Võ Vinh Quang - Đỗ Minh Điền
Nghiên cứu về di sản tư liệu trên bia mộ thời Nguyễn, nhất là các loại hình văn khắc Hán Nôm, chúng ta thường xuyên bắt gặp những di văn, di vật (bia đá, chuông đồng, bài vị, biển gỗ, đối liễn…) xuất hiện từ “Việt cố” 越故 làm văn tự khởi đầu.
Bàn về “Việt cố” 越故, trước nay đã có nhiều bài viết và công trình sách nhận định, đưa ra các tiêu chí phân loại, tính khu biệt… trong đó tiêu biểu là bài “Tiếp cận hai chữ “Việt cố” trên bia mộ thời chúa Nguyễn (Dẫn liệu từ vùng Trị-Thiên)” của tác giả Lê Đình Hùng[1] đăng tải trong Kỷ yếu Hội nghị Thông báo Hán Nôm học 2007, sau đó đưa vào công trình Mỹ thuật thời chúa Nguyễn dẫn liệu từ di sản lăng mộ [2]do Phân Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam tại Huế chủ trì. Bằng việc kế thừa và xử lý, phân tích những thông tin về Việt cố của các công trình, bài viết trước đây như bài “Tombeaux annamites dans les environs de Huế” (Lăng mộ của người An Nam trong phụ cận Huế) của L. Cadière ở tạp chí B.A.V.H 1928[3] cùng quá trình khảo sát thực địa nhiều năm, tác giả đã đi đến khẳng định tính đặt trưng khu biệt của loại hình bia mộ khởi đầu bằng “Việt – cố” 越-故 là loại hình bia mộ thời Chúa Nguyễn (hay thời tiền Nguyễn).
Tác giả viết: “Từ niên điểm 1804 trở về sau, theo chúng tôi, hai chữ “Việt – Cố” trên bia mộ không còn xuất hiện phổ biến, mà được thay thế bằng hai chữ khác là “Hoàng Việt”. Nhưng hai chữ “Hoàng Việt” không phải được dùng cho tất cả các bia mộ mà chỉ tập trung vào các đối tượng là quan chức và và các vị phu nhân, dưới triều Gia Long. Sau khi Minh Mạng kế vị quốc hiệu nước ta lại được thay đổi, tương ứng điều này bia mộ lại xuất hiện hai chữ “Đại Nam”. Từ đó về sau còn xuất hiện thêm các chữ như: “Hoàng Triều”, “Đại Nam Hoàng Triều”… trên bia mộ của quan chức dưới triều Nguyễn. Đặt các chữ đó trong mối liên hệ với hai chữ “ Việt – cố” chúng ta sẽ thấy được một sự tiếp biến về cách thức thể hiện trên bia mộ. Nhưng, trên phương diện hình thức và ngữ nghĩa, rõ ràng đã có một sự thay đổi rõ nét, cho tương ứng và phù hợp với bối cảnh lịch sử xã hội đương thời. Cùng với sự thay đổi quốc hiệu, chữ “cố” trên bia mộ được dùng phổ biến dưới thời chúa Nguyễn, ít xuất hiện trở lại trên các bia mộ sau này. Thay thế cho chữ “cố” là chữ “hiển” (顯). Chữ “hiển” xuất hiện ngày càng nhiều và trở thành mẫu thức chung cho hầu hết các bia mộ đời sau, kể cả bia mộ được viết bằng ký tự latinh”[4].
Nhận thức này được xem là “kim chỉ nam” cho tính khu biệt loại hình văn khắc có hai chữ “Việt cố”, tức: “căn cứ vào hai chữ “Việt cố”, điểm đặc trưng nhất của bia mộ được tạo lập dưới thời các chúa Nguyễn (1558 – 1802) sẽ cho chúng ta một giới hạn ban đầu về thời kỳ tạo lập.”[5]
Đây là quan niệm có ảnh hưởng rất lớn đối với việc xác định niên đại của các loại văn khắc (nhất là trong bia mộ) có hiện diện “Việt cố”. Cho đến nay, giới nghiên cứu đa phần đồng thuận với nhận thức rằng bia mộ có “Việt cố” là loại hình bia mộ thời Chúa Nguyễn, hoặc muộn lắm là trước khi vua Gia Long đổi đặt Quốc hiệu Việt Nam (1804). Về vấn đề này, chúng tôi xin được trao đổi, luận bàn thêm.
Trước hết, chúng tôi đồng thuận với nhận định của nhà nghiên cứu Lê Đình Hùng về ý nghĩa của hai chữ “Việt cố” 越故 tại bài viết trên về sự phân định từ loại của “Việt-cố”: Việt 越 chỉ quốc hiệu (nước Việt); cố 故 chỉ người quá cố (đã qua đời). Nghĩa là, hiểu một cách cụ thể, trong thuật ngữ “Việt cố” 越故 thì:
– “Việt” 越 là danh từ, chỉ quốc danh hay quốc hiệu, chỉ nước Việt /Đại Việt – quốc hiệu được sử dụng phổ biến từ thời Lý đến trước khi vua Gia Long đổi thành Việt Nam.
