Ngoại lãng tướng công niên biểu

(Ký hiệu VHv1747 Thư viện Viện Hán Nôm)

Ngoại Lãng tướng công phả ký

Họ nào có phả của họ ấy. Nhà nào có lễ của nhà ấy. Cho nên thế tộc danh gia ắt giữ đúng danh phận nhà mình, là để trọng tôn thống. Họ Doãn ta cũng là một vọng tộc. Nhìn ngược lên Tự Phúc dựng nền, tôn phái phồn diễn đã chia rõ. Cho nên không giám kể, chỉ nói từ Yên Duyên đến Hoành Lộ đến Ngoại Lãng. Nay còn phát triển ba chi, mà chi của ta thực sự là chi trưởng. Xét ra, lễ có đại tông tiểu tông, có gia sử chi sử. Thật không nên cẩu thả lẫn lộn. Nhà ta may nhờ ơn thi lễ của các tiên tổ, để lại phát triển đến nay là có quan hệ với thống sự, anh em ta phải lấy lễ mà tự giữ, để ngõ hầu là con cháu nho môn.

Trộm xét việc thờ tự của nhà ta. Tằng đại phụ của ta giao cho tổ thúc ta. Tổ thúc không còn, giao cho bác trưởng của ta (Tỉnh Hiên công) việc thờ tổ thúc (Tam bá phong công ) của ta. Mỗi khi nghĩ tới nề nếp của tiên tổ ta, anh ta Quý Thành chưa kịp biết. Nay kính đọc bài văn của bác trưởng thay Tam bá khóc tổ thúc, có câu rằng : “ Về tình là phế phủ (gan phổi) về lễ là đích gia.” Lại nói: “Con cháu ta có người làm rạng rỡ cửa nhà ta, để hoàn thành được cái chí của tổ tiên ta, để phụ chú ta vào miếu đại phu, năm tháng xa hay gần cũng chưa thể biết. Bác hai ta (Hằng Trai công) với con cháu cũng từng nói rằng: “Tiên khảo ta lấy mệnh cha làm trọng, phàm tông sự (việc họ) thì cứ nghe theo em trai, không dám trái vượt.”  Nói nghĩ đến đây thì mệnh của tằng đại phụ ta ắt có lễ ý. Nay nên khảo định thế nào để hoàn thành tiên chí. Mà làm rõ được mối dòng thì đã có các hiền huynh đệ xem xét. Khuê tôi đâu dám nói. Nhớ lại sau khi bác trưởng ta mất, chỉ để lại một con gái. Bấy giờ hàng cháu chúng ta chưa có ai đủ để nối dõi. Cha ta tuế thời thờ phụng, bác hai ta làm chủ việc đó, ấy là lý, mà cũng là thế. Trung niên, bác hai nghĩ anh Tư Mỹ là hậu duệ của bác trưởng, quả là nghĩ sâu về gốc họ vậy. Mùa thu năm Ất Mùi, anh Xương Phái xây được nhà thờ bên phải nhà ở. Bác hai ta đã định triệu thiên thần chủ của tiên tổ nhưng không có kết quả. Mà long nghĩ về tông triệu thì vẫn thường chăm chắm. Duy khi bác hai còn, việc thờ tổ tông của ta còn có bác ta làm chủ. Lớp con cháu như chúng ta gặp việc gì thì cũng nối theo về tôn trưởng. Cho nên về tình lý, anh em ta cũng chưa giám vội thỉnh mệnh. Mùa thu năm ngoái chẳng may bác ta bỏ lại chúng ta, lại không kịp dặn dò mà đã qua đời. Mối tình canh cánh như vậy càng không thể dứt. Đến nay theo tình theo lễ, như thế nào cho thích hợp đây? Cũng nên kịp thời định đoạt. Khuê tôi lại nghĩ: Nhà ta từ trước dến nay không phải như họ khác có ruộng có ao để cung cấp hương hỏa. Việc cung tiến hàng năm hàng mùa, gặp việc tuy không thể tận hợp với nghi thức của lễ, nhưng phải không sai với ý nghĩa của lễ. Thiết tưởng làm người đứng đầu một nhà một họ cũng là đảm đương trọng  sự để thấy tông miếu không dám thay đổi, ý nghĩa của lễ không dám xem nhẹ vậy.

Sinh vào giờ Đinh Mão, ngày Giáp Tý 17, tháng Mậu Tý 11, năm Ất Mão 1795 ở nhà cũ tại Khê Cầu. Năm ấy là năm thứ 16 Hoàng triều thế tổ Cao hoàng đế định vương vị tại Gia Định.

Duệ tôn Hiếu Định hoàng đế kế thống năm thứ 10 Ất Mùi, vì loạn Tây Sơn Nguyễn Nhạc Nguyễn Huệ, đại giá về nam. Mùa xuân năm Đinh Dậu, ngụy Long Nhượng đại tướng quân Nguyễn Huệ vào chiếm Gia Định, phụng giá đến huyện Long Xuyên của Hà Tiên. Vua bị giặc đón về Gia Định , bị hại. Năm Mậu Tuất (1778) phụng Thế tổ Cao hoàng đế nhiếp chính, đánh lấy lại Gia Định. Ngụy Nhạc tiếm xưng Thái Đức, cũng trong năm này. Năm Canh Tý, chính vương vị. Năm Tân Dậu (1801) khôi phục kinh đô Phú Xuân. Năm Nhâm Tuất (1802) giá hạnh Bắc Thành, đi theo, điển diệt Tây Sơn, thiên hạ đại định, kiến nguyên Gia Long.

Cựu Lê Chiêu Thống hoàng đế bỏ nước, ở Thanh 9 năm. Nguyên niên Đinh Mùi (1787) kế thống. Sau đó có loạn Tây Sơn. Giặc Bắc vào, thành Thăng Long thất thủ. Vua bỏ nước. Năm Mậu Thân (1788) nhờ quân Thanh về lấy lại. Kế đó, thống soái quân Thanh Tôn Sĩ Nghị thất bại, vua lại sang Bắc, một lần nữa xin viện binh không thành, chết ở đất Thanh. Gia Long trung niên mới dùng nghi lễ của mình đem về từ đất Yên.

Cựu thần nhà Lê tong vong sang Thanh rất nhiều. Người Ai Lão huyện Thư Trì ta thì có cựu đề lãnh tứ thành quan, người Tiên Đằng Bình An thì có ông chánh Bốn sau đều theo về. Ta có gặp họ.

Đó là năm Thanh Cao tông Càn Long thứ 60

Tây Sơn ngụy Nguyễn Huệ tiếm xưng Quang Trung năm thứ 8 (1795)

Nhà cũ ở Khê Cầu tức là nhà cũ của cha ta (Ngô Tiền dại phu) khi trước là Kính Hiên công. Loạn Tây Sơn, dân xã điên loạn, cha ta đi chiêu tập họ, có đất hơn 2 sào, mấy gian nhà tranh.

Tiên khảo ta phong công rồi hưu cư ở đó. Ta sinh ra và lớn lên ở đây, đến năm Giáp Thân (ta 30 tuổi) mới về Ngoại Lãng đất này chật hẹp, người phần nhiều không thọ, không phải là nơi nhân lý khả cư, nguyên đất ở hơn hai sào, đã chuyển bán cho người khác, giá chỉ hai quan tiền. Sau này nếu muốn chuộc lại, thì có thể nên xây một cái nhà thờ, để không quên gốc là được.

Lúc nhỏ được Tiên phong công đặt tên là On (), lớn lên một chút sai đổi thành Ôn ().

Phụ lục: Danh tự, hiệu nói rằng: Lúc nhỏ được Tiên phong công đặt tên là On. Lớn lên một chút sai đổi là Ôn, và dạy rằng: Kinh thi có câu “Ôn ôn cung nhân, Duy đức chi cơ”. Lại có câu: “Tiên dân hữu tác, Ôn cung triêu tịnh”. Con hãy theo tên mà nhớ nghĩa, gắng học để tiến tới hữu đức. Hiệu nói rằng: Đức nhuận thân. Con tên là Ôn tự là Nhuận Phủ. Ta nhớ mãi không dám quên, rồi tự đặt hiệu là Nguyệt Giang, rồi đi thi hương, ghi tên ở triều vẫn theo tên đó.

Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), hiện chức viên ngoại lang bộ Hộ, khâm phụng Thánh tổ Nhân hoàng đế ngự bút ban tên đổi là Uẩn (). (Lệ có tiến đầu bài. Viết tên họ thần ở bên trái thẻ, dùng bút son sửa vào bên cạnh tên. Nội các có phụng chỉ riêng)

Vẻ vang vì chữ tặng của vua, mà nhớ lại lời di huấn của Tiên phong công không dám quên, vẫn lấy tên cũ làm tự. Hiệu là Tĩnh Trai, vì nhớ các nghĩa “Định nhi nhà hậu năng tĩnh” của Đại học, hơn nữa từng hâm mộ lời của Trung Vũ hầu “Đạm bạc ninh tĩnh” mà nguyện noi theo. Lại có hiệu khác là Xương Phái, thì khi sơ thụ Hàn Lại bộ, còn theo cựu chế lấy tước hiệu gắn liền quan hàm, ghi là Xương Phái (từ quê quán phủ Kiến Xương). Bạn bè thường ngày qua lại thư từ, quen gọi, vì thế mà đặt hiệu (sau kính tránh tôn hiệu Xương Lăng bèn xin bớt) gọi là An Tây mưu lược tướng Tuy Tịnh tử; bèn lấy Tây chinh mà giấu sự việc).

Phụng Hiến tổ Chương hoàng đế sắc tứ ân phong vậy. Lúc nhỏ được cha dạy bảo, lại từng theo học bác là Hằng Trai công. Năm, sáu tuổi được Tiên Phong công dạy, học một lượt chính văn Tứ thư cho đến Kinh sử. Tính của Phong công ta rất khoan từ, dạy con đọc sách chưa từng đốc trách. Mẹ ta thường hay nghiêm lời dạy bảo, Tiên công bảo: Chỉ cần khuyên ta làm thiện tích phúc là được rồi, cần gì phải khổ giáo. Mười tuổi, theo bác là Hằng Trai công học ở Ngoại Lãng, có tiên đại mẫu ta ở đó. Trong đám cháu, ta là lớn nhất, được cụ yêu thương cho theo hầu để học. Tiên Phong công thiết trường ở xã Tảo Môn của Mỹ Lộc, Tiên bá thiết trường ở Vô Ngại, Thanh Nga, ta thường theo hầu để học. Mười lăm mười sáu đã biết qua các thể văn tứ trường và sơ lược Thư sử, duy có điều tính ta ngu vụng, ngoài đọc sách ra không có tài khéo léo gì, lại không hiểu biết việc.

Mười chin tuổi, theo Tiên thúc phụ là Hy Thành công thụ nghiệp ở Cự Lê triều Tiến sĩ hành Tham tụng Tồn Am Bùi tiên sinh. Tiên sinh húy là Bích (Bùi Huy Bích), tự là Hy Chương, người Thịnh Liệt, Thanh Trì, Chánh Tiến sĩ Tam giáp khoa Kỷ Sửu năm Cảnh Hưng thứ 30 (1769), làm quan qua các chức thị lang bộ Lại, kiêm thị lang bộ Binh, nhập thị hành Tham tụng, nhập thị Kính diên tri Quốc tử giám. Năm Bính Ngọ (1786) ra giám quân, qua loạn lạc bôn ba hơn 10 năm, năm đầu Gia Long vì bệnh về làng. Chế độ thời Lê, Tham tụng là Bồi á tụng, Á tướng của thủ tướng. Tiên phụ của tiên sinh, cụ Thượng thư húy là Xương Trạch cùng với cụ Thượng thư nhà ta là cùng đăng khoa, ở điện bảng năm Hồng Đức thứ 9, mấy đời kết bạn. Tiên bá phụ của ta Tỉnh Hiên công và Hằng Trai công đều học ở cửa tiên sinh. Tiên sinh già yếu về quê, ta theo tiên thúc hầu thầy học chữ. Lần yết kiến đầu tiên, được tiên sinh thưởng giám bảo rằng: Trò này bộ sau khả quan, cố gắng học tập, mai ngày hãy làm một danh sĩ trong thiên hạ”. Cùng nhập môn có tú tài Bùi Ngạn Uông ở Đức Hiệp, tú tài Đỗ Biểu, cử nhân Đỗ Bao ở Hoàng Mai, tặng Lại bộ thượng thư Hà Nguyễn Quyền ở Cát Động, cử nhân Ngô Đình Huệ ở La Khê, anh em tú tài Trần Thiều, Trần Đán ở Vân Cát Thiên Bản, và Nguyễn Thanh ở Ngọ Trang, Nguyễn Thúy ở Hào Kiệt, cả thảy hơn chục người mà thôi.

Ta trộm xét Tiên sinh là nhà khoa giáp khanh tướng huân phiệt nhiều đời, thường làm thủ tướng, đến khi trải thời loạn bôn ba, trước sau giữ trọn phép nhà, trộm thấy nhà cửa trống trơn, bữa hôm lo bữa mai. Đại phu nhân thì lo hồ giấy vàng bạc để sinh sống. Ta mỗi bữa hầu cơm tối nhà bà phúc thanh bạch của nhà Nho thế gia có thể nghĩ được vậy.

Tuổi hai mươi

Tiên Phong công qua đời (giờ Giáp Thân, ngày Canh Ngọ 11, tháng sáu năm Giáp Tuất Gia Long 13 (1814). Tháng bảy tạm xong việc tang, chuyển nhà về địa phận xã Khê Cầu, sang năm Ất Hợi lại trọ học ở Hồng Mai. Xét Tiên Phong công ta mất đi, sau khi hầu hạ thuốc men lâu ngày, nhà không còn một đồng tiền, hũ không còn một muôi gạo may nhờ người quen biết giúp đỡ lo xong việc lớn. Ta tuổi hai mươi, chưa từng trải công việc, còn vong đệ tú tài Chấn thì mới lên mười, ăn thường không đủ, áo thường không lành, may nhờ tiên mẫu ta cần kiệm nuôi tằm dệt lụa, nuôi nấng để có được ngày nay. Nhớ lại mẹ ta, ta đã không được phụng dưỡng lại không có gì báo đáp, việc thờ phụng giờ xét lại thường khoáng khuyết. Ô hô, đau long thay. Sau tháng 8 năm ấy, ta vì lâu ngày hầu người ốm lại thêm đau buồn, bỗng mắc chứng tước mạnh, cứ sau khi trời tối là không nhìn thấy gì, đã bốn tháng, lại nghèo không có thuốc chữa, tự cho mình thành người bỏ đi. Bỗng có một bà nhà buôn tự nói rằng có thể chữa được, lấy một chiếc lá to thủy lan chứa một bát lớn nước, nhân lúc ngồi ban đêm, đắp vào mắt, bất giác giật mình, rồi dần dần khỏi, đến nay cũng chưa rõ vì sau. Sau đó anh em dắt nhau du học, từ nhà đi Hà Nội, hành lý chỉ có 28 đồng tiền, trời rét chỉ có một chiếc áo đơn bằng vải đen. Cảnh nghèo khổ như vậy không thể kể xiết. Đến nay thực không thể quên. Cho nên ghi cả lại để lớp con cháu biết.

Ngày 25 tháng năm năm Mậu Dần (Gia Long 17 tức 1818) thầy Tồn Am của ta mất, vẫn lưu ở nhà học (thục quán) sớm hôm hầu chực ở mộ (lúc đầu để ở thôn Giáp Nhất xã Thịnh Liệt, năm Minh Mệnh 16 cải táng về xã Huỳnh Cung sau lại dời về xã Định Công) Ba năm hết tang mới cải về.

Ta tuổi trẻ lông bông (“mãng lãng”), tuy may mắn có gia đình và thầy bạn, nhưng học vấn sơ thiển, từ sau khi thầy ta mất đi thì không còn có ý khoa cử nữa. Bắt đầu xem rộng thơ văn của cố nhân, cũng chỉ thiệp hiệp trên đại ý, đến nay biết hối thì đã già mất rồi. Ấy là lỗi tại ai? Ngày thường từng sao chép cách ngôn, đặt tên là Thư phòng cổ giám lục.

Năm Canh Dần, tuổi đã 26, lấy vợ họ Nguyễn. (Người họ Nguyễn bản xã, là con gái thứ ba của cụ Nguyễn Năng Điều.) Ngày 26 tháng tư năm Tân Tỵ Minh Mệnh 2 (1821) mẹ ta từ trần. Năm đó, đỗ tú tài Ân khoa, rồi đến Văn Lãng dạy trẻ. Ngày thánh chin năm Quý Mùi (1823) cải táng mộ Tiên Phong công đến thôn Huyền Sĩ Nội Lãng (xem thêm gia phả). Tháng bảy năm Giáp Thân (1824) từ Khê Cầu về ở Ngoại Lãng nơi ở hiện nay. Nhà cũ Khê Cầu vốn là biệt thự của Tiên nhân, lại vì đất không rộng thoáng, tháng này vì nước dâng lên, nên rút lui về ở chỗ ở hiện nay. Từ trước vốn bỏ thành vườn hoang. Đại bá phụ (bác cả) ta mất rồi, bác gái mới ở đây. Đến nay bảo ta làm nhà ở đây để tiện thăm nom. Rồi đến tháng 8 năm nay bác gái ta mất. Thoạt mới ở chỉ có năm gian nhà. Năm Thiệu Trị 2 (1842) ta có đại tang về, bốn giáp thôn Hội mới bán công thổ, ngang ra khoảng 5, 6 thước và cái ao con trước nhà. Cái nhà ngoài bây giờ mới bắt đầu làm vao năm này.

Khoa Ất Dậu năm Minh Mệnh 6 (1825) đỗ tú tài lần thứ hai. Khoa này còn theo quy chế cũ, từng kỳ yết bảng, trường đệ tam, tên ta đều ở hạng ưu, số một. Đến trường đệ tứ, giải nguyên là Trần Tú Dĩnh ở Hưng Yên.

Khoa Mậu Tý năm Minh Mệnh 9 (1828) đỗ cử nhân hạng ưu tên xếp thứ 3. (Tuổi 34). Khoa này quan trường chủ khảo là Tả tham tri bộ Lễ Nguyễn Đăng Tuân (sau làm thầy dạy hoàng tử, thăng đến Hiệp biện đại học sĩ, là bố của Tổng đốc Nguyễn Đăng Giai). Phó chủ khảo là Hiệp trấn Sơn Tây Hoàng Văn (?), lấy đỗ cử nhân 30 người. Đỗ thứ nhất là Nguyễn Kim Huấn người Nhân Mục Thanh Trì. Thứ hai là Phạm Thế Lịch người Quần Mông (nay đổi là Lạc Quần) Giao Thủy, được đổi tên là Thế Trung. Thứ tư là Lưu Nguyên người Nguyệt Áng Thanh Trì. Đó là bốn người hạng ưu. Ta trộm xét các đời trước của nhà ta, các tiên công từ sau khi hưng gia ở Thượng Phúc cho đến nay có 5 vị đỗ đại khoa, bắt đầu phát từ khoa Mậu Tuất đời Hồng Đức thứ 9 (1478), kế đến khoa Nhâm Tuất đời Cảnh Thống thứ 5 (1502), lại đến khoa Bính Tuất đời Mạc Đoan Thái thứ 2 (1586), đến khi Doãn Khuê đỗ khoa đời Minh Mệnh thứ 19 (1838) cũng là Mậu Tuất, tuy trong có khi có khoa khác, nhưng phần nhiều là phát vào Tuấn. Lại tính từ khi thiên cư về Ngoại Lãng trở về sau, đỗ khoa thi Hương có 6 người: Tằng đại phụ ta vào khoa Đinh Dậu năm Vĩnh Thịnh 13 đời Lê (1717), đến cháu của cụ là tiên bá phụ của ta đỗ khoa năm Cảnh Hưng thứ 38 (1777) cũng là Đinh Dậu, (thứ tằng tôn là Doãn Khuê đỗ hương khoa cũng là năm Đinh Dậu), đại phụ ta đỗ khoa Mậu Tý năm Cảnh Hưng 29 (1768), cháu là ta đỗ năm Minh Mệnh thứ 9, cũng là Mậu Tý (1828), từ ông đến cháu đời đời làm gia khoán, thư trạch rất xa, đẹp vậy thay. Người sau ta nếu có thể nối được thế nghiệp, thì đẹp biết bao!

Lại xét trường thi Nam Định, xưa nay không thịnh như khoa này, nổi tiếng đại khoa thì Phạm Thế Trung hiệu Hải Phái ở Hải Thiên, Phạm Thế Hiển ở Luyễn Quan, Ngô hiệu Dương Đình ở Bái Dương, Đỗ Quang ở Hoa Điếm, Phạm Sĩ Ái ở Trung Lập (làm quan đến biện lý bộ Binh rồi chết); nổi tiếng tài mẫn (giỏi nhanh) có Phạm Chi Hương ở My Thự, Dương Duy Thanh ở Phú Thị; nổi tiếng tuần hương (giữ pháp mà có chính tích) thì có Phạm Khắc Trạch ở Động Hối, Bùi Văn Huy ở Đông Đôi, Trần Vỹ ở Thiên Bản, Nguyễn Văn Hưởng (tri huyện rồi chết) ở Quế Sơn, Nguyễn Đình Án (tri huyện rồi chết) ở Nguyệt Áng, Lê Sâm ở Mễ Sở, Tô Quốc Nghi ở Nhân Mục (tri huyện huyện Vĩnh Định, mất khi đang ở quan đường, ta từ Vĩnh Toàn mang hài cốt về cho con ông chôn). Đó có lẽ là những người sớm hôm thân thiết biết rõ nhất. Ngoài ra thì cũng đều là những người tuyển chọn của cả một đời. Duy có anh Phạm Trọng Nguyên người cùng huyện ở Hoàng Xá, tri huyện Vĩnh Trị vào thời nguy biến của tên nghị Hoài, bị giặc bắt đưa vào thành Phiên An, ngày quan quân vây thành, anh Phạm từng ngầm đưa thư xin làm nội ứng, quan đem việc đó tâu lên, than tuy bị hại nhưng nhà không bị hệ lụy, cũng là điều may trong sự bất hạnh.

Ngày 18 tháng Giêng năm Kỷ Sửu (1829) sinh trưởng tử Chính (ngày Quý Sửu, giờ Đinh Tỵ). Con sinh được 3 ngày thì lên Kinh thi Hội.

Tháng ba, thi Hội, không trúng cách. (khoa này đệ nhị trường phụng ngự đề Tâm kính trừng thanh phú, và thơ Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng. Khoa này tiến sĩ 8 người, Hội nguyên là Trần Huy Phác người Nghệ An, họ Phạm ở Lạc Quần, họ Bùi ở Hải Thiên, họ Phạm ở Luyến Khuyết, họ Ngô ở Bái Dương cũng ở khoa này. Tháng Tư, bộ Lễ đưa tên tâu xin bổ vào Hàn lâm viện tòng bộ thừa biện, phụng chỉ, để chờ có chỉ dụ khác , sau rồi phái tòng Hình bộ hành tẩu. Tháng Mười bổ thụ Hàn lâm điểm bạ.

Năm thứ 11 Canh Dần, bộ Hộ tâu cử thăng Thự Hộ bộ chủ sự. Tháng chin, phụng sung Quốc tử giám phân khảo, khảo duyệt tú tài các khoa (bốn mươi tuổi trở lên thì bổ huấn đạo).

Năm thứ 12 Tân Mão (1831), tháng ba, phụng chỉ đưa lên gặp bộ, dẫn gặp ở Hải tĩnh Niên phong các, được thực thụ ngay chức Chủ sự; tháng bảy sung phúc khảo trường thi Nghệ An; tháng chin sung Phúc khảo Bắc thành; tháng mười hai, thăng thụ viên ngoại lang rồi phụng ngự bút ban đổi tên.

Năm thứ 13 Nhâm Thìn, tháng ba, phụng sung Đồng khảo trường thi Hội. (Đỗ Quang, Phạm Sĩ Ái, Phan Tước, Nguyễn Văn Lý cũng ở khoa này). Rồi phụng chỉ ghi tên dung chức Lang trung; tháng chin nhuận thăng Lang trung bộ Hộ. Bùi Phổ (người Thịnh Liệt Thanh Trì, sau thăng Thượng thư bộ Hình, đổi Thượng thư bộ Công, nghỉ ốm, chết ở nhà) tấu cử có thể kham chức Án sát.

Năm thứ 14 Quý Tị (1833), tháng ba, điều Thự Án sát Vĩnh Long. (Ta khi làm chủ sự bộ Hộ, một đêm vào trực, mộng thấy một cụ già đến bảo rằng: Gia quyến ông mới từ ngoài bắc vào đây. Đã vào đây thì hãy ở lại đây, ngày sau cùng đi Vĩnh. Sáng ra, về nơi ở, quả thấy mẹ con Chính đến, thế là mộng đã nghiệm đúng, nhưng vẫn chưa rõ nghĩa cùng đi Vĩnh là gì, không ngờ cùng đi Vĩnh Long. Vả lại, đến ngày được mệnh, nghĩ rằng nhà có mẹ già, dặn mẹ con nó về phụng dưỡng, bỗng dưng tự biết cấp lộ phí sai đi theo. Đời người ta đi đứng cũng có số chăng?

Cuối tháng tư, mới đến tỉnh, bàn giao công việc xong, liền đi phủ Lạc Hóa khám biện địa giới. Ngày 20 tháng năm, ngày 18 tên nghịch Hoài ở thành Phiên An gây biến, liền về tỉnh. (Nguyên thành Phiên An tức là thuộc trấn của thành Gia Định, năm Minh Mạng 12 chia đặt tỉnh thành, nguyên thành khi trước để lại làm tỉnh lỵ Phiên An, sau khi xong việc lấy lại tên cũ, vẫn là thành Gia Định, tu sửa lại thành ấy).

Ngày 14 tháng sáu, tặc đảng đến xâm phạm Vĩnh Long, tỉnh thành thất thủ. Ngày 17 tháng bảy, tập hợp nghĩa dũng thu phụ thành trì, làm bản tâu lên. Khâm phụng dụ chuẩn cho vẫn làm chức Án sát sứ. Sau k hi tên nghịch Hoài tức Nguyễn Hựu chết, đổi làm Lê Văn Hoài để nguyên dưới tiêu Lê Văn Duyệt, nên đổi theo. Hoài nguyên là công tính (họ nhà vua) ở tỉnh Cao Bằng, thoạt đầu vào làm môn thuộc của Tổng trấn Bắc thành Lê Chất, sau đổi theo Tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt, tiết bổ đến Tòng thành Phó Vệ úy, năm Minh Mạng thứ 12, Lê Văn Duyệt chết, phát xuất ra nhiều án oan trái, những người dưới trướng Duyệt trước đây như Hoài và Thái Công Triều, ..v..v. đều can án. Án này hiện giao cho Bố chánh Gia Định là Bạch Xuân Nguyên tra xét. Bọn Hoài không chịu nổi sự tham khắc của Bạch Xuân Nguyên, cam tâm muốn giết y, đêm 17 tháng năm, tên nghịch Hoài đã tụ tập đồng bọn ở ngoài thành, Thái Công Triều cùng bọn nguyên phó vệ tên Bột, tên Lực,..vv. cùng với bọn Phan Bá Nhã, Đặng VĩnhỨng người Nghệ An trước theo Văn Duyệt, kết đảng mấy chục tên, đầu canh đêm từ ngoài thành vào thẳng nhà Xuân Nguyên mưu bức sát y. Xuân Nguyên nghe có biến liền trốn đi nên không bắt được, bèn náo loạn trong thành. Trong thành binh ít, Tổng đốc Nguyễn Văn Quế dẫn thuộc hạ quyết đấu tới chết. Án sát Nguyễn Chương Đạt (người Trung Cần Nghệ An vì thế đắc tội) mở cửa thành, đang đêm chạy trốn. Đảng giặc bèn mở ngục tù, bọn chúng càng đông. Sáng ngày 18 mới bắt được Xuân Nguyên mà giết đi. Thế là nguyên quân lưu tù thả ra sung vào các đội hồi lương của đồn điền, cùng với bọn côn quang Thanh Thuận, Bắc Thuận chiêu mộ khi trước bèn dắt nhau theo giặc. Trạm gần tỉnh có dẫn trạm phu chống giặc không nổi, tan rã. Giặc bèn chiếm cứ tỉnh thành, ngụy xưng danh hiệu. Tên nghịch Hoài tự xưng là Đại nguyên soái, Thái Công Triều ngụy xưng là Trung quân, Phan Bá Nhã ngụy xưng là Tả quân, Hồi lương tên Tổng Tiêm ngụy xưng là Tiền quân, những tên Bốn, Bang người Thanh ngụy xưng là Thủy quân, nguyên Tham bồi bộ Lễ Đắc Giáng, huấn đạo Đinh Hồng Phiên (người Kim Khê Nghệ An) ngụy xưng là Lễ bộ Thái khanh, tên tri bạ Tuế người Gia Định ngụy xưng Hộ bộ Thái khanh, nguyên Tư vụ tên Lãng ngụy xưng Hộ bộ Thiếu khanh. Thế giặc càng mạnh; Ta từ Lạc Hóa về đến tỉnh, thấy Tổng đốc Lê Phúc Bảo (người Gia Định nguyên trấn thủ Sơn Tây) không có ý đi cứu viện, ta cùng Bố chánh Phan Phúc Thiện (người Bình Định, tuổi đã sáu mươi) nhiều lần khuyên bảo, đến ngày 27 Phúc Bảo mới đem binh thuyền đi cứu viện. Đến tỉnh lỵ Định Tường, đóng quân lại không tiến, ngụy tả quân Nhã dẫn mười chiếc thuyền giặc đưa mấy trăm tên đồng bọn xuống xâm hại các tỉnh Long, Tường. Phúc Bảo sai thuộc hạ là Phó quản cơ Lê Tiêu dẫn thổ binh Lạc Hóa đánh nhau với giặc ở Tra Giang (giáp giới Gia Định-Định Tường). Thổ binh tản đi, Tiêu chết, chỉ mất 3 chiếc thuyền. Phúc Bảo bèn trong đêm tối, tự bỏ binh thuyền, chèo chiếc thuyền con chạy về.

