Vũ Hữu Minh
Kỷ yếu Hội thảo khoa học 310 năm Phú Xuân - Huế, 1997, tr.635-644
Tôi không cho rằng đây là một phát hiện, bởi vì nhiều nơi đã lưu trữ và khai thác tài liệu này. Tuy nhiên, trong tình hình các tư liệu về bộ mặt kinh đô Phú Xuân của thời kì thế kỷ XVII-XVIII quá ít ỏi, thì việc sưu tầm và giới thiệu các tư liệu liên quan là một việc làm có ích cho giới nghiên cứu.
Trong khi nghiên cứu ở Bảo tàng Dân tộc học Osaka (National Museum of Ethnology) – Nhật Bản (từ 21 – 10 – 1996 đến 14 – 4 -1997), chủ yếu nhằm vào các tài liệu về lĩnh vực bảo tồn di tích, thì rất tình cờ, tôi lại gặp được cuốn sách ảnh lịch sử về xứ Đông Dương thuộc Pháp của Paul Boudet và André Masson in tại Paris. Sách được chia ba phần, gồm 129 trang. Phần đầu là lời bạt của tác giả. Phần hai là tác giả chú dẫn về nguồn gốc và có những lời bình ngắn gọn về tư liệu. Phần ba, phần chính của cuốn sách là các tư liệu gồm: bản đồ, kí họa, minh họa, ảnh chụp, các bức thư, sắc phong… có nội dung liên quan đến Đông Dương. Tư liệu được sắp xếp theo thứ tự thời gian từ thế kỉ XIV đến đầu thế kỉ XX. Để có được một cuốn sách như vậy, các tác giả phải tiến hành sưu tầm từ rất nhiều nguồn, trong đó ngoài các lưu trữ của nhà nước, giáo hội… còn cả lưu trữ của các gia đình thân nhân, bạn bè của các nhân vật lịch sử.
Cuốn Iconnographie historique de l’Indochine Francaise, theo tôi, là tài liệu tham khảo tốt nhất về nhiều vấn đề của một giai đoạn quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Chúng ta có dịp xem xét kĩ hơn về cuốn sách đó. Ở đây tôi chỉ muốn giới thiệu một tấm bản đồ mà trong cuốn sách Boudet và Masson kí hiệu là bản đồ số 26 – trang 23 – phục bản XVI. Bản đồ này đã được tác giả Nguyễn Sinh Duy giới thiệu một phần trong số 21 tạp chí Huế xưa và nay. Tuy nhiên, về phần mình, chúng tôi muốn giới thiệu như một cách dịch – hiểu có khác đôi chút, và sau cùng muốn xem bản đồ này như một cơ sở để phác thảo diện mại đô thị Huế vào những năm cuối thế kỉ XVIII.
Dưới đây là toàn văn của tài liệu đã được cô Nguyễn Thị Thúy Vi – cán bộ của phòng Nghiên cứu Hướng dẫn, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế dịch:
BẢN ĐỒ VỊNH ĐÀ NẴNG (TOURANE) VÀ BỜ BIỂN TRUNG KÌ (AN NAM).
TỪ HỘI AN ĐẾN HUẾ do Le Floch de la Carrière vẽ năm 1787
(Trích trong cuốn Iconographie historique de l’Indochine Francaise – Sách ảnh về xứ Đông Dương thuộc Pháp – của Boudet và André Masson, Paris, Les éditions G.Van Oest, MCM, tr. 23, hình 26, phụ bản, link: https://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k58498188/f104.item.zoom).
Lời giới thiệu sách ảnh của Boudet và Masson:
Tấm bản đồ vẽ bằng tay này được thực hiện rất cẩn thẩn, điểm xuyết thêm bằng màu, được vẽ vào năm mà vịnh Đà Nẵng (Tourane) được nhượng cho người Pháp theo hiệp ước Versailles, vịnh này được thể hiện trên bản đồ. Phía dưới khung tiêu đề ở trên, bên trái, ta đọc được: “Le Floch de la Carrière, đại úy hải quân, in lại tại Lorient ngày 4-6-1787”. Mà cũng tại Lorient, giám mục Bá Đa Lộc đã đáp tàu thủy đến bốn tháng trước đó. Ta cũng có thể phỏng đoán rằng Le Floch de la Carrière thực hiện tấm bản đồ này theo yêu cầu của vị giám mục; lúc đó tấm bản đồ có một lợi ích thời sự do có những kế hoạch nhượng đất tại Tourane. Thống chế De Castries, người được đề tặng tư liệu này, là Bộ trưởng Bộ Hải quân từ năm 1780, vào tháng 5 năm 1787, cùng với Montmorin, ông đã tham dự lễ yết kiến của giám mục Bá Đa Lộc, trước vua Louis XVI.