– “Cố” 故 là tính từ, nghĩa là “đã mất/ đã khuất/đã qua đời” (tiếng Anh: deceased); hoặc ở đây, “Cố” 故 cũng có thể hiểu theo nghĩa danh từ hóa tính từ: người đã mất (tiếng Anh: the deceased).
Tuy vậy, khi chuyển dịch “Việt cố” 越故, chúng ta nên hiểu theo ý nghĩa: người đã khuất (cố 故) ở dưới mộ phần (có tấm văn bia này) là người thuộc nước Việt 越 (Đại Việt 大越). Tức người ở dưới ngôi mộ ấy[6]: (1) được sinh ra vào thời chúa Nguyễn [tiền Nguyễn] – đây là tiêu chí bắt buộc, với tính đặc trưng của danh từ “Việt” 越 quy ước và quyết định[7]; (2) Có thể qua đời trong thời chúa Nguyễn [tiền Nguyễn], hoặc triều Nguyễn (tùy theo tuổi thọ thực tế của người nằm dưới mộ phần đó). Nói cách khác, các ngôi mộ hiện hữu “Việt cố” 越故 giúp cho chúng ta biết người nằm dưới mộ sinh sống từ thời Chúa Nguyễn [Tiền Nguyễn] ở Đàng Trong, chứ không có tính khu biệt về thời điểm, thời gian hay thời kỳ dựng lập của ngôi mộ đó, tức những ngôi mộ đó chưa hẳn đã thuộc về thời Tiền Nguyễn.
Qua các thông tin tư liệu đã thu thập, chúng tôi thấy tiêu chí bắt buộc để xuất hiện từ Việt cố 越故 trên bia mộ chính là: người quá cố (đã mất) ở ngôi mộ ấy sinh ra vào thời chúa Nguyễn[8]. Đây là tiêu chí quan trọng để khu biệt về loại hình bia mộ có hiện diện từ Việt cố.
Trên thực tế, bia mộ Việt cố gần như chỉ xuất hiện trong lãnh địa Đàng Trong thời chúa Nguyễn (từ nam Sông Gianh trở vào Nam Bộ), Việt cố cũng xuất hiện nhiều, nếu không nói là khá phổ biến trên loại hình bia đá thời kỳ này. Do vậy, các nhà nghiên cứu trước đây qua những kiến thức và khảo sát thực địa, đã đúc kết thành một đặc trưng tiêu biểu, làm tiêu chí để khu biệt về đặc trưng loại hình bia mộ thời Chúa Nguyễn, đó là nhận thức: Bia mộ có “Việt cố” phải là bia thời chúa Nguyễn.
Có thể nói, đấy là thành tựu đúc kết từ thực địa qua nhiều năm khảo sát của các nhà nghiên cứu, nên rất đáng được ghi nhận và trân trọng. Tuy nhiên, nhận thức ấy không hoàn toàn chính xác, và cần được nhìn nhận lại, bổ sung thêm thông qua các phát hiện khoa học mới, để cung cấp cho độc giả bộ tiêu chí khu biệt chuẩn xác hơn.
Để chứng minh cho luận điểm: bia mộ có từ Việt cố dùng để chỉ người ở dưới ngôi mộ ấy sinh ra vào thời chúa Nguyễn và có thể qua đời vào triều Nguyễn, chứ không nhất thiết qua đời ở thời chúa Nguyễn. Tức “Việt cố” 越故 không dùng để giới hạn niên đại của ngôi mộ và bia đá có từ đó THUỘC thời tiền Nguyễn (1558-1802), hoặc mở rộng biên độ đến trước khi đặt quốc hiệu Việt Nam (1804) như nhận thức cũ, chúng tôi xin cung cấp một số tư liệu cụ thể dưới đây.
Trong các loại hình văn bia, xét về nội dung và ý nghĩa phản ánh, bia đá “Việt-cố” là loại hình bia mộ phổ biến cho dân chúng người Việt ở Đàng Trong. Bia Việt – cố có thể là bia mộ tiền (ghi chép về tính danh, năm lập, người đứng lập bia…), cũng có thể là bia ký minh (có bài văn bia tóm lược hành trạng, sự nghiệp, ca ngợi công đức…)
Cách ghi “Việt-cố…” trên những bia đá hiện tồn chỉ thuần túy mang tính quy ước và phổ biến sử dụng trong một cộng đồng người Việt (hoặc đôi khi là người Hoa nhưng đã định cư lâu đời, đã “Việt hóa” sâu, nên họ vẫn coi mình là người thuộc cộng đồng Việt tộc) ở đất Nam Hà, chứ không hề có tính pháp định, điển lệ, quy chế nào bắt buộc.
