Người Chăm Islam sông Hậu (An Giang) và quá trình giao lưu văn hóa - hội nhập.

Post date: Nov 2, 2015 3:11:46 PM

Hứa Kim Oanh[*]

Bài đăng trên Tagalau số 16.

Tóm tắt

An Giang thuộc miền Tây Nam Bộ, vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam. Nhiều người biết đến sự đa dạng văn hóa của các tộc ngưởi gồm Kinh (thường được gọi người Việt), Hoa, Khmer và Chăm (theo Islam) trong vùng đất này. Trong đó, văn hóa Chăm Islam có những giá trị bản sắc đặc trưng, quá trình giao lưu văn hóa giữa người Chăm với những cộng đồng ngoài Chăm đáng được nghiên cứu sâu và rộng hơn.

Vốn sinh ra và lớn lên tại đây, tôi có điều kiện thuận lợi tìm hiểu văn hóa Chăm Islam theo phương pháp dân tộc ký. Tôi đã đến những ngôi làng của người Chăm, được trao đổi và tham gia sinh hoạt trong cộng đồng. Những dữ liệu trong các chuyến điền dã cho thấy người Chăm không chỉ lưu truyền những yếu tố văn hóa Chăm Islam từ thế hệ này sang thế hệ khác mà còn tiếp nhận những yếu tố văn hóa Việt trong quá trình cộng cư trên cùng vùng đất tính từ thời điểm những đoàn lưu dân đầu tiên đến nơi này, trong khoảng thời gian hơn ba thế kỷ. Đồng thời, thông qua văn hóa Islam, họ sớm tiếp xúc những người Muslim ở châu Á và các nước khác như các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (United Arab Emirates hay UAE), Ả Rập Saudi (Kingdom of Saudi Arabia)... Như thế, người Chăm Islam sông Hậu đã và đang hội nhập với thế giới Islam rộng lớn. Nghiên cứu của tôi cho thấy, cuộc sống của người Chăm không có sự “cách biệt” đối với những cộng đồng xung quanh mà luôn diễn ra quá trình tiếp xúc văn hóa tùy theo mức độ ít hay nhiều, thể hiện rõ nét qua những thay đổi trong đời sống của họ về cách ăn mặc, xây dựng nhà cửa và tổ chức cưới xin.

Bài tham luận toàn văn

Trên vùng đất Nam Bộ ngày nay, người Chăm theo Islam (Hồi giáo) sống tập trung đông nhất ở tỉnh An Giang[1], trên những cù lao (gờ đất hay giồng đất cao) trải dài ven sông Hậu. Một số người đôi khi không biết đến sự hiện diện của họ ở vùng đồng bằng châu thổ, bởi khi nhắc đến người Chăm mọi người nghĩ ngay đến vùng đất miền Trung ven biển đầy nắng gió. Tuy nhiên, chính bộ phận này tạo dựng văn hóa Chăm Nam Bộ. Vì thế, hiểu về đời sống văn hóa của người Chăm sông Hậu chính là hiểu về văn hóa Chăm Nam Bộ.

Người Chăm ở An Giang – họ là ai

Họ thuộc tộc người Chăm, được biết đến với nhiều danh từ Chàm, Hời, Chà-và … nhưng họ tự nhận: người Chăm, con cháu của vương quốc Champa (Campa) cổ xưa. Theo Trương Văn Món (tên tiếng Chăm là Sakaya) khẳng định, danh từ Chiêm Thành, Chàm, Hời không có ý nghĩa gì đối với người Chăm mà chỉ do người Việt và người Trung Quốc chỉ người Chăm và Champa (Sakaya, 2010:76).

Trong nhiều tài liệu, những nhà nghiên cứu đã gắn liền địa danh cùng tên tộc người cho đối tượng nhắc đến như Chăm Thuận Hải, Chăm Ninh Thuận, Chăm Bình Thuận, Chăm Nam Bộ. Một cách xác định khác là dựa theo khu vực địa lý, Phạm Quỳnh Phương phân thành ba cộng đồng khá rõ ràng và đầy đủ: Chăm H’roi (cư trú từ Nha Trang trở ra), Chăm Panduranga (cư trú tại Ninh Thuận và Bình Thuận) và Chăm Nam Bộ (cư trú tại Nam Bộ) (Phạm, 2011). Theo Rie Nakamura viết trong Champa and Archaeology of Mỹ Sơn, chia thành hai nhóm: một nhóm sống ở Nam Trung Bộ của Việt Nam, tập trung ở Ninh Thuận và Bình Thuận; nhóm thứ hai sống ở Đồng bằng sông Cửu Long (Rie Nakamura, 2009).

Bên cạnh, các chuyên khảo khác thường dùng cách gọi tên tộc người kèm theo tín ngưỡng, theo Sakaya phân tích và đưa ra những nhận xét sai lầm của các chuyên khảo trước đây để đưa ra giải thích rõ ràng hơn về 4 nhóm tín ngưỡng, tôn giáo Chăm tiêu biểu: Chăm Jat (Chăm theo tín ngưỡng địa phương), Chăm Ahier (Chăm ảnh hưởng Bà la môn), Chăm Awal hoặc còn gọi là Chăm Bà-ni (Chăm ảnh hưởng Islam), Chăm Asulam (Chăm Islam chính thống) (Sakaya, 2010: 212).

Như thế, ngày nay, người Chăm sinh sống trải dài từ miền Trung đến miền Nam Việt Nam. Những nhóm người Chăm mỗi vùng khác nhau tạo nên nét văn hóa khác nhau nhưng vẫn tồn tại nét văn hóa Chăm truyền thống. Do đó, nền văn hóa Chăm giống như những mảnh ghép được tạo bởi giá trị văn hóa của nhiều nhóm nhỏ ở các địa phương. Nhiều nhà nghiên cứu thường đề cập đến cộng đồng Chăm sinh sống ở miền Trung của Việt Nam, chứng minh sự tồn tại của những giá trị văn hóa Chăm Trung Bộ. Tuy nhiên, thật sự thiếu hụt mảnh ghép văn hóa Chăm Nam Bộ trong nền văn hóa Chăm truyền thống.

