Bức ảnh "A Deputy Governor of Kamboja" phải chăng là ảnh Thoại Ngọc Hầu?

Post date: Apr 21, 2012 5:50:06 PM

BỨC ẢNH “A DEPUTY GOVERNOR OF KAMBOJA” PHẢI CHĂNG LÀ ẢNH THOẠI NGỌC HẦU?

Trần Hoàng Vũ – Hội sử học An Giang.

Bài đăng trên Tạp chí Văn hóa - Lịch sử An Giang số tháng 3-2012.

Đối với giai đoạn lịch sử Việt Nam thế kỷ XVII trở về sau, ngoài nguồn tư liệu chủ yếu là các ghi chép của chính sử trong nước, chúng ta còn có một nguồn tư liệu khá phong phú khác. Đó là các ghi chép và hình ảnh minh họa do các du khách phương Tây lưu lại trong những lần ghé thăm nước Đại Việt. Vào năm 1821, một sứ thần Anh quốc, ngài John Crawfurd, đã đến Việt Nam nhằm diện kiến vua Minh Mạng để bàn về một thỏa ước ngoại giao. Sứ bộ của ông thất bại vì không được diện kiến vua Minh Mạng. Tuy nhiên, những điều mắt thấy tai nghe của John Crawfurd cộng với những ký thuật của người đồng hương là Gibson- đến Việt Nam trong sứ đoàn của Miến Điện vào năm 1823- đã được in lại trong cuốn “Journal of an embassy from the Governor-General of India to the courts of Siam and Cochin-China : exhibiting a view of the actual state of those kingdoms” (Tường thuật về một sứ bộ do Toàn quyền Ấn Độ gửi sang triều đình các nước Siam và Cochin-China: trình bày một quan điểm về hiện trạng của các vương quốc đó). Quyển sách được ấn hành lần đầu năm 1828 tại Luân Đôn, trong đó có một số bức ảnh minh họa được chú thích là “Drawn by a Chinese” (Được vẽ bởi một người Hoa). Trong đó, hai bức ảnh ở trang 509 với chú thích: “King of Cochin Chinese, and Deputy Governor of Kamboja” (Vua xứ Cochin Chinese, và Thống đốc đại diện của Kamboja) là rất đáng chú ý.

Bức ảnh thứ nhất là một người có tuổi đang đứng, tay trái đưa lên vuốt râu. Ông này mặc quan phục, đội mũ cánh chuồn, râu dài, thân hình béo tốt. Bức thứ hai là một người trẻ tuổi, mặc triều phục, đang ngồi trên ghế, phía sau có hai người hầu. Người thứ nhất cầm trên tay một vật giống như là cái ấn còn người kia thì giấu hai bàn tay vào trong ống áo. Chúng ta dễ dàng nhận ra người trẻ tuổi chính là vua Minh Mạng- “King of Cochin Chinese” trong chú thích của Crawfurd. Vậy người còn lại chính là “Deputy Governor of Kamboja”. Ông ta là ai?

King of Cochin Chinese, and Deputy Governor of Kamboja.

“The Governor of Kamboja” trong ký thuật của Gibson.

Vào năm 1823, một phái bộ ngoại giao đã được triều đình Miến Điện cử sang Sài Gòn để cùng Tổng trấn Lê Văn Duyệt xúc tiến một liên minh Việt-Miến nhằm chống lại Xiêm. Trong phái bộ này có một người Anh gốc Madras là Gibson. Ông đã ghi những điều mắt thấy tai nghe của mình trong nhật ký. Khi trở về và gặp John Crawfurd ở Singapore, Gibson đã đưa cuốn nhật ký của mình cho Crawfurd xem và cho phép Crawfurd tóm tắt nó theo ý của mình. Crawfurd đã đưa phần nhật ký này của Gibson vào phần phụ lục của quyển sách xuất bản năm 1828. Crawfurd cũng nhận xét thêm rằng vì sự học của Gibson chẳng đến nơi đến chốn nên nhật ký của ông ta đầy những lỗi chính tả và ngữ pháp. Vì vậy Crawfurd đã ghi lại nhật ký này dưới sự giải thích của Gibson và nếu có thể được thì lưu giữ luôn cách trình bày của Gibson. Trong ký thuật đó, có hai lần tác giả nhắc đến một người giữ chức “Governor of Kamboja”.