Để thực hiện tấm bản đồ này vào năm 1767, Le Floch de la Carrière đã sử dụng những ghi chép mà ông đã thực hiện vào năm 1755 và 1756 và đã được Mannevillette công bố, dưới dạng sơ lược hơn, trong lần in thứ hai Bản đồ một phần bờ biển Đàng Trong, từ đảo Cù Lao Chàm cho đến sông Vua do ông Le Floch de la Carrière, thuyền trưởng thuyền Hỏa Công vẽ”. Kiến thức ông về bờ biển Trung Kì (An Nam) làm cho năm 1775, Le Floch de la Carrière được chỉ định chỉ huy chiếc tàu chiến La Nourrice, đến Huế để thương lượng một hiệp ước và thương mại. Nhưng kế hoạch này, nảy sinh từ sự xúi giục của một thương nhân người pháp tại Quảng Châu là ông De Rothe, đã vị hủy bỏ vì sợ phải tiêu tốn quá nhiều (so sánh Maybon, Lịch sử hiện đại của xứ An Nam, Paris, 1919, các trang 170 – 172).
Tấm bản đồ được vẽ bằng tay của Thư viện Quốc gia có nhiều chi tiết hơn so với tấm bản đồ khác của cuốn Neptune Oriental, ngoài ra ở phần phía trên của nó còn cho thấy một quang cảnh rất lí thú của vương phủ tại Huế vào thế kỉ XVIII, vương phủ này chắc chắn đã được thay thế dưới triều Gia Long và Minh Mạng bằng hoàng cung hiện nay. Ở phía dưới thể hiện những loại thuyền bè khác nhau của thời đó: thuyền chiến, thuyền để các công chúa đi dạo chơi, thuyền kiểu nửa thuyền chiến dùng để chuyên chở, thuyền đi biển, thuyền chài.
(Những phần trên bản đồ được đánh số để dịch, tiện theo dõi – Người dịch)
Các ghi chú trong bản đồ:
1. Bản đồ một phần bờ biển Đàng Trong (Cochichine).
Từ Cù Lao Chàm hay sông Faifo (Hội An) cho đến sông Vua, hay nói cách khác là sông Huế, được vẽ trong các năm 1755 và 1756. Dành cho các ngài thống chế De Castries, bộ trưởng và tổng trưởng Hải quân.
2. A. Mặt đứng trước, nhìn ra sông, của một hành lang hay một hàng hiên bao quanh phủ chính của vua – B. Thuyền chiến nhìn suốt chiều dài. – C. Cùng chiến thuyền đó nhìn ở cạnh bên phía trước. – D. Cũng cùng chiếc thuyền đó nhìn ở cạnh bên phía sau. – E. Thuyền đi dạo dành cho các công chúa. F. Thuyền kiểu nửa thuyền chiến dùng để chở lính thợ và để tập trận thông thường. G. Thuyền đi biển thông thương nhìn nghiêng. H. cùng chiến thuyền đó nhìn ở cạnh bên phía sau. I. Thuyền chài nhìn nghiêng. Chỉ có cái khác nhất là cái cánh đứng L dưới đáy thuyền giúp thuyền khỏi đi lệch hướng, cánh đứng này dìm trong nước, cũng dùng làm bánh lái cho thuyền.
3. a. Phủ chính nơi vua ở. –b. Phủ dành cho mùa đông hay để vua chơi. – c. Phủ cũ nơi cất giữ kho tàng của vua. – d. Chỗ của khu phố nơi chúng tôi đã ở vào năm 1755 và 1756. -6. Mô dùng làm đích để tập bắn cho các thuyền chiến. –f. Nơi ở của bà nữ quan Moutoudont (?), người rất có ích cho việc thương mại của chúng ta.
4. Đầm Cầu Hai (Coua) thông với sông tại kinh đô bằng nhiều kênh rạch thiên nhiên tạo nên bởi những hòn đảo nằm giữa hai nơi này, nhưng tôi không biết chi tiết của chúng, tất cả các hòn đảo này đều thấp và thường là có được canh tác và có người ở, tại đây người ta thấy các làng lớn trong đó có chợ.