Ở Nam Bộ, cộng đồng Chăm sinh sống đông nhất ở An Giang. Trước đây, họ được gọi là người Chàm Châu Đốc hoặc người Chà - và Châu Giang. Về tên gọi người Chàm Châu Đốc, cách gọi tên theo quy ước tên tộc người gắn liền địa danh. Bởi vì những ngôi làng của họ trước kia thuộc sự quản lý hành chính của thị xã Châu Đốc, do đó tên gọi Chàm Châu Đốc trở nên quen thuộc. Tuy nhiên, ngày nay những làng của họ thuộc sự quản lý của các huyện hoặc thị xã tách biệt với thị xã Châu Đốc, cụ thể: thị xã Tân Châu, huyện Châu Phú, huyện An Phú, huyện Châu Thành. Vì thế, tên gọi Chàm Châu Đốc không còn chính xác nhưng đôi khi người dân vẫn gọi theo thói quen.

Về tên gọi người Chà-và Châu Giang, trước đây, danh từ Chà-và được dùng để chỉ chung người Chăm, người Ấn Độ, người Mã Lai…(Nguyễn T. Đ., 2004). Bên cạnh, danh từ Châu Giang chỉ chung khu vực có người Chà-và sinh sống. Vì thế, tên gọi Chà-và Châu Giang được dùng khá phổ biến và vẫn được lưu hành trong người dân.

Qua tìm hiểu, theo tôi, người Chăm tiếp nhận Hồi giáo chính thống (Islam), tạo nên nền văn hóa Chăm Islam riêng biệt trong những ngôi làng dọc theo dòng sông Hậu. Vì thế, tên gọi chính xác gọi họ bao gồm cả địa danh và tôn giáo là: người Chăm Islam sông Hậu (An Giang).

Một người Chăm Islam sông Hậu (giữa TK XX).

Văn hóa người Chăm Islam sông Hậu và sự hội nhập

Theo tài liệu trong những năm 60 đến những năm 90 của thế kỷ 20, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng người Chăm “sống khép kín” và “xa lạ” với người Kinh. Qua quá trình tìm hiểu cuộc sống của họ, tác giả cố gắng tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi được đặt ra: có hay không sự tiếp xúc, giao lưu văn hóa giữa người Kinh và người Chăm, có hay không người Chăm khó tiếp xúc, sống khép kín và không hội nhập với cộng đồng xung quanh, có phải cuộc sống của họ khác biệt với người Kinh quá nên giữa hai cộng đồng này không thể hiểu nhau?

Về tính cộng đồng

Người Chăm có cuộc sống gắn chặt với cộng đồng, nơi sinh hoạt của cộng đồng là thánh đường hoặc tiểu thánh đường. Mỗi ngày, nam giới từ 15 tuổi trở lên hành lễ năm lần tại thánh đường hoặc surao. Nếu ai đó không đi lễ một ngày thì cả cộng đồng đều đến hỏi thăm và giúp đỡ. Tính cộng đồng được thể hiện trong các lễ nghi tang ma, hoặc cưới xin, mọi người trong làng chia sẻ, giúp đỡ mọi việc trong những ngày lễ lớn của làng hoặc mỗi gia đình. Nếu một gia đình nào không nhận được sự cầu nguyện cho người mất trong tang lễ hoặc không được mọi người chia sẻ công việc trong lễ cưới xin thì nhà đó xem như bị cách ly khỏi cộng đồng hoặc mất uy tín trong làng.

Về kinh tế

Người Chăm trước đây nổi tiếng nổi tiếng với nghề dệt thổ cẩm truyền thống. Theo Phan Lạc Tuyên nhận xét, nghề dệt thổ cẩm nổi tiếng trong người Chăm Thuận Hải và An Giang (Phan L. T., 2000: 180 -181). Cụ thể, Joseph (Joseph, 2011) trao đổi: lúc trước bất kỳ ai khi vào đến làng Phũm Soài đều nghe tiếng lạch cạch của khung dệt, nhà nào cũng có khung dệt, con gái mà không biết dệt là không lấy được chồng. Khắp nơi không chỉ ở Phũm Soài mà nhiều làng khác, trong nhiều nhà đã không còn khung dệt. Họ cho biết, những chiếc chăn (sà-rong), khăn đội đầu ngày nay thường là hàng của Malaysia, người Chăm không còn làm những sản phẩm này nữa. Theo họ, dệt thủ công không cạnh tranh được với dệt công nghiệp (Joseph, 2011). Vì thế, qua khảo sát tôi thấy, các cô gái Chăm ngày nay chuyển từ dệt vải sang may thêu trang phục, đặc biệt trang phục hành lễ. Điều này thấy rất rõ trong các làng ở Búng Bình Thiên. Điểm mạnh của phụ nữ ở làng biên giới là may áo dài Chăm truyền thống dành cho những cô gái mặc khi dự lễ cưới. Họ khéo tay tạo ra những chiếc áo cổ tròn dài qua đầu gối, kết nhiều hạt cườm lấp lánh, chiếc áo được mặc với sa-rong (hoặc váy dài) cùng màu, điểm nhấn là chiếc khăn dài lấp lánh những hoa văn thêu bằng kim tuyến cùng với hạt cườm óng ánh.

Một trong những nghề thủ công không phát triển ở các làng, đó là nghề làm gốm. Đối với người Chăm Trung Bộ, nghề gốm nổi tiếng lưu lại trong câu ca dao: “muốn ăn bánh ít nhân mè/ lấy chồng Bầu Trúc gánh ghè mòn lưng” (Phan L. T., 2000: 180 -181).

Về ngôn ngữ

Trước đây, người Chăm không khuyến khích con cái đi học, nam giới học đến hết tiểu học thì không học tiếp nữa, tiếng Việt (quốc ngữ) hạn chế sử dụng nên không thông thạo dần không nói được. Đối với hầu hết nữ giới không được đi học nên không giao tiếp được bằng tiếng Việt (quốc ngữ), họ hạn chế trao đổi với người Kinh bởi ngôn ngữ. Theo họ, ông bà xưa không cho con cái đi học vì sợ người Chăm bị ảnh hưởng người Kinh dẫn đến mất cái đạo hoặc ảnh hưởng những điều xấu mà trong giáo luật đã cấm kỵ. Một số người buôn bán thường xuyên với người Kinh cần sử dụng tiếng Việt, họ chỉ cần biết đọc và viết để liên lạc bằng thư từ khi cần thiết. Vì thế, họ chỉ khuyến khích trẻ em trong làng giao tiếp bằng tiếng Chăm, đến thánh đường học đọc kinh Koran bằng tiếng Ả Rập.