“Governor of Kamboja” được nhắc đến lần đầu trong phần giới thiệu của ký thuật. Theo đó thì: “In 1882, a certain Cochin Chinese petty chief, or inferior officer, who had once professed the Christian religion, but apostatized, represented to Chao Kun, the Governor of Kamboja, so frequently mentioned in my Journal, that a mine of wealth might be made by purchasing esculent swallows' nests in Ava and sending them as a speculation for sale to China”(1) (Vào năm 1822, một thủ lĩnh nhỏ hoặc viên chức cấp thấp gì đó, người đã từng theo đạo Thiên chúa, nhưng đã bỏ đạo, người đại diện cho Chao Kun, Thống đốc của Kamboja, đã được đề cập thường xuyên trong báo cáo của tôi, rằng sẽ có thể làm giàu nếu sang mua tổ yến ở Ava [Miến Điện] rồi gửi sang bán ở Trung Hoa). Cách trình bày rối rắm này khiến ta có hai cách hiểu. Một là, “the Governor of Kamboja” chính là “Chao Kun” tức Tả quân Lê Văn Duyệt. Cách hiểu thứ hai là “the Governor of Kamboja” chính là người đã gợi ý cho Lê Văn Duyệt (Chao Kun) về vụ mua bán kia. Về người này thì chính Gibson cũng không rõ quyền hạn cụ thể của ông ta là thủ lĩnh nhỏ hay viên chức cấp thấp. Nếu căn cứ vào ngữ pháp của câu, một thứ ngữ pháp mà Crawfurd đã hết sức phàn nàn, thì “the Governor of Kamboja” chính là Lê Văn Duyệt. Tuy nhiên, những ghi chép tiếp theo lại bác bỏ cách hiểu này vì ở đó Lê Văn Duyệt được gọi là “the Governor-General” (Toàn quyền) hoặc thường hơn là “his Excellency the Governor-General” (Đức ngài Toàn quyền). Nhân vật “the Governor of Kamboja” xuất hiện lần thứ hai và cũng là lần cuối cùng càng chứng minh ông ta không phải Lê Văn Duyệt mà là một người khác. Ký thuật viết: “June 21.—The Mission had a visit from the First Minis­ter of the King of Kamboja, and from the Governor of Kamboja, a Cochin Chinese”(2) (Ngày 21 tháng 6, phái bộ được thăm viếng bởi ngài Bộ trưởng thứ nhất của vua Kamboja, và bởi ngài Thống đốc Kamboja, một người Việt Nam). Ghi chép này cho phép ta đi đến hai kết luận:

Một là, “the Governor of Kamboja” không phải là Tổng trấn Lê Văn Duyệt- “the Governor-General”.

Hai là, ông ta là một quan chức mà chức danh có liên quan tới vương quốc Kamboja nhưng lại không phải một người Kamboja mà là “một người Cochin Chinese (Việt Nam)” như chính Gibson đã lưu ý. Vào thời điểm đó, trong hệ thống quan chức của triều Nguyễn chỉ có một người duy nhất có chức vụ liên quan tới Kamboja và cũng chỉ có duy nhất một chức vụ khiến ta liên tưởng tới cụm từ “the Governor of Kamboja”. Đó là chức Bảo hộ Chân Lạp do Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại đảm nhiệm!

Điều đáng lưu ý là trong tất cả những tài liệu hiện biết về Thoại Ngọc Hầu, không có một tài liệu nào cho thấy bản thân ông hoặc gia đình ông có xu hướng theo Thiên chúa giáo. Tuy vậy, việc ông đã từng theo Thiên chúa giáo, rồi sau đó đã bỏ đạo cũng không phải là không thể xảy ra. Chúng ta nên lưu ý rằng nguyên nhân gia đình Thoại Ngọc Hầu phải “tị địa nam lai” (lánh mình vào Nam) thì vẫn chưa có tài liệu nào nói rõ. Một điều lạ nữa là vì sao mẫu thân Thoại Ngọc Hầu là bà Nguyễn Thị Tuyết lại được chôn ở cù lao Dài (Vĩnh Long) còn phụ thân là ông Từ thừa Nguyễn Văn Lượng-một người rõ ràng theo tín ngưỡng cổ truyền- lại chôn ở Đà Nẵng? Thêm vào đó, trong thời gian bôn tẩu, Nguyễn Ánh đã dựa dẫm rất nhiều vào Giám mục Pigneau (Bá Đa Lộc) và nhiều thừa sai khác. Biết đâu việc Thoại Ngọc Hầu xin vào đạo chẳng phải là một biện pháp nhằm lôi kéo và ràng buộc các giáo sĩ để họ theo phe chúa Nguyễn, ngộ biến thì phải tùng quyền?