Lại nói, Phúc Bảo đi chuyến này, binh đến mấy ngàn, pháo giới cũng không phải it, giả sử đi gấp đến Phiên An cứu viện, đảng giặc vừa mới ô hợp, dùng đại binh đàn áp, giặc chưa chắc đã làm được gì. Không thế thì từ Tra Giang cho đến tỉnh lỵ Định Tường, qua ba bốn ngày thủy trạm, thủy cảng quanh co, thuyền ta không thể đi thẳng, giả sử có dăm ba đội quân chặn đường cố thủ ở cảng này thì giặc dẫu có ngàn chiến thuyền, há có thể bay qua Định Tường lan đến các tỉnh được sao? Đáng trách Phúc Bảo trước tai họa tinh thần hôn ám, bỗng dưng mất vía bỏ trốn, mấy ngàn quân không ai làm chủ lập tức tan rã.Mấy trục chiếc thuyền, pháo giới đạn dược cống hết cho giặc. Tổng đốc An Hà Lê Đại Cương trước đó từ An Giang than cầm đại binh đi cứu viện, đến Định Tường cũng dừng quân không tiến, thấy quân Vĩnh Long tan, cũng lập tức lui binh, tự nói rằng về giữ địa hạt. Quân dân Định Tường thấy đại binh của lưỡng đốc đều tan lui, cho rằng thế giặc ngất trời, nhân tình đều tan tác kéo nhau trốn chạy. Tuần phủ Tô Trân (tiến sĩ Bắc Ninh) ở tỉnh chẳng còn một người nào sai khiến được, bất đắc dĩ cũng đi Vĩnh Long, để trống tỉnh thành, giặc bèn thừa cơ tiến đóng Định Tường, như vào cõi không người, đến nay khiến người ta thật vô cùng căm giận. Ngày mồng 10 tháng sáu, Phúc Bảo một mình về tỉnh, binh của tỉnh hiện chẳng còn mấy, thấy tình hình như vậy đều bỏ trốn cả, hai viên lãnh binh đến bọn quân vệ cơ cũng không biết đi đâu. Đến nước này, Phúc Bảo tự đóng cổng thành, bó tay ngồi trơ. Ta kiểm điểm lại binh thuyền ở tỉnh, chỉ còn 4 chiếc, và tráng binh haiba chục, niết ty lại dịch mấy người mà thôi, thế đã không biết làm gì được, bèn một mặt sai người chuyển đệ sớ văn lên kinh cáo cấp, một mặt hịch triệu mộ nghĩa dũng các phủ huyện (Tỉnh lại lên Kinh. Vua sai bộ thần hỏi rõ việc của tỉnh. Vua nói: Việc đã như vậy, có trăm Tử Nghi cũng làm gì được Thổ phiên. Doãn nếu biết tạm lánh, còn có ngày về, nếu không thì chết cũng chẳng ích gì cho công việc).

Mấy ngày, hương dũng đến cứu viện được hơn trăm ngàn, bèn thiết lập đồn trại ở các nơi xung yếu ven song gần tỉnh, làm kế tử thủ. Ngày 14, ngụy tiền quân Tiêm, ngụy tả quân Nhã, ngụy trung quân Thái Công Triều từ tỉnh Định Tường, theo Tiền Giang vượt Vĩnh Long tiến đánh Lê Đại Cương ở xứ Cái Tàu, ta tự dẫn mấy trăm binh dũng đi cứu viện.Phó lãnh binh An Giang là Võ Văn Vĩ ra sức đánh từ giờ Dần đến giờ Thìn, bọn giặc rút lui một ít, bỗng dưng gió nổi triều dâng, thế giặc thuận lợi, chiếc hải đạo thuyền của Võ Văn Vĩ theo gió vào bờ, thuyền giặc bốn bề bức chiến,Võ Văn Vỹ mình bị nhiều vết thương, chống đỡ bất lợi, lao mình xuống sông, bị giặc bắt lên, luôn miệng chửi mắng giặc rồi chết. Quân An Giang tan. Lê Đại Cương chạy về đất Chế Lăng thuộc đất Lạp ẩn náu. Ta cũng về tỉnh, giờ Mùi hôm đó, hơn bốn mươi chiếc thuyền giặc từ Cái Tàu xuôi dòng xuống đầu địa giới Vĩnh Long. Ta bèn lệnh cho vận chuyển đại bác lên thành, đặt ở bờ sông phía bắc thành, bắn xuống thuyền giặc. Giặc bèn bỏ thuyền lên bờ, đốt cướp phố chợ. Nhân dân gần tỉnh trước đã tản đi. Hỏi đến trong thành, Tổng đốc, Bố chánh cũng đã bỏ thành chạy rồi. Ta vợ ốm con thơ, nguyên ở cổng sảnh trong thành, cũng không biết đi đâu. Tỉnh thành bị giặc chiếm đóng, ngày đã về chiều, chỉ còn mấy trục hương binh và dăm ba tên tráng binh đi theo mà thôi. Có viên Cai tổng Bình Hưng là Lê Văn Luận trước sau đi theo (sau vì khai Thu phục vực sách được trao chức Cai đội rồi thăng lên Quản cơ) bảo ta hãy tạm lánh đị, còn mưu tính về sau, nếu không thì cũng chết uổng vô ích. Lại nghe tin binh dân đều tản mát, một mình Lê Văn Luận đi theo. Lúc này giặc đang cướp bóc bốn bề, ta một mình mang ấn triện cùng Văn Luận trà trộn vào trong quân giặc, tìm đường đi vào dân gian. Duy có điều ở đây đều là sông nước, không có thuyền thì không qua được, lại thêm lau lách thành rừng, không biết đi làm sao. Bèn nghe Văn Luận về, hẹn trong năm ba ngày tìm nhau ở nhà dân trong thôn Bình An. Ta một mình cầm thủ kiếm, rẽ lối mà đi, tự nghĩ rằng đến lúc không còn cách nào sẽ lao xuống sông mà chết. Canh đầu hôm, khoảng năm sáu khắc, mới gặp mẹ con Chính ở chỗ vườn hoang bên bờ sông. Hỏi ra mới biết thành đã thất thủ, hai mẹ con cùng hai đứa gia bộc dắt nhau ra sông, vừa may có thuyền dân qua bến. Thế rồi chủ đò thấy thuyền giặc dồn đuổi tỉnh quan, tự sợ liên lụy bèn đẩy lên bờ. Đến đây đêm tối đường cùng, không ai mà hỏi, không giám đi nửa bước, chỉ còn chờ chết mà thôi. Gần nửa đêm, trăng sang mờ mờ thấy có người chống một chiếc thuyền con đến, bước tới hỏi kỹ, người ấy nói: nhân đêm tối đi thăm dò đich tình, bèn nói rõ đầu đuôi bảo người ấy qua bến. Người ấy liền đưa qua sông đến nhà người ấy tạm nghỉ. Ta đã hai ngày không ăn, cơ hồ không đứng vững được. Con nhỏ là Chính mới lên năm, mẹ Chính đang ốm nặng, tay chân tê dại không đứng lên được. Đi theo chỉ có người xã tên là Xuôn và một người Vĩnh Long tên Đằng là hai gia bộc mà thôi. Còn dang ngủ thì bỗng nghe hàng xóm náo động, hỏi ra mới biết đảng giặc đã dò được tài sản của Đốc bộ gửi, sai đồng bọn đến sưu nã, đại nhân mau chạy đi, kẻo không kịp. Thế là đến canh năm lại dắt díu nhau, nhờ chủ nhà dẫn tìm đường khác mà đi. Chặng này chỉ nhằm hướng ruộng bùn cỏ mà xuyên qua. Vợ ốm mệt mỏi muốn chết, con thơ kêu đói kêu khát, ra sức gào thét, quát không được, dỗ không nín, tình huống không thể nói xiết. Ngày đã đến khoảng giờ Thìn giờ Tỵ, sai một người tên là Đằng đi trước tìm một nhà dân tạm nghỉ, lát sau trở về báo rằng trong khoảng mấy chục thước có một túp lều nhỏ nhà dân, có thể nghỉ được. Đã thấy chủ nhà cùng đến đón tiếp, vào trong nhà thấy có một bà cụ tuổi ngoài bảy mươi, và một ông con trai góa vợ tên là Mạnh tuổi trạc bốn mươi. Anh này nghe nói là quan tỉnh , mà thấy tình cảnh ta, cũng động long thương liền pha trà thổi cơm mời ở lại. Nhưng nhà anh ta gần sông không tiện cư trú, bèn bảo dựng một chiếc lều nhỏ trong ruộng ven rừng để tạm nghỉ. Hỏi người gia bộc đi theo chỉ mang có một quan tiền, đến trả tiền cơm cho anh ta. Được mấy hôm thấy người thuộc binh tên là Phương tìm đến hỏi han, nói rằng tặc đảng hiện đang truy nã rất gấp, ai bắt được Án sát sẽ thưởng 500 lạng bạc. Tổng đốc Lê Phúc Bảo đi qua bến An Thái, bị tên coi bến tên là Sương bắt nộp cho giặc. Bố chánh Phạm Phúc Thiệu đi qua Long Hồ bị dân thôn bắt đưa đi Phiên An rồi. (Phạm Phúc Thiệu sau ngầm thoát được, đi theo quan binh, được phát vãng Cam Lộ rồi chết. Phúc Bảo thì giặc đưa vào thành, cầm tù ở khám, bị đạn bay trúng, chết, gia tài bị ngụy Hộ bộ Thiếu khanh tên là Lãng trong tặc đảng cướp sạch. Tên Phúc và tên Sương đồng lõa với giặc vào ngày ta về tỉnh bắt được kết án đều bị lăng trì theo phép nước).

Ta cho rằng hai người này khi đi mang theo nhiều tài sản tàu thuyền nên bị bọn đầy tớ hám lợi, ta thì một thân đơn chiếc không có của nả gì, nên chẳng lo. Thế nhưng đi chẳng bằng quay về tỉnh rồi sẽ tùy cơ hậu cử, bèn về ngụ ở nhà một lão nho có tiếng ở thôn Long Hồ cạnh tỉnh. Mẹ cu Chính ốm không ăn được lâu ngày lại không có thuốc men, chỉ còn cách cái chết có một sợi tơ, vừa may có Tú tài Vĩnh Long là Nguyễn Văn Ngoạn qua lời Cai tổng Lê Văn Luận, đang đêm tối tới nhà ngụ, chuyển được tới nhà ông ta, giúp chạy chữa thuốc thang, may được thoát chết. Thế mới biết đời người ta sống chết quả là có mệnh vậy. Ta ngụ ở đây phái người thăm dò động tĩnh của giặc, lại sai ngầm báo trên tỉnh, khoảng một tuần nhật, các lại dịch ở tỉnh và các tổng lý nghe tin nhiều người theo, bèn cấp bằng chiêu tập nghĩa dũng, đặt làm 5 cơ nghĩa dũng, tạm đặt tổng lý làm quản suất, để mưu đồ thu phục, rồi nghe lính ở Kinh các đạo thủy bộ đã hội ở Phiên An, tên nghịch Hoài đóng cửa thành chống giữ. Bèn vào khắc đầu canh năm ngày 17 tháng bảy đem 5 cơ nghĩa dũng hơn hai ngàn quân họp lại ở tỉnh thành vây kín tặc đảng. Trước đây, khi Vĩnh Long thất thủ, tên Hoài phản nghịch đã dựng lên tên Hoàng Văn Thông (nguyên là cai đội thuộc công phủ Kiến An, người Gia Định) làm Tuyên phủ sứ, Đào Duy Phúc (nguyên Tham biện, người Gia Định) làm Phó tuyên phủ sứ, các phủ huyện còn lại cũng đều có ngụy danh mục. Đến nay, quân ta vây kín Bình minh, Hoàng Văn Thông, Trần Khắc Doãn, Đào Duy Phúc tự đến trước quân chịu trói (Trước đó, Nguyễn Văn Nghi đã đi Phiên An). Trong thành, đảng giặc chỉ còn hơn trăm, số chạy ra bốn phía bị bắt sống và chem. chết năm sáu chục tên. Lập tức đem Trần Khắc Doãn ra chém., bêu đầu thị chúng. Còn lại Hoàng Văn Thông, Đào Duy Phúc cùng bọn Nguyễn Văn Nghi tiếp tục bị bắt thì chờ lập trát tôn lên, sau đều chịu tội lăng trì theo pháp luật. Giờ Mùi hôm đó, dẫn quân vào thành, quét sạch, đến hành cung làm lễ bái vọng, lập tức phái kiểm kho tàng, chiêu an dân hạt và phái bắt bọn ngụy phủ cùng tên Sương tên Phúc xử án. Vẫn cho thảo đơn xin tội, trong khi đó đường còn cách trở, phái người theo đường biển đến Bình Thuận phát đệ sớ lên. Nhà Vua khen rằng: Xem lời kể trong trát tâu, Doãn hành động đúng đắn, há chẳng phải là hành vi của người quân tử sao. Ngoài ra phụng thượng dụ nay theo lời tâu báo của Án sát Vĩnh Long Doãn, vào ngày 17 tháng trước đã tập hợp  nghĩa dũng, thu phục tỉnh thành, trước đây tỉnh này thất thủ, xét rõ nguyên do, nguyên tại Lê Phúc Bảo hèn nhát bất tài đến nỗi thua đau lụn bại. Doãn là quan văn mới nhậm chức, tuy bấy giờ không thể tử thủ thành trì, luận xét trách nhiệm phong cương thật là có tội, nay sau khi tan rã bại hoại lại chiêu tập nghĩa dũng, lấy lại thành trì, công tội đã có thể bù trừ, Doãn được tha tội cũ, chuẩn cho giữ chức Án sát sứ như cũ. Nay ngươi nên làm sao an phủ nhân dân, càng thêm đốc sức binh dũng, giữ bền phòng thủ để bảo đảm không còn mối lo. Khâm thử.

Tháng năm năm ấy,em họ Doãn Bưu (tuổi 15, 16) cùng anh trai là Hô, từ nhà theo ta đi Vĩnh Long, đến tỉnh Biên Hòa, gặp lúc đường tắc trở, bèn vào cư ngụ ở Tuần phủ tỉnh này là Vũ Hữu Quýnh, tặc đảng đến quấy rối Biên Hòa, Bưu mất chỗ ở, việc tạm lắng, chú Hô mới đến Vĩnh Long, còn Bưu thì không thấy tăm tích. Đến tháng bảy năm 16, thành Phiên An mới hạ, người trong thành chết đến hơn ba ngàn. Năm đó ta đã ở Thái Nguyên, từ nơi đóng quân chợ Rã về tỉnh, bỗng có một thuộc binh bệnh nhiệt, vào đêm khóc lóc không thôi, như có ý bất bình, hỏi mãi không nói. Một đêm bệnh binh ấy viết một mảnh giấy đệ trình nói rằng: ngoài mấy ngàn dặm can qua, ba bốn năm nay tình huynh đệ, ta hồi tưởng lại hay là hồn của Doãn Bưu khi trước chăng, bèn than hành hỏi lại, thì chỉ khóc mà mãi không nói. Ta kể lại sự việc và an ủi mãi mới thôi. Bệnh binh lại càng đau buồn. Đau xót thay! Bưu đã chết trong đám loạn quân Biên Hòa hay chết ở thành Phiên An bị hạ, cũng không biết được. Cứ như những chữ bệnh binh kia viết, thì chết không đáng số, hồn chẳng được nơi yên, ma ấy tự linh, đau xót lắm thay!.

Xét năm đó, các tỉnh Nam Kỳ, tuần phủ Biên Hòa Vũ Hữu Quýnh, Án sát Tôn Thất Gia (Gia bị giặc bắt đưa đi Phiên An, luôn mồm chửi giặc rồi chết. Hữu Quýnh sau điều đi Phú Yên. Xong việc, cũng bị cách vì để thất thủ, rồi được khai phục đến Thị lang bộ Lại. Quýnh là người Thạch Lỗi, Cẩm Giang). Tuần phủ Định Tường Tô Trân (Tiến sĩ Hoa Kiều) Án sát Ngô Bá Tuấn (Bá Tuấn khôi phục Định Tường thăng Bố chánh, rồi can án bị cách. Cho Tô Trân vì thất thủ bị cách, mới được khai phục), Tuần phủ Hà Tiên Phạm Xuân Bích (người Thanh Hóa, giặc chưa đến Hà Tiên, đã bị tù đảng hồi lương giết), Tổng đốc An Hà Lê Đại Cương (bị cách làm lính, rồi được khai phục), Bố chánh Nguyễn Bình (người Nội Duệ Tiên Du, bị giặc bắt, sau thoát tòng quan, bị cách hiệu) cho đến Đốc phiên Vĩnh Long đều không thể giữ trọn. Riêng ta một mình lao đao, từ quyến thuộc cho đến bạn bè tri giao đều tưởng phải chết, may mà được sống sót lại không có tội lỗi, sau khi sự việc được yên bình, ấn triện quan phòng Lục tỉnh tuy có may còn. Triều đình cho là đều hoàn bích, nhất loạt cải tạo. Duy có ấn triện Án sát Vĩnh Long vẫn như cũ; đến nay hồi tưởng lại hành chỉ của đời ta, há phải sức người có thể làm được ư. Hoàn toàn là nhờ quốc phúc gia khương đó thôi.

Phiên âm : TẶC CHÍ THỊ LẠI DÂN

Khu khu đồn sách diệc đồ vi,

Tướng ý quân tình dĩ khả tri.

Tặc khứ túng nhiên khai nhãn mục,

Sinh lai năng bất quý tu ti [tư

Độc thư nghĩa tại sự quân nhật,

Báo quốc thân quan lý hiểm kỳ. 

Thử địa tố xưng trung nghiã giả.

Khả lien tương đối lệ không thùy.

Dịch nghĩa: Giặc đến, nói với lại dịch và dân chúng

Khư khư giữ đồn trại cũng không ích gì,

Ý tướng long quân đã có thể biết rồi.

Giặc đi khỏi, dẫu có mở mắt ra,

Sống về há có thể không thẹn với râu ria

Đọc sách nghĩa ở ngày thờ vua,

Đền nợ nước, thân này quan hệ với thời gian vượt hiểm.

Đất này từ trước xưng là người trung nghĩa,

Thương thay nhìn nhau nước mắt rơi (chảy xuống) chẳng ích gì.

Phiên âm: TY TẶC

Bình sinh phụ chí khí,             Khảng khái hoàn tự liên.

Trù trướng anh hung sự,                   Tu tâm thiếu tráng niên.

Vị năng hiên nghịch tặc,          Nhẫn sử nhục sơn xuyên.

Dạ thân tố minh nguyệt,                   Nguyện nhất tá long tuyền.

Dịch nghĩa: TRÁNH GIẶC

Bình sinh vốn có chí khí,         Khảng khái lại tự thương mình.

Bi đát cho việc anh hùng,        Hổ thẹn tuổi trẻ trai tráng.

Chưa thể bêu đầu nghịch tặc,           Nỡ để nhục cho núi sông.

Đêm khuya nói với trăng sáng,                   Nguyện mượn một nhát gươm.

Phiên âm: HỒI TỈNH

Long Giang giang thượng chấn thu phong,

Bề cổ châu thuyền nguyệt chiếu trung.

Bán dạ không lâm tè nghĩa dũng,

Nhất tôn lãnh tửu sái anh hùng.

Hãnh sinh dĩ tự cam tiền tội,

Bất tử hà đương bạch thốn trung.

Truyền lệnh quân dân tề tiến phát,

Lập tương tặc thủ hiến hành cung.

Dịch nghĩa: VỀ TỈNH

Trên sông Long Giang nổi gió thu,

Thuyền bè trống lớn trống nhỏ dưới ánh trăng.

Nửa đêm rừng vắng, quân nghĩa dũng tề tựu,

Một chén rượu nhạt tưới chí anh hùng.

Sống sót tự mình đã cam với tội trước,

Không chết thì lấy gì bày tỏ tấc dạ trung thành.

Truyền lệnh cho quân dân nhất tề tiến phát,

Man đem đầu giặc dâng lên hành cung (của nhà vua).

Hà Nội các Tốn Trai kiến ức (Hà Tông Quyền)

(Nhớ ông Tốn Trai Nội các họ Hà)

Năm này Thị lang ở Nội các, năm Minh Mệnh 20 hiện chức Tham tri bộ Binh mất, được tặng Thượng thư bộ Lại. Còn có hiệu là Phương Trạch, người Cát Động Thanh Oai, Cử nhân khoa Tân Tỵ (1821), Hội nguyên Tiến sĩ khoa Nhâm Ngọ (1822).

Phong vân vô địch trùng sơn ngoại,

Hồ thỉ tương kỳ thập tải sơ.

Tam nguyện yên hoa tòng viễn biệt,

Cô thành phong hỏa dục hà như.

Tử sinh bất sổ hoàng kim đái,

Tồn một không kinh quỳnh lạp thư.

Vị tín cố nhân hoàn tự tín,

Bồi hồi phủ kiếm độc Nhưỡng Thư.

Dịch nghĩa:

Gió mây vô địch ở ngoài chốn núi non trập trùng,

Trung bồng hẹn nhau từ mười năm trước.

Ba tháng khói hoa cách xa nhau,

Tòa thành lẻ, lửa khói ra sao đây.

Sống chết không kể gì đai vàng,

Mất còn luống hãi thư bọc sáp.

Bởi tin người xưa lại tự tin mình,

Tần ngần võ kiếm đọc Nhưỡng Thư(*).

(*) Nhưỡng Thư, tức Tư Mã Nhưỡng Thư, người nước Tề thời Xuân Thu, họ Điền, làm chức Đại tư mã nên gọi là Tư mã Nhưỡng Thư, thời Tề Cảnh Công, ông đánh lui được quân Yên quân Tấn, phong làm đại tư mã. Tề Uy Vương bắt chước cách dùng binh của ông, lại bàn về binh pháp cổ, xen cách dùng binh của Nhưỡng Thư vào đó, gọi là Nhưỡng Thư binh pháp. Đây dung để chỉ binh thư nói chung.

Thư kiếm vô đoan độc ỷ lâu,

Hoài nhân bất kiến sử nhân sầu.

Sổ thanh sương tín kính hồng nhạn,

Ngũ dạ hàn quang nhận Đẩu Ngưu.

Minh nguyệt sơ thăng đương cổ tái,

Bạch vân nhất vãng đái Thương Châu.

Điều điều viễn đạo tri hà tự,

Do tín hoàng hoa nại tố thu.

Dịch nghĩa:

Sách và kiếm vô cớ một mình tựa lầu,

Nhớ ai không thấy khiến ta sầu.

Mấy tiếng tin sương kinh động chim hồng chim nhạn,

Năm canh ánh sáng lạnh nhận ra sao Đẩu sao Ngưu.

Trăng sáng vừa lên chiếu trên biên ải xưa,

Mây trắng một đi đến Thương Châu.

Đường xa thăm thẳm biết giống cái gì,

Còn tin hoa vàng bền bỉ chịu được mùa thu.

Lại ngày qua tình cờ nói đến việc Vĩnh Long, thấy rất vô vị. Nhận được bài thơ gửi đến, gượng làm để phúc đáp nguyên đề cho Ngô Dương Đình(1):

Phong yên vạn lý trở giang thành,

Ba ảnh hàm thu độc nhạn thanh.

Vân thụ khởi năng vong cố cựu,

Tang bồng thùy vị tín bình sinh.

Giang sơn hữu ước hoàn nan liệu,

Nguyệt đán vô nhân chỉ tự bình.

Khẳng hướng trà mi hoa hạ túy,

Cao ca nhất khuyết khuyến quân thinh.

(1)             Ngô Dương Đình tức Ngô Thế Vinh (1803-1856) người Nam Trực Nam Định.

Dịch nghĩa:

Muôn dặm gió mây cách trở giang thành,

Bóng sóng ngậm thu tiếng nhạn lẻ loi.

Vân thụ đâu có thể quên tình bạn cũ,

Tang bồng ai tin cho cuộc đời mình.

Non sông có ước hẹn còn khó bề liệu tính,

Sớm hôm không có ai chỉ tự mình bình phẩm.

Đánh chịu uống say trước hoa trà mi,

Hát vang một khúc mời anh nghe vậy.

Được tin Doãn Xương Phái về lại tỉnh, mừng mà làm thơ Hạnh tai thiên diệc hoàn quân tử! (May thay, Trời cũng trọn ven với quân tử). (Vĩnh Long dâng sớ lên, tiến lãm, vâng thánh dụ, há chẳng phải việc làm của người quân tử, cho nên trong thơ nhân đề cập đến. Nguyễn chú)

Thích hỉ, ngô do tín cố nhân

Lực tận không dư song lệ nhãn,

Thành tồn những hữu bách niên thân.

Giang sơn mạc mạc hồn y cựu,

Nguyệt lộ man man kỷ nhận chân

Trân trọng hoàng hoa tiền nhật vịnh,

Túy ngâm bất giác khởi tinh thần.

Dịch nghĩa:

May thay Trời cũng trọn tình với người quân tử

Xa rồi, ta còn tin ở cố nhân.

Sức kiệt, còn thừa đôi mắt lệ,

Thành còn, vẫn có tấm thân trăm năm.

Sông núi bao la y nguyên như cũ

Trăng sương man mác mấy phen nhìn rõ

Trân trọng hoa vàng bài thơ ngày trước

Say ngâm bất giác phấn chấn tinh thần.

Nhớ Ngô Dương Đình, Lang trung bộ Lễ (người Bái Dương, Nam Chân, cử nhân năm Mậu Tý Tiến sĩ năm Kỷ Sửu).

Tổng ngã cố nhân tam nguyệt thì,

Nhất tôn thanh tửu Trúc đào chi.

Trung châu sạ cách mê sơn hải,

Cận chử đa tình ức chỉ ly.

Cầm hạc hữu hành nguyên cộng úy,

Phong ba vô cố hựu thùy tri.

Niệm quân diệc hữu Hà Phương Trạch,

Mỗi đối đình vân vị xúc mi.

 

Văn đạo Long Giang cấp liệt đồn

Thương hoàng báo quốc thệ càn khôn.

Huy qua tri tử vô dư lực,

Phủ kiếm hình nhân dục đoạn hồn.

Hà sự vũ thư trì báo tiệp,

Vô cùng trần sự hảo vong ngôn.

Bồi hồi bất mỵ cô đăng hạ,

Ám số tiêu chung lạc Ngọ môn.

Dịch nghĩa:

Tiễn cố nhân ta hồi tháng ba,

Một chén rượu trong Trúc đào chi (cành trúc đào)

Trung châu chợt cách, mê núi biển,

Đảo gần đa tình, nhớ hàng rào bạch chỉ

Cầm hạc có chuyến đi nguyên cùng an ủi

Sóng gió vô cớ ai mà biết được

Nhớ anh cũng có Hà Phương Trạch (ao thơm nào)

Mỗi lần đối diện với mây dừng vì chau mày

Nghe nói Long Giang gấp đóng đồn,

Vội vã thế với Trời đất đi báo đền ơn nước.

Biết rằng ông chẳng còn sức để vung dáo,

Vỗ kiếm khiên người ta xuýt mất hồn.

Cớ sao thư lông vũ chấy báo tiệp,

Việc đời vô cùng tận, thật không nói được.

Việc đời vô cùng tận, thật không nói được,

Bồi hồi không ngủ dưới ngọn đèn đơn chiếc.

Thầm đếm tiếng chuông đêm buông xuống trên Ngọ môn.

 

Nhất khứ phong lưu kinh biệt vũ,

Kỷ hồi tâm sự trở đình vân.

Đê hồi đối tửu chi tương vấn,

Đa thiểu đồng minh vật khả cần

Vương Xán thi nại hà

Thi kiếm vô tài kham tiến ngã

Tang bồng thử chí độc nghi quân

(có nguồn nói: đã cùng người khác đi Nam Tống rồi, không phải vì người ta nói nghi quân, nghi quân tất không bằng Nhân ngôn )

Nguyệt minh kim dạ như tạc

Thùy vãn thiên hà tẩy mộ phân

 

Như quân chi hướng cố nhân cầu,

Đáo để tương vi kịch viễn sầu.

Mộ lĩnh đa hàn vân mạc mạc,

Giang hà sinh lãng dạ du du.

Sương chung bất đáo sầu biên nguyệt

Hạp kiếm không ngâm tái thượng thu.

Do tín hoàng hoa năng ngạo tuyết

Hóa công ưng vị chúng phương lưu

(Một chuyến di phong lưu sợ cơn mưa ly biệt,

Mấy hồi tâm sự ngăn trở vì mây trên đình

Bùi ngùi trước rượu chỉ hỏi nhau

Bao nhiêu đồng minh không thể giúp.

THƠ VƯƠNG XÁN

Nực cười cho ta chẳng có tài thư kiếm,

Chỉ ngờ ông không có chí tang bồng

Trăng sáng đêm nay vẫn như hôm qua

Ai kéo được thiên hà mà rửa bầu không khí chiều tối.

 

Như ông chỉ van xin cổ nhân

Rốt cuộc trái ý càng thêm mối sâu xa.

Núi buổi chiều tối, nhiều mây lạnh man mạc

Sông đỏ nổi song đêm rầu rầu,

Chuông sương chẳng đến trăng bên sầu.

