Post date: May 20, 2013 7:28:45 AM
Trần Hoàng Vũ.
Bài đăng trên Tạp chí Văn hóa - Lịch sử An Giang số tháng 04-2013
An Giang là một trong những địa phương hiếm hoi ở Nam Bộ có các bia chữ Hán. Cho đến nay, ta biết chắc có bốn bia chữ Hán từng được dựng ở An Giang: bia Thoại Sơn dựng ở núi Sập, bia Phụng đặc tứ danh Vĩnh Tế sơn bi ký và bia Châu Đốc tân lộ kiều lương ký dựng ở núi Sam, bia Vĩnh An Hà dựng bên bờ kinh Vĩnh An[1].
Trong số bốn bia này, chỉ có bia Thoại Sơn và bia kinh Vĩnh An là được chính sử triều Nguyễn nhắc đến. Bia kinh Vĩnh An không có bài ký và theo chỗ tôi biết thì cũng đã thất lạc, tuy nhiên những dòng chữ trên bia đã được ghi trong Đại Nam hội điển sự lệ cũng như trong cuốn Tân Châu xưa của Huỳnh Minh. Bia Thoại Sơn được bảo quản tốt nhất, chữ còn đọc được mà bài ký trên bia cũng đã được chép lại và dịch sang tiếng Pháp, diễn thơ Nôm, dịch ra tiếng Quốc ngữ và phổ biến từ rất sớm. Bia Phụng đặc tứ danh Vĩnh Tế sơn bi ký tuy nay chữ đã mờ, nhưng bản Hán văn đã được cụ Tú Thường chép lại, được nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hầu công bố và dịch sang Quốc ngữ. Chỉ có bia Châu Đốc tân lộ kiều lương nay đã bể, bài ký Hán văn không còn. Ngày nay, ta chỉ còn được biết một đoạn cuối của bài bia được cụ Ngạc Xuyên Ca Văn Thỉnh dịch và đăng trên Đại Việt tạp chí hồi năm 1943 mà thôi.
Bài văn bia Châu Đốc tân lộ kiều lương ký không chỉ có giá trị về mặt sử liệu mà - cũng như bia Thoại Sơn và Phụng đặc tứ danh Vĩnh Tế sơn bi ký – có giá trị về mặt văn học nữa. Do đó, việc tìm lại nguyên văn bài bia này sẽ giúp nhiều cho sự tìm hiểu lịch sử địa phương và Nam Bộ trong thời kỳ đầu nhà Nguyễn.
Từ nửa cuối thế kỷ XX, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hầu đã bỏ công đi tìm lại bài văn bia nầy. Qua hai đợt đào thám sát năm 1961 và 1970 ở sơn lăng Thoại Ngọc Hầu tại núi Sam, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hầu đã tìm được hai mảnh bia vỡ có khắc chữ và một chân bia. Một trong hai mảnh là một góc bên trái bia có bốn chữ tiêu đề lớn: “Châu Đốc tân lộ …”. Cụ Nguyễn Văn Hầu cũng đã thử tìm tới một người cộng sự của cụ Ngạc Xuyên là cụ Lê Thọ Xuân với hy vọng cụ Lê Thọ Xuân còn nhớ gì về bài bi ký trên chăng. Đáng tiếc là thời đó giữa cụ Lê Thọ Xuân và cụ Ca Văn Thỉnh có sự phân công nhau. Cụ Ca Văn Thỉnh đảm nhận những tài liệu thuần túy văn chương – như bài bi ký Châu Đốc tân lộ kiều lương, nên cụ Lê Thọ Xuân cũng không còn nhớ. Sau một thời gian dài tìm tòi, cụ Nguyễn Văn Hầu buộc phải thừa nhận rằng: “Qua nhiều ngày lưu tâm dò tìm tại các địa phương, tại nhiều thư viện trong và ngoài nước, tôi vẫn không tìm được gì hơn đoạn văn bia trên”[2].
Mặc dù bia Châu Đốc tân lộ kiều lương nay đã vỡ, nhưng cũng như nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hầu, tôi vẫn cho rằng có thể tìm lại nguyên bản bài văn bia này. Một văn bia có giá trị như bia Châu Đốc tân lộ kiều lương hẳn sẽ được một nhà Nho nào đó chép lại, hoặc là còn lưu trữ trong văn tập của chính tác giả bài văn bia, hoặc là đã được người Pháp cho chép lại và dịch sang tiếng Pháp (như trường hợp văn bia Thoại Sơn được dịch ra Pháp văn ngay từ năm 1877). Điều dự đoán này càng xác tín hơn khi được tiếp xúc với cuốn Địa chí Châu Đốc in năm 1902 trong bộ Địa lý hình thể, kinh tế và lịch sử Nam Kỳ.
