Cao Thế Phiệt
Tri Tôn nằm trọn trong vùng “Thất Sơn huyền bí” là một huyện vừa có núi, vừa có đồng bằng, kênh rạch, vừa có biên giới đồng thời là vùng đất đa tôn giáo và đa tín ngưỡng của tỉnh An Giang. Huyện Tri Tôn phía Đông giáp các huyện Châu Thành, Thoại Sơn, phía Bắc giáp huyện Tịnh Biên, phía Tây Bắc giáp huyện Kiri Vong (tỉnh Takeo) của Campuchia, phía Nam giáp tỉnh Kiên Giang. Diện tích tự nhiên 59.763 ha, dân số khoảng 125 ngàn người, gồm 3 dân tôc chính là Kinh, Khmer và Hoa. Tri Tôn có 15 đơn vị hành chính gồm 2 thị trấn: Tri Tôn, Ba Chúc và 13 xã: An Tức, Châu Lăng, Cô Tô, Lạc Quới, Lê Trì, Lương An Trà, Lương Phi, Núi Tô, Ô Lâm, Tà Đảnh, Tân Tuyến, Vĩnh Gia, Vĩnh Phước.
Vùng đất Tri Tôn hôm nay, vốn thuộc huyện Hà Dương, phủ Tĩnh Biên thuộc tỉnh Hà Tiên được lập năm 1839 đến năm 1842 được cắt chuyển về thuộc tỉnh An Giang, có quá trình lịch sử định cư lâu dài, ít nhất là có từ thời Óc Eo - Phù Nam mà di chỉ khảo cổ Gò Tháp thuộc ấp An Lợi xã Châu Lăng là một minh chứng. Sự có mặt của người Khmer, sau đó là người Việt (chủ yếu sau sự kiện đào kênh Vĩnh Tế) và người Hoa ở Tri Tôn từ các thế kỷ gần đây là sự tiếp nối của quá trình lịch sử định cư ấy. Quá trình lịch sử - xã hội Tri Tôn đã tạo cho vùng đất này những tiền đề cơ bản của sự hình thành và phát triển của các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo, đặc biệt là các loại hình gắn liền với công cuộc khai khẩn vùng đất này của người Việt từ thế kỷ 18 đến nửa đầu thế kỷ 20.
INDOCHINA Mekong Delta, The School of Tri Tone - Vintage Albumen Print 1901 - 8x11
Vùng đất Tri Tôn, có thể nói là vùng đất khai phá muộn nhất trên địa bàn An Giang ngày nay, song do hội đủ các điều kiện đặc trưng và đặc thù về tự nhiên, môi trường sống, thành phần dân tộc và lịch sử - xã hội nên hội tụ khá đầy đủ các loại hình tín ngưỡng và tôn giáo phổ biến ở An Giang. Với các điều kiện tự nhiên và lịch sử - xã hội có nét đặc thù nói trên, tín ngưỡng dân gian Tri Tôn đa dạng phong phú. Trên đại thể có thể căn cứ vào tính phổ biến và tính đại diện, có thể phân thành các loại hình tín ngưỡng như sau:
- Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên: Từ đường, Phủ thờ gia tộc, Lễ giỗ, Thanh minh,… .
- Tín ngưỡng thờ thần Thành hoàng, thờ những người có công khai hoang, lập làng, những vị Tiền hiền, Hậu hiền.
- Tín ngưỡng thờ các vị anh hùng - chiến sĩ (trong các cơ sở thờ tự như chùa, đình, miếu đều có bàn thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh).
- Tín ngưỡng thờ Mẫu - nữ thần: Bà Chúa Xứ, Bà Cửu Thiên, bà Cửu Phẩm, Bà Thiên Hậu, bà Cố Hỷ,..
- Tín ngưỡng thờ các nhiên thần: Thần NeakTa, Thổ Thần, Sơn Thần, Thần Tài, Thần Hổ, thần Rắn (Ông Mây),..