Ngày nay, bên cạnh việc họ cố gắng giữ gìn tiếng Chăm, mọi người cộng đồng sử dụng tiếng Chăm giao tiếp hàng ngày. Hầu hết người Chăm giao tiếp tiếng Việt thành thạo trong tiếp xúc hàng ngày với người Kinh. Hơn nữa, một số người Chăm nói rành rẽ tiếng Khmer. Có thể thấy, họ đã và đang hòa nhập với các dân tộc xung quanh như họ có thể tiếng Việt và tiếng Khmer. Đồng thời, họ hội nhập với thế giới Islam bằng sự tiếp biến kiểu chữ Ả Rập, chữ Malaysia trở thành kiểu chữ Chăm mượn ký tự Ả Rập. Điều này cho thấy, người Chăm phát triển khả năng ngôn ngữ rất tốt. Họ có thể tiếp nhận nhiều ngôn ngữ cùng một lúc. Một người Chăm vừa nói được tiếng Chăm – ngôn ngữ mẹ đẻ, tiếng Việt – ngôn ngữ giao tiếp, tiếng Ả Rập – ngôn ngữ kinh Qur’an. Một số người khác ngoài ba thứ tiếng, họ còn biết tiếng Malaysia thông qua buôn bán hoặc học tập ở Malaysia. Như thế, những người Chăm du học, chủ yếu ở các nước Hồi giáo, có thể sử dụng tiếng Anh rất tốt.

Từ những ý trên, ngôn ngữ là một yếu tố quan trọng trong quá trình giao lưu văn hóa. Người Chăm đã vượt qua những suy nghĩ trước đây, giúp cho những học sinh Chăm có cơ hội du học sau khi tốt nghiệp Trung học phổ thông do sự tài trợ của các nước Hồi giáo như Malaysia, Indonesia, Các tiểu vương quốc Ả Rập, Ai Cập… Như vậy, thế hệ trẻ đã nhanh chóng hòa nhập với các dân tộc khác trong trường học, việc tiếp xúc diễn ra một cách tự nhiên và việc thông tin về những phong tục, tập quán của các em cũng phát triển hơn.

Về nhà cửa

Cách thức xây dựng nhà của người Chăm và Kinh giống nhau, phù hợp điều kiện sinh sống như nhà sàn chống lũ lụt hàng năm, nhà đúc gạch kiên cố phù hợp điều kiện kinh tế.

Trước đây, theo cư dân, khi chưa có đường lộ, hầu hết nhà hướng ra sông, người Chăm quen đi trên sông nước, nhà sàn được xây dựng. Họ quan niệm nhà như thuyền, đầu hồi cũng như đòn dông nhà được xem là mũi thuyền phải quay thẳng hướng ra sông. Do đó, cửa chính được trổ ngay nơi vách đầu hồi (tức vách cạnh ngắn), luôn hướng thẳng ra sông rạch về sau hướng ra đường lộ. Vào mùa khô, dưới gầm nhà sàn thường được tận dụng làm nơi cho phụ nữ dệt vải. Hiện nay, họ vẫn bảo tồn những ngôi nhà cổ hơn trăm tuổi, những công trình kiến trúc đạt trình độ mỹ thuật cao. Tuy nhiên, phần lớn nhà sàn của họ được “hiện đại hóa”, do thời gian làm hư hại những cột gỗ chống sàn nhà, người ta bỏ những cột gỗ thay vào bằng cột đá hoặc trụ xi-măng. Ở các làng Chăm Phũm Soài, Vĩnh Tường không còn lũ lụt như trước nữa do đê bao quanh kênh rạch, nhà sàn ở đây được người dân gọi là nhà “cao cẳng”. Một số nhà khác tận dụng diện tích gầm sàn bằng cách đúc tường thành nhà hai tầng, tầng dưới xây gạch tường sơn, tầng trên giữ nguyên sườn nhà vách gỗ.

Bên cạnh những ngôi nhà sàn cổ và nhà sàn “cách tân”, trong làng, nhà đúc (còn gọi là nhà tường) kiên cố người Chăm được xây ngày càng nhiều, thích ứng với sự thay đổi tự nhiên khi những bờ đê đắp cao đã tránh được lũ lụt hàng năm thì ngôi nhà sàn cao chống lũ không còn cần thiết, hơn nữa nguồn gỗ cũng không nhiều và giá cao. Vì thế, hiện nay, nhà sàn được thay thế bằng nhà đúc mà việc xây dựng ít tốn kém, ngôi nhà trông thấy vững chắc và khang trang hơn. Kiểu dáng những căn nhà đúc Chăm không khác gì nhà đúc Kinh do việc xây dựng nhà tường được người Kinh tiếp nhận từ phong trào Âu hóa đầu thế kỷ XX, từ đó người Chăm tiếp nhận cách thức xây nhà mới. Tuy nhiên, một số người Chăm cho rằng họ thích sống trong nhà sàn hơn nhà đúc, họ vẫn muốn lưu giữ kiểu dáng nhà sàn xưa. Ví thế, trong khu dân cư mới thuộc làng Phũm Soài, họ tạo ra một kiểu nhà mới - nhà đúc “cao cẳng”. Nhà đúc được xây trên các cột xi –măng hoặc cột đá, có cầu thang chính bắc ngay vào giữa nhà. Cách bố trí nhà vẫn như trước, gian ngoài là phòng khách đồng thời dành cho đàn ông trong nhà, gian giữa được ngăn lại làm buồng riêng cho các cô gái. Vào dịp lễ cưới, buồng riêng của cô dâu được trang hoàng lộng lẫy nhiều màu sắc. Một phần gian giữa còn lại là nơi sinh hoạt của phụ nữ trong nhà như dệt vải, thêu may… Gian trong cùng là nhà bếp, cũng là nơi chứa nông cụ, nông sản. Phần hiên sau dành để lu nước, dựng nhà tắm.