Chúng tôi cho rằng nhân vật “the Governor of Kamboja” trong ký thuật của Gibson chính là Bảo hộ Chân Lạp Nguyễn Văn Thoại. Tuy nhiên, vì bức ảnh được chú thích với chữ “Deputy” (đại diện) nên chúng ta cần phải xem xét thêm trước khi đề cập về chủ nhân đích thực của tấm ảnh này.

Người trong tấm ảnh “A Deputy Governor of Kamboja” có thể là ai?

Đầu tiên chúng ta phải lưu ý rằng hai bức ảnh trong sách của Crawfurd không phải do Crawfurd hoặc Gibson vẽ mà là tác phẩm của một người Hoa. Chính vì lẽ đó nên dù cả Crawfurd lẫn Gibson đều không được diện kiến vua Minh Mạng nhưng Crawfurd vẫn có ảnh của nhà vua trẻ này để đăng vào sách của mình. Mặt khác, chúng ta có thể tin rằng một số chi tiết lớn trong bộ phẩm phục của viên quan trong hình vẽ là không quá xa sự thật.

Một điều lạ là Crawfurd lại không đăng ảnh của Lê Văn Duyệt, người mà ông nhắc rất nhiều trong cuốn sách của mình. Crawfurd cũng đã tả khá tường tận về Lê Văn Duyệt: “Viên Tổng trấn già là một hoạn quan nhưng nếu không biết trước thì không thể đoán ra. Tuy cằm ông ta không có râu và giọng nói yếu ớt như đàn bà, nhưng chưa tới mức khiến người ta phải nghi ngờ”(3). Chúng ta có thể khẳng định “Deputy Governor of Kamboja” không phải là Lê Văn Duyệt (mà Crawfurd gọi là Governor of Saigon) vì người này có râu, không giống với sự mô tả của Crawfurd.

Lê Văn Duyệt, theo sự tưởng tượng của người đời sau.

Tuy nhiên, “Deputy Governor of Kamboja” có thể là một nhân viên dưới quyền nào đó của Thoại Ngọc Hầu chăng?

Chức vụ Bảo hộ Chân Lạp được thiết lập từ năm 1813. Ban đầu có hai viên Bảo hộ, người thứ nhất là Thoại Ngọc Hầu được gọi là Thống chế lãnh ấn bảo hộ Chân Lạp (quan võ), người thứ hai là Tham tri Binh bộ Đàn Ngọc Hầu Trần Công Đàn được gọi là Hiệp đồng bảo hộ (quan văn). Thoại Ngọc Hầu giữ nhiệm vụ này từ năm 1813-1816. Người kế nhiệm ông lần lượt là Lưu Phước Tường rồi Nguyễn Văn Xuân. Sau đó, Thoại Ngọc Hầu lại trở lại làm Bảo hộ trong một thời gian ngắn rồi được Trần Văn Tuân thay. Chức vụ Bảo hộ bị bãi bỏ năm 1819 rồi đến năm 1821 được lập lại dưới sự thỉnh cầu của vua Nặc Chăn. Từ đó đến năm 1829, người Bảo hộ Chân Lạp chính là Thoại Ngọc Hầu, không có Hiệp đồng Bảo hộ mà chỉ có Binh bộ Lang trung Trần Thái Tín theo ông lo việc giấy tờ mà thôi. Phải đến sau khi Thoại Ngọc Hầu mất, vua Minh Mạng mới lập ty Bảo hộ thuộc lại gồm một số thư lại. Do đó, có thể kết luận trong khoảng thời gian từ năm 1822 (năm Crawfurd sang nước ta) đến năm 1828 (năm quyển sách xuất bản), chỉ có một người được gọi là Bảo hộ Chân Lạp: đó là Thoại Ngọc Hầu. Mặc dù vậy, vẫn không thể loại trừ khả năng người trong ảnh là Binh bộ Lang trung Trần Thái Tín.

Phục trang của người trong ảnh có thể cho ta một số gợi ý. Không khó gì để nhận ra người này mặc áo có thêu hình rồng. Vì họa sĩ là một người Hoa nên chắc là ông ta hiểu rõ không phải ai cũng được quyền thêu hình này lên trang phục. Đó là tội đại nghịch. Việc ông ta vẽ nhân vật “Deputy Governor of Kamboja” mặc áo thêu hình rồng hẳn là có nguyên nhân.

Hoàng Việt luật lệ quyển IX- Lễ luật, điều 12 của phần Nghi chế có quy định: về áo bào:

“-Toàn dùng áo cổ tròn;

-Nhất phẩm trở lên, văn võ đều dùng mãng bào màu tía.