Gươm trong hộp ngân suông mùa thu trên biên ải.

Còn tin hoa vàng có thể ngọc tuyết,

Hóa công hắn để lại cho các loài hoa thơm.

Tháng 8, Bố chánh sứ Đoàn Khiêm Quang đến tỉnh, vâng có thánh dụ, hội đồng quyền chưởng Tổng đốc Long Tường quan phòng biên sự.

Tháng 10, giặc Xiêm (Chất Tri) nhân vì tên nghịch Ngỗi cầu viện, chia đường đánh biên giới, hai tỉnh An Hà thất thủ, phiên vương Nặc Ông Chân bỏ thành Nam Vang, chạy về Vĩnh Long, tuân chỉ phòng hộ vua nước này.

Tháng 12, quân Xiêm thua ở Thuận Cảng chạy về. Việc xong, đưa phiên vương về nước.

(Ngày này giặc Xiêm dốc cả nước vào xâm lấn đường bộ chia 5 ngả, đường thủy do Hà Tiên tuần phủ Trịnh Đường, Án sát Đặng Văn Nguyên bỏ tỉnh thành trước, lui về Vĩnh Long. Giặc bèn từ Hà Tiên thông sông Vĩnh Tế vào Châu Đốc An Giang cũng thất thủ. Giặc tiến đến Thuận Cảng. Có lệnh Trương Minh Giảng-Phiên An quân thứ, Tham tán đại thần-làm Tổng đốc An-Hà, Nguyễn Xuân-quân thứ Tham tán-làm Tổng đốc Long-Tường đánh cho người Xiêm đại bại ở Thuận Cảng. Chất Tri nhân đêm tối trốn chạy, quan quân dánh bại ở phía Biển tây, rồi đưa phiên vương về nước, nhân ở Nam Vang đặt thành Trấn Tây, dùng Trương Minh Giảng làm Trấn Tây tướng quân. Trấn Tây bắt đầu có từ năm 15 vậy.

Năm thứ 15, Giáp Ngọ, tháng tư, vâng chỉ tuyên triệu về Kinh chờ lệnh, tháng 7 đến Kinh, bổ thụ Lang trung bộ Hình, biện lý bộ Hộ, thời gian này vì quân nghịch Tuyên Quang tên Vân gây sự xâm nhiễu các nơi Cao-Tuyên-Thái-Lạng, tiết thứ vây bắt chưa xong, ngày 1 tháng tám tiếp được tỉnh Thái Nguyên tâu báo, đảng giặc Nông Hồng Nhân, Nông Hồng Thạc vây đánh đồn lũy, ngày mồng 3 vâng mệnh chỉ cải bổ Thái Nguyên Án sát sứ (trong thời gian triệu bái, nhà vua nói: Doãn có xử phiền trị kịch, nay Thái Nguyên có việc, liệu y có thể dẹp giặc, ra lệnh thượng khẩn nhậm chức).

Tên nghịch Vân tức Nông Văn Vân nguyên thổ ty trấn Tuyên Quang, tri châu châu Bảo Lạc, vào năm thứ 14, Bố chánh tỉnh này Phạm Phổ chỉ trích ra việc Văn Vân trái phép, chỉ tham xin cách tra, phái thêm tri châu châu Định Man là Nguyễn Quảng Khải nhiếp biện Tri châu Bảo Lạc, Vân bèn cùng bọn Quảng Khải xúi giục thổ dân phản loạn, quan quân Phạm Phổ đến bị giặc giết, Chúng bèn tụ tập đảng lõa lan ra các tỉnh. Lạng Sơn Cao Bằng đều thất thủ. Tuần phủ Lạng Sơn là Hoàng Văn Quyền bị giặc bắt giết, Bố chánh Cao Bằng là Bùi Tăng Huy, Án sát Phạm Đình Trạc (người Liêu Xuyên, Đường Hào) và lãnh binh tự tử. (Ngày Phạm Đình Trạc chết, có đủ áo mão, vọng bái xong, làm thơ gửi bố mẹ và từ biệt vợ con, sửa soạn quan tài tự tang). Nay ở tỉnh có Tam trung từ tức đền thờ ba người này. (Án sát Thái Nguyên là Nguyễn Mưu bị giặc giết cũng vào năm này).

Tiết thứ quan quân vây bắt, bọn giặc chưa bị bắt chém., phụng minh dụ đợi đến mùa thu chia đường đại cử. Đến ngày rằm tháng tám đến tỉnh. (Phụng mệnh đi gấp, không được qua nhà, đến tỉnh liền sai người về nhà và báo cho em trai biết. Tiên mẫu cung nhân thêm vui mừng). Trọng thu xin an chiếp, giáp cạnh tự đông bắc chư hạt, giặc cướp còn nhiều, xin phái xuất đại đội quan binh đàn áp mặt đất Bắc Thái, để tiện tiến đánh chờ Vân Trung dẹp yên, sau đó quét sạch, được châu phê: Lời tâu rất phải, trẫm cũng đã dự trù cho việc đó, ngươi hãy gắng trò chức sự để đáp lại tri ngộ, không hổ thẹn làm người. Khâm thử. Rồi phụng có chỉ: Chờ kỳ đại binh tiến tiễu, cho Doãn thân hành đi trước, chiêu phủ người dân, rồi chuyên biện đốc vận lương hướng để đủ quân nhu. Tháng chin, khâm phụng minh dụ ba đạo Cao-Tuyên-Thái đồng binh đại viên, khắc nhật tiến binh. (Tổng thống Tuyên Quang là Lê Văn Điển, Tổng đốc Lê Văn Đức, Tổng đốc đạo Cao Bằng là Tạ Quang Cự, Tham tán Nguyễn Tiến Lâm, Tổng thống đạo Thái Nguyên là Nguyễn Đình Phổ, Tham tán Nguyễn Công Trứ). Ngày 15 tháng này, từ tỉnh đốc tướng biền binh tiến đến đồn Bắc Kạn, lo liệu công việc quân lương. (Từ tỉnh đến đồn Bắc Kạn đi đường mất sáu bảy ngày, trước đó phải vận trữ bị phát. Tính ra một hộc gạo tiền thuê gánh đến hơn mười quan; gửi sớ xin đến đâu mua đấy cho tiện). Sớ dâng lên, được châu phê: Đại binh tiến tiễu, quân nhu tề bị, quả thật đáng khen, ngươi đã cố gắng, càng nên cố gắng hơn nữa, làm tròn chức sự, ngày thành công ắt có trọng thưởng.

Ngày mồng 3 tháng mười tiến đến đồn Chợ Rã (từ Bắc Kạn đến đây 3 ngày), vâng đem tình hình chiêu phủ đốc vận tâu lên, phụng châu phê, biện lý thỏa đáng tốt đẹp, càng nên cố gắng. Lại vâng thượng dụ: Ngươi Doãn lần này biện lý thỏa đáng chu đáo, cũng là đáng khen, hãy truyền chỉ trước khen thưởng, đã cố gắng lại càng cố gắng, mọi việc đều hết sức chu đáo, để xứng với sự ủy thác, chờ đến khi đại công hoàn thành, ắt sẽ có thưởng. Ngày 12 tháng  mười một, vào đồn Hồng La (Các  đạo đã hội ở Vân Trung) vâng đem tình hình bố trí biên vụ đệ trình. được châu phê: Sự cơ thuận lợi, ngươi bố trí cũng là thỏa đáng thích hợp.

Năm thứ 16 Ất Mùi lại chuyển về quân thứ Chợ Rã. (Tháng hai năm này, sinh Thị Vĩnh, ngày Canh Dần, giờ Đinh Sửu). Trọng xuân, thỉnh an chiếp, giáp tự Cao-Tuyên-Thái-Lạng chư hạt thổ dân, phần nhiều bị ép theo, xin phàm là các thổ dân bị ép theo, bắt câu kỷ mùi ra thú đều cho khoan miễn, vẫn thôi dừng tra nã, rồi giáp tự ngẫu nhân cảm nhiễm và hai mắt đau đỏ, không thể tự tay bái thư, xin ủy cho thân nhân là Doãn Bính viết thay, phụng châu phê: ngươi nói rất phải, ngoài ra có chỉ, lại phụng châu phê: Trẫm biết ngươi cảm phấn rồi, không biết gần đây đã thuyên giảm chưa, nhân tiện tâu lên để yên lòng trẫm. Lại vâng minh dụ: Hãy truyền cho loa đạo thống binh đại viên và các Đốc phủ Bố Án của Cao-Tuyên-Thái-Lạng. Phàm đã đặt bừa chức danh, các đồn đầu mục nhỏ và chư thổ dân, trước đây đã bị giặc ép theo, nay đã thay mặt thay long, bắt câu đã thú hay chưa thú, đều được xá hạn, miễn khỏi tra nã, để yên bề làm ăn. Khâm thử. Sau đó khỏi đau, nhân tiện tâu lên, phụng châu phê: Ngươi đã khỏi hẳn, tốt lắm. Tháng tư, xong việc, các đạo đại binh khải hoàn, ta cũng về tỉnh cung chức. Tháng năm, vâng đón thân mẫu đến tỉnh, sớm hôm hầu hạ.

(Trước đây các đạo quan binh tầm nã nhiều lối rẽ, tên nghịch Vân đã chạy sang đất nhà Thanh. Tháng ba lại từ cửa ải lẻn về châu Bảo Lạc, quan binh tầm nã đốt lửa, Vân bị thiêu, bêu xác. Mẹ và vợ con y đều phục pháp, dư đảng cũng đều chạy trốn. Công lớn đã thành, quan binh khải hoàn, thế là sau ba năm đã bình định được).

Tháng mười cưới vợ lẽ họ Nguyễn (người Dịch Sử, Đường Hào, cũng là vâng mệnh mẹ).

Thái Nguyên ngày nay có đặt quan phủ của phủ Thông Hóa và đặt thêm phủ Tòng Hóa, đều do tỉnh tâu xin đặt định. (Xin đổi đặt lưu quan các phủ huyện cũng bắt đầu từ năm này.)

Năm thứ 17, Bính Thân, tháng giêng, kính vâng thánh dụ, truyền triệu vào kinh, tháng ba thăng thự Hữu thị lang bộ Lại, rồi thực thụ. Tháng tám điều bổ Hữu thị lang bộ Hình (Tháng này thừa tiên cung nhân vào kinh, nhân xin ở lại, để tiện hầu hạ, phụng ân dụ, thưởng quế Thanh ba mảnh, lộc nhung một cặp. Sáu tấm the lụa các màu). Tháng mười hai vì thổ phỉ Thanh Hóa gây sự, vâng phái sung kinh lược phó sứ. Thổ tù Ninh Bình Sơn Âm là bọn Quách Tất Công, Quách Tất Tại, viện dẫn Lê Tuấn, Lê Duy Hiển gây sự ở địa phương Ninh Bình. Thổ tù Thanh Hóa là bọn Lương Hiển hơn mười tên cùng kết đảng cướp bóc, nhiều lần vây đánh các đạo bổ biền lan đến các tỉnh lân cận. Đạo Ninh Bình vâng phái trung quân Tạ Quang Cự, Thượng thư bộ Công Hà Duy Phiêu sung kinh lược sứ. Đạo Thanh Hóa vâng phái Hiệp biện đại học sỹ lãnh Binh bộ Thượng thư Trương Đăng Quế sung kinh lược sứ, Hình bộ Thị lang Doãn, Bố chánh Bắc Ninh Nguyễn Đăng Giai sung kinh lược phó sứ, vâng dụ Tổng Đốc, Đề đốc trở xuống đều nghe theo sự điều độ của Kinh lược, Khâm ban mão tiết cờ bài đi điều độ quân cơ và kinh lý công việc đinh điền của các thổ huyện châu.  Năm thứ 18 Đinh Dậu, tháng giêng, từ châu Lương Chánh của tỉnh Thanh Hóa, hội đồng với Đề đốc Hà Nội là Tôn Thất Bật, tiễu phá đồn giặc, tặc đảng hơi lui, tiếp đó quản tướng Kỳ Võ tam vệ (kinh binh) đến phải đạo Thọ Xuân vây bắt, nhân tiện kinh lý, để công phá trại phỉ Thọ Thắng, được gia quân công kỷ lục hai lần (Thọ Thắng là tên động ở châu Thường Xuân, bốn bề núi cao dựng đứng, chỉ có một khe có thể thông,  đảng phỉ dựng hàng rào cố thủ ở cửa khe, từ điểm cao bắn ra, quân nhân nhiều người bị thương. Ta ngầm sai vận pháo lớn lên trên núi bắn xuống phá được chúng). Sau đó kinh lý thanh thỏa, được gia một cấp quân công.

Kinh lược sứ Trương Đăng Quế lưu lại châu Lang Chánh, Phó sứ Nguyễn Đăng Giai, Đề đốc Tôn Thất Bật đến đạo Quan Hóa, ta đến đạo Thọ Xuân, suốt dọc đường từ phủ lỵ trở lên đến tiếp giáp đất Ai Lao, đều là đá núi lởm chởm, cây rừng rậm rạp, quân đi trong rừng bốn năm ngày không thấy mặt trời, không phân biệt đông tây. Nước khe rất lạnh và độc. Quân bản đạo nhân truy nã Lương Hiển, đi đến đất Lào Sầm Tư, lại tiếp đất Quỳ Châu Nghệ An, từ tháng giêng đến cuối tháng ba, trèo đèo lội suối không biết bao nhiêu. Kế đó bắt được Lương Hiển và tên Nguyễn Bảng là kẻ ngụy xưng Binh bộ thượng thư, còn lại tất cả bọn tiểu đầu mục đều nghe đầu thú, dư đảng dẹp yên hết. Đạo Ninh Bình cũng bắt được bọn Lê Duy Hiển, Quách Tất Công, Quách Tất Tại, Cả vùng Sơn Âm được bình định.

 Châu Thường Xuân của Thanh Hóa, lần kinh lý này tâu xin đặt thêm. Tháng tư việc xong, trước hãy về bộ Hình cung chức, tháng sáu vâng phái sung Chủ khảo trường Gia Định, ngày 27 tháng mười một được cung ngộ Thánh mẫu Nhân tuyên Từ Khánh hoàng thái hậu mừng Thất tuần đại khánh, phụng ân chiếu: quan viên phụ mẫu tam phẩm trở lên phong tặng hữu sai, tiên khảo tiên tổ ta đều được phong tặng. (Tháng tám năm thứ 19, Bộ phụng cấp cáo mệnh, tiên khảo ta được tặng Hàn lâm viện Thị độc học sĩ, chánh tứ phẩm; tiên tỉ ta được phong Cung nhân, tứ phẩm). Tháng mười hai Tiên cung nhân ta từ kinh về quê (sai con là Chính về hầu).

Năm thứ 19, Mậu Tuất, tháng tư, vâng phái quyền hoạch Tuần phủ quan phòng Hưng Yên (Nam Định Tổng đốc Trịnh Quang Hường mật tâu có Đạo trưởng đạo Da tô tên là Viên ngấm ngầm đi lại thư từ với Đạo trưởng Tây dương ngụ tại Nam Định, qua vây bắt không được, lời lẽ trong tờ tâu tô vẽ thêm, triều đình cho là có việc gấp khác. Bèn giáng Trịnh Quang Hương làm tuần phủ. Hưng Yên Tuần phủ Hà Thúc cũng vì tên Viên tại hạt mà không xét bắt ngay, bị giáng đều tại ngoại tập bổ; Hiệp biện đại học sĩ Lê Văn Đức được quyền Định An Tổng đốc, ta được quyền Hưng Yên tuần phủ). Rồi vì đốc hộ đê điều củng cố, được thưởng Bát bảo kim tiền hai đồng. Tháng bảy, bắt được Đạo trưởng tên Viên, Hà Thúc Lương phục chức. Ta lại về Bộ cung chức. (Nam Định cũng bắt được hai viên Đạo trưởng Tây dương, Trịnh Quang Hương phục chức, Lê Văn Đức rồi cũng về bộ, lĩnh chức Công bộ thượng thư).

Khảo năm nay em họ ta là Doãn Khuê thi đỗ Tiến sĩ, ta được quyền nhận mệnh Hưng Yên, Khuê cũng tiếp đó được ân tứ vinh quy, người thân quen đều lấy làm vinh, có câu: Anh trước khổn tiết, em sau vinh hương. Nhưng lòng ta thực không dám lấy làm đắc ý. Bởi nghĩ rằng tuy nhờ tiên nhân tích đức mà được nhưng an hem nhà mình học hành thiển bạc, rất sợ không xứng đáng, lòng riêng thường tự úy tự tỉnh, Thế rồi tiên bá phụ ta là cụ Hằng Trai qua đời, em ta là Tư Mỹ tiếp đó cũng mất, cái lý thịnh suy bao giờ cũng thế. Kinh dịch nói rằng: Cụ dĩ chung thủy Lời Thánh chí lý thay. Tháng mười một điều bổ Hộ bộ tả thị lang, ngày mồng 3 tháng mười hai sinh con trai thứ hai là Trực (sinh ở Ngoại Lãng, ngày Canh Ngọ, giờ Kỷ Dậu.)

Năm thứ 20, Kỷ Hợi, tháng hai, phụng sung Thừa Thiên tuyển trường Khâm sai, được thưởng một cấp, Tháng năm thăng Thự Hộ bộ hữu tham tri, tháng sáu phụng phái Bình Định quân điền Phó khâm sai.

Trước đây, Tổng đốc Bình Phú Vũ Xuân Cẩn từng mật tấu ruộng tỉnh Bình Định phần nhiều bị hào phú chiếm, tiểu dân nghèo khổ đến nỗi binh đình phần nhiều bỏ phế, xin đo để cho dân, thừa thì sung làm công điền để chia đều mối lợi. Nhà vua coi việc đó là khó, tính toán rất lâu, đến nay Vũ Xuân Cẩn hiện chức Hiệp biện đại học sĩ lĩnh Hình bộ Thượng thư. Nhà vua lệnh cho bộ Hộ nghị thỉnh việc đó, khâm giao cho đình thần bàn giao lại, đình nghị đều cho là có thể làm được, bèn sai Vũ Xuân Cẩn làm Khâm sai, ta làm Phó khâm sai. Đến nơi, chiếu theo như điều khoản đình nghị tuân hành, đại để chiếu theo điền bạ, tư điền mỗi xã mấy ngàn, chiết lấy một nửa sung làm công điền, quân cấp cho binh dân, một nửa giữ làm tư điền, giả như xã ấy nguyên ruộng bốn trăm mẫu, trên dưới thành ra bốn khu, thì chiết lấy hai khu làm công, hai khu vẫn giữ làm tư, hoặc nguyên thành ba khu thì chiết lấy một khu rưỡi sung công, phải chia ruộng tốt xấu bằng nhau, cho công tư mỗi bên một nửa, mà mẫu sào không đến nỗi linh tinh. Như điền chủ nguyên có một mẫu, đã sung ở khu công điền thì nghe ở khu tư điền, chọn lấy 5 sào làm tư, Ngoài ra phỏng theo như vậy, do các lý dịch ai nấy chiếu theo số mẫu sào đáng được, chia nhau, kẻ thuận tình thì áp ký chỉ, cho làm sổ mới, Lúc đầu thì cũng cho là không làm được. Đến khi phân xử nói rõ ra thì dân cả tỉnh đều yên ắng không có lời nói khác. Hơn nữa ở đây ruộng đất đắt, một mẫu có khi đến hơn một ngàn quan, mà cũng không dám nói ra lời, chỉ hơn hai tháng là việc thành. Thật là nhờ uy lệnh triều đình, mà dân dễ sai khiến vậy.

Tháng mười về kinh phụng mệnh, được thưởng gia hai cấp. Lại được thưởng một thẻ bài bạch ngọc đeo dây san hô, một nhẫn kim cương ba hạt liên châu, một đồng tiền vàng như ý.

 Tháng mười một, vâng thượng dụ, trước theo nguyên Tổng đốc Bình Phú Vũ Xuân Cẩn tâu lên, Bình Định đều bị cường hào kiêm tính, xin chiếu theo số lượng nhiều ít lưu cho chủ, dư tất sung làm ruộng đất công, chia cho binh dân để làm kế sinh nhai, Trẫm thấy việc khá căng, nên chưa đồng ý, kế đó bộ Hộ tâu rằng điền bạ các địa phương, duy có hạt Bình Định, số ruộng tư gấp mười lần số ruộng công, viên đốc này tâu xin bớt chỗ thừa bù chỗ thiếu, cũng là nhằm chia đều món lợi cho dân. Đề nghị nên cân nhắc thi hành, sau khi giao cho đại thần lục bộ hết lòng bàn bạc và đều đồng ý tâu lên, Trẫm mới quyết đoán không còn nghi ngờ bèn sai Hiệp biện đại học sĩ Vũ Xuân Cẩn, Thự Hộ bộ Hữu tham tri Doãn dẫn đồng khoa bộ ty đến tỉnh này, xét nghiệm tình hình, lượng hành phân cấp chẳng mấy tháng sau, thấy có kết quả, binh dân hưởng lợi, thỏa thiếp nhân tình. Nay sổ sách đã thành, công tư rõ ràng. Đoàn khâm sai này ngày nay phụng mệnh bệ kiến, Trẫm thực vui lòng khen thưởng. Với Vũ Xuân Cẩn thì ban thưởng một chiếc Ngũ tử liên châu kim cương ngọc bang chỉ (nhẫn ngọc kim cương năm hạt liên châu), thẻ đeo bạch ngọc, kim tiền như ý, nhẫn vàng mỗi thứ một chiếc, lại thưởng gia mỗi người hai cấp, còn các nhân viên khoa đạo bộ ty đi theo làm việc đều có thưởng khác nhau. Khâm thử.

Tháng 11, vâng dụ kiêm quản Hòa thanh thự (thự có 3 đội, mỗi đội đều có suất đội,có binh chiêu mộ, có nhạc công theo ca vũ dật). Năm thứ 21 Canh Tý, tháng tư, ngày 23, cung kính gặp Thánh tổ Nhân hoàng đế Ngũ tuần đại khánh tiết, được thưởng cấp kỷ kim ngân tiền, rồi vì biệt nghị vụ Tuần phủ Quảng Nam Vương Hữu Quang phát ngôn xằng bậy, bị giáng một cấp (không cho tra để). Tuần phủ Vương Hữu Quang (là người Minh Hương Gia Định) về kinh chúc phúc, vâng chỉ cầu tạnh không ưng, Nhân xem Duyệt thị đường nhạc công ca vũ Quần tiên hiến thọ, trong đó có khoản thần tụng sư, bèn mật tấu là có dính đến báng nhạo thần minh, xin đốt truyện ấy. Cẩn tấu. Gặp lúc thánh thể hơi dễ chịu, vâng thượng nộ cho là phát ngôn trái đạo. Đình thần liền phụ họa vào, vâng dụ trao Vương Hữu Quang cho hội đồng đình thần các đốc, phủ, bố, án (Tổng đốc, tuần phủ, bố chánh án sát) về kinh chúc phúc đem ra nghị xử. Đình thần có người bàn trảm hậu, có người bàn lưu đày, riêng ta cùng với Đô sát viện Phó đô ngự sử Nguyễn Công Trứ, Hộ bộ thị lang Phan Thanh Giản, Hình bộ thị lang Bùi Ngọc Quỹ bốn người bàn khác, xin giáng hai cấp lưu. Bàn xong, phụng dụ lệnh cho bốn người ai nấy làm hồi tấu minh bạch tâu lên, vâng châu phệ, phụng chức đợi chỉ. Trẫm e các ngươi vi nhân sở tham, thụ đẳng náo pháp cho nên bảo rõ ra để cảnh tỉnh. Tối hôm đó, tuyên triệu vào Văn Minh điện, vâng thượng dụ trực tiếp rằng: Vụ án Vương Hữu Quang, đình nghị thiêm đồng, bốn người các khanh lại độc biệt nghị, Trẫm e có kẻ chen vào, kéo bè cản trở pháp luật, Hơn nữa nếu trong bề tôi bè cánh thì chẳng phải có phúc cho quốc gia, há chẳng thấy bè đảng Hán triều là mối họa đó sao, Cho nên Trẫm không thể không nghiêm phòng. Các ngươi hãy làm tôi thờ vua không có gì ẩn giấu, phàm có thấy biết điều gì, phải hết lòng hết sức can gián, dẫu có đắc tội cũng không hại làm người như Long Phùng, Tỷ Can, đừng vì có chút khiển trách mà tự đồi tỏa (nhụt chí), nếu giữ im lặng để yên thân thì chẳng phải đạo làm tôi vậy. Khâm thử! Sau đó Vương Hữu Quang được giáng bổ Tư vụ, bốn người biệt nghị mỗi người bị giáng một cấp, không cho tra xét đến cùng.

Tháng 6, phụng phái Trấn Tây Phó khâm sai đại thần, cùng khâm sai thượng thư Lê Văn Đức đi tới hợp cùng tướng quân tham tán kinh lý công việc thuế khóa của hạt này. Cuối tháng 7 mới đến Trấn Tây, Sau đó xảy ra vụ án Ngọc Biện. Đông Các đại học sĩ lĩnh Trấn Tây tướng quân Trương Minh Giảng, Tham tán đại thần Dương Văn Phong, Hiệp tán cơ vụ Cao Hữu Dực tâu xin chia đặt đất Trấn Tây làm 10 phủ 23 huyện. Phủ huyện nào cũng đặt lưu quan. Lại chọn lấy thổ binh, đặt cơ hiệu. Phụng dụ đặc mệnh Thượng thư Lê Văn Đức sung Khâm sại đại thần, Thự Hộ bộ Tham tri Doãn làm Phó khâm sai đại thần mang theo khoa đạo lục bộ ti viện đi tới nơi hội đồng Tướng quân Tham tán kinh lý việc thuế khóa. Vừa đến Trấn Tây, trước đó hạt này đã xảy ra vụ án Ngọc Biện. Ngọc Biện là con thứ hai của Cao Man quốc vương khi trước. Phiên vương Chân chết không có người nối dõi. Triều đình phong trưởng nữ của ông ta là Ngọc Vân làm quận chúa, thứ nữ Ngọc Biện, Ngọc Thu, Ngọc Nguyên làm huyện quân, các phiên liêu đều trao chức quan. Mọi việc chỉ do Tướng quân Tham tán thống nhiếp. Năm đó đại khánh tiết, các phiên Thùy Chùy Trà Long, Tham đích Nhâm tý CaoLa Hâm, La Kiên đến kinh đô chúc phúc, có việc bị giam cầm. Ba tên này nguyên gia đến Chưởng vệ hàm, sau giáng làm suất đội, phát vãng đi các tỉnh Bắc Kỳ. Lại có em trai của phiên vương Chân là Nặc Ông Yêm trước theo Tiêm ở Bắc Tầm Bôn. Năm đó Nặc Ông Yêm tự trị (tử) ở Bắc Tầm Bôn dẫn đồng đảng quay về, Tướng quân Tham tán mật tấu xin giết y ở trên biên giới, không được, bèn đem tiên Yêm giải về kinh giam cầm, các thổ mục thổ dân theo về thì chia đi các nơi. Có cậu, em mẹ của Ngọc Biện cũng ở trong số đó. Ngọc Biện thỉnh thoảng đem lang dược biếu cậu và hỏi thăm tin tức của mẹ cô. (Mẹ cô trước bị người Xiêm bắt, vẫn ở lại Xiêm.) Thông ngôn suất đội Dương Quang Thảo dò biết tình hình bèn tố Ngọc Biện thông với giặc mưu sự. Tướng quân Tham tán mật tấu nghiêm xét việc Ngọc Biện, lại xin dời Ngọc Vân, Ngọc Thu, Ngọc Nguyên đến Gia Định. Ngày mồng 5 tháng tám, thổ phỉ đồng mưu khởi biến, trước hết phá nha giết quan binh ở phủ Vũ Công, rồi lan dần ra, nơi nơi đều thành giặc. Khâm sai đến hạt tuần nhật, lúc đầu không biết nguyên ủy những việc Tướng quân Tham tán đã làm. Tháng tám, thổ phỉ lan ra khắp nơi, 10 phủ 23 huyện đều theo giặc, bọn man Mục chạy xin Xiêm viện. (Em trai Phiên vương Chân là Nặc Ông Đon trước đây theo Xiêm, ở tại Bat tam bong (Bắc Tầm Bôn) của Xiêm, năm trước cho người bí mật đến Trấn Tây tự xin về. Việc tiết lộ, bị Xiêm bắt giam đến nay vẫn ở lại Xiêm). Tướng Xiêm Phi nhã Chất tri, dẫn mấy vạn Xiêm quân gây sự ở các vùng Hải Tây, Hải Đông. Khâm phụng minh dụ, Lê Văn Đức quyền sung Trấn Tây tham tán đại thần, Doãn quyền sung Trấn Tây bang biện đại thần hội đồng Tướng quân Trương Minh Giảng, Hiệp tán Cao Hữu Dực trù biện công việc đánh dẹp. Sau đó Tướng quân Tham tán đi đến Hải Đông đánh dẹp. Ta vẫn lưu lại thành hạt, hiệp đồng với Cao Hữu Dực điều vận quân lương và đốc thúc binh dũng, chỉnh lý tàu thuyền. Tên nghịch thần Cố (nguyên là bọn thần (bề tôi làm phản) của Phiên vương, theo Xiêm đến nay mới về) lại tập hợp trên một vạn thổ dân đến quấy rối thành hạt, bị quan binh bắt giết phải tan lui. Tháng mười, Chất Tri gửi thư xin hòa lui về Bat tam bong, sau đó bội ước. Trấn Tây đề đốc Vũ Đức Trung giữ Hải Tây, cùng Tuyên phủ sứ Nguyễn Song Thanh, Lãnh binh Tôn Thất Quỳ cùng giữ. Chất Tri đến gần đồn, trước hạ hòa thư. Vũ Đức Trung, Nguyễn Song Thanh không tư báo lên, đã hòa với chúng, bỏ đồn lui binh. Tướng quân Tham tán đánh giải vây cho Hải Đông, dời quân viện tiễu, thì quan quân Hải Tây đã rút về trước. Sau đó Chất Tri lại đưa thư cho Tướng quân Tham tán xin hòa, lui về BatTamBong. Rồi chúng dò biết có việc quốc tang, lại bội phản lời thề, xui dụ thổ dân lan ra khắp nơi, đến tận Ba Xuyên, Lạc Hóa, Bảy Núi, Hà Tiên. Quân ta chia ra nhiều nơi đánh dẹp. Thời gian này Trấn Tây chỉ có một thành trống. Thiệu Trị nguyên niên, quan quân lui về An Giang. Chất Tri cùng Man tù Nặc Ông Đôn bèn chiếm đất Trấn Tây suốt 6 năm nay.