Từ Cầu Hai, núi chạy ra xa bờ biển quanh về phía Tây và thậm chí chạy về phía Nam, để đến khi gặp sông Huế thì núi cách xa bờ biển đến khoảng 5 dặm và vùng đất giữa núi và bờ biển là rất thấp.
Khi từ Hội An (Faifo) hay Tourane (Đà Nẵng) bạn muốn đến kinh đô, bạn chỉ đi bằng đường bộ cho đến Cầu Hai; tại cảng của đầm này, bạn xuống thuyền, thuyền chở bạn đi theo các con kênh giữa các hòn đảo mà tôi vừa nói.
Vào những năm mưa nhiều, đầm Cầu Hai (Lac de Coua) tự mở một lạch cửa ra biển băng qua những cồn cát ngăn cách nó với biển ở điểm I (Cửa Tư Hiền – ND).
5. Sông tại triều đình hay sông Huế chỉ có thể nhận những tàu nhở, có một bãi chặn ngay lối vào ngoài cửa sông, trên bãi này nước chỉ cao có 10 bộ trong gió mùa Đông Bắc, có thể là nước sẽ cao hơn trong mùa gió ngược lại, nhưng đây chỉ là một điều phỏng đoán đòi hỏi người ta phải kiểm tra cho chắc trước khi dấn thân đi vào đây cùng với thuyền bè có độ mớm nước trên 9 bộ. Trước kia, người Nhật, người Trung Quốc, người Mã Lai và các người ngoại quốc khác buôn bán với Đàng Trong đã từng đi vào con sông này, nhưng số lượng đông đảo vào tính tình dữ dằn của nhiều người trong số họ làm cho chính quyền lo ngại, từ đấy trở đi họ bị chính quyền cấm không cho vào con sông này nữa và vua chỉ định cho họ con sông Faifo (Hội An), cả vịnh Tourane (Đà Nẵng) để làm cảng, nơi thuyền bè của thương nhân muốn buôn bán với kinh đô có thể đậu lại. Con sông Faifo cũng có cùng một sự bất tiện như sông Vua, một bãi bồi chắn ngang sông và trên đó nước ít, chỉ cho phép những thuyền nhỏ đi vào; nhưng vịnh Tourane có thể tiếp nhận những chiếc tàu buôn lớn nhất và cảng của nó rất chắc chắn. Thành phố Faifo là nơi các thương nhân ở, họ thuê nhà và cửa hàng cho họ và của cải cho họ, và vì giữa sông này có vịnh Tourane, thiên nhiên đã tạo ra một con kênh thông thương giữa đôi bên, do đó thành phố này là trung tâm thương mại do hai cảng này tạo ra; do vậy, tại đây, các thuyền bè trong nước cũng nhận chở những hàng hóa mà người ta muốn gửi ra Huế, nơi có kinh đô và chỗ ở của vua.
6. Các tàu thuyền từ những vùng đất phía Nam đến Tourane, đi qua giữa quần đảo Hoàng Sa (Paracel) và bờ biển của vương quốc Đàng Trong (Royaume de la Cochinchine) [trải dài từ mũi Cambốt ở 8030’ vĩ độ Bắc (1) đến sông Gianh tại vịnh Bắc Bộ ở 18012’vĩ độ Bắc (2)], khi hộ đến được phía Nam cù lao Ré (Pulo Canton – còn gọi là đảo Lí Sơn) và thấy được đảo này; đảo năm tại 15015’ đến 20’. Họ sẽ hướng đường đi để đi qua giữa đảo này và mũi Ba Làng An (Cap Bâtng) của lục địa, ít ra cũng có điều kiện là trời xấu và đêm tối không làm cho họ chạy lạc ra khơi; sau khi đã đi qua được phía Bắc của đảo này rồi, họ đi về các đảo gọi là Cù Lao Chàm (Cham Collao) nằm tại Tây Bắc ¼ Bắc của đảo [đảo Cù Lao Chàm giả nằm gần phía Nam nhất, cách khoảng 10 đến 11 lí (Lieue) và Cù Lao Chàm kia xa hơn 3 lí nữa] và thường thường khi đi ngang qua phía Đông của các đảo này, họ đi gần phía Bắc của Cù Lao Chàm thật, cách 1 lí (dặm) hoặc ít hơn, lúc đó họ cũng thấy được Mũi Bắc (Cap Nord – Mũi Đà Nẵng) nằm ở gần phía Tây Bắc của mỏm đất