Bên cạnh đó, chủ nhân của các loại hình bia có “Việt – cố” vẫn còn hiện hữu cho đến ngày nay đa phần là người có chức quyền, vai vế (như vương tướng, quan lại…) hoặc những gia tộc, cá nhân có điều kiện, khá giả về kinh tế đương thời.
Về niên đại của các bia mộ “Việt cố” (chứng minh bằng các loại hình bia mộ “Việt – cố” của người Việt thuộc lãnh địa Nam Hà xưa và nay).
Các bia đá Việt-cố xuất hiện vào thời tiền Nguyễn [trước khi Thế tổ Cao Hoàng đế lên ngôi, đặt niên hiệu Gia Long] (1558-1802)
Có thể thấy loại hình bia đá “Việt cố” 越故 xuất hiện ở thời kỳ này khá phổ biến ở khắp nơi của xứ Nam Hà. Bằng quá trình điền dã thu thập tư liệu, các nhà nghiên cứu trước nay đã phát hiện hằng trăm bia đá lăng mộ có sự hiện diện của Việt – cố 越故. Đấy chính là tính phổ biến trong thực tế, tạo ra những thông tin gợi mở để một số công trình khảo cứu đi đến kết luận “Việt cố” là từ ngữ đặc trưng của loại hình bia đá thời Tiền Nguyễn (trước 1802) ở Đàng Trong.
Dẫu vậy, qua nghiên cứu điền dã, chúng tôi cho rằng rất cần thiết phải cẩn trọng trong việc xác lập niên đại của các loại văn khắc này. Đó là điều kiện tiên quyết đối với người làm khoa học, để tránh gây ra những ngộ nhận và sai lầm không đáng có.
Nói cách khác, cách xác định “giới hạn thời gian/thời kỳ” xuất hiện của bia đá có “Việt cố” 越故 cần phối hợp nhuần nhuyễn và linh động nhiều thông tin tư liệu, phương pháp khoa học và tương hỗ bằng các kiến thức chuyên ngành, liên ngành (như khảo cổ học, vật lý học, gia phả học, sử học, địa chất học…).
Những tư liệu bia đá “Việt cố” nào đủ thông tin chính xác (như dòng niên hiệu vua Lê, chức tước của các phi tần, quan lại đặc trưng thời chúa Nguyễn…) thì chúng ta có thể khẳng định niên đại tuyệt đối (hoặc tương đối trong khoảng giới hạn thời kỳ [Tiền Nguyễn], nếu chưa đủ cứ liệu chắc chắn). Chẳng hạn như các văn bia dưới đây.
Bia mộ Tín Nhậm hầu ở phường Hương Hồ, Thị xã Hương Trà, Thừa Thiên Huế
Với bia “Việt cố Hình bộ Tín Nhậm hầu, tặng Kính Thận công thần, Đặc tiến Trụ quốc Chính Trị Thượng khanh Thiêm sự, thụy Tuyên Từ Hồ Quý công chi mộ” (hình 1) được dựng vào tháng trọng đông (tháng 11 âm lịch) năm Bính Tý niên hiệu Cảnh Hưng[9], thì chúng ta đã nắm được cụ thể, chính xác năm tạo lập là năm 1756.
Hay như bia mộ Lê Quang Đại ở vùng đồi Thiên An (hình 2 dưới đây), thường được gọi là “lăng Ba Vành”, nhưng dòng niên hiệu ghi rất rõ (dù bị đục chữ, song vẫn còn đọc được) là năm Cảnh Hưng thứ 7 tức Dương lịch năm 1746.
Việt cố Hộ bộ kiêm Binh bộ tặng Kính Thận công thần Đặc tiến Trụ quốc Thiêm nghị Chính Trị Thượng khanh … Lê Quý công chi mộ (Cảnh Hưng thất niên (1746)
Một ngôi mộ khá đặc trưng về kiểu thức, có xuất hiện “Việt cố” cho chúng ta biết đấy là ngôi mộ được lập vào thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, chính là mộ của bà Chiêu nghi Trần Thị Xạ (ở phường Thủy Xuân, thành phố Huế, gần với chùa Từ Hiếu). Tấm bia đá mộ Chiêu nghi Trần Thị Xạ này đã góp phần gợi mở cho chúng tôi về hướng tiếp cận mới và giải mã “Việt cố” một cách hợp lý hơn trên cơ sở kế thừa những nghiên cứu trước.
Toàn cảnh bia mộ Chiêu nghi Trần Thị Xạ
Bia mộ Chiêu nghi Trần Thị Xạ (ảnh cụ thể ở dòng tiêu đề văn bia)