Trong đời sống của họ, tôn giáo Islam chi phối mọi ý thức và hoạt động. Điều này thấy rõ trong trang trí nhà cửa, hầu hết không nhà nào có bàn thờ và hình thờ. Theo giáo luật quy định không có hình ảnh của một nhân vật nào bởi vì người theo đạo Islam chỉ thờ Alla (còn gọi Allah, Alloh hoặc Thượng Đế), là siêu hình do đó không có hình ảnh cụ thể. Tuy nhiên, họ thường trang trí bằng hình ảnh thánh địa Mecca hoặc chữ Ả - Rập viết một câu kinh ca ngợi thánh Alla được biến thể thành họa tiết hoa văn. Dường như họ không phân biệt phương hướng trong việc dựng nhà, khác với người Chăm miền Trung. Người Chăm miền Trung, khi dựng nhà, không quay cửa về hướng Bắc và hướng Đông, họ cho rằng đó là hướng Bắc là hướng của ma quỷ, hướng Đông là của thần thánh. Nhà thường quay về hướng Nam hoặc Tây. Nhà dựng bằng tranh, vách đất, mái thấp đi vào phải khom lưng, ít cửa sổ (Phan L. T., 2000). Hơn nữa, trước đây, một số nhà không có bàn ghế, họ tiếp khách bằng chiếu trải giữa nhà. Nhưng hiện nay, nhiều nhà có bàn ghế dành để tiếp khách cho thấy sự giao tiếp của họ nhiều hơn so với trước.

Khuynh hướng cách tân thể hiện trong cả việc xây dựng thánh đường, người dân gọi là thánh đường của “đạo mới” trong làng Phũm Soài. Theo Almach, “đạo mới” là nhóm theo khuynh hướng cách tân, đơn giản hóa trong một số quan điểm như trang phục đi lễ, cách lí giải kinh Koran… (Almach, 2011). Thánh đường được xây dựng như một ngôi nhà hai tầng, bên hông có cầu thang lên tầng hai. Phía tầng trệt là lớp học để dạy tiếng Chăm. Thực sự, không có lớp dạy tiếng Tiếng, lớp học là những người đọc và hiểu tiếng Ả Rập dạy cho các em nhỏ biết đọc và hiểu được kinh Qur’an, người dạy được gọi là Tuan. Tầng trên dành chỗ cho cầu nguyện, mọi người có thể đi lên bằng chiếc cầu thang phía bên hông. Nơi cầu nguyện là căn phòng lớn, bên ngoài được bao quanh bởi hành lang rộng lát gạch trắng, tường sơn trắng; bên trong không trang trí bất kỳ hình ảnh nào, phía vách tường hướng về phía Tây có hai hậu tẩm, một dành cho chức sắc chỉ dẫn mọi người làm lễ, một còn lại có bậc cao hơn dành cho người thuyết giảng vào lễ trưa thứ Sáu hàng tuần ngồi lên đó. Lễ trưa ngày thứ Sáu vào lúc 12g30 quan trọng nhất trong tuần, đối với những buổi lễ khác, người cách xa thánh đường có thể dự lễ tại tiểu thánh đường nhưng vào lễ trưa thứ Sáu mọi người đều đến thánh đường làm lễ.

Về trang phục

Người Chăm chú trọng đến trang phục phù hợp hoàn cảnh như lao động hàng ngày, dịp lễ cưới trang trọng, hành lễ. Theo nghiên cứu của Phan Thị Yến Tuyết (Phan, 1993), trang phục được phân chia và miêu tả cụ thể như sau:

Trang phục hàng ngày của họ vẫn gắn liền với sà – rong (xà-rông), họ thường gọi sà-rong của nam là chăn và váy của nữ. Chăn được may dễ dàng vì không có gấu và lưng quần, chỉ dùng 2m kết liền lại, chiều dài không quá 1m2, dùng vải kẻ sọc nhiều màu, thường có màu sẫm như màu xanh hay từ nâu đến đỏ. Sà-rong của nữ thường may màu đen, váy cũng dùng 2m vải kết lại, chiều dài không quá 0,85m vì có nối lưng váy bằng vải trắng khoảng 0,15m. Cả chăn và váy đều không có dây lưng, người mặc bước chân vào rồi túm lại giắt sang một bên (Phan, 1993:254).

Đối với nam giới Chăm, trước đây, họ mặc chăn với áo chvéa (áo cộc hay áo java, áo taloh) có lẽ du nhập từ Malaysia sang, loại áo rộng, dài quá mông, cổ cao 3cm, từ cổ xẻ dọc tới ngực áo và đắp vải viền xung quanh lan ra tới hai vai, cài khuy. Tay áo dài và rộng. Phía thân áo và nách áo có nối thêm miếng vải hình tam giác để thân áo thêm rộng vì áo may theo kiểu bít tà. Áo có hai túi lớn gần vạt áo để đựng đồ dùng, có khi thêm một túi kín đáo phía trong ngực áo (Phan, 1993:261-262). Theo xu hướng Âu phục hóa, người Chăm cũng bắt đầu tiếp nhận Âu phục. Theo ông Musa Phương giải thích về việc người Chăm mặc Âu phục thì không ai xác định được là khi nào, có thể là sau giải phóng. Do trước năm 1975, người chồng buôn bán, làm ruộng hoặc đánh bắt cá có thể lo cho cả gia đình. Sau giải phóng vài năm, do tình hình chính trị khó khăn, làm cho việc kiếm sống của người chồng khó khăn, lẽ đó người vợ cũng phải đi buôn bán, bươn chãi cùng chồng nên mặc quần cho thuận tiện. Đó là lí do kinh tế, còn có lí do giao lưu văn hóa qua các hội thi văn nghệ, do trẻ em đi học thay đổi trang phục thuận tiện hơn (Phương M. , 2011). Ngày nay, trong cộng đồng không còn nhiều khắt khe như trước, việc mặc Âu phục không bị lên án như ngày xưa. Nhưng trong cộng đồng, mọi người vẫn mặc trang phục truyền thống, một số người chỉ mặc Âu phục khi đi làm, đặc biệt trong các dịp đám tiệc, mọi người đều mặc chăn và áo truyền thống đẹp hơn để dự tiệc. Đối với các ông lớn tuổi đi đâu cũng mặc chăn, còn các thanh niên đi ra khỏi xóm như đi qua chợ Châu Đốc thì mặc quần Tây cho thuận tiện (Almach, 2011).