Ngày 28 tháng mười hai phụng Thánh tổ Nhân hoàng đế long ngự thượng tân, phan hiệu không ai bằng.

Thiệu Trị nguyên niên Tân Sửu, ngày 20 tháng giêng, phụ Hiến tổ Chương hoàng đế đăng tôn vị. Ngày mồng 3 tháng 3 Bộ tư đình thần công cử lên kinh dâng hương. Ngày 16 đến kinh đô, phụng tiến hương chiêm bái ở điện Hiếu tư (Điện ở cung Khánh Ninh), vâng đặt mấy mâm, sớm tối điện lễ. Lễ thành, phụng lạy mừng ở điện Văn Minh. Phụng dụ lưu kinh, cung chức Tham tri bộ Hộ như cũ. Ngày 12 tháng này sinh con trai thứ ba là Xuân (ngày Đinh Dậu, giờ Tân Sửu, sinh ở Hộ bộ hữu tham tri đường, ta về chưa đến bộ). Ngày 16 tháng bảy, vâng hầu đại lễ Ninh lăng. (Tôn lăng hiệu Hiếu lăng, lăng Nhân hoàng hậu gọi là Hiếu đông lăng). Tháng tám, phụng sung chủ khảo trường Nghệ An. Tháng mười là kỳ Tam niên đại kế (lệ các ấn quan nha môn ở kinh, các chưởng lĩnh đại viên võ chức các địa phương ở ngoài đến kỳ ai nấy soạn bản tự trình bày sự trạng trong 3 năm, rồi vẫn do hai bộ bộ Binh và bộ Lại tập hợp trình lên chờ xét thăng giáng. Còn lại các sở thuộc thì do thượng ty khảo hạch công tội 3 năm xếp ưu, bình, tha lập danh sách lên bộ). Khâm phụng châu dụ (dụ có phê son) Thự Tham tri Doãn, phân sự nhận chân thừa biện (mọi việc đều chịu khó chấp hành), mẫn cán chăm chỉ, cho được thực thụ.

Ngày 20 tháng mười hai, nhận được tin báo của hộ đốc Nam Định Hà Thúc Lượng báo rằng ở nhà mẹ già Thái cung nhân bệnh tình trầm trọng, ở tỉnh đã theo lệ phái thầy thuốc đến điều trị chưa có hiệu quả, vả lại ngày này đã gần ngày lễ Tiểu tường điện hiếu tư (ngày 28), Ngũ nội bận gấp, bèn dâng sớ xin chờ ngày 28 đại lễ bái thành, sẽ về nhà hầu hạ thuốc thang, đến khai xuân phụng ngự giá Bắc tuần sẽ nghênh hướng tiễn đỗ hỗ tong cung chức. Sớ dâng lên được châu phê, chuẩn y tấu.

Tối ngày 28, từ bộ bắt đầu về (suốt ngày gió bắc mưa to, đi bộ không được, bèn thuê thuyền từ Tam Giang đi đường thủy vòng biển).

Nhị niên Nhân Dần, ngày mồng 1 tháng giêng đến trạm Hồ Gia, lên đường bộ thuê phu bát trạm đi nhanh, mồng 8 đến tỉnh lị Thanh Hóa, mới nghe tin nhà rằng Tiên tỉ đã qua đời hôm 27 tháng chạp năm ngoái, chiêm vọng không kịp, ô hô đau lòng thay! suốt đời ôm hận, ô hô đau lòng thay! (năm này, con là Chính ở nhà hầu hạ, mẹ của Chính, và Trực,  Xuân đều ở Bộ, ngày 21 tháng chạp năm ngoái sai về, ta từ Bộ về chỉ kiếm được 3 lạng nhân sâm và tiền túi ba quan mà thôi, đi đường qua Hà Tĩnh, Án sát Vũ Đức Nhu đưa 10 lạng bạc, về đến Thanh Hóa nghe tin cáo phó, lòng dạ thê thảm, nghĩ đến nhà đã không biết làm thế nào, qua tỉnh Ninh Bình, gặp Tuần phủ Nguyễn Văn Thức, Án sát Trần Chương lại đưa 10 lạng bạc, than ôi đau lòng thay!Ở vào cảnh này rồi mới biết người xưa nói rằng: Nhất nhật dưỡng bất dĩ tam công hoán. – không đổi tam công lấy một ngày phụng dưỡng- là đúng vậy! Nhưng hối sao cho kịp!) Ngày mồng 10 đến nhà khóc vọng. Mẹ không còn nữa than ôi đau lòng thay! Trời cao vô cực! Năm này, có bang giao đại lễ, khai xuân, khâm phụ ngự giá khái loan Bắc tuần, công việc của bộ Hộ đang dồn dập, Thượng thư bộ là Hà Phiêu ở lại kinh, mọi việc của bộ đều do ta nắm, giữa tình riêng với nghĩa chung, cả hai đều quan trọng khẩn thiết, nhờ chư thân biết cho, lo xong việc lớn, ngày 26 tháng hai lễ an thổ (quàn hoặc hung tang) đã xong.

Ngày mồng 2 tháng ba đi Hà Nội, thân đến hành tại chiêm bái. Phụng thượng dụ thăm hỏi an ủi rồi sắc lệnh đến Bộ yên tâm làm việc. Ngoài ra phụng thượng dụ, chờ ngày hồi loan, vẫn hỗ tòng, đến tỉnh Ninh Bình được cho về, trong tháng cung tạo thần chủ của các tiên tổ để thờ. Trung tuần tháng năm lại về kinh cung chức.

Tháng bảy, phụng phái quyền hộ Thanh Hóa Tổng đốc quan phòng, rồi lại về bộ cung chức. (Tổng đốc Tôn Thất Lương () cáo bệnh xin nghỉ, ta đến tỉnh, thì bệnh viên này đã giảm, liền soạn lời tấu về bộ.)

Năm thứ ba, Quý Mão, tháng ba có một đường khí trắng từ sao Sâm sao Khuê phương Tây, trên suốt ngân hà, phụng châu dụ (dụ phê son) cầu lời nói hay. Dâng sớ điều trần các khoản, trong đó có khoản xin điều chỉnh các tỉnh Nam Kỳ, xá quan tân, đình tuyển duyệt, tâu lên. Phụng châu dụ, nói rõ chính hợp ý Trẫm, trước đã lưu tâm điều chỉnh rồi, Khâm thử. (sớ có tập riêng)

(Đường khí trắng trong năm này, hiện ra ngày 19 tháng hai, khí như mây trắng ngưng kết, ngang có thể hai trượng, dài từ cuối tây đến ngân hà, Thái sử tâu không rõ tốt lành hay dị thường. Vâng có châu dụ trách kỷ cầu ngôn (tự trách mình và cầu lời nói thẳng), ngày 24, 25 thì nhạt dần rồi mất).

Năm thứ tư, Giáp Thìn, ngày 14 tháng Ba, trắc thất sinh con trai thứ tư là Hanh (ngày Tân Tỵ, giờ Nhâm Thìn, sinh ở nhà Hữu Tham tri bộ Hộ).

Ngày 25 tháng năm, điều bổ Tuần phủ An Giang. An Hà tổng đốc Hùng dũng tướng Bao Liệt tử Nguyễn Công Nhàn, Tuần phủ Nguyễn Công Trứ can vào án phân sách thôn Tân Hựu dân hạt, thôn dân kinh khống tình quan ăn hối lộ. Công Nhàn, Công Trứ và Bố chánh Phùng Nghĩa Phương đều cách chức, giao cho tân viên tra xét, phụng dụ lấy Tổng đốc Long Tường Nguyễn Văn Chương bổ thụ An Hà Tổng đốc, Hộ bộ Hữu Tham tri điều bổ An Giang Tuần phủ, bái mệnh bệ từ, thân phụng chiêu dụ (ban dụ trực tiếp trước mặt), ra vào ba lần chầu, lại ban cho bảy mươi lạng bạc và áo quần nhung. Năm này giặc Xiêm Chất Tri còn đóng địa đầu Trấn Tây, An Giang tiếp liền với bờ cõi giặc, chiến hay hòa còn chưa rõ rang, tiễu trừ hay vỗ về đều khó, An Giang là quan yếu nhất, mỗ triệu đôi ba lần, được trực tiếp diện dụ rằng: Không phiền sức dân, khôi phục được cương vực cũ, đó là thượng sách. Dần dần như tằm ăn dâu là thứ sách, biết cơ chưa thể mà giữ yên được dân là được rồi. Lại nói: Không phải là bề tôi thân tín làm sao có thể ký thác trọng trách biên cương được. Ngoài những đại sự cần phải chờ chỉ dụ ra, những việc còn lại thì đều được tùy nghi hành sự. Lại nói: Doãn từ khi làm chủ sự bộ Hộ, Trẫm vốn đã biết rồi, có thể gắng hết tâm sức vì trẫm). Sau khi xong đại sự biên cương, được nghe huấn thị ân cần chu đáo, ta thực ghi khắc không dám quên vậy.

Đến tỉnh, theo lệ tâu trình và tỏ bày lời cảm tạ ân tứ. Phụng chỉ: Ngươi nên dốc hết tâm lực, trổ hết tài năng để xứng với sự ủy thác. Khâm thử!

Tháng bảy, tâu lên thỉnh an, kể chêm công việc biên giới. Phụng châu phê rằng: Nói phải nghĩ đến làm, biên thần như vậy là người có mưu lược vì nước. Lại sau niên hiệu, phụng châu phê: An, phàm sự nhất như, tả hữu bội phục dĩ huyền, thận thủy dĩ yếu chung, tư gian nhi đồ dị, chế ngự tại tiên cơ, phủ tuy tồn yếu trước, mong thành công hữu hiệu. thi triển mưu kế cao sâu để vỗ yên nỗi lo nhìn về nam, mới hết được mối ưu tư biên thùy phía tây. Công của người ấy rất nhiều.

Tháng tám, đến kỳ hạn kế lớn ba năm, sau khi bộ Lại tập hợp tâu lên. Phụng châu dụ (dụ son): Nguyên Hộ bộ Tham tri, nay điều bổ An Giang Tuần phủ Doãn, gặp việc gắng sức, giữ được chức trách, nay thưởng gia một cấp. Tháng chín, Hội đồng trù nghĩ phân phái tiến binh các khoản, phụng dụ chuẩn y nghị hành: các khanh tiếp biện đến nay, mọi việc hòa trung vọng tế, Trẫm đã xét rõ lòng trung, chuyến hành động này lại là sự nghiệp lớn lao, hãy xem xét tính toán kỹ, để xứng với ý gửi gắm ủy thác. Khâm thử! Tháng mười, tấu thỉnh an, kèm theo trình bày tình hình biên cương. Phụng châu phê: An, công việc biên cương đã trình bày không ra ngoài những điều Trẫm cùng khanh diện đàm ngày nọ, nên phản gián thế nào cho Xiêm Lạp tự tương ngư nhục (tự chúng cắn xé lẫn nhau) thì ta dễ hành động. Nếu như mọi việc đều bị con mắt kẻ địch nhìn thấu, lòng dạ Chân Lạp cong vẹo, thì chẳng qua là dạy khỉ leo cây vậy. Hãy thận trọng đối với chúng, tăng mạnh binh uy của ta, không được để lộ mảy may dấu vết, để chúng nhìn thấy nông sâu tất sẽ đến biên giới yêu sách. Cũng trong tháng mười này, phụng châu dụ: Ngày trùng cửu lo có bão lụt, các quan lại lớn ở triều và ở các địa phương trình bày rõ các thiếu sót trong chính sự, Ngày 15 tháng chín, phụng châu dụ: Ngày trùng cửu  buổi sáng lấm tấm mưa phùn, đến đêm cuối giờ Dậu, gió nổi ở phương Càn, suốt đến giờ Tý. Mồng 10 gió càng gào thét, mưa như trút nước, giờ Dần chuyển thành gió Cấn rất dữ dội, lay cột bay ngói, nước ngập mênh mang ôm gối bồi hồi, lòng lo cho dân, suốt đêm không ngủ, nghĩ rằng bởi người không khá sửa đức, nên xảy ra thiên tai. Phải tự kính răn, xem xét mình có gì sai trái, phải hư kỷ dĩ thụ nhân, rộng tìm kế hay để trị nước an dân, giao cho các đình thần và các đại lại ở địa phương, cho phép nói rõ các sai sót của Trẫm để uốn nắn sửa chữa, và thấy chính sự có thiếu sót thì biểu bạch trần minh, hoặc trong dân có điều ẩn dấu không đề đạt lên được, hoặc pháp lệnh có chỗ phiền hà, hoặc hình ngục không thỏa đáng, đụng đến người vô tội, hoặc u trệ oan uổng, gây nên tai ương, cho phép đều được điều trần. Trẫm sẽ lưu lãm mà tiếp nhận. (Lại khảo kỳ Ngự thi chú rằng, Xét ngược lên năm Gia Long 10 Tân Mùi, mồng 6 tháng tám, gió nổi lên đến tận giờ Thìn ngày mùng 9 mới dừng, nước lụt hơn thường đến 8 thước, Năm Minh Mạng 8 Đinh Hợi, ngày mùng 3 tháng mười giờ Tí gió nổi lên đến giờ Ngọ thì dừng, mưa lụt hơn thường đến 10 thước 8 tấc; tính ra 34 năm nay, mỗi lần gió bão nổi lên 7 khắc giờ).

Tại tỉnh Hội đồng tâu bày, các tỉnh Nam Kỳ điêu hao lâu ngày, nỗi khổ của dân dồn góp lại chưa giải tỏa được, xin bỏ hư ngạch, trừ nợ góp, lại xin tỉnh 3 năm thanh tra và quy 6 năm một khóa (lệ từ trước đến nay các địa phương 3 năm điểm đạc, 6 năm giải lượng, nay xin quy 6 năm một khóa. Khoản này sau được bộ bàn y thỉnh, khoản nợ góp, có chở do Bộ vựng sách lượng miễn). Ngoài ra cùng Đốc bộ Nguyễn mật tấu, xin cho ở Nam Kỳ lục tỉnh, các nơi lệ khí khiếm thu (thời tiết xấu thất thu) được quyền xá thuế một năm, phụng chỉ sắp đến năm đại khánh, cũng lần lượt thi ân.

Tháng mười hai, mật tấu việc tinh quang (ánh sao) dị thường. (Đêm 19 tháng mười một, giờ Dậu có một vệ Nghệ tinh quang dài hơn 2 trượng, rộng ngang 2 thước, chỉ về đông đến thượng tuần tháng mười hai mới tan. Bản tấu này phụng châu phê: ở Kinh không thấy, cũng dụ phải nên cảnh tỉnh). Phụ chép: Theo Tấn sử, ở trận Thành Bộc chi chiến, Văn Công bảo Cữu Phạm rằng Sao chổi hiện, Sở nắm cán, ta năm tiêu. Ta muốn đánh, ông nghĩ thế nào. Phạm thưa: Nó nắm cán, ta nắm tiêu, nếu quét thì nó lợi, nếu giơ lên thì ta lợi. Theo đó mà nghiệm, thì thắng lợi Trấn Tây 5 năm, sao chổi này cũng là điềm báo trước vậy.

Năm thứ năm, tháng tư, bọn thổ mục Ba Nam, Liên di (tên man chức) tên Mẫn, Xa non tên Đài, Phạt thoa tên Súc kéo theo gia quyến hơn trăm tên đến đồn Thông Bình của Định Tường, quy hàng xin cứu viện, kế đó lại thấy nguyên phó Quản cơ Phu Phu, Lịch liên Đột đến tỉnh bẩm báo y cùng đồng đảng mưu phản Xiêm để quy thuận, không ngờ việc bị lộ, nguyên quản cơ Già biết tên Mây bị tên Đôn bắt, chém  chết, y ngầm theo đường Tây Ninh đến tỉnh xin cứu viện, nếu điềm nhiên không ứng cứu e tuyệt đường đến, nghĩ nên chia binh ba đạo, một đạo từ Gia Định đi Tây Ninh, làm thanh thế, nên phái một ngàn quân; một đạo từ đồn Thông Bình đi đường thủy thấu vào Nam Ninh, trong bụng hợp với đạo Tiền Giang, nên phái hai ngàn quân, cùng tiến hành tiễu trừ phủ dụ, tâu lên. Phụng dụ: Các khoản đề xuất trong đó cũng đều hợp lý, đều được chuẩn y theo đề nghị, tùy nghi tiễu trừ phủ dụ, lấy Ba Nam, Nam Ninh, Nam Thái về ta được đấy. (Nguyên xin Đốc thần đến Tiền Giang, Phủ thần đến Thông Bình, phụng cải phái Đề đốc Nguyễn Văn Hoàng đến Tiền Giang.)

Tháng Năm, ngày 22 tuân dụ quản đem một ngàn biền binh ở tỉnh hợp với một ngàn nguyên đóng Thông Bình của Lãnh binh Định Tường là Nguyễn Sáng, từ Thông Bình đến thượng lưu, đảng giặc nguyên đặt hai đồn chống giữ, quân ta tiến thẳng, nhổ liền hai đồn Thị Đạm, Vĩnh Bích. Phụng dụ: Những nơi Doãn đem binh đến, thì man thổ đều đổ rạp như cỏ trước gió, lấy liền hai đồn, nổi tiếng tiên phong, thật đáng khen thưởng. Tuần phủ Doãn của đạo Thông Bình được thưởng gia quân công một cấp, Long vận khí hội thùy anh Kim tiền và Thủy tinh Kim bang chỉ (nhẫn thủy tinh viền vàng) mỗi thứ một.

Ngày 14 tháng 6, công phá đầm lũy giặc ở Sách Sô, phụng dụ: Quan binh cổ lệ phấn dũng (hăng hái dũng cảm) đánh phá lũy giặc hơn nghìn trượng, bắn chết tại trận thổ mục giặc, đâm chết nhiều tên, bổ vụ đắc lực như vậy rất đáng khen thưởng. Tuần phủ Doãn thân đốc quan binh được thưởng gia quân công một cấp chuỗi ngọc nạm vàng, đại kim tiền thùy anh ngũ phúc mép ngọc kim cương, mỗi thứ một.  (Sách Sô tức là thượng du của phủ Nam Ninh, phía trước có đầm lớn, đảng giặc đã đắp lũy từ trước ở ven đầm, hai lớp trong ngoài dài hơn ngàn trượng. Tất chúng tử thủ. Ta chia binh làm hai đạo: lãnh binh binh Hồ Đức Tú và phó lãnh binh Lê Đình Lý cầm một ngàn binh từ phủ Tẩu Đà tiến vào, ta cùng lãnh binh Nguyễn Sáng dẫn hơn ngàn quân từ Ích Đà tiến vào. Bọn giặc dựa vào lũy đông như kiến, bắn ra. Ta thân đốc hai đạo quan binh oanh kích bằng pháo lớn. Ai nấy dũng cảm hăng hái, lên trước bạt lũy, đâm chết nhiều tên. Đảng giặc tan vỡ, vào rừng chống giữ. Quan binh liền đóng đồn trấn giữ ở Sách Sô.)

Ngày 26, tặc đảng dồn được hơn năm ngàn tên, hợp lại cự chiến, ta ngầm lệnh cho các đạo quan binh giấu cờ im trống, làm ra vẻ đơn sơ, chia các đội mật phục, sai một tiểu chi đến trước dụ chiến. Quân giặc phía trước. Ba phía quân ta nhất tề từ nơi mai phục nổi lên vây đánh chém chết rất nhiều, lại bắn chết quân giặc dù đỏ rơi rụng tơi bời, tặc đảng tan vỡ. Việc đó tư trình lên Khâm phái đại thần tâu báo. (Khâm phái mới đến, lưu tại tỉnh An Giang).

Phụng thượng dụ: Nay căn cứ tờ tâu của Hậu quân đô thống phủ đô thống quyền lĩnh Định Biên Tổng đốc Vũ Văn Giải, Binh bộ Thượng thư quyền lĩnh Gia Định Tuần phủ Tôn Thất Bạch, cho mã đệ tấu trình rằng: Doãn đạo binh ở đồn Sách Sô, đảng giặc chừng hơn năm ngàn tên từ bìa rừng xông đến bao vây đại đồn Đức Viên cự chiến. Viên này chia quân đặt mai phục, đốc sức biền binh tiền tiêu ác chiến với giặc, chém, đâm, bắn chết tặc đảng rất đông, các đạo phục binh kế đó nổi dậy chém giết bọn giặc không biết bao nhiêu mà kể. Hiện có bắn gục đại đầu mục giặc Man, bọn này lập tức tan rã, các đẳng nhân lãn tán, Đốc sư Doãn của đạo này chỉ huy tài giỏi, từ khi xuất sư đến nay ba lần tấn công chiến thắng, rất đáng khen thưởng. Doãn được thưởng gia quân công một cấp, tứ mỹ thùy anh kim tiền một đồng. (Lãnh binh trở xuống thưởng có khác nhau).

Kính chép thơ ngự chế.

Năm thứ sáu, ngày đại khánh, phụng châu phê ban tứ: Nay căn cứ tâu báo của khâm sai đại thần Hậu quân đô thống phủ đô thống quyền lĩnh Định Biên Tổng đốc Vũ Văn Giải, Binh bộ Thượng thư quyền lĩnh Gia Định Tuần phủ Tôn Thất Bạch, do mã thương phi đệ tâu lên, An Giang Tuần phủ Doãn thống quản tiền chinh, tiến công tiễu trừ Xiêm khấu Lạp tặc (giặc Xiêm và giặc Lạp), liên tiếp nhổ các đồn giặc, bắn chết đầu mục, thu được thắng lớn, phi báo tâu về. An Giang Tuần phủ Doãn, Đề đốc Nguyễn Văn Hoàng, hai đạo quan binh hưng sư chưa mấy ngày tháng mà trận Ba Nam của Nguyễn Văn Hoàng đã nhổ được đồn giặc, cướp được nhiều pháo lớn, tàu thuyền khí giới, vang lừng tiếng tăm. Còn Doãn thì các trận đánh lũy Vĩnh Bích, Sách Sô, ba lần chiến thắng tâu công, đều được giáng dụ khen thưởng. Hai đạo quan binh này còn chờ xong việc sẽ luận công tính thưởng, trước hãy ghi chép đầu đuôi để ghi công tích.

Quái sát Chân Lạp địch,

Vong ân hựu phản phệ,

Đảng viện lai phạm thuận,

Lũ thư kinh bại truất,

Cảm nhĩ trình gian khi,

Bỉ vọng khởi hấn đoan,

Phát binh mệnh biến thần,

Tam đạo phấn hùng hoàn,

An Giang Nguyễn đề đốc,

Nhất chiến tặc hội tán,

Liên đoạt tha đại pháo,

Trá mãnh tận thu hoạch,

Đầu bút sự nhung hiên,

Vĩnh Bích bạc tặc đồn,

Trường lũy thiên trương dư,

Nghĩ tụ ngũ thiên đa,

Tam tiệp phu công tâu,

Dũng lược Hồ Đức Tú,

Lưỡng tiên thu tặc bảo,

Nguyễn Sáng, Lê Đình Lý,

Phi chương thắng trượng trần,

Quân công cấp kỷ gia,

Trì hồi Nguyễn Công Nhàn,

Biên khiến cập tảo thanh,

A tòng La Hộc di.

Lang bối tứ cuồng si.

Sát tán điện biên thùy.

Tam xá dĩ nhiêu chi.

Biển duyên biên tiểu lại.

Phạt tội chương công nghị.

Đốc sư giản lương soái.

Tứ chinh kiêm phủ tự.

Tiên để bạt Ba Nam.

Khai khoách Tiền Giang đàm.

Bất dãn số thập tam.

Giới trượng bất thăng đàm.

Tráng tai Doãn tuần phủ.

Tiên thanh trì uy vũ.

Duyên đàm liên bạt thủ.

Sách Sô bình Hồ lỗ.

Bất phụ giản tri dữ.

Bạt tụy khả gia dự.

Nhất xạ sát Tiêm cừ.

Thiên tỳ đắc lực dữ.

Lãm tấu thành kham lục.

Thù huân thưởng kim ngọc.

Giáng dụ nghiêm thôi đốc.

Kỳ thường ân sủng đốc.

 

Lại phụng ngự chú rằng: Doãn mỗ xuất tự hàn uyển, trạc chí Tuần phủ, ủy chi quân hỗ, nã năng cảm phát tư phấn, công thủ ký hữu mưu du, văn võ thả gia kiêm mỹ, tam tiệp tấu công, thù kham gia duyệt, viên tiết thứ giáng tưởng thưởng, quân trì nhật tuyên ban, kỳ đắc tảo cán tang sự, tái hành ẩm chí sách huân, dĩ thù lao tích giả dã. (trang 63)

Dịch nghĩa bài thơ:

Giặc Chân Lạp quái gở

Vong ơn quay lại cắn chủ

Kéo đến đây phạm thuận

Đã nhiều phen bại trận

Dám giờ trò gian khi

Chúng rồ dại gây hấn

Lệnh cho các biến thần xuất quân

Ba đạo quân hùng dũng

An Giang đề đốc Nguyễn

Một trận giặc tan tác

Đoạt liên tiếp các pháo lớn của chúng

Thu hoạch hết thuyền bè

Gác bút, lo nhung trận

Vĩnh Bích phá đồn giặc,

Hơn ngàn dặm lũy dài

Giặc như kiến hơn năm ngàn

Ba lần tâu báo tiệp

Hồ Đức Tú dũng lược

Hai tướng đi đầu chiếm đồn giặc

Nguyễn Sáng, Lê Đình Lý

Phi báo tin thắng trận

Ghi gia cấp quân công

Nguyễn Công Nhàn chậm trễ

Hãy sớm dẹp yên biên cương

Hùa theo bọn La Hộc

Dắt díu nhau giở thủ đoạn điên cuồng

Giết choc cướp phá biên cương ta

Đã nhiều lần tat ha cho

Đánh lừa các tiểu lại nơi biên viễn ta

Ta đã cho công nghị làm rõ việc phạt tội

Cho các bề tôi giỏi đốc sư

Đánh dẹp và phủ dụ bốn phương

Đến trước nhổ đồn giặc ở Ba Nam

Mở trang đầm Tiền Giang

Đâu chỉ có mười ba cỗ

Khí giới thì không kể xiết

Hùng tráng thay, Tuần phủ Doãn

Tiếng uy vũ lừng vang

Ven đầm đều phá sạch

Sách Sô bình dẹp hết

Không phụ lòng hiểu biết

Hơn người thật đáng khen

Bắn một phát giết được thủ lĩnh Xiêm

Phò tá thật đắc lực

Xem lời tâu thật đáng ghi

Thưởng vàng ngọc đền đáp công lao

Xuống dụ nghiêm khắc đốc thúc

Để thường xuyên được dày ân sủng

 

Kèm theo lời ngự chú: Ngươi Doãn xuất thân là quan văn, đã lên đến chức tuần phủ. Nay giao cho quân hỗ, lại biết hăng hái phấn đấu, đã có mưu lược công thủ, văn võ đều giỏi. Ba lần tâu báo tin chiến thắng. Thật đáng ban khen. Bèn lần lượt ban dụ khen thưởng, đều kịp thời tức tốc ban khen, chờ đến ngày hoàn toàn thắng lợi sẽ mở tiệc thưởng công (đền đáp công lao thành tích).

Tháng bảy đầu thu, theo lệ thường tâu báo thỉnh an, kèm đó trình bày việc công phá đồn Thiết Thằng tùy nghi phủ tiễu, bản tấu dâng lên được châu phê: Khanh phấn dũng vì trẫm đáng khen rất mực. Bản thân Trẫm được an khang, những nỗi vất vả của tướng sĩ phải dầu dãi gió sương nơi biên ải, Trẫm vẫn một niềm đau đáu. Gần đây đã có dụ lệnh tiến đánh Thiết lũy, đã có tâu báo việc tiến đánh. Trẫm càng nóng lòng chờ tin báo tiệp. Rất mong sớm có tâu báo thành công để được hậu thưởng. Hãy phi chương tâu báo ngay tình hình trước mắt để thỏa lòng Trẫm nhớ mong tướng sĩ tây chinh. Truyền chỉ Nguyễn Văn Chương, Doãn Mỗ, Tôn Thất Nghị, Nguyễn Văn Hoàng: Thiết lũy đạp bằng thì tuân theo tiền chỉ tiễu biện, binh quý thần tốc mà! (tên họ từng người đều được châu khuyên châu điểm).