-Từ chánh nhất phẩm đến tùng tam phẩm, văn võ đều dùng mãng bào màu xanh, lục, lam, đen, các màu tùy lúc mà dùng.

-Chánh tứ phẩm, tùng tứ phẩm, văn võ đều dùng HOA BÀO màu xanh, lục, lam, đen, các màu tùy lúc mà dùng”(4).

Hoa bào

Mãng bào

Mãng bào chính là áo có thêu hình rồng bốn móng (rồng của vua có 5 móng) còn hoa bào là áo có thêu hoa mà thôi (xem ảnh). Chúng ta còn giữ được một mẫu áo đại triều do triều đình quy định (thời Thiệu Trị) cho quan văn từ nhất phẩm đến tam phẩm, tương tự như bộ áo mà “Deputy Governor of Kamboja” mặc. Do đó có thể kết luận người trong hình là một ông quan không dưới tam phẩm. Trong khi đó, theo Quốc sử di biên, năm 1821, vua Minh Mạng đã định lại phẩm cấp của các quan. Theo đó, Lục bộ Thanh Lại ty Lang trung (chức của Trần Thái Tín) là chánh ngũ phẩm còn chư quân Thống chế (chức của Thoại Ngọc Hầu) là chánh nhị phẩm. Do đó, người trong bức ảnh “Deputy Governor of Kamboja” không thể là Binh bộ Lang trung Trần Thái Tín mà rất có thể là Khâm sai Thống chế Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại.

Đây là một chi tiết rất thú vị vì lần đầu tiên chúng ta có một bức ảnh về Thoại Ngọc Hầu, mặc dù nó không giống với sự tưởng tượng của người đời sau về vị công thần có nhiều đóng góp cho sự khai phá vùng đất Nam Bộ. Đằng sau vẻ mập mạp béo tốt của con người trong ảnh, chúng ta vẫn có thể nhận ra đôi mắt ưu tư nhìn về một nơi xa xăm nào đó. Đó là con mắt của một người từng trải, có tầm, có tâm, khác hẳn với ánh mắt của nhà vua trẻ Minh Mạng ở hình bên cạnh còn vương chút vô tư tuổi trẻ.

Thoại Ngọc Hầu, theo sự tưởng tượng của người đời sau.

Trên đây là một số nhận xét của tôi về nhân vật “The Governor of Kamboja” trong ký thuật của Gibson cũng như nhân vật “Deputy Governor of Kamboja” trong bức ảnh mà John Crawfurd cung cấp. Mặc dù có nhiều dấu vết chỉ báo đây có thể là Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại nhưng với sự cẩn thận không thừa thãi, tôi vẫn mong các bậc thức giả lưu tâm nghiên cứu, sưu tầm thêm các tài liệu liên quan đến bức ảnh dù có thể những tài liệu đó chứng minh một cách rõ ràng là tôi sai. Lịch sử là sự thực, chứ không phải là sự dối lừa.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

John Crawfurd. “Journal of an embassy from the Governor-General of India to the courts of Siam and Cochin-China : exhibiting a view of the actual state of those kingdoms”, London: Henry Colburn, New Burlington Street, 1828.

Nguyễn Đôn. “Costumes de cours des mandarins civils et militaries et costumes des grades” (Phẩm phục của các quan văn võ và phẩm phục theo cấp bậc), Tạp chí: Bulletin des Amis du Vieux Hue, 2è année – No 3 – Jullet-Septembre 1916.

Nguyễn Thị Chân Quỳnh. “Lối xưa xe ngựa”, NXB Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh & Trung tâm nghiên cứu Quốc học, 2000.

Nguyễn Văn Thành, Vũ Trinh, Trần Hựu. “Hoàng Việt luật lệ, tập 3”. NXB Văn hóa-Thông tin, 1994.

Phan Thúc Trực. “Quốc sử di biên”. NXB Văn hóa-Thông tin, 2009.

Quốc sử quán triều Nguyễn. “Đại Nam thực lục, tập 2”. NXB Giáo dục, 2007.

Chú thích:

(1), (2) John Crawfurd. “Journal of an embassy from the Governor-General of India to the courts of Siam and Cochin-China : exhibiting a view of the actual state of those kingdoms”, London: Henry Colburn, New Burlington Street, 1828, trang 571, 574.

(3) Nguyễn Thị Chân Quỳnh. “Lối xưa xe ngựa”, NXB Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh & Trung tâm nghiên cứu Quốc học, 2000, trang 219.

(4) Nguyễn Văn Thành, Vũ Trinh, Trần Hựu. “Hoàng Việt luật lệ, tập 3”. NXB Văn hóa-Thông tin, 1994, trang 432.