Một ý kiến khác, ông Lý Dusô – Ban Đại diện cộng đồng Hồi giáo tp.HCM - cho biết cách mặc Âu phục có từ thời ba của ông. Thời ông, đi học mặc đồng phục giống người Việt. Đối với nữ thì không khuyến khích, gia đình tiến bộ mới được cho đi học. Thời chú đi học, thời ông đi học là vào năm 1968 (Sô, 2011). Ngày nay, một số người lớn tuổi vẫn mặc áo chvea cùng với chiếc sà-rong vì họ cho rằng nó có vẻ đứng đắn hơn; số đông nam giới vận chăn với áo chemise, áo thun ngắn tay. Những chiếc chăn ngày xưa do người Chăm dệt và bán trong cộng đồng, hiện nay, người Chăm không còn theo nghề dệt nhiều nữa, hầu hết họ đều phải mua chăn từ nơi khác, nguồn hàng lấy từ Malaysia hoặc Campuchia. Khi đi xa, hầu hết thanh niên Chăm mặc quần Tây cùng áo chemise hoặc áo thun, trang phục giống người Việt cho thuận tiện việc đi lại.

Đối với trang phục nữ giới, họ mặc váy với chiếc áo cộc (áo “tah”), là loại áo có thân rộng, ống tay hẹp, có hai túi lớn phía trước, gần giống áo bà ba hoặc áo túi của người Việt. Trước đây, họ dệt vải để may trang phục cho mọi người trong gia đình, màu sắc của vải dệt chủ yếu màu tự nhiên bằng kỹ thuật nhuộm bằng mặc lưa (mackloeur) tạo ra hàng lụa tơ tằm đen, bền, đẹp và nổi tiếng của họ (Phan T. Y., 1993:256). Về sau, nghề dệt mất dần do không cạnh tranh được với kỹ thuật dệt công nghiệp, chất liệu vải và màu sắc cũng được họ thay đổi nhiều trong trang phục. Hiện nay, họ sử dụng nhiều màu sắc và nhiều loại chất liệu hơn trước, vải may váy và áo có in hoa văn, không còn ưa thích màu đen hoặc màu sậm nữa. Đa số họ may áo và váy cùng chất liệu, cùng hoa văn và màu sắc như nhau. Sà-rong của nữ được cách điệu về kỹ thuật may, họ may giống chiếc váy dài bít tà của người Việt. Khi ở nhà với người thân, làm công việc bình thường, họ có thể mặc áo tay ngắn, cổ tròn cùng với váy, không phải đội khăn. Khi nhà có người lạ đến hoặc đi ra đường, họ phải khoát thêm áo dài tay, đội khăn phủ kín tóc theo đúng giáo luật Islam biểu hiện tư cách đứng đắn, chuẩn mực của họ.

Lễ phục

Người Chăm có trang phục trong lễ cưới và lễ phục khi hành lễ riêng biệt. Về trang phục trong lễ cưới của người Chăm, mọi người đi dự đám cưới đều mặc trang phục có phần rực rỡ hơn ngày thường. Đối với thanh niên, họ mặc những chiếc chăn mới có in hoa văn đẹp hơn hàng ngày, mặc cùng với áo sơ-mi, không mặc áo thun, cho thấy tính chất trang trọng ngày cưới. Những người lớn tuổi vận chăn cùng áo chvea. Hầu hết nam giới đều đội mũ, loại mũ phổ biến là mũ “kapeak juk” – loại mũ calot Hồi giáo có tính chất quốc tế - làm bằng nỉ hoặc nhung có màu đen hoặc xám, loại mũ được dùng nhiều hơn là loại mũ “kapeak putih” – loại mũ tròn, được móc bằng chỉ trắng. Đối với trang phục của chú rể, họ mặc chiếc áo dài “kơ-rông”, như chiếc áo chvea nhưng không có hai túi phía trước và thân áo dài qua gối, đầu đội khăn choàng trắng với vòng ykal vận chăn màu trắng (Phan, 1993:263). Một số người ảnh hưởng Âu phục, bên ngoài chiếc áo dài truyền thống, chú rể khoác thêm áo veste, đầu đội mũ kapeak juk. Hiện nay, một số chú rể vận chăn cùng chiếc áo chemise, khoác thêm áo veste, đầu đội mũ kapeak juk, mang giày Tây.

Với các cô gái Chăm, họ mặc những chiếc áo dài cổ truyền qua gối với chiếc váy cùng màu tươi tắn. Chiếc áo dài cổ truyền tương tự chiếc áo dài người Việt, thân áo dài gần chấm gót chân, không có cổ áo và phía dưới may liền nhau không xẻ tà, khi mặc phải chui đầu không cài nút như áo dài người Việt. Trước đây, áo dài truyền thống được may bằng vải màu đen hoặc xanh, kiêng màu trắng, về sau, áo dài may nhiều màu sắc sặc sỡ, trang trí bằng những hình vẽ hoa văn kết hạt cườm lấp lánh. Chiếc khăn choàng đầu cũng được điểm tô bằng những hạt cườm kết viền mép khăn. Ngày nay, phụ nữ Chăm thường may những chiếc áo dài cưới theo kiểu áo dài truyền thống có cổ như cổ áo dài người Việt, màu sắc thường chọn làm áo cưới và khăn đội đầu là màu trắng có kết thêm những hạt đá lấp lánh trang trí. Chiếc áo dài cưới và chiếc khăn đội đầu màu trắng chịu ảnh hưởng chiếc áo đầm dạ hội (áo soirée) và chiếc khăn voile trắng của các cô dâu người Việt du nhập yếu tố Âu phục.

Về trang phục hành lễ, đối với nam giới, họ đội mũ, có người chọn mũ kapeak juk, có người chọn mũ kapeak putih, vận chăn cùng áo chemise hoặc áo thun sạch sẽ. Đối với những người lớn tuổi, trang phục lễ có sự chú trọng, họ mặc chiếc áo dài gọi là áo azubah, loại áo có cổ đứng, thân dài qua gối hoặc hơn, có hai túi lớn và hàng khuy phía trước, màu trắng, đầu vấn khăn giống với trang phục các nước Ả Rập... Theo họ, trang phục như thế giống với trang phục của Thiên sứ Mohamed (Muhammad), họ tin rằng làm theo Thiên sứ sẽ được nhiều phúc đức. Đối với nữ giới, y phục là nghi thức bắt buộc được qui định giáo luật, người nữ mặc y phục kín hết thân thể chỉ được chừa một phần mặt. Họ mặc váy trắng dài chấm gót chân, áo “mah thna” màu trắng là loại áo có mũ dính liền áo, che phủ kín người từ đầu đến quá gối, thân áo may rộng giúp người nữ thoải mái khi thực hiện các nghi thức cầu nguyện, áo mặc bằng cách chui đầu. Ngày nay, họ thường thêu hoa văn bằng chỉ trắng viền mép áo và váy tạo sự tinh tế cho trang phục hành lễ.