- Tín ngưỡng thờ nhân thần: Nguyễn Quí Túc (miếu Ông Chín - Lạc Quới, đình Phi Lai- Ba Chúc), Phó Cơ Điều ( đình An Thành trong Châu Linh tự ở ấp An Thành, xã Lương Phi), Ông Bổn
Về đình thần: Trên địa bàn huyện Tri Tôn có các đình thần thờ Thành hoàng Bổn cảnh như: Đình thần Tri Tôn (TT Tri Tôn), đình thần Châu Lăng còn gọi là đình Cây Me (xã Châu Lăng), đình thần Lạc Quới, đình thần Vĩnh Gia, đình Phi Lai, đình An Thành và các đình trong tổ hợp “tiền đình hậu tự” của đạo Hiếu Nghĩa ở Ba chúc và Lương Phi.
Về miếu (miễu) thờ dân gian, khó có thể thống kê hết toàn bộ số miếu hay miễu thờ dân gian trong vùng, nhất là các miễu thờ, trang thờ, khám thờ rải rác ven đường, ven sông, kênh rạch trong huyện. Các cơ sở thờ tự điển hình hiện nay như: Miếu Bà Chúa Xứ (tại chùa Vân Long trên Núi Tô-xã Núi Tô), miếu Bà Chúa Xứ (ấp Tô Phước, xã Cô Tô), Trường Lâm tự thờ Bà Chúa Xứ (trong khuôn viên chùa Prayven - TT Tri Tôn), miếu Lương Bửu miếu (thờ Bà Chúa Xứ Lương Phi), Miếu Cửu Thiên (thờ bà Cửu Thiên Huyền Nữ), Miếu Cửu Phẩm (thờ bà Cửu Phẩm) ở ấp An Thành xã Lương Phi, Chùa bà Thiên Hậu (trên núi Nam Vi xã Châu Lăng), Chùa Ông Bổn (Phúc Đức từ - TT. Tri Tôn), miếu Ông Tà (xã Tà Đảnh), miếu Chánh Quản Cơ còn gọi miếu Ông Chín (xã Lạc Quới), các miếu trong hệ thống thờ tự của đạo Hiếu Nghĩa như: Miếu Sơn thần, Bồng Lai miếu, Vạn Ban miếu, Tú Dương Miếu, Kim Tra miếu, miếu Bà Cố (Linh Miếu Tự- khóm An Hòa A), miếu Ông Mây (thờ rắn hổ mây) trên núi Tô, thuộc xã Núi Tô cùng nhiều miễu thờ hổ thần, thổ thần, thần rắn, … tại khuôn viên các đình, chùa, miếu khác.
Ngay từ buổi đầu khai phá Tri Tôn đã là vùng đất quần cư của nhiều tộc người. Trong đó, người Khmer vốn là người bản địa thì người Việt, người Hoa có mặt ở vùng đất này từ rất sớm. Họ cùng chung lưng đấu cật chống chọi lại thiên nhiên khắc nghiệt của buổi đầu khẩn hoang. Khi đất đai đã được thuần, các dân tộc này lại cùng đoàn kết để cày cấy, nuôi trồng… chung sống hòa bình trên vùng đất mới. Vì lẽ đó, văn hóa của mỗi dân tộc tuy có nét riêng nhưng cũng có những điểm chung và chịu ảnh hưởng lẫn nhau. Các tín ngưỡng có nguồn gốc của người Việt, người Khmer hay của người Hoa đều các dân tộc sinh sống trên địa bàn thờ cúng, lễ bái. Việc người Kinh và người Hoa ở Tri Tôn lập miễu thờ thần NeakTa của người Khmer là điều hết sức bình thường. Ngược lại, người Khmer, người Hoa có niềm tin với Bà Chúa Xứ, Bà Cố Hỉ và Bà Thiên Hậu, các vị Thành hoàng Bản thổ, các vị anh hùng - chiến sĩ của người Kinh cũng không có gì lạ. Đó là kết quả tất yếu của giao thoa văn hóa dân tộc và tín nhưỡng của nhau, nó thể hiện mối quan hệ nhiều chiều trong nội bộ hoặc giữa các cộng đồng dân tộc trên địa bàn, mà chủ yếu là các quá trình giao lưu, hội nhập, tiếp xúc và tiếp biến văn hóa và tín ngưỡng.