Tháng tám, ngày mồng 6, khởi hành từ Ba Nam, hội cùng các đạo tiến công đồn Thiết Thằng, ngày mồng 8 sát phá đảng giặc, thắng trận to lớn, ngày 12 thừa thắng đuổi lên, lập dựng xong Trấn Tây, cờ đỏ báo tiệp, khâm phụng dụ thưởng, gia hàm Thượng thư bộ Binh, lại gia một cấp quân công kỷ lục hai lần, Phúc thọ lương ngọc bội bài (thẻ ngọc đeo), nhẫn viền ngọc kim cương, vạn thế vĩnh lại kim tiền, khánh vàng ghi công mỗi thứ một.

Ngày 15 tháng chin, phụng dụ thăng Thự Binh bộ Thượng thư trao chức Tham tán đại thần hội biện Ninh tập Trấn Tây sự vụ. Từ Thiệu Trị nguyên niên, thu quan binh hồi về An Giang.  Đất Trấn Tây do tướng Man Xiêm Chất Tri và Man tù Sá Ông Đon chiếm đóng, phá hủy thành cũ, xây thành mới bằng gạch ở thượng lưu dài hơn trăm trượng. Lại đặt đồn lũy ở hai bên sông hạ lưu Sa An của Hậu Giang và Hách Chử của Tiền Giang, mà đồn Tiền Giang là kiên cố nhất, tả hữu đắp liền ba đồn, rào lũy dày đặc, đắp núi đất cao lên, bố trí nhiều hồng y đại pháo,lại làm khóa sắt ngang sông, tự coi là thế hiểm kiếm các, kiên cố không thể phá vỡ, cho nên gọi là Thiết Lũy, còn gọi là đồn Thiết Thằng.

Ngày 27 tháng bảy, tiếp mã phát, phụng thượng dụ: Gần đây quan binh tiến tiễu liên tiếp thắng lợi, uy thanh vang động, có thể thừa cơ, nhân nhuệ khí đang hăng, chia đường tiến lấy đồn Thiết Thằng, khiến địch mất chỗ cậy hiểm, cũng là đắc sách. Nhưng kinh phái đại thần bọn Vũ Văn Giải, Tôn Thất Bạch quá ưu thận trọng, không khỏi trù trừ chậm trễ, đã không biết thừa thế tiến công, lại cứ quẩn quanh tấu thỉnh kéo dài thời gian, cho giặc được nghỉ ngơi, trừ hồi chậm trễ như vậy thật hết sức không vui long người. Nay giao cho Vũ Văn Giải, Tôn Thất Bạch ngày nhận được lập tức chép lại trao cho bọn Nguyễn Văn Chương, Doãn Mỗ nhanh chóng chuyển đội quân đắc thắng này chia hai đường thủy bộ tiến lên công phá đồn Thiết Thằng. Những đồn này là nơi yếu hại của giặc, tất bố trí nhiều đại pháo chống cự. Ngày tiến công, hoặc giả vờ đánh mặt trước mà ngầm tập hậu, hoặc chia hai đường thủy lục, tùy thế giáp công, khiến chúng đầu đuôi không ứng cứu được nhau, thì dễ phát huy sức mạnh của ta, sau khi công phá đồn này thì Nam Vang chấn động, nắm giữ không vững, thì thừa thế chẻ tre đuổi dài lên phía bắc, vốn là trước hay. Nếu chưa tiện thâm nhập thì hãy đóng đồn ở đây để chặn nơi hiểm yếu và cắt đứt các nẻo đường đi Nam Vang, tùy nghi tiễu trừ phủ dụ. Nhưng phi chương nhập tấu, đợi chỉ tuân hành. Khâm thử!

Tiếp phụng dụ đến, liền trù tính chia quân làm hai đạo Tiểu Giang, Tiền Giang, đầu tháng tám, ngày mồng 6 từ đồn Ba Nam chia tiến. Tổng đốc Nguyễn Văn Chương, thự Vĩnh Long đề đốc Tôn Thất Nghị quản ba ngàn quân tiến nhanh theo đường Tiểu Giang, từ Hách Chử đến thượng lưu Tiền Giang. Ta cùng Hộ lý Đề đốc Nguyễn Văn Hoàng, quản hai ngàn quân theo đường Tiền Giang từ từ mà tiến chờ đạo Tiểu Giang lọt qua, cử pháo làm hiệu, liền tiền hậu giáp công. Thế rồi quân đạo Tiền Giang tiến lên, từng chặng có thuyền nhỏ của đảng giặc bắn chặn, sau khi bị binh thuyền tiền tiêu giết phá, thu được 8 thuyền. Tối ngày mồng 7, đến hạ lưu đồn Thiết Thằng, nhìn ra dừng quân, chờ đạo Tiểu Giang. Sáng ngày mồng 8, đạo Tiểu Giang đến Hách Chử, đạo Tiền Giang cũng tiến gần đồn Thiết Thằng, thì thấy đồn lũy ở hai bờ đều đã bỏ trống, khóa sắt ngang sông đã trôi mất, chỉ còn trơ cọc gỗ mà thôi. Chỉ may nhờ núi sông trợ thuận, năm nay nước lụt hơn năm trước đến bốn năm thước, đồn lũy của chúng bị nước ngập không có chỗ đứng chân. Đảng giặc đã vận chuyển pháo lớn xuống thuyền, muốn lui giữ Nam Vang, không ngờ đã bị quan quân hợp vây trước sau, không đường trốn thoát. Nơi đây, mặt sông rộng mênh mông, hai bờ sông cây rừng rậm rạp, ở bên cát bồi, lại có một cảng nhỏ có thể dừng đỗ thuyền, đảng giặc đem hết các hạng thuyền liên kết vào ghé đỗ ở cảng nhỏ này, vẫn im ắng bất động. Đạo quân Tiểu Giang đã bày sẵn trận thế chờ đợi, nhưng sai người cáo thị bọn chúng hãy mau hàng để khỏi chết. Tướng giặc đồng ý nhưng sau không báo hàng, ý muốn chờ đêm đến từ cảng này mở đường thủy lọt qua Sa An của Hậu Giang lui về Nam Vang. Đầu giờ Ngọ, Tổng đốc đạo Tiền Giang Nguyễn bèn lệnh cho các đại pháo trên thuyền lớn của ta oanh kích các thuyền giặc. Chúng cũng nã pháo bắn trả. Bản đạo nghe tiếng pháo bèn lệnh hỏa thiêu các trại xá Thiết đồn của giặc để làm hiệu. Đốc đồng Lãnh binh Hồ Đức Tú trước đã đem hơn mười chiếc thuyền nhanh, đầu và thân thuyền đều đã bố trí sơn pháo, từ cảng nhỏ ở hạ lưu xông vào chỗ đỗ thuyền giặc, liên tiếp nổ pháo và súng đánh phá, thuyền lớn cũng liền tiếp đến, bây giờ hai đạo tiền hậu giáp công, lửa cháy ngút trời, tiếng pháo chuyển đất, thuyền giặc dàn ngang trên bờ, tiến thoái không được, di chuyển cũng khó, tặc đảng bị chết và bị thương rất nhiều, không đứng chân được, dắt nhau lao xuống nước bỏ hết thuyền tàu,pháo sung và khí giới chạy vào rừng. Lên bãi chém được ba đầu, chết đuối dưới nước vô số, sau hỏi những kẻ ra đầu thú đều nói, Xiêm đại lộ đầu mục bị chết một đứa, Lào, Xiêm, Ngôi, Man chết khoảng năm sáu trăm. Quân ta, trong bản đạo thự phó vệ Trương, Lý của hai vệ Trung, Bảo bị chết, các đạo cũng năm người bị thương nặng nhẹ mà thôi; Thu hoạch các loại thuyền to nhỏ 42 chiếc, các hạng đại pháo 137 cỗ, sung bắn chim, sung trường cờ xí 580 cây hơn, đạn lớn nhỏ 39300 viên, đao nỏ và hỏa khí hỏa dược vô số.

Theo lời chú trong thơ ngự chế thì có câu: Từ xưa đến nay phá giặc thu hoạch chưa từng bao giờ nhiều như lần này. Ngày 11, đại binh tiến đến Yến Xuy thổ mục bắt nộp 18 tên đảng Xiêm liền thi hành chính pháp, vẫn đóng quân chiêu phủ, phái thăm dò Trấn Tây thì nói đảng giặc đêm qua đã bỏ thành trốn chạy, sáng ngày 12 lại vào đứng vững Trấn Tây, tư trình Khâm phái đại thần, hồng kỳ báo tiệp, lưu quân đóng giữ, rồi chia quân tiến bắt đảng giặc. Ngày 20 tháng tám Cơ mật viện thần Trương Đăng Quế, thần Hà Duy Phiêu, thần Nguyễn Trung Mậu, thần Phan Thanh Giản phụng thượng dụ, ngày này theo Khâm phái đại thần có quyền lĩnh Định Biên Tổng đốc Vũ Văn Giải, quyền lĩnh Gia Định tuần phủ Tôn Thất Bạch đem quan binh công phá Thiết đồn và thừa thế đứng vững Trấn Tây, do lập tức phi đệ han bản tâu này, phê lãm, hết sức vui mừng. Vả lại bọn giặc Man này nhiều lần bị quan binh công phá. Chúng chỉ cậy vào đồn Thiết Thằng là xung yếu nhất, Lần này quan quân chia đường trước say giáp công, bọn giặc Man này thế lực không chống nổi liền tan chạy, chém được tại trận 3 thủ cấp, giết được 1 tên đại đầu mục Xiêm. Bọn Xiêm, Lào, Thanh, Thổ theo giặc bị bắn chết đến năm sáu trăm tên, thu được thuyền bè cùng các loại pháo lớn nhỏ, khí giới vô số, ta thắng lớn, đuổi dài lên bắc, đứng vững ở Trấn Tây, nhất cử thu công, hồng kỳ báo tiệp, rất đáng khen thưởng. Tất cả đều nhờ Hoàng khảo ta dư uy di liệt mà được như vậy, tướng sĩ ta đồng tâm vâng mệnh, có được công lao này chính nên ban ơn đặc biệt để biểu dương chiến tích. Tổng đốc Nguyễn Văn Chương đốc sư đạo Tiểu Giang được gia hàm Hiệp biện đại học sĩ, lại gia thưởng một cấp quân công, ghi quân công 3 lần, lại gia thưởng Cát tường Phúc thọ lương ngọc bội bài kết san hô thùy anh (dây đeo san hô) một thẻ, nhẫn biên viền vàng khảm kim cương trân châu một chiếc, vạn thế vinh lại đại hạng kim tiền một đồng, kỷ công kim khánh một chiếc; Tuần phủ Doãn Mỗ đốc sư đạo Tiền Giang được gia hàm Binh bộ Thượng thư, lại gia quân công một cấp, ghi quân công 2 lần, lại gia thưởng lương ngọc bội bài kết thùy anh một thẻ, nhẫn biên viền vàng khảm kim cương trân châu một chiếc, vạn thế vĩnh lại đại hạng thùy anh kim tiền một đồng, kỷ công kim khánh một chiếc; Thự đề đốc Tôn Thất Nghị hiệp đốc đạo Tiểu Giang được thưởng tức hành thực thụ, lại gia cấp kỷ; Hộ lý đề đốc Nguyễn Văn Hoàng hiệp đốc đạo Tiền Giang được thăng Thự đề đốc, lại cấp kỷ (kim ngọc xưng tiền), Lãnh binh trở xuống đều có thưởng khác nhau, lại cho xuất kho An Giang một ngàn lượng bạc sáu ngàn quan tiền, giao cho Vũ Văn Giải, Tôn Thất Bạch thân hành đến quân thứ Trấn Tây tuyên chỉ úy lạo, chiếu từ Tổng đốc, Tuần phủ, đề đốc cho đến quan binh, và các thổ ty thổ mục tòng chinh, những người tùy biện hiệu lực đều phân hạng thưởng cấp, để làm yến lạo, và sửa soạn bò lợn rượu thịt, cho ăn uống no say. Chuyến ra quân này mã đáo thành công, chiến tích rõ rệt, ban ơn đặc cách yến lạo để đáp công lao, chờ sau này ban sư khải tấu, ẩm chí sách huân, sẽ tiến hành luận công khánh thưởng, tạc thổ phân mao, đái lệ sơn hà, vĩnh phó thừa lưu đến vô cùng. Khâm thử!

Ngày mồng 4 tháng chin, Nội các thần Nguyễn Đức Chính, thần Vũ Phạm Khải, thần Nguyễn Cửu Trường phụng thượng dụ: Tây chinh tướng sĩ đồng tâm vâng mệnh, quyết chí diệt thù, một trận đạp bằng lũy thép, nhanh chóng nhổ hết thành đồng, đứng vững Trấn Tây, thu hồi toàn cõi, dẹp yên giặc Xiêm, lập được võ công, Nay tiếp theo lời tâu của các đại thần kể rằng thổ mục thổ dân dẫn nhau về thành tâm thú tội hơn hai van ba ngàn mấy trăm người, các đại thần thăng trướng thụ hàng, có bản tấu trình, khẩn ân hậu chỉ, liền đó phê lãm, Trẫm đã xét kỹ vả lại lần này hưng sư chính là việc làm để trừ bạo an lương, điếu dân phạt tội. Nay người Lạp đã phụ kinh thỉnh tội (mang roi gai trên lưng đến xin nhận tội) đều cung khai bị giặc Xiêm lăng hiếp, tự mình gây hấn, tất nên diệt trừ bọn cừ khôi đầu sỏ, những kẻ bị ép theo thì không trị, các thổ mục thổ dân đã hàng thú, thì đều gia ân chuẩn xá sinh tha tội, giao cho các đại thần truyền chỉ, ai nấy được sắp đặt công việc làm ăn sinh sống. Hơn nữa hiện nay sắp xếp các việc sau vụ Trấn Tây, phủ tập biên cương, rất là to lớn, cần phải giản phái sung viên để chuyên trách thành mà hiệu quả tốt. Nay giao cho hậu quân đô thống lĩnh Định Biên Tổng đốc Vũ Văn Giải hiện phái đến điều độ quân cơ lập tức điều bổ Tiền quân Đô thống phủ Đô thống đặc thụ Phủ biên tướng quân, tiết chế Trấn Tây thống hạt, lại giao cho An Hà Tổng đốc Nguyễn Văn Chương thăng Thự Hiệp biện đại học sĩ, trao làm khâm sai đại thần, trù biện biên vụ dẹp yên Trấn Tây; lại lấy An Giang Tuần phủ Doãn thăng Thự Binh bộ Thượng thư, trao hàm Tham tán đại thần, hội biện ninh tập Trấn Tây sự vụ; lại giao Vĩnh Long đề đốc Long Bình nam Tôn Thất Nghị vẫn giữ nguyên hàm trú phòng Trấn Tây tán lý cơ vụ; lại giao An Giang đề đốc Nguyễn Văn Hoàng giữ nguyên hàm trú phòng Trấn Tây bang biện quân vụ; đều do Trẫm giản tri đặc phái, danh thần túc tướng, thảy nên mậu triển du vi, mọi việc đều phải hòa trung thể quốc, phủ chúng an dân, tất tâm trù biện thiên hậu sự nghi, mong thành mãi mãi an ninh biên cảnh, trấn phủ ngoại di, đề phòng vững mạnh, dẹp yên phiên phục, đợi mấy tháng chia đặt địa hạt, chú thác sự thành, đặt quan phân chức cai trị, chọn tướng tuyển tài mà thay chức. Trẫm tất sẽ giáng dụ tuyên triệu về kinh bệ kiến, luận công hành thưởng, lễ ngộ ưu gia, vua tôi cùng mừng, đường bệ ung dung, tình đốc giao phu, lễ gia bão tất, để ghi kỳ thường vĩ tích, trúc bạch lưu phương (để tiếng thơm trong sử sách), đái lệ sơn hàng thừa ân vô dịch. Khâm thử!

Ngày mồng 4 tháng chín, Nội các thần phụng thượng dụ: Nay giản phái đại thần chú thổ (sắp đặt) công việc Trấn Tây có đặc thụ Phủ biên tướng quân Tiền quân đô thống phủ đô thống tiết chế Trấn Tây thống hạt Vũ Văn Giải, Khâm sai đại thần Thự Hiệp biện đại học sĩ trù biện tuy phủ Trấn Tây biên vụ Nguyễn Văn Chương, Tham tán đại thần hội biện ninh tập Trấn Tây sự vụ Doãn, Vĩnh Long đề đốc trú phòng Trấn Tây tán lý cơ vụ Long Bình nam Tôn Thất Nghị,  Thự An Giang đề đốc trú phòng Trấn Tây bang biện quân vụ Nguyễn Văn Hoàng được cấp sắc văn tướng ấn quan phòng, giao hai bộ Lại và Lễ nhanh chóng biện lý, vẫn phái xuất Thự Công bộ Doanh kiểm ty lang trung Nguyễn Ba lại trước đã từng thân lý kỳ địa nay chạy trạm đến ban cấp, lại tuyên chỉ úy lạo tướng sĩ, dẹp binh Xiêm Lạp, vỗ yên biên cương, công này lớn lắm nhiều lắm. Trẫm vô cùng vui mừng, tuy đã đề xuất kim ngân tiền hoàn (một hoàn bằng sáu lượng) để thưởng việc binh nhung, nhưng chẩn niệm tướng sĩ tuyên lao chỉ có thêm chứ không dừng, lại đặc phái kinh quan gấp đến thay mang lời vàng truyền chỉ khen thưởng để úy lạo tướng sĩ của ta. Khi làm xong việc phủ dụ úy lạo, giao cho Nguyễn Ba kiểm xem địa thế thành trì, thẩm sát dân tình biện sự, nhất nhất đăng ký, chạy ngựa trạm về tâu, để Trẫm được rõ. Lần này phải cấp tướng ấn quan phòng, phàm có chuyên tấu đều theo quan hàm viết rõ, đến như hội hàm triếp tấu, chuẩn song đề, Hữu liên Phủ biên tướng quân tiết chế Trấn Tây Vũ Văn Giải, Tham tán đại thần Doãn, bang biện quân vụ Nguyễn Văn Hoàng, Tả liên Khâm sai đại thần trù biện tuy phủ Trấn Nguyễn Văn Chương, Đề đốc tán lý cơ vụ Long Bình nam Tôn Thất Nghị, để tỉnh giảm phiền văn, còn lại đều như công văn trát cấp, ai nấy theo quan hàm viết thẳng. Khâm thử!

Cung sao Ngự chế thi (kính cẩn chép thơ vua).

Thu tiêu khiển quyển phất mị, trù biên hệ tiệp thành ngâm. Cự mông hạo thiên quyến hựu, tín như kỳ ngôn, muội sảng điện giác dao linh, Thái giám báo hỉ, tấu xưng Thị vệ đại thần đệ trình, Tây chinh quân thứ lộ bố hiến tiệp, vị đống tấu triếp trực đạt dĩ văn, tức ngự điện thị triển, Binh bộ thần xu đình, cao phưng hồng kỳ quỳ tấu: Tây chinh tướng sĩ công tiễu Tiêm Lạp, đạp bình Thiết Lũy, lập định Trấn Tây, phi đệ hồng kỳ, đan trì hiến tiệp đẳng ngữ, ta mừng rỡ biết chừng nào. Thị thần dâng tiếp ngự tiền tiến lãm, ta xem kỹ trên cờ viết to mấy chữ "lập định Trấn Tây" rất rõ, Đặc mệnh trung sứ dâng cờ tâu lên Từ Thọ cung để cùng vui ở Dao đài, mong được động viên trong việc trù nhung, lại mở xem các bản tâu. Theo lời tâu báo nhanh của Khâm phái điều độ quân cơ đại thần Hậu quân đô thống phủ đô thống quyền lĩnh Định Biên tổng đốc Vũ Văn Giải, Binh bộ thượng thư quyền lĩnh Gia Định tuần phủ Tôn Thất Bạch, tâu bày chuyển cứ Đốc sư An Hà tổng đốc Nguyễn Văn Chương, An Giang tuần phủ Doãn, Thự Vĩnh Long đề đốc Long Bình nam Tôn Thất Nghị, chưởng vệ hộ lý An Hà đề đốc Nguyễn Văn Hoàng trì báo, Quan binh liền mấy ngày chinh thảo Xiem La, Chân Lạp, hiện đã đánh phá được thiết tỏa (khóa sắt) ngang sông cùng các sở đồn lũy giặc, đuổi dài lên phía bắc, đứng vững Trấn Tây, hồng kỳ báo tiệp, Trẫm khôn xiết vui mừng, tất cả đều nhờ Hoàng khảo ta dư uy di liệt (uy linh từ trước để lại) mà có, Tướng sĩ đồng tâm vâng lệnh, một trận phá Thiết lũy, giặc khiếp sợ tháo chạy cả đêm, khuynh đảo sào huyệt giặc, cõi bờ cũ của ta lại thu về, công lao như vậy, Trẫm phải nên đặc cách ban ơn, để đền đáp công huân cho tướng sĩ ta. Bèn tuyên cáo trước điện đình các thần công lớn nhỏ ai nấy hớn hở vui mừng, nhưng hãy đợi công trạng sách tâu lên, luận công hành thưởng, các thống soái đại thần, gia tấn quan hàm,ban tứ vàng ngọc và phát xuất bạc tiền, thưởng lạo tướng sĩ, để biểu dương huân lao. Ben cầm bút tả vịnh trường thiên để ghi lại kỳ thường vĩ tích.

Tự cổ cửu di tính mị thường,

Si si điên đảo thử tây khương.

Bản triều hưng diệt gia phong thực,

Lịch thế thê hàng phụng chức phương.

Kế tuyệt di cừu cô nhạn tái,

Trừ hung lăng lịch tích long dường.

Nhất thành cải thổ thâu đề tịch,

Bát tải ninh biên liệt bản chương.

Vô cố khai môn nghênh đạo tựu,

Hốt manh bạt hỗ ám cơ tàng.

Dữ dân hữu tức cô từ biện,

Án hạt nghiêm minh thả mật phường (phòng).

Tứ khích hà tâu chiêu đảng lõa,

Thừa hư dị vực sính xương cuồng.

Bạch mao phạt tội danh thần phụ,

Hoàng việt chuyên chinh ngũ vũ dương.

Nhập khẩu Hà Tiên đô sát phá,

Lai xâm Vĩnh Tế tận tiêm vương (vang).

Thất sơn thử thoán thanh biên khiếu,

Song dữ kình trầm thiếp ngoại dương.

Bại súc lũ tao đồ thố thoát,

Hôn ngoan bất cải hựu si trương.

Biển khi ngu lại tiềm () khá,

Tứ ác hàng man tiệt nã tường.

Phát hịch thiên sư kham thảo nghịch,

Chỉ qua thú tốt túc an lương.

Thư trung dụng mệnh uy thanh tráng,

Quyết chí đồng cừu lữ lực cương.

Tam tiệp dĩ trần thao thắng toán,

Vạn toàn chỉ thị huấn nhung hàng.

Kim phong thôi đốc tề cong phá,

Thiết lũy đào đồ thất thị cường.

Tiểu phái bao vi bài trá mãnh,

Tiền Giang đâu tiễu bố dư hoàng.

Tinh trì vân tập giai kỳ xĩ,

Điện tru tặc bối tận thương hoàng.

Phi xi lạc thủy phân lang bối,

Tị dịch tuy ba nịch khuyển dương.

Tứ dã yên trần tiêu sóc mạc,

Quần hồ thi thủ mãn sa trường.

Lạp tù dạ độn kinh hồn phách,

Tiêm mục tiêu bôn khiếp tử thương.

Quyển tịch trường khu cầm đại đội,

Lê đình ngải tịnh tảo () thương.

Sùng triệu kình lữ tồi kiên bích,

Phiến khắc tướng quân điện viễn cương.

Cát cứ thí khan liêu nhĩ dã,

Quan dung cự ý hữu hà phương.

Phân vân chúng nghị nan đầu bút,

Độc đoán duy dư liệu quát nang.

Thiên lý hồng kỳ phi tấu báo,

Bách lieu đan bệ hiệp xứng dương.

Hoan phu triệu tính truyền trung hạ,

Hỉ dật xung nhân tạ thượng thương.

Tướng hựu tảo năng hân tang sự,

Quyến lưu kỳ địch giáng gia trường.

Tư hoàn vị cánh thừa di liệt,

Thiên thuật dư huy dĩ cận quang.

A hộ sủng linh mông tổ khảo,

Thân trù hiệp đạo tự quân vương.

Tĩnh tuy ích thiết phi bình trị,

Sở hám tuy thư cảm hoặc hoàng.

Tráng cố quan thành kỳ án đổ,

Công lao tướng sĩ mậu khuông nhương.

Ngân hoàn thưởng lạo tiên thi tế,

Châu ngọc thù huân dụng biểu chương.

Thổ trí mạc phiền nhật phủ tự,

Nhu hoài cửu trước nhật khang trang.

Khải ca ẩm chí đàm ân phổ,

Tích tước phân mao diễm sử phương.

mệnh Kim ngô vệ kim ngô trượng ty tả chấp kim ngô (Nguyễn Nghị) đới lĩnh kỵ sĩ tê nghênh hồng kỳ tuyên thị thiên hạ, nhân nhân xưng khánh, xử xứ đằng hoan. Nguyễn Nghị dĩ văn đắc thi tam thủ.

Hồng kỳ phi phất diệu tà huân,

Túc vệ cao thanh bá cáo vân.

Bắc Trục Hồ nhung an viễn khiếu,

Tây chinh tướng sĩ kiến kỳ huân.

Vân đồn hỉ đổ thông cù tập,

Lôi động hoan truyền biến dã văn.

Vũ chuyển tình khai chương hậu quyến,

Thiên hưu quốc khánh ích hàm hâm.

 

Tranh tương tiếu ngữ cộng đàm tình,

Túc tĩnh vô văn nam hạ binh.

Biên thú dĩ tiên bình tích nhưỡng,

Trưng điều bất phí định quan thành.

Y thùy ngọc bội dao hồng huống,

Trữ kiến kim bài trước đại danh.

Đồng tịch () tướng quân phi thực ấp,

Sơn hà đái lệ quốc ân vinh.

Tất kiến điền điền xướng thái vi,

Tình phù tước dược nhất hồng kỳ.

Đô tiêu ủ lũ hân kim nhật,

Lượng thị hiên ngang thăng tích thì.

Kiểu kiểu hảo cừu hoài bão tận,

Sằn sằn mi cập nghĩa đương vi.

Vạn gia tửu thực kê đồn lạc,

Bách thế công danh sự nghiệp thùy.

Dịch nghĩa các bài thơ ngự chế:

Từ xưa bọn rợ tính vốn bất thường,

Ngu si lật lọng là bọn Tây Khương này.

Bản triều hưng diệt đã gia phong nhiều,

Bao đời trèo non vượt biển giữ chức phận ở địa phương.

Nối lại dòng đã đứt, để áo cừu nơi biên tái,

Trừ hung tàn chèn ép mở dạng rồng.

Thành thật sửa đất, lấy trộm bản đồ sổ sách,

Tám năm yên ổn biên giới bày ra văn bản.

Vô cố mở cửa đón kẻ trộm vào,

Bỗng nảy sinh thói ngang ngược, mưu đồ ngấm ngầm.

(ta) Cùng với dân nghỉ ngơi, hằng dần dần tính toán,

Án hạt nghiêm minh, đề phòng cẩn mật.

(chúng) Rình lúc sơ hở, chiêu tập bè đảng ở nơi xa vắng,

Nhân chỗ trống vắng dị vực giở trò điên cuồng.

(ta) trao cờ bạch mao cho danh thần đi hỏi tội,

Trao búa vàng chuyên chinh, đề cao uy vũ của ta.

Bọn giặc vào Hà Tiên, phá tan và giết hết,

Bọn giặc đến xâm lược Vĩnh Tế, cũng tiêu diệt sạch.

Bạch Núi giặc chạy như chuột, biên cương được thanh bình.

Hai đảo cá kình chìm biển lặng êm.

Bao phen thất bại như thỏ chạy thoát,

Tối tăm ngoan cố chẳng đổi lại giương mắt cú.

Dối lừa bọn ngu lại ngấm ngầm trốn thoát,

Kẻ hàng man gây ác phải chặn, bắt, giết.

Phát hịch ra quân đáng hỏi tội kẻ nghịch,

Dừng dáo đóng quân đủ đến an long người lương thiện.

Tỏ lòng trung, tuân theo mệnh, uy thanh mạnh mẽ,

Quyết chí cùng căm thù giặc, sức quân cứng rắn.

Đã báo tin ba trận thắng, nắm chắc kế mưa,

Chỉ thị vạn toàn, dạy bảo phép dùng binh.

Đôn đốc thúc giục cái mũi nhọn cùng công phá,

Lũy sắt, đường dây chẳng còn chỗ cậy mạnh.

Phái quân bao vây, bày các thuyền nhỏ,

Tiền Giang vây quét, bố trí các thuyền gỗ.

Sao lượt mây dồn toàn là cơ xí,

Chớp giật sấm vang, tất cả pháo to sung nhỏ.

Trận ác chiến, các hung binh tranh nhau hăng hái xông lên,

Bị giết nhiều, bọn giặc thảy đều luống cuống.

Giàn trải ra rơi xuống nước chia lang sói,

Trốn theo sóng, lũ dê chó đều chết đuối.

Bốn bề khói bụi tan trên bãi bắc,

Xác chết của giặc Hồ đầy sa trường.

Thổ tù Chân Lạp đang đêm trốn chạy kinh hồn bạt vía,

Tên đầu mục Xiêm chạy cả đảm khiếp hãi cảnh tử thương.

Cuốn chiếu đuổi dài bắt lấy tên đại ác.

Lô đình quét sạch hết đao thương,

Một sớm quân mạnh phá sập vách cứng.