Về ăn uống

Đối với người Chăm Islam, họ không tận dụng tất cả nguồn lương thực như người Kinh mà tuân theo qui định của giáo luật trong ăn uống. Quan trọng nhất, tín đồ không được ăn thịt heo. Đối với những con vật như bò, dê, gà, vịt… phải do chính tay họ giết thịt và nấu ăn. Những món ăn của họ chịu ảnh hưởng Ấn Độ như hương vị cà-ri, hồi, quế… mang đậm thích chất béo và cay. Món cà-ri đặc trưng của họ thường được nấu với các loại thịt bò, dê hoặc cừu, gà, cá… có vị béo và cay, đặc biệt là dùng nước cốt dừa để tạo vị béo. Trong lễ cưới của họ, món cà-púa được nấu đãi khách, cách thức nấu như món cà-ri nhưng miếng thịt bò lớn cắt đều bốn phần, các nguyên liệu như rau, củ… đều được chiên vàng trước khi nấu, có thêm đậu phộng giã nhỏ, mùi vị vẫn đậm chất béo và cay. Món xàm-pạt nấu với thịt gà và nước cốt dừa, hương vị quế, ớt bột, tiêu… Người Chăm còn đưa vị béo vào trong các loại bánh ngọt như bánh ha pel (bánh bông lan), bánh ha pây nung (bánh bột đậu chiên), bánh hakchil (bánh in)… Họ thường tặng bánh cho nhau, bánh ngọt có vị trí thiết yếu trong đời sống vật chất lẫn tinh thần của họ. Trong tháng Ramadan, các thành viên trong gia đình thường họp mặt để ăn bánh ngọt, uống trà (Phan, 1993:269-271).

Về cách ăn, người Chăm quen ăn bốc, trên mâm cơm có nhiều dĩa hơn chén bát. Họ dùng tay bốc cơm, dùng thìa (muỗng) để múc thức ăn hoặc cháo. Trong các bữa ăn chung ở thánh đường, người ta thường đem ra ấm nước sạch và thau nhôm để mọi người rửa tay trước và sau khi ăn. Điểm chú ý đến thói quen trong sinh hoạt ăn uống của người Chăm, trong các làng này, quán cà-phê cóc rất nhiều, quán cà-phê thường dành cho nam giới. Đặc biệt, không có một nhà hàng hoặc hàng quán nhậu nào ở các làng Chăm, điều này được giải thích dựa theo giáo luật Hồi giáo uống rượu là một trong bốn điều cấm. Người Chăm rất tuân thủ giáo luật vì thế họ không biết đến rượu và sự say xỉn, dường như điều này là một trong những yếu tố làm cho cuộc sống người Chăm ổn định, không xảy ra nhiều tệ nạn như gây gổ, đánh nhau… Vì thế, đời sống người Chăm khá yên bình giữa những cánh đồng lúa và con kênh êm ả bên đường nhưng có vẻ đời sống của họ chưa được phát triển như ở các làng khác.

Luật tục

Trên các đường làng, dường như hình ảnh cô gái người Chăm đi một mình không hề thấy.Trong các bài viết trước đây giải thích bởi luật tục “cấm cung” (ga-sâm) nhưng những cư dân ở đây cho rằng không có có luật tục này. Theo Joseph (Joseph, 2011) giải thích: “trước đây dùng từ cấm cung là không đúng, nữ đến tuổi cặp kê vẫn được đi ra ngoài nhưng khi đi phải có người dẫn dắt (có thể đi nơi nào mình muốn), người dắt là anh trai, em trai, chị gái, cô, dì là người có chồng hoặc có đạo đức tốt”. Cùng quan điểm trước, giải thích của Almach: “không có cấm cung, sách viết cấm cung nhưng không phải. Thiên sứ khuyến khích phụ nữ kín đáo (do trước đây nô lệ rất hở hang), kín đáo để thấy giá trị của phụ nữ, xem trọng phụ nữ” (Almach, 2011).

Theo như mọi người nói, phụ nữ cũng thường ra đường nhiều chứ không “cấm cung” như trong sách nói. Họ bảo ngày xưa thì ít đi ra ngoài như bây giờ, nhưng đi ra ngoài là phải đội khăn, mặc kín đáo, đặc biệt phụ nữ Chăm không mặc áo ngắn tay khi bước ra khỏi nhà. Khi làm việc trong nhà, người nữ có thể không đội khăn nhưng khi có khách đến nhà, phụ nữ phải đội khăn lên đầu để che tóc lại, nếu họ đang mặc áo ngắn tay thì phải khoát thêm chiếc áo tay dài bên ngoài. Như vậy, phụ nữ Chăm không hề bị luật lệ hà khắc nào quy định cả, ngược lại họ được đề cao giá trị cao bởi sự kín đáo. Họ ý thức trách nhiệm chăm lo gia đình, phụ nữ không phải lo kinh tế, không phải vất vả đẩy xe bán hàng rong vì đã có chồng lo việc kiếm tiền hoặc đã được cha mẹ chăm sóc. Tuy nhiên, một số ít gia đình kinh tế khó khăn, người nữ mới phải kiếm tiền bằng buôn bán xa nhà. Bởi vì, mỗi ngày họ còn nhiệm vụ hành lễ năm lần, đối với họ khi làm ăn rất khó khăn trong giữ nguyên tắc của đạo. Như thế, họ không hưởng nhiều phúc lành bởi họ tin rằng Alla sắp đặt số phận của họ và họ sống theo sự sắp đặt.

