ở Hà Tiên đóng vai trò hạt nhân. Mạc Thiên Tứ - người kế nghiệp Mạc Cửu, đã đặt nền móng cho nền văn học Hà Tiên và quảng bá nó rộng rãi vượt xa phạm vi lãnh địa mà mình quản hạt. Thông qua mối quan hệ giao thương buôn bán, văn nhân Hà Tiên cùng văn nhân Trung Quốc đã có nhiều mối giao thiệp với nhau, để lại nhiều tác phẩm mà đến nay chúng ta mới lần đầu có dịp biết tới.
Vào lúc Mạc Thiên Tứ mới nối nghiệp cha thì ở Hà Tiên đã có một nhóm nhân sĩ trí thức cùng nhau sinh hoạt học thuật. Trong bài tựa Hà Tiên thập vịnh, Mạc Thiên Tứ đã nói rõ: “Mùa hạ năm Ất Mão [1735], Tiên quân qua đời, tôi kế thừa nghiệp trước. Lúc chính sự rỗi rãi, cùng văn nhân bàn sử, vịnh thơ”. Đến tháng Hai năm Bính Thìn [1736], Mạc Thiên Tứ đã cho công bố bản in tập Minh Bột Di Ngư “Chiêu Anh các tàng bản”. Trịnh Hoài Đức cũng ghi nhận Mạc Thiên Tứ “mở Chiêu Anh các, mua sách vở, ngày ngày cùng chư Nho giảng luận”. Điều này cho thấy việc sinh hoạt học thuật và sinh hoạt văn chương tại Hà Tiên lúc đó đã phát triển đến mức có thể nhanh chóng trình làng các bản in.
Năm 1736, một thương buôn Trung Quốc là Trần Trí Khải tới Hà Tiên, đã mở ra dịp giao lưu đầu tiên giữa văn nhân Hà Tiên và văn nhân Trung Quốc. Biết được sở thích văn thơ của Mạc Thiên Tứ nên Trần Trí Khải đã mang theo một số thi tập của các văn nhân Quảng Đông để làm quà. Trong số đó có tập thơ của Dư Tích Thuần và Lương Loan. Trong suốt nửa năm ở lại Hà Tiên, Trần Trí Khải và Mạc Thiên Tứ đã có nhiều buổi bàn luận thơ văn và ngâm vịnh. Một trong những kết quả to lớn của lần giao lưu này là sự ra đời của chùm thơ vịnh mười cảnh đẹp Hà Tiên, mà ta thường gọi là Hà Tiên thập vịnh. Sau khi trở về Quảng Đông, Trần Trí Khải đã mang chùm thơ này về và đề nghị các thành viên trong thi xã ở Châu Giang cùng đề vịnh. Tác phẩm của các nhà thơ Quảng Đông được đóng lại thành tập và gửi sang cho Mạc Thiên Tứ. Mạc Thiên Tứ liền đem khắc in, thành tập Hà Tiên thập vịnh với lời đề tựa của chính ông hồi tháng Sáu năm Đinh Tỵ [1737].
Mối giao thiệp này sau đó được mở rộng ra. Mạc Thiên Tứ đã có liên hệ thăm hỏi qua lại với nhiều nhà thơ Quảng Đông. Ông cùng Dư Tích Thuần trao đổi riêng mười bài Hà Tiên thập vịnh do Dư sáng tác. Ông tặng gỗ đóng quan tài cho Lương Loan và được ông này viết thơ cảm tạ. Ông cùng Uông Hậu Lai (thường bị viết sai là Uông Hễ Lai) trao đổi thơ văn, thư họa, biếu tặng thổ sản địa phương. Lộc Cương tập của Uông Hậu Lai còn chép ba bài thơ mà ông viết gửi cho Mạc Thiên Tứ. Hiện nay chúng ta chỉ mới biết một phần của bài Đáp Nhật Nam quốc chủ Mạc quân kiến ký (Đáp lại lời mời gặp mặt của Nhật Nam quốc chủ):
Cổ bạc dương phàm đãi sóc phong
Niên niên tiêu tức lạp tiền thông
Khố hương bộ ốc thanh sơn hạ
Thủy quốc mai hoa bạch vân trung
Viễn điểu phù suy di hải vị
Chân tri thành tích báo thi đồng
Cẩm bào trùng điệp nhiêu nhân tự (vị Trần Hoài Thủy, Thi Tử Tu)
Tự hướng đông nam khấp đạo cùng
(Kiểm tra thuyền, giương buồm đợi gió
Hàng năm trước tháng chạp đều có tin đưa đến
Chốn quê nhà, tản bộ dưới ngọn núi xanh
Nơi thủy quốc, hoa mai nở trong mây trắng
Chim phương xa thành tâm mang sản vật miền biển đến
Tình tri ngộ kết tụ trong lòng thể hiện nơi ống đựng bài thơ
Áo bào gấm trùng điệp nhường lại cho người khác (chỉ Trần Hoài Thủy, Thi Tử Tu)
Tự hướng về phía đông nam, khóc vì đường đã cùng).