Chốc lát quân tướng đã dẹp yên biên cương xa xôi,

Cát cứ thử xem tạm như vậy,

Quang cảnh nơi quan ải như thế có ngại gì!

Mọi người bàn bạc phân vân khó hạ bút,

Riêng ta quyết đoán liệu mà kết thúc.

Ngàn dặm cờ hồng phi tấu báo,

Trăm quan đều ca ngợi trước bệ son.

Dân chúng mừng vui truyền khắp trong nước,

Ai nấy hân hoan cảm tạ trời xanh.

Đã phù trợ sớm hoàn thành việc tốt đẹp,

Ban phúc thương mến giáng điều lành.

Mong hoàn toàn nối được sự vẻ vang cha ông để lại,

Thuật lại vẻ đẹp để chúc mừng triều đình.

Được anh linh sủng ái của tổ khảo phù hộ,

Trù tính sâu xa hợp đạo nối quân vương.

Việc dẹp yên càng mong sớm có cuộc bình trị lớn.

Tiếc rằng tuy triển khai có lúc còn nhàn nhã,

Mong được gia cố quan ải thành trì cho vững chắc.

Công lao tướng sĩ thật to lớn,

Trước hãy ban tiền bạc để thưởng lạo.

Châu ngọc đền công để biểu dương.

Sắp đặt chức vị đừng phiền hà ngày một vỗ về,

Thương mến động viên ngày một khang trang.

Tiệc khải ca ân sâu rộng khắp,

Ban tước phân phong thơm đẹp sử vàng.

Lệnh cho Kim ngô vệ Kim ngô trượng ty tả chấp kim ngô Nguyễn Nghị dẫn kị sĩ ôm đón cờ đỏ tuyên cáo với thiên hạ, người người chúc mừng, nơi nơi hoan hỉ, Nguyễn Nghị được đọc nghe ba bài thơ:

Cờ hồng phấp phới nắng chiều loang,

Túc vệ hô vang bá cáo rằng:

Đuổi sạch rợ Hồ yên cõi bắc,

Tây chinh tướng sĩ chiến công lừng.

Mây đồn mừng thấy thong đường phố,

Sấm động vui truyền khắp núi rừng.

Mưa tạnh nắng bừng tình thắm đượm,

Phúc trời quốc khánh thảy vui mừng.

 

Đua nhau cười nói thảy chung tình,

Lặng lẽ nghiêm trang nam hạ bình.

Biên thú đã bình nơi hẻo lánh,

Trưng điều không khí chốn quan thành.

Ai đeo ngọc bội quà cao quý,

Mừng thấy kim bài xứng đại danh.

Ban tặng tướng quân thêm thực ấp,

Non song muôn thủa, quốc ân vinh.

Khắp chốn người người hát thái vi,

Nhảy như chim sẻ đón hồng kỳ.

Thôi hết khom lưng, mừng hội mới,

Từ nay đĩnh đạc khác thường khi.

Lạnh lẽo bạn hiền hoài bão hết,

Kịp thời việc nghĩa hãy làm đi.

Muôn nhà rượu thịt vui gà lợn,

Sự nghiệp công danh sáng vạn đời.

Trong tháng viết biểu bày tỏ cảm tạ. Phụng chỉ: Khanh nên ra sức phát huy để xứng với sự ủy thác. Khâm thử!

Rồi nhận được thám báo tướng Xiêm Chất tri, Man tù Sá Ông Đon tự bỏ thành Nam Vang, lui về thành U Đon tử thủ. (Thành U Đon tức mặt đất thành La Bích của nước Cao Man; Chất tri xây thành ở đây để sẵn sàng lui giữ). Bèn chia quân làm hai đạo, Khâm sai đạo binh theo đường thủy tiến bức U Đon. Đạo binh Tham tán lên bộ chặn bắt ở Lô Việt. (Lô Việt hỏi ra cũng nguyên là thành cũ của nước Lục Chân Lạp. Ta đi qua đất ấy, còn thấy có ba tầng thành, dấu cũ hãy còn, từ đây trở lên cao ráo, không có nước. Chất tri cùng quẫn bèn sai người đưa thư xin hòa. Các đại thần ở quân thứ một mặt căn cứ tình hình soạn bản tấu, mặt khác khắc định kỳ hạn, ra lệnh cho Sá Ông Đon đến quân thứ thú tội. (Sá Ông Đon là em trai của cố Phiên vương Nặc Ông Chân. Trước đây Chân là quốc vương có ba người em trai là Nặc Ông Nguyên, Nặc Ông Em và Nặc Ông Đon ở đất Xiêm. Em chết ở Xiêm. Năm Minh Mệnh 20, Nguyên từ BatTamBang phản Xiêm về hàng. Bị bắt giam, sau đưa về An Giang rồi chết. Chỉ còn lại tên Đon cũng bị người Xiêm giam cầm. Nguyên Trấn Tây xảy ra vụ án Ngọc Biện, tướng Xiêm là Chất tri dắt theo Sá Ông Đon để dụ người Man. Hai bên câu kết với nhau, nhiều lần phạm vào biên giới.)

Sau đó (tức là sau khi đưa thư xin hòa), Chất Tri và Sá Ông Đôn (Ang Duong) trì hồi quá hạn. Ngày 28 tháng 9 (âm), [quân nhà Nguyễn] lại chia binh tiến công ở Vĩnh Long (Vũng Long, Kampong Luong). Binh đạo Khâm sai (tức Nguyễn Văn Chương) đánh đường hữu lộ của chúng. Binh đạo Tham tán (tức Doãn Uẩn) đánh đường tả lộ của chúng.Tâu lên.

Phụng dụ: Thưởng quân công ghi chép hai lần, và thưởng chung quân nhân hai ngàn quan tiền. (Ngày này quân ta chia đường tiến công Vũng Long giặc cũng ra quân tử chiến. Khoảng này nước lụt còn dâng. Quân ta thủy lục giáp công. Hải đạo thì phóng hồng y đại hạng pháo, nhỏ nhanh thì phóng qua núi. Giặc cũng vận nhiều qua núi hoặc dựa thế cao, hoặc phục ở hào, cũng đối phó, đạn rơi như mưa, từ giờ Dần đến giờ Dậu, mỗi cỗ pháo bắn đến 160 phát, xác chết khiêng đi tính ra hơn trăm, phơi xác ngoài đồng đến hơn ba chục. Sau đó hai đạo đánh đồn suốt mấy ngày, lớn nhỏ hơn ba chục đồn và đắp nhiều núi đất, vận chuyển hồng y đại pháo, bắn vào lũy giặc. Giặc đem hết quân ngầm xây lũy dài, dựa thế hiểm mà phóng pháo, ngày đêm liên thanh, phi đạn từ hơn tấc đến ba tấc nhiều vô kể, ta gần đây từng trải trận mạc, chưa từng ác chiến như thế bao giờ. Quan binh xông pha tên đạn, thật là không thể quản gì đến thân mình. May khỏi tử thương, là do phúc hay do mệnh, ta quả thật không hiểu được.

Hơn hai tuần (khoảng hơn 20 ngày), quân ta tiến đánh lũy giặc, chỉ hơn 20 trận. Ngày 20 tháng mười (âm), đảng giặc ở trên lũy (thành Ô Đông) xin quan quân ngừng đánh đồn phóng pháo, để Chất Tri phái người đến quân thứ xin hòa. Vài ngày sau đó, [Nguyễn Văn Chương và Doãn Uẩn] mới tiếp tục phát gửi tờ tâu đệ tiền kỳ. Trong bản tâu có châu phê (lời vua): Giặc Xiêm thế cùng lực kiệt, vẫy đuôi xin tha, khẩu thỉnh cầu hòa, chẳng phải là không có kế hoãn binh. Mà xem thế chúng, ta đánh thì tất thắng, giữ thì khó, nên sắp xếp thế nào để được thể? Nội trị được vĩnh ninh, biên cương ngoại yên, nhiếp phục được ngoại di. Giao cho các đại thần mau chóng bàn bạc tâu lên. Khâm thử!"    

Các đại thần văn võ họp bàn, thấy rằng đương lúc này binh uy vang động. Ta đã chiếm thế thượng phong. Hãy tạm hòa với chúng. Cho quân dân được tạm nghỉ sức, thì cũng chẳng đến nỗi không là thượng sách. Ngoài ra phụng thượng dụ: Triều đình nặng nghĩ binh dân, cũng là đắc sách, nếu chúng quả hạ giọng uốn gối, y ước thỉnh hòa, thì có thể cúi xuống mà theo lời xin, để thư nới sức của binh dân. Khâm thử! Bèn bàn với Khâm sai đại thần, hãy tạm nghe chúng khất hòa. Ngày mồng 3 tháng mười một, Chất tri dẫn bộ lạc đến quân thứ và dẫn Man tù Sá Ông Đon đến quân thứ thú tội. Sá Ông Đôn tiếp đó lại có thư thỉnh tội, xin giúp đề đạt. Trước đây, Chất tri đã ủy lệnh cho đại đầu mục Xiêm là Phiya Ta-sơ-tê-côn là quan nhất phẩm của Xiêm, Sá na lăng do quan tam phẩm của Xiêm đến trước quân nói rằng sẽ phái người thông thuyết, nhưng vì ngôn ngữ bất đồng, thông dịch không thể đạt ý, này Chất Tri xin dẫn hết bộ lạc tự mình đến thuyết hòa, mới được rõ ràng, lại xin dẫn Sá Ông Đon và các thổ mục đương diện tạ tội. Ta cùng Khâm sai bàn nhau: Binh pháp nói rằng "bách chiến bách thắng, phi thiện chi thiện; bất chiến nhi khuất nhân binh, viễn vi thiện chi thiện" (trăm đánh trăm thắng không phải là hay nhất trong mọi cái hay; không đánh mà khuất phục được quân của người, mới là hay nhất trong mọi cái hay). Nay dẫu có thể đuổi dài lên bắc, chúng tất thua, nhưng mai kia vị tất chúng chẳng có mưu đồ rửa nhục, chi bằng hẵng cho chúng hòa, để được yên việc, bèn sức cho làm một sớ hội xá, hai bên gặp nhau. Ngày mồng ba tháng mười một, trước hết phái hơn ngàn tuần sát đàn áp biền binh phòng bị nghiêm ngặt. Giờ Tị theo báo cáo Chất Tri từ thành U Đôn dẫn trăm thớt voi đực, hơn ngàn Xiêm đảng, kèm theo Xiêm cổ súy kèn trống đến. Quân ta đồn trú chính gần nơi hội xá, bèn nghiêm ba hồi trống, trương nhiều cờ xí, chỉnh tề đội ngũ, dóng trống tiến lên. Ta cùng Khâm sai ngồi xe mềm đến gần hội xá, đã thấy Chất Tri xuống voi đi bộ, triệt bỏ Man nhạc, đàn voi mang theo phân chi đứng nghiêm. Quan binh ta vào cửa tả, Chất Tri vào theo cửa hữu, bọn chúng đưa tay lên trán chào, ta cũng chào đáp lễ. Ta cùng Khâm sai ngồi ở chính đường, Chất tri thì ở nhà bên. Lúc đó, quan binh ta từ Lãnh binh trở xuống đến Quản vệ cơ suất đội nhân, ai nấy đeo đao đứng cạnh đông đến mấy trăm. Khâm sai đang bị sốt rét, gắng gượng bệnh mà tới, ta trước tự liệu trong bụng, vạn nhất bọn giặc kia manh tâm phản trắc thì bọn chúng đều phủ phục mà quan binh ta thì đứng như núi, đã chiếm thượng phong, chúng không thể giở trò. Huống chi ta lấy lòng thành mà cảm, thì chúng không thể không lấy lòng thành mà ứng, còn nghi ngại gì! Ngồi đâu đấy rồi, Chất Tri sai một tên Xiêm mục đem một tờ giấy đen của Xiêm đệ trình, trong đó viết phấn bằng chữ Hán nói rằng Phiya Chất Tri lần này đến chỉ để xin được trùng tu cựu hiếu (sửa lại tình hòa hiếu cũ), khiến Sá Ông Đon được phụng thờ làm bề tôi của cả hai nước lớn. Xin hai đại thần định liệu. Tâu lên Thiên hoàng đế, cúi xuống ban cho chuẩn doãn, Thì Chất Tri đội ơn vạn bội, mà hai vị quan lớn danh thơm phúc dày, muôn đời không hết vậy. Xem xong, y chỉ vào Sá Ông Đon nói rằng: "Xin được gửi mạng cho hai vị quan lớn, mong được rủ lòng thương, tâu xin cho nó để nó được phụng thờ làm bề tôi đại quốc, chiếu quản Man dân, cũng được đội ơn mãi mãi vậy." Ngồi vài khắc giờ rồi đính ước hưu binh, chờ tấu thuyết xong hồi quân. Sau đó thấy Sá Ông Đon có thư thỉnh tội, quân thứ căn cứ tình hình đề đạt  giúp ý.     

Ghi chú: Phi ya Chất Tri là đại tướng của Xiêm. Từ thời Minh Mạng đã công phá Viên Chăn. Người Xiêm bỏ hòa hiếu tìm thù địch. Y tự chuyên việc biên giới. Nhiều lần đến xâm lược đều là do y gây sự. Bị quan binh ta đánh bại, không biết đã mấy lần rồi. Lần này bại ở Thiết Thằng (đồn dây sắt), bỏ Nam Vang (Phnom Penh), thoái thủ U Đon (Oudong), thế lực đã quẫn, bất đắc dĩ đem cái mặt dày tự đến thuyết hòa, là chúng đã hết trò rồi. Trong khi ngồi, ta (Doãn Uẩn) nhìn y tuổi đã ngoài bẩy mươi mà sức vóc khỏe mạnh, nói năng trôi chảy, cử chỉ giao tiếp rất thành thạo. Người xưa nói, "Kỳ tài anh khí bất tất trung hạ, cao kiến mẫu thức bất tất độc thư" (khí phách kỳ tài không cứ phải trung hạ, trông xa biết rộng không cứ phải đọc sách) quả có như vậy.

Ngày 11 tháng mười, vợ lẽ sinh con trai thứ năm là Cát. (Ngày Kỷ Hợi, giờ Nhâm Thân, sinh ở quân thứ Trấn Tây, vì sinh ở trong quân nên đặt tên là Cát).

Ngày 17 tháng mười một, phụng mã phát, phụng thượng dụ: "Theo lời tâu, lần này Chất Tri đãn theo Man mục tên Đon, thân đến trình diện khẩn khoản, đi bộ, ngồi cạnh bên (không dám ngồi giữa) đã cam uốn gối van xin, các đại thần chỉnh túc binh vệ nghiêm trang, hội thứ tọa đàm, trước sau đều chiếm thế thượng phong, cũng là đắc thế, thật rất đáng khen. Ôi, không đánh mà khuất phục được binh người, cũng là đắc sách vậy! Huống chi chúng đã hạ giọng mà van xin, xuất phát từ chân thành, nên có thể hạ cố lời cầu xin của chúng. Còn tên Đon đã dẫn thân cúi đầu đầu hàng, lại có thư thú tội, ta cũng chuẩn cho quân thứ, truyền thị cho y đã biết trói thân thú phục, triều đình khoan dung miễn tội, cho y được mãi mãi làm tôi tớ. Khâm thử!"

Trong tháng lại phụng dụ: Thưởng một chiếc áo nhung cắt hoa chân lan, ngoài ra lại phụng gia thưởng một chiếc áo lót nhung đoàn long bát bảo.

Ngày 29 tháng mười, Cơ mật viện thần diện phụng thượng dụ (trực tiếp nhận dụ): Theo tấu báo mã đệ của Vĩnh Long (Vũng Long) quân thứ Khâm sai đại thần Nguyễn Văn Chương, Tham tán đại thần Doãn về tình hình hiện tại, phi lãm đã rõ, tức đã phê thị vậy. Hơn nữa các khanh đã tuyên uy cho đất nước, lâu ngày vất vả ở ngoài, làm bề tôi vốn đã làm hết chức trách nên làm. Và Trẫm thường vẫn nhìn về tây canh cánh trong lòng, không lúc nào nguôi. Nay gặp thời tiết giữa đông, khí lạnh rét buốt, vũ điện truyền áo cầu, phàm tướng biền to nhỏ ai nấy đã được mệnh chế áo mùa đông, chạy ngưa trạm ban cho cả rồi. Trạnh nghĩ đến hai khanh từ ngày cầm quân chinh tiễu đến nay, gian khổ không từ, nhiều lần lập công tích, nên Khâm sai đại thần Hiệp biện đại học sĩ Nguyễn Văn Chương được gia thưởng một chiếc áo lót nhung ngự phục thiên thanh đoàn long bát bảo, Tham tán đại thần Binh bộ thượng thư Doãn được gia thưởng một chiếc áo lót nhung ngự phục quan cầu đoàn long bát bảo để bày tỏ lòng ta cởi áo ban cầu. Các khanh đều là bề tôi cánh tay tâm phúc của ta, tại sở giản chú, đang phải nhân cơ hội này cổ lệ sĩ khí để sớm hoàn thành tốt đẹp công việc được giao, để được thượng thưởng. Khâm thử!

Lại cùng ngày, Nội các thần phụng thượng dụ: "Thời tiết rét buốt, trăm quan chấp sự quần công trong kinh đô đều được ban áo mùa đông, nghĩ đến tướng sĩ tây chinh vất vả ngoài biên tải, móc nặng sương dày, vác giáo gối gươm, Trẫm canh cách trong lòng không thể nào nguôi, lệnh cho tư thiên phủ thần chế ra áo nhung đại hồng chân lan quan cầu các sắc hoa ban cho Vũ Văn Giải, Nguyễn Văn Chương, Lê Văn Phú, Doãn Uẩn, Nguyễn Văn Hoàng mỗi người một chiếc. Khâm thử!" (Chánh phó Lãnh binh loan nha tức bao lam dương hoa khoáng nhung y mỗi người một chiếc, Chánh phó quản cơ cho đến suất đội và tòng chinh văn võ quan viên, cấp mỗi người một chiếc áo mùa đông).

Trong tháng, tâu báo tình hình quân thư, phụng châu phê: Doãn mỗ lâu nay khó nhọc vất vả, cũng ban nhân sâm diên thọ (kéo dài tuổi thọ). Khâm thử! (Ngoài ra được phát đệ thượng phương khánh trực nhân sâm 3 củ, Ngự phẩm quan đông nhân sâm 1 củ). (Nguyễn Văn Chương bị bệnh, vào tâu, được ban sâm quế điều trị).

Năm thứ sáu, tháng giêng, từ quân thứ Vĩnh Long (Vũng Long) rút về Trấn Tây nghỉ ngơi. Tháng tư, kỳ hội hàm thỉnh an triếp (gửi tờ tâu thỉnh an) phụng châu phê, đặc tứ san hô bội một chiếc, ngự thi một bản. (bản ngự thi chép riêng để cất giữ). Tờ tâu lên, phụng châu phê: "Tờ tâu đến kinh đô, vừa lúc chính ngày Tứ tuần vạn thọ, Trẫm xem tờ tâu, lời lẽ vui mừng, dao tụng sơn ngôn, khác nào ở triều ban, thấy rõ lòng thành. Trẫm nghĩ các khanh do phải ngăn trở vì việc an biên, không thể về dự đình yến, Đặc ban cho Vũ Văn Giải, Nguyễn Văn Chương mỗi người một chiếc chân châu bội, Lê Văn Phú, Doãn Uẩn, Nguyễn Văn Hoàng mỗi người một chiếc san hô bội để tỏ lòng quyến niệm biên thần rất mực. Trẫm được mạnh khỏe luôn, nay truyền chỉ để các khanh mừng. Các  khanh vất vả vì nước, Trẫm ghi chép lại, công lưu sử sách, nay kèm ban ngự thi, các khanh nên đọc kỹ, rồi theo thứ tự cùng Cơ mật viện đại thần phụng sắc tư biện. Các việc đó làm xong, thật là tốt, để sớm hoàn ca, vua tôi cùng mừng, binh dân nghỉ sức, thì vui biết bao. Phải nên rất mực thận trọng quốc thể, đừng để ngọn núi chin nhận thiếu một sọt đất khiến người ta phải hối tiếc vậy. Khâm thử!

Tháng mười hai, Man tù Sá Ông Đon sai sứ lên Kinh xưng thần nộp biểu, phụng cống (Theo tiền lệ, voi đực hai con, tê giác hai tòa, ngà voi một đôi, sa nhân mễ, đậu khấu, trần hoàng, tử nghĩ (kiến tím), hoàng lạp (nến) mỗi thứ 50 cân, sơn sống 20 ổ, chánh sứ, phó sứ, bồi sứ mỗi chức một người. Man tự biểu văn bản chính bản phó mỗi thứ một bản, quân thứ phái thêm hộ tống Phó vệ Hoàng Văn Bằng, Chủ sự Phạm Văn Chính, Cai đội Trần Đình Giảng và 2 tên thông ngôn đến Gia Định chờ tiến chỉ. Quân thử làm bản tấu để thỉnh, sự hạ đình nghị, cho rằng nén theo sở thích, bản tấu được châu phê: Lãm tấu, trung ngoại thần công (các bề tôi trong ngoài triều) hợp từ hội nghị thỏa đáng, chuẩn y nghị, Ngày 27 tháng này, sứ thần ấy từ Gia Định theo trạm dịch lên kinh đô. (Sứ cùng các viên biền hộ tống và người đi theo đều được cấp ngựa trạm. Cống phẩm ngà voi, tê giác, đậu khấu dâng theo đường bộ, còn nữa thì chờ thủy giải, voi giữ ở Gia Định).

Năm thứ 7, tháng giêng, hội hàm làm bản tấu xin phong Sá Ông Đôn làm Cao Man quốc vương, Mỹ Lâm quận chúa làm Cao Man quốc chúa, cho được đoàn tụ, cùng quản Man dân. Tháng hai phát đến, phụng thượng dụ: Sá Ông Đon được phong làm Cao Man quốc vương, ban cho sắc ân. Ngọc Vân được phong là Cao Man quận chúa, hiệp đồng Sá Ông Đon chăm quản thổ dân, mãi mãi làm phiên phục. Khâm thử!

Ngoài ra lại phụng thượng dụ: Ban thưởng chư đại thần các khoản vàng ngọc (Phụng thưởng gia trác dị một cấp, nhẫn mép ngọc đại kim cương nạm vàng một chiếc, thẻ lương ngọc bội một chiếc, tiền vàng vạn thế vĩnh lại một đồng, nhị nghi kim tiền một đồng). Sắc ban An Tây mưu lược tướng cấp cho thẻ vàng (Thẻ một mặt viết An Tây mưu lược tướng, một mặt viết Thiệu Trị ngũ niên Tây chinh đãng bình Xiêm Lạp, lập định Trấn Tây ninh tập biên thùy thưởng công).

Năm Thiệu Trị 7, ngày mồng 6 tháng hai, Nội các thần Vũ Phạm Khải, thần Lê Chân phụng thượng dụ: Lần này Man tù quốc duệ Sá Ông Đon xin ủy cho Man thuộc kính dâng biểu văn, đến Kinh đô xưng bề tôi phụng cống, dịch ra cống biểu, trong đó kể rõ ơn đức của Triều đình như trời như đất, Man duệ này cùng với Man dân lớn bé nhờ được bình an, nguyện giữ lòng trung thành mãi mãi làm tôi tớ, như chuyện tổ phụ này, lời lẽ rất cung thuận, xuất tự tâm can, rất đáng xem xét. Hơn nữa Man quốc này ở xa biên thùy Lạp, Tổ phụ này là tôi tớ của bản triều, đời đời phụng cộng cầu triều đình phong thực cho, dẹp yên cho, thấm nhuần thanh giáo, chẳng phải chỉ có một ngày. Từ Nặc Ông Chân không có người nối dõi, ủy cầu nữ lực, trong nước này từ đó lắm việc. Trước đây Man duệ này nương thân ở nơi xa, còn mang ngờ vực sợ hãi, man liêu gây ra sự việc, đất Lạp quấy rối. Trẫm nghĩ đến phương dân này, không nỡ xem nhẹ, bỏ mặc, cho nên sai tướng xuất quân, tùy cơ đánh dẹp, thật là để tỏ rõ uy trời thảo phạt, dẹp yên biên manh đó, vốn không phải là lấy đất đai của nó làm lợi. Nay Man duệ này đã biết hối tội mà tỏ lòng thành, khoản quan phụng công, được các đại thần lên tiếng xin hộ, đúng là có thể khoan thứ quá vãng của chúng, cho chúng tự sửa đổi. Ôi, hưng diệt kế tuyệt, đức chí nhân của bậc đế vương, tích nhưỡng khải phong, tất lấy chính danh làm việc trước hết. Man duệ này đã được man dân sở hệ thuộc, vả lại man quốc ấy mới định yên, rất nên nhân tập trao cho, để chính kỳ danh xưng, cho y thống nhiếp Man dân, để gửi gắm nguyện vọng quay về. Sá Ông Đon được phong làm Cao Man quốc vương, ban cho sắc ân. Và Ngọc Vân con gái của cố phiên vương, trước được ban phong làm Cao Man quận chúa, kế đó vì nước đó có việc, cải phong làm Mỹ Lâm quận chúa. Nay triều đinh phục định nước ấy, Ngọc Vân được phục phong làm Cao Man quận chúa, hiệp đồng Sá Ông Đon chăm sóc thổ dân, để bảo toàn cái nghiệp của phiên vương Chân, mà mãi mãi làm phiên phục, việc phong điền ấy hợp hành sự nghi, giao bộ Lễ thỏa nghi tâu lên, đợi chỉ thi hành. Khâm thử!

Năm Thiệu Trị 7, ngày mồng 8 tháng hai, Cơ mật viện thần Trương Đăng Quế, thần Hà Duy Phiêu, (thần Phan Thanh Giản, thần Nguyễn Đức Hoạt) phụng thượng dụ: Nay căn cứ theo lời tâu của Phủ biên tướng quân Tiết chế Trấn Tây Vũ Văn Giải, Khâm sai đại thần Trù biện phủ truy Trấn Tây Nguyễn Văn Chương, Tổng thống tiễu phủ quân vụ Lê Văn Phú, Tham tán đại thần Hội biên ninh tập Trấn Tây sự vụ Doãn Mỗ, Thự đề đốc Bang biện quân vụ Nguyễn Văn Hoàng đem công việc trù nghĩ sắp xếp thuộc phiên do mã đệ nhập tấu bản, xem lời tâu đã biết trước, và các khoản của quân thứ, căn cứ lời lẽ hồi đáp của bên kia đã nhiều phần khuất ý cầu thành, không dám lật lọng như trước Hẳn là ý của Chất Tri muốn được tên Đon một nhà đoàn tụ là ơn của mình. Đem báo Xiêm tù, cướp làm công tích, cho nên khoản ở riêng còn phí nhiều lời, còn lại đều nhất nhất nghe theo, không có ngăn trở gì khác, đây cũng là sự giảo quyệt của Chất Tri. Nhưng tên Đon hiện đã xưng thần phụng cống, ta nhân đó mà vỗ về y, cho y đoàn tụ, cùng Ngọc Vân chăm sóc thổ dân, danh nghĩa tịnh tồn, nghĩ chẳng có phương hại gì cho quốc thể, tuy trù biện chưa phải là thượng sách, mà quyền nghi xử trí cũng nên làm như vậy. Huống chi hưng diệt kế tuyệt, là nghĩa đương nhiên. Nay Man quốc mới yên định, vốn nên trước chính kỳ danh xưng, để vỗ về nguyện vọng quay về. Sá Ông Đon được ban phong làm Cao Man quốc vương, với quận chúa Ngọc Vân được phụng nguyên phong, hiệp quản Man dân để tồn kỳ nghiệp. Duy quy đặt tên Bướm và các tên phiên mục trước đã theo quan, hoặc muốn lưu cư, hoặc muốn theo về, các đại thần phải gia tâm chăm sóc, cốt được thỏa hiệp nhân tình, cho lớn nhỏ đều được yên ổn, không phụ cái lòng thành quy thuận của họ là được. Nay công việc đã ổn, hẹn ngày ban sư chấn hỉ, sẽ có lời dụ thị khác để tuân hành (Định ngày triệt binh và sức phục man tù tu thư các khoản, thật chẳng phải việc gấp ngày nay, Chớ nên nhắc đến nữa. Còn như trách hoàn những gì đã bắt được, và bọn Chất Tri tuy giảo, cũng không thể nhòm thấy manh mối, những việc còn lại ta đã biết rồi. Dụ này lập tức phát đi. Khâm thử!