Hơn nữa, người nữ không làm lễ ở thánh đường năm lần trong ngày như nam giới để tránh sự tiếp xúc với nam giới, đề cao giá trị của người nữ. Nhưng họ vẫn làm lễ đầy đủ năm lần trong ngày tại nhà. Khi làm lễ, họ có trang phục riêng, một chiếc áo dài tay dài qua đầu gối cùng với chiếc sà – rông dài qua mắt cá chân, đầu đội chiếc khăn trùm kín đầu phủ dài ngang vai, tất cả đều màu trắng và được thêu họa tiết hoa văn viền mép.

Lễ nghi cưới xin

Điểm nổi bật trong văn hóa Chăm là những nghi thức lễ nghi đám cưới. Lễ cưới thường diễn ra trong hai ngày và một đêm. Ngày thứ nhất là lễ “jumnait” mời bà con dòng họ đến ăn uống và văn nghệ. Trong ngày cưới này chủ yếu họ hàng và người cùng xóm, không khách xa lạ. Ngày thứ hai làm lễ “harei he”, ngày đưa rể, nghi lễ này cho thấy yếu tố văn hóa truyền thống bởi chế độ mẫu hệ.

Nghi lễ quan trọng trong ngày thứ hai, ngày đưa rể được diễn thông thường vào 6 giờ sáng, họ nhà trai đưa chú rể đến thánh đường làm lễ. Khi chú rể bước xuống cầu thang nhà mình, mọi người cùng hát bài “la amék la imâ” (xin cha mẹ tha thứ, con từ giã cha mẹ). Trong đoàn có khoảng 30 nam giới (phụ nữ Chăm không được phép vào thánh đường) và ba bé trai tay bưng ba cái ô, mỗi ô bên trong đựng trầu, cau, vôi, gạo, muối, bánh và trái cây đi phía trước. Khi đến thánh đường, chú rể ngồi đối diện với cha vợ, hai bên có hai người cao tuổi, đạo đức tốt làm chứng, đồng thời có vị thầy cả đọc kinh dạy bảo chú rể bổn phận làm chồng theo luật Islam. Từ thánh đường, đám đông đưa chú rể đến nhà cô dâu. Cha vợ và chàng rể thực hiện xong nghi lễ “bắt tay giao con” thì số tiền “giao con” sẽ được họ hàng nhà trai đưa đầy đủ cho cha của cô dâu trước sự chứng kiến của mọi người.

Sau khi xong lễ “kà pụn”, chú rể được mọi người hộ tống đưa vào phòng cưới, cùng đi có ba bé trai bưng ba cái ô. Lúc này, cô dâu trong trang phục cưới truyền thống là áo dài nhung đen phía trên, bên dưới mặc váy thổ cẩm và đầu phải cài 3 cây trâm trên tóc trang điểm thật đẹp ngồi trên chiếc giường cưới chờ chú rể. Theo đúng nghi thức, chú rể phải tiến thẳng đến đứng trước mặt cô dâu và lấy tay phải xỉa nhẹ vào trán cô dâu một cái nhổ cây trâm ngay chính giữa đang cài trên mái tóc của cô dâu. Sau đó, chú rể bước lên giường cưới, ngồi cạnh cô dâu, đầu gối của chú rể gác nhẹ lên cô dâu. Cả hai phải kính cẩn chờ đợi và lắng nghe từng lời của ông Cả thực hiện nghi lễ đọc kinh chúc phúc cho hai người. Hai hành động của chú rể được hiểu là thể hiện quyền làm chủ trong gia đình của người chồng.

Thực hiện xong nghi lễ này, cô dâu và chú rể mới được bước ra ngoài sảnh tiếp khách và đi đến chào hỏi họ hàng nhà trai, nhà gái, chào hỏi tất cả các quan khách rồi bước ra ngoài đãi tiệc những thực khách được mời dự đám cưới. Bao giờ thực khách đến đông đủ, bà mẹ sẽ đi chào mời khách nữ, người cha sẽ đi tiếp khách nam. Khi tiệc mặn được dọn lên, mọi người cùng nhau cầu nguyện thánh Allah ban phước lành. Trong đám cưới của người Chăm tuyệt nhiên không có một giọt rượu nào được rót ra vì luật định của đạo Hồi cho rằng uống rượu là có tội với thánh Allah.

Ngày nay, có thể nhìn thấy những yếu tố của quá trình giao lưu văn hóa giữa người Chăm và người Kinh. Trong đám cưới Chăm như cổng hoa, rạp cưới, trang phục của cô dâu, chú rể… bên cạnh những nghi thức đặc trưng Chăm Islam. Phía trước, nhà gái cũng dựng chiếc cổng hoa “Vu Quy”, bên nhà trai dựng “Tân Hôn” như đám cưới người Kinh cho thấy có sự “hiện đại” hóa trong lễ nghi cưới xin. Đa số cô dâu mặc áo soirré và đội khăn trắng nên hành động chú rể rút trâm cài trên tóc không còn mà chỉ giữ nguyên hành động chú rể xỉ nhẹ vào trán cô dâu. Bên cạnh, một số chú rể vận sa-rong cùng chiếc áo chemise, khoác thêm áo veste, đầu đội mũ kapeak juk, mang giày Tây. Cũng như trước đây, trong đám cưới, nhà cửa cả hai bên nhà trai và nhà gái đều được các thanh niên trong làng trang hoàng rất đẹp và đầy màu sắc sặc sỡ.

Kết luận

Với cách nhìn đa dạng văn hóa tộc người, An Giang là địa bàn cư trú đa tộc người, không gian diễn ra quá trình giao tiếp giữa các tộc người. Trong cùng điều kiện sinh sống, hoàn cảnh xã hội, những vấn đề chung mà tất cả dân cư trên vùng đất này cùng đối mặt như: áp lực về kinh tế, giáo dục, hòa nhập với thế giới… Theo xu hướng hòa nhập không chỉ trong nước mà cả thế giới, quá trình tiếp nhận những yếu tố mới để phát triển là tất yếu đối với mỗi tộc người. Trước đây, cuộc sống theo lối kinh tế tự cung tự cấp làm ngăn cản sự tiếp xúc giữa các làng với nhau, giữa các dân tộc cùng sống chung trên một vùng với nhau. Ngày nay, cuộc sống theo lối kinh tế trao đổi thường xuyên, khoa học kỹ thuật luôn phát triển, sự tiếp xúc giao lưu không dừng lại ở một vùng đất nhỏ mà diễn ra cả thế giới.