Năm 1756, đến lượt thế hệ thứ hai của Hà Tiên là Mạc Tử Hoàng có giao lưu với văn nhân Trung Quốc. Lần này người làm trung gian là Quách Kiệt. Quách Kiệt tự Nhân Phượng, hiệu là Vũ Khanh, người Hải Trừng tỉnh Phúc Kiến. Có bằng chứng cho thấy Quách Kiệt đã đi lại một số nơi ở Đàng Trong. Ông được nhắc đến trong một bài thơ của dật sĩ Ngô Thế Lân ở Thuận Hóa (Đồ trung ngộ Quách Nhân Phượng). Vì hâm mộ chư sinh Triệu Phi Liệt ở huyện Gia Định (nay là Thượng Hải), Mạc Tử Hoàng đã nhờ Quách Kiệt mang lễ vật tới bái phỏng, xin nhận làm học trò.
Mạc Tử Hoàng đã đem Hà Tiên thập vịnh do mình sáng tác để nhờ Triệu Phi Liệt điểm định. Triệu Phi Liệt viết bài bạt cho sách ấy. Mạc Tử Hoàng đem đi khắc in. Chúng ta chưa tìm thấy tập Hà Tiên thập vịnh thứ hai này, chỉ còn lại hai câu thơ mở đầu bài Kim Dữ lan đào của Mạc Tử Hoàng:
Hải môn tỏa thược hạn tây đông
Đái lệ sơn hà trấn quốc hùng
Mạc Tử Hoàng còn có hai bài thơ tặng con trai Triệu Phi Liệt là Triệu Hiểu Vinh, nhan đề Tân Tỵ [1761] xuân ký hoài Gia Định Triệu Kế Cổ:
Hải thiên mạc mạc nhất phàm phong
Mộng nhiễu Tam Giang Lạp Đàm trung
Oa huyệt ứng bài Thần Vũ sách
Động Đình xuân vũ họa minh mông
(Biển trời phẳng lặng, cánh buồm xuôi
Mộng nhớ về Lạp Đàm ở đất Tam Giang
Oa huyệt phơi bày sách Thần Vũ
Mưa xuân Động Đình vẽ thành cảnh mưa phùn trên biển)
Hồng kỳ bạch đả trướng xuân đào
Tả ngã u tư tán tử hào
Hồi thủ Ngô môn liên vịnh địa
Ỷ lâu tân luật nhập thu cao
(Ngọn cờ hồng, bánh lái trắng xô ngọn sóng xuân
Vẽ nỗi ưu tư thầm kín của ta, tan ra theo ngọn bút
Ngoái đầu nhìn chỗ cùng ngâm vịnh ở đất Ngô
Dựa lầu, lời thơ mới nhập vào trời cao rộng)
Năm 1768, phái viên tỉnh Quảng Đông là Mạch Sâm tới Hà Tiên để hỏi về tình hình nước Xiêm. Lúc này, vua Càn Long nhà Thanh đang định xâm lược Miến Điện, muốn nhờ Xiêm hỗ trợ, nhưng lại nghe tin Xiêm đã bị Miến đánh phá. Vua Càn Long bèn sai Tổng đốc Lưỡng Quảng Lý Thị Nghiêu phái người sang Hà Tiên thăm dò. Đây là lần đầu tiên Hà Tiên tiếp xúc với triều đình nhà Thanh. Sự kiện này về sau còn được Vũ Thế Dinh nhắc lại trong Mạc thị gia phả.
Mạc Thiên Tứ đã phái sứ thần mang văn thư trả lời kèm với bản đồ sang Quảng Đông hồi đáp. Theo Vũ Thế Dinh, sứ giả là Mạc Long và Lâm Thông. Còn theo tư liệu Trung Quốc, hai người xưng tên là Mạc Nguyên Cao và Lâm Nghĩa. Cả hai sứ giả được quan Quảng Đông tiếp đãi tử tế. Họ cũng được các văn nhân địa phương khoản đãi. Điều này thấy rõ trong tập Lô Khê thi tập của Dương Chấn Thanh. Ông này có một bài thơ tặng sứ giả Hà Tiên là Mạc Vân Dương, nhan đề Hỉ ngộ Hà Tiên trấn sứ Mạc Vân Dương tức tịch sách thi phú tặng (Mừng gặp sứ giả trấn Hà Tiên là Mạc Vân Dương, ngay trong chiếu tiệc đòi làm thơ tặng):
Phù tra đông chỉ hải thiên diêu
Tinh sứ lai vương phụng sóc triều
Văn giáo cửu suy thành hóa tục
Tao đàn kim hỉ tiếp thanh tiêu
Trần huy Di Phủ hoàn trung luận
Tài mại Huyền Hư bút hạ miêu
Tâm chiết chiêm hàn tiện niên thiếu
Kê lâm thanh vọng dật vân tiêu.
(Cưỡi bè nhắm hướng đông, biển trời xa thẳm
Sứ giả tới chầu vâng theo chính sóc triều đình
Giáo hóa văn chương từ lâu đã làm nên phong tục
Tao đàn hôm nay mừng nhận được lời hay
Lời bàn về Di Phủ, quả thực là xác đáng
Tài hơn cả Huyền Hư, thể hiện nơi bút pháp
Khiến cho kẻ thiếu niên thừa thãi này kinh lòng
Chốn kê lâm (tao đàn) tiếng vang tới trời mây).