Năm Thiệu Trị thứ 7, ngày mồng 7 tháng hai, Cơ mật viện thần phụng thượng dụ: Việc Trấn Tây biên vụ, đã ủy trách cho các đại viên các hạt An Hà cùng nhau bàn bạc trù biện, đã thuộc nhiều người đều không thể thỏa tế, động phiền Triều đình chú thố, Nam cố oanh hoài. Tự giản mệnh Vũ Văn Giải đặc thụ Phủ biên tướng quân thống chưởng điều độ, Khâm sai đại thần Nguyễn Văn Chương, Tham tán đại thần Doãn Uẩn, Thự đề đốc Nguyễn Văn Hoàng, một trận đánh Tiền Giang phá liền Thiết Thằng, lập định Trấn Tây, vây bức U Đon, Xiêm Lạp kinh sợ, đầu mục giặc vâng ước, Man tù đầu hàng. Kế đó sai Lê Văn Phú tổng thống tiễu bắt, hiệp đồng thương biện, các đại thần nhất tâm đồng đức, tuy phủ tập ninh (vỗ về dẹp yên), không đánh mà khiến người khuất phục, Man di thần phục, đóng thuế quan nộp cống, dâng biểu lên triều đình. Thật là công tích lỗi lạc, đáng được trọng thưởng. Ngoài việc ghi nhận thành tích chờ khi hoàn thành việc lớn tốt đẹp, khải ca về chầu, luận công hành thưởng, ban tước vinh phong, chờ sau này sẽ có chỉ dụ, nay hãy thưởng trước cho Vũ Văn Giải, Nguyễn Văn Chương, Doãn Uẩn, Lê Văn Phú mỗi người một cấp trác dị, Nguyễn Văn Hoàng gia đới tùy một cấp, lại gia thưởng Vũ Văn Giải một chiếc nhẫn thành ngọc khảm hạt kim cương lớn, phía trên nạm vàng viền trân châu, một chiếc thẻ bội bài dây đeo san hô ngọc tốt trân châu, một đồng kim tiền lớn có dây đeo long vận khế hội; gia thưởng Nguyễn Văn Chương một chiếc nhẫn thành ngọc khảm hạt kim cương lớn, phía trên nạm vàng viền trân châu, một chiếc thẻ bội bài dây đeo san hô ngọc tốt Cát tường phúc trạch, một đồng kim tiền lớn có dây đeo Vạn thế vĩnh lại, một đồng kim tiền vừa có dây đeo long vận khế hội; gia thưởng Lê Văn Phú một chiếc nhẫn thành ngọc kim cương lớn viền vàng, một đồng kim tiền có dây đeo Tam thọ; gia thưởng Doãn Mỗ một chiếc nhẫn thành ngọc khảm hạt kim cương lớn viền vàng, một chiếc thẻ bội bài dây đeo san hô ngọc tốt Bình an, một đồng kim tiền vừa có dây đeo Vạn thế vĩnh lại, một đồng kim tiền có dây đeo Nhị nghi; gia thưởng cho Nguyễn Văn Hoàng một chiếc nhẫn thành ngọc kim cương vừa viền vàng, một thẻ bội bài ngọc tốt Ứng dương, một đồng kim tiền Tứ mỹ, đều dùng chiêu tưởng lệ. Ngoài ra Vũ Văn Giải nguyên là đại đình nhữ đề diện mệnh, chế khổn quyền long, một thời gian vì mắc bệnh, tuy không phải xây thành hãm trận, sau đó lại gượng bệnh theo quân, tất tâm điều độ, doãn hợp sự nghi, tiến đóng Vĩnh Long, vây bức U Đon, khiến giặc Man thế cùng lực khuất, van xin cầu thành, bèn thăng trướng thụ hàng, khuất phục được quân người mà không cần đánh, lâm cơ ứng biến, đưa biên cảnh vào thế vô lo, là viên soái tướng trung hậu vũ lược, nay sắc ban Vũ Văn Giải là An Tây trung vũ tướng, cấp cho thẻ ngọc lành, Nguyễn Văn Chương trong trù cơ vụ, ngoài đổng binh nhung, đánh trận Thiết Thằng thực có mưu đầu, lại thừa thế thắng, lập định Trấn Tây, tiến bức U Đon, than trong hàng ngũ, đánh đâu thắng đó có thể gọi là trí dũng kiêm bị (có đủ trí dũng), nay sắc ban Nguyễn Văn Chương làm An Tây trí dũng tướng, cấp thẻ vàng, Doãn Mỗ tiết thứ Thông Bình đánh trận Sách Sô, lập được công đầu, và phá Thiết Thằng, định Trấn Tây, đánh Vĩnh Long, bức U Đon đều là đánh đâu thắng đó, mưu lược tài năng, nay sắc ban Doãn Mỗ làm An Tây mưu lược tướng, cấp cho thẻ vàng (hoàng kim bài); Nguyễn Văn Hoàng trải theo đánh dẹp, đã từng tự mình đi trước quân lính, xông pha tên đạn, giết giặc lập công, đáng gọi là tuấn kiệt, nay sắc ban Nguyễn Văn Hoàng là An Tây tuấn kiệt tướng, cấp thẻ vàng, cho đeo trường dụng tinh biểu nhung công, trường thừa sủng huống. Còn lại từ Lãnh binh trở xuống cho đến viên biền ngoài việc lần lượt công phá Thiết Thằng Trấn Tây trước đây đã được thưởng ra, nay chiếu từ Vĩnh Long đến vây bức U Đon về sau, hễ ai đã dự tòng chinh có công tích đều do các đại thần kê xét, thảy đều phân hạng liệt kê công trạng sách tấu lên, ngoài ra tiến hành bình công ban thưởng. Dụ này lập tức tiên phát tuyên thị, để úy lạo các đại thần lâu ngày lo việc biên cương, tỏ lòng ưu ái cua Trẫm, Những ai đáng được thưởng hạng thì lập tức sai thị vệ khẩn trương chạy ngựa trạm mang đi ban cấp. Khâm thử!

Năm Thiệu Trị 7, ngày mồng 9 tháng ba, Cơ mật viện chúng thần ... trực tiếp phụng thượng dụ: Nước Cao Man đời đời làm phiên phụ, thời gian qua vì biên thần phủ ngự không thỏa đáng, Man dân tự nổi lên không yên, động phiền triều đình mệnh tướng xuất quân, lên tiếng hỏi tội, trước nhổ Sách Sô, rồi phá Thiết Thằng, lập định Trấn Tây, tiến bức U Đon, thiên binh đến đâu thì thế như chẻ tre, đầu mục Xiêm La là Chất Tri cúi đầu xin theo, Man tù Sá Ông Đon đến quân thứ mà thú phục. Kìa quân nhân nghĩa của bậc đế vương, đường đường chính chính, làm phản thì hỏi tội để thị uy với kẻ không phục tùng, còn đã khuất phục thì tha cho, không truy hỏi quá khứ, hoằng khai lòng nhân ba mặt, để rộng đường cho tự sửa mình. Nay nước này từ Sá Ông Đon cho đến Man thổ mục sứ tỏ lòng thành, xưng thần nộp cống, trèo non vợt ải đến tỏ bày trước triều đình, ta bèn xét lòng thành thần phục, đặc cử nghĩa hưng diệt kế tuyệt, liền sai khâm sứ soát định chế cáo tước ấn sắc dụ đến tuyên phong cho Sá Ông Đon làm Cao Man quốc vương, phục phong Ngọc Vân làm Cao Man quận chúa, chuẩn cho đoàn tụ, hiệp đồng chăm sóc Man dân, kính giữ chức cống, mãi làm phên giậu, từ nay biên cảnh yên ninh, tương an về sự vậy. Nhân nghĩ các đại thần cầm quân đánh dẹp, cần lao tại ngoại đến nay đã ba năm, cho đến tướng biền binh dũng, tỏ lòng trung nghĩa nơi cương trường, không tiếc sức mình, trước đã giáng dụ sắc ban An Tây chư tướng thưởng vàng ngọc thẻ bài và ban thưởng thượng phương trân châu quý phẩm hạng, gia các đẳng cấp đặc biệt, phái thị vệ mang đến ban cấp, lại cho lập bảng công trạng đối với lãnh binh trở xuống, để chờ ban ơn thực thi chức năng tinh thưởng của triều đình, vốn đã ghi nhận đầy đủ từng ly từng tý. Nay xét biên phương đều được giáo hóa, công lớn đã thành, bèn truyền dụ cho Phủ biên tướng quân Tiết chế Trấn Tây thống hạt tiền quân đô thống phủ đô thống An Tây trung vũ tướng Vũ Văn Giải, Khâm sai đại thần trù biện tuy vũ Trấn Tây biên vụ thự Hiệp biện đại học sĩ An Tây trí dũng tướng Nguyễn Văn Chương, Tổng thống tiễu bổ quân vụ Định biên Tổng đốc Lê Văn Phú, Tham tán đại thần Hội biện ninh tập Trấn Tây sự vụ Binh bộ thượng thư An Tây mưu lược tướng Doãn Mỗ, Thự An Giang đề đốc bang biện Trấn Tây quân vụ An Tây tuấn kiện tướng Nguyễn Văn Hoàng, các khanh tiếp cử khâm sứ đi đến nước này tuyên phong lễ thành, thì truyền chỉ hiển thị cho phiên vương quận chúa và các phiên mục nước này, đại lược rằng: Nay quốc vương thật lòng quy phục, được triều đình ưu gia phong điển, mãi mãi làm tôi tớ của triều đình, tất cả nhân dân đất đai bờ cõi đều được thưởng hoàn, khiến họ hiệp đồng chăm sóc, lớn bé một lòng, chớ nghi ngờ lẫn nhau, kính cẩn tuân theo quy củ, giữ mãi lòng thành để được ân sủng. Bảo quân muôn định ngày khởi hoàn triều cận, cho biết triều đình làm việc chính đại quang minh, phiên phụ thần dân đều biết cảm kích, rồi chọn ngày lành đem đại đội quan binh tấu khải ban sư, kéo về nghỉ ngơi, chờ vâng tuyên triệu lai kinh, ban tiệc sách huân, để đền đáp công tích. Dụ này lập tức phát đi tuân hành. Khâm thử!

Ngày mồng 9 tháng ba phụng thượng dụ điều Thự An Hà Tổng đốc. Năm Thiệu Trị 7, ngày mồng 9 tháng ba, Nội các thần Tôn Thất Cáp, thần Vũ Phạm Khải, thần Lê Chân phụng thượng dụ: Lần này công lớn Trấn Tây đã thành, biên cảnh được an ninh. Trẫm nghĩ các đại thần nơi quân thứ cùng Tây chinh tướng sĩ bao năm ở ngoài, vất vả khó nhọc đã lâu, đã được giáng dụ chuẩn theo lời tấu khải ban sư triệt hồi An Giang nghỉ ngơi rồi. Nay giao cho Phủ biên tướng quân Tiết chế Trấn Tây thống hạt Tiền quân đô thống phủ đô thống An Tây trung vũ tướng Vũ Văn Giải, Khâm sai đại thần Trù biện tuy phủ Trấn Tây thự hiệp biện đại học sĩ An Tây trí dũng tướng Nguyễn Văn Chương, Tổng thống tiễu bổ quân vụ Định Biên tổng đốc Lê Văn Phú, thự An Giang đề đốc Bang biện Trấn Tây quân vụ An Tây tuấn kiệt tướng Nguyễn Văn Hoàng đều chuẩn cho theo ngựa trạm về kinh triều cận. Tham tán đại thần Hội biên ninh tập Trấn Tây sự vụ Binh bộ Thượng thư An Tây mưu lược tướng Doãn Mỗ, cùng các đại thần đều là người đồng công cộng sự, Trẫm rất tín nhiệm. Vốn nên nhất loạt tuyên triệu về kinh cùng uống đến say để đáp công lao, nhưng giờ đây giữa lúc biên thùy phía tây vừa ổn định, biên địa tạm yên, các công việc sắp đặt dọn dẹp sửa sang tất phải lưu trọng thần ở lại để trấn an. Doãn Mỗ được điều Thự An Hà tổng đốc, Khanh hãy vì Trẫm lưu lại trấn biên, vì có tay quen, giúp cho đất Lạp yên ổn lâu dài rồi sẽ tuyên triệu về kinh chiêm cận, cũng chưa muộn vậy. Khâm thử! (Ngày rằm tháng tư, hội đồng phát đệ biểu triếp giấy đỏ bì vàng. Chư đại thần lên kinh, còn ta tiếp biện tỉnh vụ).

Tháng năm ngày mồng 8, phụng ngự bút châu phê: Thưởng thụ An Hà tổng đốc. Dụ rằng: Ba năm đại tỉ, bách tích khải công là việc đại chính của quốc gia. Tháng giêng năm nay, gặp kỳ đại kế, lần lượt chuẩn cho các đại viên ở ngoài kinh, ai nấy có văn bản tự trinh bày. Hai bộ Lại và Binh tập hợp sự trạng danh sách dâng lên. Trẫm kiểm duyệt kỹ, lọc kỹ quan phương, đánh giá cân nhắc, bình luận công bằng, như thi hành chính sự, giúp cho bình trị, phục viễn an biên (giữ yên biên thùy, khiến nơi xa thần phục) đều có bề tôi hiền lương. Nếu như chỉ lo than cho xong việc, bù nhìn ăn không, thì gián hoặc cũng có hạng tồi tệ kém cỏi như vậy, thì tất phải khuyến trừng. Cần phải xem xét thẩm tra giám định. Ngự tiền đại thần Thái tử thái bảo trung quân đô thống phủ đô thống Chưởng phủ sự Vũ Lao hầu Tạ Quang Cự, Ngự tiền đại thần Đông các đại học sĩ lĩnh Lại bộ Thượng thư Vũ Xuân Cẩn, một là huân cựu lao năng, một nữa là thuần thành luyện đạt, đều là tuổi cao vào hàng kỳ diệt mà tinh thần tráng kiện, đi lại siêng năng, ban cho Tạ Quang Cự, Vũ Xuân Cẩn mỗi người một quả bàn đào bằng vàng, để tỏ rõ hy triều nhân thụy. Cố mệnh lương thần Thái bảo Văn minh điện đại học sĩ lĩnh Binh bộ thượng thư, sung Cơ mật viện đại thần Tuy Thịnh bá Trương Đăng Quế, tuyên lực trù cơ, trí cường thùy chi án đổ, tận tâm phụ chính, tê hải vũ chi thăng bình (dốc sức trù tính, là bình phong cho biên thùy vững mạnh, hết lòng lo giúp chính sự, đem lại cảnh thanh bình cho bờ cõi) thật đáng khen, bày mưu tính kế, rất mong hướng dẫn, dương cố mệnh, Trương Đăng Quế được ban linh thú đầu sừng bằng vàng, để tính thưởng hiền lượng trung chính. Tiền quân đô thống phủ đô thống An Tây trung vũ tướng Vũ Văn Giải, biên thùy phía tây có việc, trao cho làm Phủ biên tướng quân, điều độ cơ nghi, tuyên lao cường ngự, chuyên chính an viễn (Chỉ huy đúng phép, vất vả tăng cường phòng ngự, dẹp yên phương xa). Chấn phục Xiêm Man, Thự hiệp biện đại học sĩ Trí dũng tướng Nguyễn Văn Chương, khi mới đến ủy ký chuyên khổn, ninh tập Lạc Hóa, Ba Xuyên, sau đó trao chức khâm sai đại thần, hết sức dẹp yên biên thùy khiến phương xa thần phục, Nguyên Định Biên tổng đốc Lê Văn Phú, trưng trao chức tổng thống tiễu bổ quân vụ, tuy công việc dẫn thành, mà cuối cùng biết bàn bạc, man mạch đến triều đình, bình dân được nghỉ ngơi. Thự An Hà tổng đốc An Tây mưu lược tướng Doãn Mỗ, chinh phạt Trấn Tây, trao cho làm tham tán đại thần, ra lo việc binh, khắc chấn tiêu thanh (nổi được tiếng tiên phong), diệt hết địch mới về, chiêu hàng ngoại quốc. Thự An Giang đề đốc tuấn kiện tướng Nguyễn Văn Hoàng, trải việc binh đao, băng vết thương mà giết giặc, đề tiêu thăng trạc, hăng hái tiến công, năm người này phụng mệnh Tây chinh vâng cầm mao việt, thì đã có thể tuyên uy phủ ngự, nhiếp phục Xiêm Lạp suất tân, đặt biên cảnh vào thế yên ninh không phải lo lắng gì, lập được kỳ thường vĩ tích. Nay cho Vũ Văn Giải thưởng thụ Tiền quân đô thống phủ đô thống chưởng phủ sự, sung Thống chưởng thị vệ đại thần. Nguyễn Văn Chương thưởng thụ Hiệp biện đại học sĩ lĩnh Công bộ thượng thư, sung Cơ mật viện đại thần. Lê Văn Phú thưởng thụ kinh kỳ Thủy sư đô thống, sung quản lĩnh thị vệ đại thần. Doãn Uẩn thưởng thụ An Hà Tổng đốc. Nguyễn Văn Hoàng thưởng thụ An Giang đề đốc, kỳ hiệp biện đại học sĩ lĩnh Hộ bộ Thượng thư, sung Cơ mật viện đại thần. Hà Duy Phiêu, Công bộ thượng thư, sung quản lĩnh thị vệ đại thần. Lâm Duy Nghĩa, Thự Lễ bộ thượng thư, sung Cơ mật viện đại thần. Phan Thanh Giản khu yếu xu thừa, thương trù biên vụ, cấm viên dực vệ, công cán biện thanh. Ba người đều chăm chỉ thận trọng hết mực, sớm khuya cần mẫn. Hà Duy Phiêu được thưởng gia hàm Thái tử thiếu bảo. Lâm Duy Nghĩa được thưởng gia một cấp, những đổi sang trao chức Lễ bộ thượng thư, sung quản lĩnh thị vệ đại thần. Phan Thanh Giản được thăng thụ Hình bộ thượng thư sung Cơ mật viện đại thần. Vũ lân doanh Hữu dực thống chế Bình thắng nam Nguyễn Lương Nhàn lập công nơi biên thùy, thân điểu thân quân, vâng mệnh hạnh duyệt Hữu kỳ quan binh, có năng lực phụng công kiểm biện, Nguyễn Lương Nhàn được thăng thự Tiền phong doanh đô thống. Thái tử thiếu bảo Hiệp biện đại học sĩ lĩnh Định An tổng đốc Đặng Văn Hòa. Sơn Hưng Tuyên tổng đốc Nguyễn Đăng Giai được ủy thác biên phiên, chính tích năng thanh sớm nổi. Tả quân đô thống phủ đô thống Ninh Lạc tử Nguyễn Tiến Lâm,  Định Biên tổng đốc Ngô Văn Giai, Lại bộ tả tham tri quyền hộ An Tĩnh tổng đốc quan phòng Nguyễn Đức Hoạt, Hải Đông tuần phủ hộ lý Hải An tổng đốc quan phòng Nguyễn Văn Nhị, Binh bộ hữu tham tri Hoàng Tế Mỹ, Công bộ hữu tham tri Nguyễn Văn Điển, Công bộ hữu thị lang sung biện Nội các sự vụ Tôn Thất Cáp đều nhận chân thừa biện (tích cực làm việc), hăng hái chịu khó, chăm lo chức sự, 9 người này đều được giao Bộ xem xét báo cáo. Lễ bộ Tả thị lang sung biện Nội các sự vụ Nguyễn Bá Nghi, năm ngoái nguyên nhậm An Giang bố chánh, dư hữu thương biện nhung vụ cùng cai Đốc phủ và giải vận tây chinh quân nhu, tiếp tế rất tốt, kế đó được nhập các thừa phụng ti luân, cũng rất cẩn thận tỉ mỉ, Nguyễn Bá Nghi được thưởng thực tòng nhị phẩm bổng. Thự Thái Nguyên bố chánh Phạm Bá Như, phát gian trích phục (phát hiện kẻ gian mật phục) đến án nghiêm trị, Phạm Bá Như được chuẩn thực thụ. Những người trên đây đều có công trạng rõ rang có thể lục ra để ban ơn đặc cách nhằm tưởng thưởng khuyến khích. Còn như Thự Long vũ cung Thống chế Nguyễn Doãn lỗ độn bất tài, làm việc kém cỏi, thậm chí đi đứng nơi điện đình sai phép. Nguyễn Doãn bị giáng làm Hiệu úy giao cho bộ án bổ. Quảng Yên tuần phủ Nguyễn Trần Văn Tuân, già yếu suy đồi, làm việc có nhiều sai sót, danh hạ đới giáng bảy cấp, còn đang can án, gao nghị chưa rõ, Trần Văn Tuân bị chiếu sở giáng chi cấp, buộc hưu trí. Định Tường án sát Tôn Thất Bồi bệnh cũ chưa khỏi, khó lòng kham nổi chức đề hình, Tôn Thất Bồi bị triệt về bộ ngay để chư nha tá nhị  án bổ, đều nghiêm trừng những kẻ bù nhìn. Các trung ngoại chư thần còn lại tùy việc tùy lúc có công thì thưởng, có tội thì phạt, không phải đợi đến ba năm làm gì, ai nấy cung chức như cũ, vẫn phải thi thố tài mưa để xứng với chức sự mà hưởng phúc nước dài lâu, mãi mãi làm rường cột tài phẩm. Khâm thử! Năm Thiệu Trị 7, ngày mồng 8 tháng năm ngự bút (mệnh đức chi bảo).

Ngày mồng 8 tháng năm, lại phụng dụ: ban thưởng một chiếc ngự phiến (quạt của vua) xương san hô đề thơ bình định Xiêm Lạp, Long tiên ngự chế Tây chinh kỷ tiệp một bản, be rượu bằng ngọc lành một chiếc, một con báo vằn bằng vàng (Tháng sáu, Thị vệ đưa đến tỉnh cho).

Ngày mồng 8 tháng năm, Nội các thần Nguyễn Bá Nghi, thần Tôn Thất Cáp, thần Vũ Phạm Khải, thần Lê Chân phụng thượng dụ: Lần này Cao Man đến triều đình, võ công hoàn thành, chinh tây tướng soái tấu khải ban sư, nay đã lên kinh triều cận, hoàn ca đại lao, dự tiệc đằng hoan, duy có Tham tán đại thần Binh bộ thượng thư Hội biện ninh tập Trấn Tây sự vụ An Tây mưu lược tướng Doãn, hiện lưu bổ thụ An Hà tổng đốc, hùng trấn biên cương, nên chưa tiện cùng các thống soái triều cận đan đình, vị đại thần này năm xưa trực tiếp tai nghe mệnh lệnh điều bổ An Giang để lo biên vụ, mong sớm tấu công, tiếp đó phụng mệnh tam đạo hưng sư, tây chinh điếu phạt. Đại thần này thân đi trước đội, Sách Sô liên tiếp thắng lợi, tiếng tiên phong vang động, mưu xuất tập công, ba lần tiệp tấu, Thiết Lũy nhất bình, Trấn Tây lập định, Vĩnh Long đuổi dài như thế chẻ tre, U Đon vây đánh khắp nơi, liệu mao thát phạt,  chấn tập Xiêm Lạp, nghệ quân thỉnh mệnh, uy phục man di, xưng thần phụng cống, cuối cùng đã hoàn thành tốt đẹp, cho quân dân được nghỉ ngơi, Thật không phụ lòng khổn ký chuyên chinh an biên phục viễn. Doãn Mỗ quả là cơ mưu nhung lược, trí lực tài ba, văn thần đáng khen, kiêm thong võ tướng. Nay thưởng ban cho Doãn Mỗ Ngự phiến san hô thúy đề bình định Tiêm Lạp thi chương nhất bả. (một chiếc quạt vua ban bằng san hô có đề bài thơ bình định Xiêm La Chân Lạp) và một tập thơ ngự chế Tây chinh kỷ tiệp trên giấy long tiên, một bình rượu bằng ngọc, đè tỏ lòng Quang nhuận kiên cương ôn kỳ như ngọc, một con báo vằn bằng vàng để khen "Hữu thủ hữu vi, tri văn tri võ", nay sai phái một viên thị vệ chạy nhanh ngựa trạm đem đến ban thưởng, để tỏ ý ưu quyến công thần, chỉ có thêm mãi không thôi. Khâm thử! Mỗ phụng chiếu khâm tứ:

"Ngự chế Tây chinh kỷ tiệp triếp", đựng vào trap sơn vàng vẽ rồng mây, cung kính mở ra xem, trong có 49 tờ giấy Thanh phụng tả ngũ sắc đề chữ Khâm tứ An Hà tổng đốc Doãn Uẩn, trên có dấu Thiệu Hưng văn trị ngự bảo, sau niên hiệu có dấu Thần Hàn chi bảo, phụng Ngự chế Tây chinh kỷ tiệp thi phú, trong có phụng chuẩn cung họa th tam chương nhất vận (3 bài 1 vần được phép kính họa thơ), xin kính cẩn trích chép như sau:

"Nhân nghĩ hoàn ca đại lao, tướng sĩ reo vui, duy có Tham tán đại thần Binh bộ thượng thư hội biện ninh tập Trấn Tây sự vụ An Tây mưu lược tướng Doãn Mỗ hiện lưu lại bổ thụ An Hà tổng đốc hùng trấn biên cương, nên chưa tiện cùng chư thống soái triều cận trước Đan đình, nếu chờ xong việc luận công, lệnh sai sứ cầm cờ tiết ban phong tước ấn e rằng sẽ muộn, Trẫm hàng ngày canh cánh bên lòng, bèn xuống dụ sai thị vệ đem ngự phiến (quạt của nhà vua) và long tiên đè bình định Xiêm Lạp thi chương, cùng các phẩm vật vàng ngọc nội kho chạy ngựa trạm đến tuyên ban, để tỏ lòng Trẫm thương nhớ công thần thêm mãi không thôi. Bèn làm thơ 3 bài 1 vần, lại sai các thần khâm lục và ban tứ cho, coi như trực tiếp diện đàm cùng Trẫm, khanh hãy an tâm bảo thủ biên thùy, vĩnh ninh viễn kiểu (giữ yên nơi biên thùy xa xôi), trúc bạch huân danh (tiếng thơm sử sách) sơn hà đái lệ (muôn đời cùng song núi). Nay chuẩn cho y vận họa thơ, càng tỏ việc tốt đẹp xướng họa của chốn Ngu đình vậy:

Nhĩ đề diện mệnh tự đương nhiên,

Hoàn Trẫm công thành tín hiển nhiên.

Phấn dũng tiên chinh tam tiệp tấu,

Chiêu hàng ngoại quốc đại huân tuyền (toàn).

Chỉ huy mao việt thanh liêu tả,

Bảo chướng can thành điện soc biên.

Hoàng triếp ban sư lưu lãm duyệt,

Châu hào phê đáp mạc năng tuyên.

 

Trùng niệm lao năng kỷ hứa niên,

Thâm duy trù trướng tự kỳ nhiên.

Phủ tuy thủy lục bình song Lạp,

Hứa tức binh dân đắc vạn tuyền.

Chí sự thành chương do mạc khách,

Kỷ công ưu lễ cánh vô biên.

Ân suy võng thế thùy thiên cổ,

Tình đáo giao phu lượng bất tuyên.

 

Chấn lữ thù huân úy lịch niên,

Ngọc hồ kim báo ngụ thiên nhiên.

Kiên cương quang nhuận ôn kỳ mỹ,

Văn võ du vi hảo đắc tuyên.

Tá trị nhiệm tài phi ý ngoại,

Bảo hiền bạc vật ký trình biên.

Khả tri quan tái huyền ca khởi,

Liêu tác canh dương thịnh sự tuyên.

Dịch nghĩa:

Từ năm ấy, trực tiếp ban lệnh dặn dò bên tai,

Đáp lại Trẫm công thành thật hiển nhiên.

Hăng hái đi đầu trận đánh ba lần tâu báo tiệp,

Chiêu hàng bọn ngoại quốc, công lớn đã vẹn tròn.

Chỉ huy mao việt làm trong sạch hàng ngũ ta,

Giữ vững can thành, yên bền biên giới.

Chỉ dụ ban sư các ngươi hãy cùng xem biết,

Lời phê đáp bằng bút son không thể tuyên đọc.

Nghĩ mãi việc khó nhọc vất vả bao năm,

Lo nghĩ thương cảm là điều tự nhiên.

Vỗ yên cả hai đất Thủy Lục Chân Lạp,

Quân dân nghỉ ngơi được vạn toàn.

Chép việc thành bài còn chưa hết,

Ban lễ để ghi công càng vô cùng.

Ân điển ban ra lưu ngàn thủa,

Tình đến chân thành dẫu không thể nói ra.

Đền đáp công lao huy động quân sĩ bao năm động viên,

Bình ngọc, báo vàng ngụ ý thiên nhiên.

Kiên cương sang tỏ, ôn vẻ đẹp,

Văn võ mưu lược và thực thi được vẹn tròn.

Giúp cho nên bình trị, bổ dụng người tài, không ngoài ý,

Quý người hiền thưởng vật mọn, gửi tình theo.

Có thể biết nơi quan tái nổi đàn ca,

Tạm coi là cuộc xướng họa rỡ ràng.

Phụ chép lời cung họa:

Thần cúi đầu dập đầu tâu xin kính họa ngự thi, từ nơi xa có bản tâu lên kính mong thánh giám: Ngày mồng bảy tháng này nhận được các phẩm vật ban thưởng do thị vệ chuyển đến, thần kính cẩn bái lĩnh, trong có chiếc trap sơn vàng vẽ hình rồng mây, đựng ngũ sắc long tiên, mọt bản chép thơ phú ngự chế, thần kính cẩn bày hương án thắp hương đọc, trong có đoạn "phụng ngự chế Nhân niệm vân vân", thần miệng đọc lòng suy, nhiều lần cung dịch, ngưỡng duy:

Thánh niệm chu truân, khúc gia bao tưởng (Lòng nhà vua nghĩ thật chu đáo, nhiều lần khen thưởng). Thần tự nghĩ kém cỏi thật không dám đương, duy có bái thủ khể thủ, vô cùng vinh hạnh, lòng hết sức sợ hãi, trộm nghĩ các thánh vương xưa thể tất thần công, kể tình họ mà thương họ vất vả, cho nên ngự thành ý giáo hiếu khuyến trung, thần hạ họ đáp lại mệnh lớn, chúc phúc và ca tụng đức dày của thánh vương, để bày tỏ chí tình tôn quân than thượng của mình, quan hệ giữa vua tôi trên dưới có thể nói là thịnh vậy. Vì thế vua sang tôi hiền khích lệ, nền trị hóa được tốt đẹp hưng thịnh, để lại trong lời kinh, sang tỏ ngàn xưa.

Kính nghĩ: Hoàng thượng ta, tiếng Trời xa đến, duệ trạch ban xa, Xiêm La xin hòa, Cao Man nội phục, thực là mến đức sợ uy mà nên. Thế nhưng lòng thánh rộng lớn lại càng khiến người cung kính.