Vì thế, sự biến đổi của những làng Chăm biểu hiện của sự giao lưu và hội nhập. Điều này cho thấy, họ gắn bó trong cộng đồng và tuân theo những quy định của tôn giáo nhằm lưu truyền bản sắc văn hóa cho thế hệ sau. Tuy nhiên, họ cũng tiếp nhận những yếu tố văn hóa khác theo thời gian và có sự chọn lọc gay gắt. Hơn nữa, văn hóa Islam mang tính thống nhất quốc tế cao, trên cơ sở đó, họ thích nghi và hòa hợp với thế giới Hồi giáo. Tuy nhiên, từ rất sớm, người Chăm có sự tiếp xúc và tiếp nhận những yếu tố văn hóa của cộng đồng xung quanh, gần nhất là người Kinh và Khmer. Đồng thời, trong nền văn hóa của người Chăm Islam, những yếu tố văn hóa Chăm truyền thống vẫn tồn tại đan xen văn hóa Islam và những nét văn hóa của các tộc người khác. Như thế, người Chăm Islam đã tạo nền văn hóa đặc trưng với những yếu tố tiếp nhận và hội nhập trên một vùng đất tồn tại nhiều yếu tố văn hóa ảnh hưởng bởi những dòng văn hóa khác nhau như Phật giáo, Cao Đài… Do đó, bài viết thể hiện mong muốn có cái nhìn khác từ nghiên cứu về người Chăm Islam ở An Giang và trong cả Việt Nam.

Tài liệu tham khảo:

1. Almach, H. (2011, 8 17 - 25). Văn hóa người Chăm An Giang. (K. O. Hứa, Người phỏng vấn)

2. Dohamide. (1962). Người Chàm Việt Nam ngày nay. Bách Khoa, 16-17.

3. Dohamide, Dorohiem. (2004). Bangsa Champa. California: SEACEAF - VIET FOUNDATION.

4. Huỳnh, L. (2000). Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ. HCM: KHXH.

5. Joseph, M. (2011, 8 18). Tôn giáo người Chăm An Giang. (K. O. Hứa, Người phỏng vấn)

6. Lâm, T. (1994). Một số tập tục người Chăm An Giang. An Giang: Chi hội Văn hóa nghệ thuật An Giang.

7. Lý, D. (2011, 11 10). Trang phục người Chăm. (K. O. Hứa, Người phỏng vấn)

8. Lý, T. H. (2009, 05 15). Văn hóa học. Retrieved 06 2011, from vanhoahoc.edu.vn: http://www.vanhoahoc.edu.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=1238&Itemid=74

9. Mạc, Đ. (1991). Vấn đề dân cư và dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long. Trong M. Đường, Vấn đề dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long (trang 200). HCM: 1991.

10. Muhamach, C. (2011, 11 10). Sự biến đổi của đời sống người Chăm An Giang. (K. O. Hứa, Người phỏng vấn)

11. Ngô, V. T. (2003). Địa chí An Giang. Lịch sử định cư và phân bố dân cư.

12. Nguyễn, C. B. (1990). Văn hóa và cư dân đồng bàng sông Cửu Long. HCM: Khoa học xã hội.

13. Nguyễn, H. H. (2000). Nam Bộ xưa và nay. HCM: Xưa và Nay.

14. Nguyễn, T. Đ. (2004). Người Mã Lai và muslim ở Việt Nam. Khoa học xã hội(66), trang 65-71.

15. Nguyễn, V. L. (1974). Người Chàm miền tây nam phần. HCM: Bộ Văn hóa giáo dục.

16. Nhiều tác giả. (2000). An Giang một chặng đường hoa. TP.HCM: Văn nghệ TP.HCM.

17. Phạm, Q. P. (2011, 5 1). Chăm Asulam: Tự khép kín trong một đô thị phát triển? Xưa và nay(379-380), p. 20.

18. Phan, L. T. (2000). Nghiên cứu và điền dã. Trẻ.

19. Phan, T. Y. (1993). Nhà ở - trang phục - ăn uống của các dân tộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hà Nội: NXB KHXH .

20. Phan, V. D., & Nguyễn, V. C. (1999). Người Chăm ở đồng bằng sông Cửu Long. HCM.

21. Phú, H. V. (2012, 7 1). Người Chăm An Giang. (K. O. Hứa, Người phỏng vấn)

22. Phú, V. H. (2005). Đời sống văn hóa xã hội cộng đồng Chăm thành phố Hồ Chí Minh. HCM: Văn hóa dân tộc.

23. Phương, M. (2011, 8 10). Người Chăm An Giang. (K. O. Hứa, Người phỏng vấn)

24. Rie Nakamura. (2009). Champa and Archaeology of Mỹ Sơn (Vietnam). Awar - Ahier: two keys to understanding cosmology and ethnicity of the Cham people (Ninh Thuận Province, Vietnam), p. 79.

25. Sakaya. (2010). Văn hóa Chăm - nghiên cứu và phê bình. HCM: Phụ Nữ.

26. Taylor, P. (2007). Cham Muslims of the Mekong Delta. NUS Press.

27. Trần, T. M. (2010, 07 05). Tỉnh hội Phật giáo Bạc Liêu. Retrieved 07 23, 2011, from www.phatgiaobaclieu.com: http://www.phatgiaobaclieu.com/index.php?option=com_content&task=view&id=1378&Itemid=51

28. Trần, T. T. (1999). Đặc tính văn hóa dân tộc Chăm trong nền văn hóa Việt Nam. Khoa học phổ thông, 13-15.

29. Trần, T. T. (2002, 9). Diện mạo văn hóa An Giang. Toàn Cảnh(146/9,), 50.

30. Vương, H. S. (1993). Tự vị Tiếng Việt Miền Nam. HCM: Văn Hóa.

[1] Theo thống kê dân số năm 2009, người Chăm tại An Giang là 14.209 người trong tổng số dân của tỉnh là 2.142.709 người (Ban chỉ đạo tổng điều tra dân số và nhà ở Trung Ương (2010), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009: Kết quả toàn bộ, Hà Nội, Biểu tổng hợp dân số 2009, biểu 5, trang 219; xem thêm trên: www.gso.gov.vn/Modules/Doc_Download.aspx?DocID=11529

[*] Hứa Kim Oanh

Thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.

Bộ môn Lịch sử, trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa (Tp.HCM)