xa nhất về phía Bắc của Cù Lao Chàm, cách khoảng 6 lí, họ tiếp tục để đi qua tại ½ lí ở phía Bắc của mũi này. Từ vị trí này họ có mũi đất trên cù lao Hàn (Collao Hanne – Đảo Sơn Trà), tức hòn đảo nằm ở mũi đất Tây Bắc ở vịnh Tourane, và họ chỉ ngừng lái thuyền về hướng này khi đã đến lúc định vị được một mõm đất tận cùng bằng một ngọn đồi tròn [mỏm đồi xa nhất về hướng Tây Bắc (Cap Nord – Mũi Đà Nẵng) ở phía Nam – tây Nam và Tây Nam ¼ Nam, để tránh lại gần những tảng đá dưới nước, các tảng đá này nằm quanh bờ của phần phía Nam nhóm núi này, lúc đó họ đi về phía mạn bên trái cho đến khi quay về hướng Tây Nam, về cuối vịnh. Chẳng bao lâu sau đó, họ thấy được một mỏm đất khác ở phía bên kia của mỏm đồi tròn, họ đi dần về phía Nam để tiến lại gần mỏm núi này, và sau đó vượt qua nó với khoảng cách hơn một sãi cáp (3); họ tiến cho đến khi mỏm này nằm ở phía Đông Nam, họ lái thuyền về đó để đi qua, cách một sãi cáp, một hòn đảo nhỏ nằm trong cùng một rum (4) với mỏm đất đã nói ở trên [được ghi trên bản đồ với tên mỏm những tảng đá] và sau này, khi họ đã vượt qua nó cũng với khoảng cách một sãi cáp, họ hướng về phía trong cản bằng cách đi quan mạn trái và bỏ neo tại đây với độ sâu 4 sãi trên đáy bùn.
Mặc dù tôi đã đi qua giữa các đảo Tây Bắc Cù Lao Chàm và lục địa, và mặc dù sự thăm dò độ sâu được ghi trên bản đò này là các thăm dò mà tôi đã thực hiện được tại đây trong dịp này, nhưng tuy vậy toi cũng không khuyên các tàu thuyền lớn đi qua đây, không phải vì chúng có thể gặp một độ sâu ít hơn khi đã ít nhiều đi ra xa khỏi lục địa hay các đảo, nhưng còn là vị trí mà tôi gán cho các đảo này có thể là không được chính các, và vì nói chung tấm bản đồ này bị thiếu chính xác vì tôi đã chỉ có thể vẽ nó một cách không hoàn hảo trong sự lo sợ bị dân địa phương chú ý, họ có thể gây ra những điều sỉ nhục đối với chúng tôi. Tuy nhiên, vị trí riêng biệt của các địa điểm là kết quả của việc xác định trên la bàn được làm rất cẩn thận, các khoảng cách đã được xác định khá chính xác qua nhiều lần quan sát vĩ độ thực hiện tại những điểm khác nhau tại bờ biển này.
Các hàng hiên bao quanh vòng la thành, vây quanh những công trình khác nhau của vương phủ có 4 mặt bằng nhau,khoảng 280 toises mỗi mặt (5), tức là 1120 toises suốt chiều dài hàng hiên này, giữa mỗi cột của mặt tiền nhìn ra sông có một khẩu đại bác bằng đồng có nòng trung bình mà phần lớn dùng để vũ trang cho các thuyền chiến; các thuyền chiến này dài từ 74 đến 80 bộ trên khoảng gần 20 bộ bề rộng; đáy bằng, có một đường viền rộng hơn 2 bộ và dài hầu như là suốt dọc tàu, dùng làm sống tàu (vì đúng ra là chúng không có) và tất cả các đường viền khác được làm đồng bộ và không có đóng đinh, cũng đều có chiều dài cùng với chiều dài của tàu. Người Đàng Trong cũng như người Đàng Ngoài, nguồn gốc phát xuất của người Đàng Trong (vì trước đây khoảng 220 năm, họ từng thuộc một dân tộc) điều khiển các chiến thuyền này rất khéo léo và mau chóng, họ khiến chúng vận động rất mau lẹ và nếu dân tộc này cũng can đảm nhiều như họ năng động thì thuyền bè của họ thật đáng sợ.
(Còn tiếp)