Chương III của cuốn Địa chí Châu Đốc có bản lược dịch các văn bia có trên sơn lăng Thoại Ngọc Hầu. Các văn bia được dịch là bia Phụng đặc tứ danh Vĩnh Tế sơn bi ký, bia mộ của Thoại Ngọc Hầu và hai vị phu nhân và bia Châu Đốc tân lộ kiều lương. Sở dĩ gọi là bản lược dịch chứ không phải là bản tóm tắt vì trong văn bản dùng đại từ ngôi thứ nhất, nhưng có nhiều đoạn ở phần sau trong bản dịch của cụ Ngạc Xuyên có nhưng không thấy trong bản Pháp văn. Điều đó chứng tỏ người dịch bài bia này đã bỏ qua nhiều đoạn mà họ cho là không quan trọng hoặc rườm rà, chỉ giữ lại những đoạn liên quan trực tiếp tới việc đắp lộ Châu Đốc mà thôi. Văn bia vốn là chữ Hán được dịch sang Pháp văn, nay lại được dịch ngược về chữ Quốc ngữ, không khỏi có sự tam sao thất bản. Tôi chỉ cố gắng dịch ý:
“Chân lý từ xưa đã dạy, quốc gia hưng thịnh một phần là nhờ sự phát triển giao thông thủy bộ ở trong xứ sở. Dân chúng cũng có nhu cầu qua lại để giao tiếp với nhau. Dưới triều nhà Chu, thiên tử đã quan tâm sâu sắc tới điều này và các quan địa phương phải báo cáo các vấn đề trong phạm vi mình quản hạt.
Dưới triều của Cao hoàng đế Gia Long, sau khi hỗn nhất Nam Bắc, thì việc đầu tiên mà triều đình lo tới, sau việc chiêu dân lập ấp, là xây cầu đắp đường.
Tự khi triều đình giao thần trấn giữ xứ này, dẫu có nhiều việc đã được thực hiện, nhưng cũng còn nhiều việc phải làm. Thần đã tâu lên những ích lợi của việc thiết lập một con đường giao thông từ Châu Đốc vô Vĩnh Tế, vốn bị ngăn cách bởi sông nước và sình lầy, khiến cho sự đi lại khó khăn và cách trở. Thần bèn tâu lên với triều đình Huế, được lịnh trên phê chuẩn.
Do đó, công việc được bắt đầu vào ngày 20 tháng chạp năm Bính Tuất (1826), huy động 3400 nhân công và hoàn thành vào ngày rằm tháng năm năm sau (Đinh Hợi – 1827). Lộ dài 2700 tầm, rộng 8 tầm và cao 4 tầm.
Đến năm Minh Mạng thứ chín, con lộ được sửa chữa với 1.000 nhân công, mỗi người mỗi tháng được lãnh một quan tiền và một giạ gạo. Công tác kéo dài từ 18 tháng giêng và hoàn thành ngày 15 tháng 4 cùng năm.
Con đường bị ngắt quãng ở bốn chỗ có rạch nước chảy qua, đều được bắt cầu ván; mỗi tấm dài 6 tầm, rộng 4 tầm và dày 0,20m. Ngựa, xe và xe bò đều qua lại dễ dàng. Có thể lưu truyền mãi mãi lại cho hậu thế sự tích của công tác này, cũng là tỏ tấm lòng quan tâm đến dân chúng của kẻ bề tôi”.
Một đoạn Tân Lộ Kiều Lương nay
Một điều lạ là bản dịch Pháp văn này có nhiều điểm khác với bản mà cụ Ngạc Xuyên công bố. Chẳng hạn, về ngày khởi công bản Pháp văn ghi ngày 20 tháng chạp và hoàn thành ngày rằm tháng 5, bản cụ Ngạc Xuyên ghi ngày 28 tháng chạp và hoàn thành ngày rằm tháng 4. Về quy mô con đường, bản Pháp văn ghi con đường rộng 8 tầm, cao 4 tầm; bản của cụ Ngạc Xuyên ghi cao 8 thước, rộng 4 tầm. Về ván bắc cầu, bản Pháp văn ghi dài 6 tầm, rộng 4 tầm và dày 0.2 m; bản của cụ Ngạc Xuyên không nói tới chiều rộng của cây cầu. Điều này buộc chúng ta phải đặt lại vấn đề độ xác tín của bản dịch Pháp văn cũng như bản dịch của cụ Ngạc Xuyên so với nguyên bản Hán văn.
Việc tìm lại nguyên bản văn bia này theo tôi không phải là không thể, vì trong cuốn Địa chí Châu Đốc có chú thích rằng một phiên bản toàn văn chữ Hán và dịch sang tiếng Pháp sẽ được công bố sau. Điều đó có nghĩa là, tương tự như văn bia Thoại Sơn, bia Phụng đặc tứ danh Vĩnh Tế sơn bi ký cũng như bia Châu Đốc tân lộ kiều lương đã được dịch ra tiếng Pháp và đã có kế hoạch in ấn. Do đó, ta hoàn toàn có cơ hội tìm thấy các bản văn bia này được in ra thành cuốn hoặc in phụ lục trong một bản địa chí ấn hành sau năm 1902 như trường hợp văn bia Thoại Sơn.
[1] Tôi không kể ra đây tấm bia đồn cũ Hồi Oa do Doãn Uẩn dựng mà Đại Nam nhất thống chí có nhắc tới. Bia này nếu còn thì phải ở Nước Xoáy (Lấp Vò, Đồng Tháp), không phải ở trên địa bàn An Giang.
[2] Nguyễn Văn Hầu. Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang. NXB Trẻ, 2000, trang 249.