Thần cúi đọc lời dụ bố cáo trong ngoài,khác nào lời đại huấn thanh cáo Vũ Thành. Các bài thơ úy lạo tướng thần kính cẩn hơn âm thanh vi diện của lộc minh, Tứ mẫu, thịnh đức đại nghiệp sánh cùng Càn khôn, duệ tảo, thần khuê sáng như nhật nguyệt. Thần học vấn thô thiển sao xứng để họa vần, nhưng đã được ơn trên cho phép thần cung họa, thần dám đâu không đem hết rơm cỏ bày thiên tử, và bày tỏ tâm tình của kẻ bề tôi nơi xa ngước trông trời cao, ngóng về vầng nhật. Cả thảy 3 bài phụng họa, cung trần như sau. Cẩn tấu:

Luân âm thao phụng bệ từ niên,

Duệ toán uyên mô ích tín nhiên.

Nhu viễn hoài hầu văn đức hiệp,

Tập binh hòa chúng võ công tuyền.

Yến hoang cựu phục ca an trạch,

Vương hội tân đỗ kỷ phục biên.

Thiên tử vạn niên dương cảnh phúc,

Phụng canh thi nhã tụng chu tuyên.

 

Hoàng uy chấn bạc xuất sư niên,

Song Lạp phiên dân lại yến nhiên.

Sóc tuyết viêm phong quy tịnh thiếp,

Xuân đài thọ vực hựu an tuyền.

Lưỡng giai can vũ hồi ngoan chưởng,

Vạn lý cộng cầu đạt viễn biên.

Bố đức an dân thiên tử mệnh,

Tiểu thần hạt khắc xứng phiên tuyên.

 

Thao thụ lng tri lịch hữu niên,

Cương trường hiệu mệnh phận nghi nhiên.

Hạnh thừa thiên sủng vinh tam tích (tứ),

Thuấn trượng hoàng du xuất vạn tuyền.

Văn đức đản phu tùy cách viễn,

Tiểu thần hà lực xứng an biên.

Bình hoài dục hiệu Xương lê tụng,

Tác phú phi tài bút bất tuyên.

(Dịch nghĩa:

Vâng nghe tiếng nhà vua, từ năm từ biệt dưới bệ ngọc,

Duệ toán mưu sâu càng thấy là đúng.

Nhu viễn hoài hầu (thương nơi biên viễn, nghĩ tới bề tôi), văn hợp với đức,

Thu quân hòa dân, võ công trọn vẹn.

Nơi hoang yếu, nơi cựu phục ca mừng yên ổn,

Vương hội tân đồ ghi lại nơi biên viễn thần phục.

Thiên tử muôn năm ban phúc lớn,

Xin họa thơ ca ngợi Chu Tuyên vương.

 

Năm oai phong nhà vua chấn động xuất quân,

Dân phiên ở Lục Thủy Chân Lạp nhờ đó được vui mừng.

Tuyết phương bắc và gió nóng đều dẹp yên,

Xuân đài và Thọ vực đều được giữ an toàn.

Hai thềm can vũ làm kẻ ngoan chướng phải quay về,

Muôn dặm cộng cầu đạt tới nơi biên cương xa xôi.

Ban bố ân đức, an dân là mệnh lệnh của thiên tử,

Kẻ tiểu thần này chưa xứng chức phiên tuyên.

 

Có vinh hạnh được nhà vua biết đến đã bao năm,

Gắng sức thi hành mệnh lệnh ở nơi biên cương, phận sự của hạ thần phải nên như vậy.

May được Thiên tử sủng ái nhiều lần ban thưởng,

Toàn nhờ mưu hoạch của nhà vua mà được vạn toàn.

Văn đức rộng ban đến tận nơi biên viễn,

Tiểu thần đâu đủ sức xứng đáng được gọi là an biên.

Bình Hoài muốn thể hiện lời ca tụng của Hàn Dũ,

Nhưng lại không có tài làm thơ phú, ngòi bút bất lực.

Bản này dâng lên được châu phê: Thật đáng giữ lại xem.

Phụ chép: TẠ ÂN TỨ BIỂU (BIỂU TẠ ƠN)

Thần, An Hà tổng đốc, An Tây mưu lược tướng cúi lạy dập đầu cẩn tấu khấu tạ ơn trời, ngưỡng mong thánh giám. Tháng trước nhận được bộ thần cung lục, khâm phụng minh dụ ban thưởng cho Doãn Mỗ một chiếc ngự phiến san hô chép bài thơ Bình định Xiêm Lạp và một tập Long tiên ngự chế Tây chinh kỷ tiệp, một chiếc bình rượu bằng ngọc tốt, một con báo vằn bằng vàng, phái một viên thị vệ mang đến, chạy ngựa trạm đến tuyên ban để tỏ ý rất mực ưu quyến công thần chỉ có tăng thêm mãi không thôi. Khâm thử!

Khâm tuân: Ngày mồng 7 tháng này tiếp thị vệ thần đem các thứ trên đến tỉnh, khâm phụng tuyên ban. Thần thành kính bái lĩnh vừa cảm kích vừa run sợ. Trộm nghĩ: Thần là kẻ tục học tầm thường, gặp được minh triều, cầm bút xách lọ, theo chức trách giữ phận vụng về, mặc áo giáp cầm gươm không dám nghĩ xa xôi vượt ngoài phận sự, nghĩ mình là một thư sinh nơi thảo trạch, may nhờ được đào tạo từ lâu, một lòng mong đền đáp cao sâu.

Tháng năm năm Thiệu Trị thứ 5, thần giữ chức An Giang tuần phủ, phụng mệnh xuất quân đánh bắt Man Lạp, tính từ Đàm Lũy, Sách Sô, đến Thiết Thằng, Trấn Tây, Lô Việt, Vĩnh Long, U Đon các trận, tướng sĩ một lòng, may thu được chiến thắng. Ngưỡng vâng cửu trùng duệ toán, thần chỉ biết hết sức thực hiện, lại nhờ các tướng soái đồng tâm, thần cũng được hòa trung cộng sự, đều là chức phận của bề tôi nơi biên viễn, đâu dám nói đến công lao. Đã lần lượt được ban thưởng ngự phẩm nhân sâm, ngự phụ long sam, sâu nặng ơn Trời rất là ưu hâu. Nghĩ phận thần áo vải thô kệch, mà nay được ân vinh như vậy, quả thật là dịp may hiếm có. Đến khi gặp giặc Xiêm xin hòa, Cao Man quy mệnh, biên công hoàn thành tốt đẹp, cương vực vững bền, thực nhờ hoàng uy viễn bá, đế đức đảm phu mà có, cũng ngưỡng nhờ thiên tổ thương yêu, khiến quân dân thiên hạ cùng hưởng phúc thái bình. Thành được vũ công này, chẳng phải do sức người, huống chi là suy nghĩ của thần sao có thể tới được. Duy ngưỡng mông thánh đức chẩn niệm nhung hanh, bạc thiện vi lao, tất quy động chúc, tháng vừa qua khâm phụng minh dụ khen thưởng quân thứ tướng biền, thần được thưởng gia một cấp đặc biệt, và còn ban các phẩm vật vàng ngọc quý giá, lại được sắc ban An Tây mưu lược tướng cấp cho thẻ vàng, kế đó lại được bổ thụ kim hàm, giao trọng trách biên thùy. Thần từ khi phụng mệnh về tỉnh đến nay, sớm tối lo lắng run sợ mãi không thôi. Nghĩ rằng Thánh ân long trọng chở che khó lòng nói hết mà thần khí tầm thường e rằng danh không phó thực. Huống chi nghĩ mình gắng sức ra công có thể mạnh hơn những năm bôn ba trước đây mà răn mình thận trọng nỗi lòng lo sợ dễ giải hơn khi vui vẻ. Thần đang lo lắng gấp bội mà không dám tự an tự dật vậy. Nay lại tiếp trung sứ chạy ngựa trạm đến tuyên ban ngự phiến, ngự thi, ngọc hồ, kim báo, thần khuê rực rỡ, dị số chói lọi, tất cả từ trên trời xuống, không phải là thứ có ở trên đời này. Thần vinh hạnh được nhận khen thưởng, ghi khắc trong long, duy nguyện phát huy nhân phong, bái canh nhã vận, bưng chén Nghiêu mà uống đức, trường phụng thanh quang, xem văn đẹp của Dịch tướng mà luôn lo mài giũa. Lấy làm của báu trên đời, mãi mãi chịu ơn không chán, dẫu đến kiếp sau, thề mãi báo đáp vô cùng, cảm kích chân thành khác nào chiêm thiên ngưỡng thánh rất mực. Xin dâng biểu trần tạ dĩ văn.

Đề ngày 17 tháng sáu năm Thiệu Trị thứ 7. Ngày mồng 1 tháng sáu, Nội các thần phụng thượng dụ: An Tây mưu lược tướng, lúc đầu điều làm An Giang tuần phủ, tiếp đó than đương tiền đội, trước tiên lập công đầu phá Thông Bình, nhổ Sách Sô, đánh Vĩnh Long, bức U Đon đều đã xuất kỳ chế thắng, tuy biên tịnh viễn, góp sức nhiều nhất. Nay phong làm Tuy Tĩnh tử. Ngày mồng 1 tháng chín, bộ Lại chuyển đến. Tiên khảo, tiên tỷ đều được gia tặng cuốn lụa màu. (Hiển khảo gia tặng làm Trung nghĩa đại phu Thái bộc tự khanh, thụy là Hiến Tĩnh. Hiển tỷ gia tặng là Tòng tam phẩm Thục nhân. Ngày mồng 3 tháng mười một năm Thiệu Trị thứ 5 dâng lên Thánh tổ mẫu Nhân tuyên từ khánh Phúc thọ khang ninh thái hoàng thái hậu huy hiệu, phụng có ân chiếu, quan viên phụ mẫu phong tặng khác nhau, đến nay bộ Lại mới phát đến. Cáo sắc xin sao lục riêng ở phả.)

Điều thự sắc dụ (Hoàng đế sắc dụ): Tham tán đại thần Hội biện ninh tập Trấn Tây sự vụ Thự Binh bộ thượng thư An Tây mưu lược tướng Doãn Mỗ, lần này Tây thùy sơ định, biên địa được yên, đối với việc thu xếp sự nghi về sau, tất phải để trọng thần lại để tĩnh trấn. Bèn chuẩn cho ngươi thự Binh bộ thượng thư kiêm đô sát viện Hữu đô ngự sử Tổng đốc các xứ An Giang Hà Tiên kiêm lý lương hướng mọi sự vụ ở hạt, tuân y điển lệ phụng hành. Phải triển khai mạnh công việc, bang tuyên chính hóa, cốt sao cho biên cương chỉnh tề nghiêm túc, biên cảnh yên ninh, để hợp với ý gửi gắm giao phó tin tưởng của Trẫm. Khâm thử! Ngày mồng 9 tháng ba năm Thiệu Trị 7, thực thụ cáo trục.

Thừa thiên hưng vận Hoàng đế chế viết: Trẫm nghĩ Hoàng thiên vận thượng tất tư lục tử dĩ thành công (phải nhờ 6 con để thành công), vương giả ở chính giữa, phải dựa vào quần hiền chung lo chính sự. Quyến duy thạc vọng, nghi bế ôn luân. Cử ngươi thự An Hà tổng đốc, bổ làm Tham tán đại thần hội biện ninh tập Trấn Tây sự vụ An Tây mưu lược tướng, phủ phất sủng tài, đống lương vĩ khí, triều quận lịch tê yếu chức, mao bạt liên thường cát chi bằng, miếu đường lũ địch long mộ, vũ nghi phó cụ chiêm chi vọng, vĩ vĩ hàm thành bất đãi (không mệt mỏi gắng sức hoàn thành), tư tư quyết phỉ hữu cung (một long cung kính giúp rập. Nay cơ vụ suy nghĩ chu đáo, nhân lễ lớn thưởng công, khen ngươi công thanh túc giản, nay đặc cách trao cho ngươi tư thiện đại phu Binh bộ thượng thư kiêm Đô sát viện Hữu đô ngự sử Tổng đốc các địa phương An Giang Hà Tiên, kiêm lý lương hướng, ban cho cáo mệnh, mong ngươi không rời gang tấc, phụng quan thường mà càng gắng sức, hôm sớm miệt mài không trễ nải, trong ngoài được hài hòa, gắng sức chuyên cần mãi mãi danh tiếng vô cùng. Khâm tai! Ngày mồng 8 tháng năm năm Thiệu Trị thứ 7.

Ngày 27 tháng 9, phụng Hiến tổ Chương hoàng đế long ngự thượng tân, phan hào mạc đãi (Phụng di chiếu, hoàng nhị tử có học mà lại giống Trẫm, có thể tiếp nối đại thống, nối ngôi hoàng đế, lại giao cố mệnh lương thần Trương Đăng Quế, đại thần Vũ Văn Giải, Nguyễn Văn Chương, Lâm Duy Nghĩa sung phụ chách đại thần). Ngày mồng 3 tháng mười, phụng kim thượng lên ngôi hoàng đế, chiếu lấy năm sau Mậu Thân làm Tự Đức nguyên niên. (Ngày 28 tháng mười, phụng kim sách thượng tôn thụy Thiệu Thiên Long vận Chí thiện thuần hiếu khoan minh duệ đoán Văn trị võ công thánh triết Chương Hoàng đế, miếu hiệu Hiến tổ, lăng hiệu Xương lăng.

Ngày mồng 3 tháng mười, phụng bảo chiếu đàm âm, thưởng đồng quân công gia một cấp (phụng hữu đăng quang đại lễ). Ngày mồng 5 tháng mười năm Thiệu Trị 7, Cơ mật viện thần Trương Đăng Quế, thần Nguyễn Văn Chương, thần Phan Thanh Giản phụng thượng dụ, An Hà tổng đốc An Tây mưu lược tướng Tuy Tĩnh tử. Trước đây, biên thùy phía tây lắm việc, vâng mệnh đi đánh dẹp, cuối cùng đã dẹp yên được Xiêm Man, quét sạch cõi bờ, công tích của khanh rất nhiều, ngày khải hoàn, phụng ngã hoàng khảo đại hành hoàng đế, thánh tình trịnh trọng, thâm duy khổn ký, thật là người hiếm có, cho nên đặc hoãn triều thiên chi kỳ, tạm khóa cửa tây, mượn trùng tọa của khanh để trấn giữ, không lâu sẽ có mệnh triệu. Nào ngờ Hạo thiên không thưởng, Hoàng khảo Đại hành hoàng đế long ngự thượng tân, di chiếu cho ta kế vị. Ta vừa quýnh quỳnh tại cữu (cô đơn nơi linh cữu), ngũ nội bật hoàng, rồi ngưỡng tuân di mệnh, thần khí không thể để trống lâu, các phụ chính đại thần đều cùng các đình thần giao chương khuyến tiến, sớm chính vị hiệu để an lòng người. Bèn nén đau thương thuận theo tình biến, gắng theo tình thế, vào ngày mồng 3 tháng này lên ngôi hoàng đế tại điện Thái Hòa, mọi việc chính sự đều nhờ các triều thần giúp rập. Vừa mới sắp xếp, nhớ đến khanh ở biên thùy xa xôi, nãi tâm vương thất, nghĩ muốn truyền triệu để tỏ nỗi lòng. Nhưng lại nghĩ hai hạt An, Hà là dải áo của Nam Kỳ, yết hầu chặn giặc Man, là nơi giữ yên trời bụi, biên ký địa đầu, thật không thể để trống vắng, huống nữa vào lúc quốc gia có biến cố này, mà Man Lào tình ngụy phải tăng thêm để phòng bất trắc, khanh hãy gia tâm chỉnh đốn sửa sang, cốt phải vỗ yên biên cảnh, hòa tập quân dân, để dẹp yên địa phương này, không chỉ giúp ta nối giữ phúc xưa, mà còn có thể ngưỡng phó hoàng khảo ta Đại hành hoàng đế đã rất có ý gửi gắm giao phó, chờ sau này tuyên triệu lai kinh bệ kiến cũng không muộn vậy. Khâm thử!

Bèn lại có biểu riêng trần tạ. Bản này phụng chỉ, đã xem lời tâu, biết rõ rồi. Khâm thử!

Ngày 28 tháng mười một, phụng ân chiếu thưởng gia nhất cấp (phụng có đại lễ cung thượng tôn thụy).

Ngày 20 tháng mười hai, phụng ban cấp tứ phong tước ấn (lề phong tước có mệnh quan tuyên phong, vì có lễ quốc tang, bộ Lại cho thị vệ đưa đến ban cấp) một quả ấn đồng khắc chữ Tuy Tịnh tử chi ấn), một chiếc triện ngà (khắc hai chữ Tuy Tịnh) ấn có ban hộp đựng, một cuộn lụa màu cáo sắc.

Thừa thiên hưng vận, Hoàng đế chế viết: Trẫm nghĩ giữ yên biên cảnh mà lập công, Nho tướng trù nhung, tùy công lao mà ban tước, Triều đình trọng thưởng, cốc đán tải quan, chi luân hữu diện, tư cho ngươi nguyên thự An Hà tổng đốc, trao chức tham tán đại thần , hội biện ninh tập Trấn Tây sự vụ, nay sắc thụ Binh bộ thượng thư kiêm Đô sát viện Hữu đô ngự sử, Tổng đốc các địa phương An Giang, Hà Tiên, kiêm lý lương hướng, An Tây mưu lược tướng. Nho thư định giá, chính sự đạt tài, sớm hôm chuyên cần, lịch tram thân ư dân bộ, cương trường hữu sự, xếp bút nghiêm lo việc binh nhung, thức khâm thành mệnh ư sơ lai, đặc thước tiên thanh ư chư đạo (vừa đến đã hoàn thành vương mệnh, khắp các đạo đều vang dội tiên thanh), nhổ Sách Sô, phá Vĩnh Bích, ba lần lập công đầu báo tiệp, phá Thiết Thằng, bức U Đon, giành thắng lợi trọn vẹn. Man tù khuất phục, nơi biên ải dây chương khoản phụ, biên thùy phía tây dẹp yên, trong quân tâu công thẳng về, cho quân dân được nghỉ ngơi, hoàn thành công lớn, dẹp yên nơi biên viễn, công của ngươi rất nhiều. Cho tướng sĩ Tây chinh khải hoàn, tạm phiền ngươi lưu lại trấn giữ biên cương. Đã cho ngựa trạm trọng thưởng vàng ngọc. Xét công lao lại nghĩ tuyên lao nơi quan tái, nay đặc phong ngươi là Tuy Tịnh tử, ban cho sắc ấn, thượng kỳ đốc phỉ hữu cung, kỳ thừa vô dịch, kỳ du khắc tráng tăng nhất phương bảo chướng chi hung (tăng thêm sức mạnh bảo vệ một phương). Được phúc đã nhiều, bảo đảm núi song mãi mãi vững bền, khiến ta ưa thích. Khâm tai!

Tháng tư năm Tự Đức nguyên niên, phụng chỉ chuẩn đến kinh đô dâng hương, cung kính chờ Ninh lăng đại lễ, vì việc sứ Cao Man chưa xong, phụng dụ cho phép lại về tỉnh cung chức. (Đi đến trạm Biên Long, nhận được Bộ lục, lại về). Ngày 24 tháng năm năm này, phụng hành đại lễ ninh lăng Xương lăng (lễ yên lăng Thiệu Trị).

Ngày tháng tám, vì khâm giao Gia Định tỉnh nhiều năm không hết kiếp án (án cướp), hội đồng tra biện xuất sắc, được thưởng gia một cấp.

Tháng này đình cử lai kinh hội ban cung kính chờ lễ Đại tường Dao cung (ngày 18 tháng chín). Lễ Tiểu tường Hiến tổ Chương hoàng đế (ngày 27 tháng chín). Dao cung Đảm trừ (cúng đoạn tang, ngày mồng 3 tháng mười một). Ngày mồng 10 tháng mười một, thăng phụ đại lễ (đưa Thiệu Trị vào thờ ở tổ miếu). Ngày mồng 4 tháng mười hai, phụng dụ cho về tỉnh cung chức (ngày mồng 3 phụng bệ từ, được thượng dụ rằng: Người Man phản phúc bất thường, khanh hãy về tỉnh, gia tâm tuy phủ ninh tập biên thùy, để khoan bớt nỗi lo nhìn về phía tây của Trẫm, đó là năng lực giữ đất của khanh. Khâm thử!)

(Lần này nghe các đại thần có người nói, phụng thượng châu phê rằng: Bề tôi tài giỏi của nước, muốn bổ kinh chức để vui lòng thánh. Sau đó vì An Hà tâu báo tình hình biên thùy, nên lại về tỉnh.)

Cung sao Ngự minh

Sắc tứ Thần uy phục viễn đại tướng quân pháo đệ nhất lưỡng, Ngự minh:

Khê lai chi vọng

Phấn vũ tiên chinh

Văn thần mưu lược

Đảm tương thiên uy

Minh công bảo khí

Chính khả hưng nhung

Tam tiệp thủ công

Tảo tấu phu công

Tuy tịnh phục viễn

Truyền ức tải long

(sắc tứ An Tây mưu lược tướng Tuy Tịnh tử Doãn).

Năm này vũ công khánh thành, sai đúc mười hai khẩu bảo pháo, phụng thánh chế ngự minh, khắc vào pháo phụng sắc tứ bảo đại định công an dân hòa chúng ba vị thượng tướng quân: đệ nhất vị ngự tứ cố mệnh lương thần Thái bảo Tuy Thịnh bá Trương Đăng Quế, đệ nhị vị tứ An Tây trung vũ tướng Vũ Văn Giải, đệ tam vị tứ An Tây trí dũng tướng Nguyễn Văn Chương. Kỳ thần uy phục viễn đại tướng quân chín cỗ pháo. Cỗ thứ nhất sắc ban cho An Tây mưu lược tướng Tuy Tịnh tử Doãn Uẩn, cỗ thứ hai An Tây tuấn kiện tướng Vũ Xá tử Nguyễn Hoàng, cỗ thứ ba Vĩnh Trung nam Lê Văn Phú, cỗ thứ tư hùng dũng tướng Trí Thắng nam Nguyễn Công Nhàn, cỗ thứ năm Thắng Công nam Nguyễn Đình Lý, cỗ thứ sáu An Hoàng nam Trần Tri, cỗ thứ bảy Vũ Dũng nam Trương Tiến, cỗ thứ tám Bình Điện nam Hồ Hậu, cỗ thứ chín Kiên Dũng nam Lê Viên. Ba vị thượng tướng quân trên đây, mỗi vị đồng nặng trên một vạn bốn ngàn năm trăm cân, đều thân dài hơn mười thước, chu vi tròn lớn năm thước bốn tấc, đường kính bốn tấc bảy phân. Chín cỗ đại tướng  quân, mỗi cỗ đồng nặng trên một vạn năm trăm hoặc ba trăm cân, trên dưới thân dài tám thước năm tấc, chu vi tròn lớn năm thước hai tấc, khẩu kính bốn tấc hai phân hơn, đều là bảo khí rất trọng đại. Lại phụng dụ: Khoảng niên hiệu Minh Mệnh, khâm phụng ngã hoàng khảo Thánh tổ Nhân hoàng đế thánh vũ chiêu tuyên, lưỡng kỳ tịnh đãng bình Tiêm thổ (hai kỳ đều dẹp yên đất Xiêm). Thần công rạng rỡ, muôn thủa huy hoàng, đẹp ghi sử sách. Thánh nhân trọng niệm chư thần, vị quốc tuyên lao, lập công nơi biên viễn, đặc cách ban lễ bão tất (cho được ôm gối nhà vua), nghi lễ long trọng từ xưa chưa hề có, vinh phong đất thái ấp, hy triều thịnh điển, đàm âu ẩn chí, hành khách sách luân, không có lẽ nào không cựu kỳ chu đáo. Lại sai đình thần họp bàn sự trạng của chư thần, chia ra thứ bậc, dựng đá khắc bia, lưu truyền mãi trong Vũ miếu, ghi mãi công huân đặc biệt để biểu chương mãi muôn đời. Ôi tốt đẹp thay! Trẫm kính vâng thánh du, ngưỡng tuân thành hiến, nghĩ sâu kế chí thuật sự, nay được dưỡng liệt cận quang. Miền đất phía tây được yên định, võ công hoàn thành, nghĩ An tây tướng soái đáng tuyên dương công lao, Nay công lớn đã thành, tuy đã lần lượt phong thưởng bậc ưu, sơn hà đái lệ bất thế ân cao (Dẫu non sông đổi thay, núi như hòn đá mài, sông như dải lụa thì cũng không quên công ơn). Thế nhưng nghĩ rằng thư son chép đẹp, họa các lưu thơm, huống khâm thủ thành quy, nên tuyên truyền ân mệnh, lần này các tướng soái an tây như nguyên phủ biên tướng quân tiết chế Trấn Tây thống hạt nay thăng tiền quân đô thống phủ đô thống chưởng phủ sự sung thống chưởng thị vệ đại thần trung vũ tướng An Viễn bá Vũ Văn Giải, nguyên khâm sai đại thần trù biện phủ tuy Trấn Tây, nay thăng Hiệp biện đại học sĩ lĩnh Công bộ thượng thư sung Cơ mật viện đại thần trí dũng tướng Trang Liệt tử Nguyễn Văn Chương, nguyên Tham tán đại thần hội biện ninh tập Trấn Tây nay thăng An Hà tổng đốc mưu lược tướng Tuy Tịnh tử Doãn Uẩn, nguyên thự An Giang đề đốc bang biện Trấn Tây quân vụ, nay thăng tiền phong doanh thống chế tuấn kiện tướng Vũ Xá tử Nguyễn Hoàng, nguyên Định Biên tổng đốc tổng thống tiễu bổ quân vụ nay thăng kinh kỳ thủy sư đô thống sung thống quản thị vệ đại thần Vĩnh Trung nam Lê Văn Phú, và những người nguyên lĩnh quan nay được tứ tước vinh phong, cùng các chức dịch Vĩnh Tế sát tán giặc Xiêm lục bộ, có công lao: nay thăng thự hữu quân đô thống phủ đô thống Bình Thắng nam Nguyễn Lương Nhàn, vũ lâm doanh hữu dực kiêu dũng Dương Dài, và các chức dịch Hà Tiên đánh lui giặc Xiêm: nguyên Vĩnh Long đề đốc tặng tiền phong doanh đô thống anh dũng tướng Diên Hựu bá Đoàn Văn Sách,  nguyên thống chế trú phòng Trấn Tây sung tán lý cơ vụ đại thần tặng long vũ doanh đô thống Long Bình tử Tôn Thất Nghị,… đều giao cho đình thần xét công tích sự trạng của họ, ai đáng được khắc đá dựng bia ở Võ miếu và nhiều năm biên thùy có việc, Ngoài ra còn có người nào công lao đáng ghi, cũng đồng loạt tra cứu công trạng, phân định thứ hạng, ghi rõ quan hàm họ tên tâu lên. Chờ Trẫm xem xét quyết định thi hành, cốt để tỏ thịnh điển ghi công biểu đức, nêu cao long trung khuyến khích tài năng. Khâm thử! Ngày mồng 3 tháng tám năm Thiệu Trị 7.

Ngày mồng 6 tháng sáu năm Tự Đức 2, Nội các thần phụng thượng dụ: Nay căn cứ bản tâu của đình thần về hội nghị bia võ công, Trẫm đã xem xét kỹ, trong bản tâu xét qua An tây chư thần, bọn Vũ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương (Nguyễn Văn Chương), Doãn Uẩn, Nguyễn Hoàng, Tôn Thất Nghị sáu người, huân phạt sự trạng, xếp rõ thứ tự trước sau xin được khắc bia ghi công, kết quả họp bàn đã rất rõ rang xác đáng. Duy một hai người đầu, họp bàn lần trước thì xếp Vũ Văn Giải trước, họp bàn lần sau thì lấy Nguyễn Tri Phương ở trên. Tựu trung ý kiến còn có chỗ dị đồng nho nhỏ. Lại căn cứ vào Nguyễn Tri Phương có tờ tâu trình bày tỏ lại nói công An Tây thì Vũ Văn Giải thực có kỳ hữu nhiều lần thành thực đôn nhượng, tâm chẳng tự an. Xem lời tâu đều đã rõ, Trẫm nghĩ trong chiến dịch biên thùy phía tây, qua hơn 7 năm, vâng theo hoàng khảo ta đêm ngày trù liệu, chỉ trao phương lược, nhiều năm chú thổ, đến khi hoàn thành, khoản dựng bia thực cốt để hiển dương võ liệt, để bảo rõ tương lai, không phải chỉ để ghi công khuyến nghĩa mà thôi. Lần này các tướng soái an tây, khổn ngoại tuyên lao, xét về công sức chinh tiễu của họ, thì Nguyễn Tri Phương quả có nổi bật nhất, còn Vũ Văn Giải là lão thành kỳ cựu, chịu mệnh đổng nhung điều độ quân cơ là chuyên trách của viên ấy, công an biên phục không ai hơn được. Năm trước khâm phụng thánh ân khen thưởng, thổ mao tứ tước, pháo đồng ghi công, rõ ràng ở trước, nghĩ rằng đã đủ để định hạng. Nay đình thiêm tuân nghị, phi thị công tải cũng là chí công. Huống chi qua việc Nguyễn Tri Phương suy nhường rõ ràng, xét về sự lý, càng không có gì nghi ngờ nữa sao có thể nảy sinh nghị luận khác. Khoản này hãy theo lời bàn trước mà làm. Khâm thử!

Nguồn: http://www.hodoan.net/index.php?mod=article&cat=&article=1084