III/ Tín ngưỡng dân gian tiêu biểu trên địa bàn Tri Tôn.
Miếu ông Tà ở ấp Tân Bình xã Tà Đảnh, cách cầu số 10 nằm trên Tỉnh lộ 941 khoảng 300m về hướng Tri Tôn, là một ngôi miếu bề thế khang trang kích thước 6m x 8m, khung kết cấu bê tông, mái lợp ngói trông giống như ngôi nhà cổ một gian ở Nam Bộ. Miếu ban đầu là một cái chòi bằng vật liệu cây lá cạnh bờ sông. Đến năm 1873 được dựng lại bằng gạch ngói khang trang. Ngôi cổ miếu được trùng tu năm 1998 và vẫn giữ nguyên kiến trúc ban đầu, năm 2016 xây cổng (như hiện nay) và tu sửa nhỏ. Hai bên miếu có hai ngôi miếu nhỏ đó là miếu Bà Chúa Xứ ở bên trái và miếu Thổ thần ở bên phải. Nội thất miếu trưng bày nhiều câu đối bằng chữ Hán có nội dung ca ngợi ông Tà và những tiền nhân có công với khẩn hoang lập làng, các bài trí khá tương đồng với các ngôi đình truyền thống Nam Bộ. Chính điện là khánh thờ có 3 chữ Hán “Linh thiên cổ” có nghĩa là Linh thiêng mãi mãi ngàn năm, thờ Ông Tà Mun hình tượng là một viên đá đem mun, xung quanh viên đá này là những viên đá nhỏ hơn với các hình thù khác nhau. Tất cả các viên đá được phủ bằng tấm lụa đỏ. Bên dưới bàn thờ Ông Tà Mun, là bàn thờ ông Hổ (tranh tượng cách điệu). Hai bên vách khánh thờ là ban thờ Tả ban và Hữu ban, Tiền hiền và Hậu Hiền đối xứng nhau, các chữ này đều viết bằng chữ Hán như thời kỳ mới dựng miếu. Điều đặc biệt là các 4 ban thờ này và ban thờ ông Hổ đều có thờ những viên đá to nhỏ khác nhau. Tổng cộng các ban thờ có tới 42 viên đá “ông Tà”.
Khác với tục cúng Ông Tà của người Việt Nam Bộ nói chung cả về thời gian (mồng 2 tháng Giếng), và lễ vật, lễ cúng Ông Tà ở xã Tà Đảnh diễn ra vào các ngày 19 và 20 tháng Giêng âm lịch, vì có nhiều người cho rằng ngày này là ngày giỗ của ông Tà. Lễ cúng gồm 2 phần chính là: Nghi lễ tắm đá “ông Tà” và Chính lễ cúng ông Tà hay lễ cúng cầu an.
Nghi lễ tắm đá “ông Tà”.
Nghi lễ tắm đá “ông Tà” còn gọi là lễ tẩy trần (rửa bụi) được diễn ra vào 9 giờ sáng ngày 19 tháng Giêng âm lịch, trước sự chứng kiến của Ban quản lý miếu và đông đảo bà con địa phương, ông chủ lễ thắp hương khấn lễ xin phép, ông chủ lễ xin phép xong người ta dời các viên đá “ông Tà” để vào những chiếc thau mới rồi dùng khăn sạch và rượu lau chùi các viên đá đồng thời quét dọn các bàn thờ; sau khi tắm xong, các viên đá được đặt vào vị trí cũ, tấm vải đỏ phủ ông Tà Mun được thay mới, tấm vải phủ cũ được cắt ra thành nhiều miếng nhỏ phân phát cho những ai cần để làm bùa cầu sự bình an, được hưởng chút lộc của Ông Tà. Có thể nói nghi thức tắm “Ông Tà” ở miếu Ông Tà xã Tà Đảnh có nét tương đồng lễ tắm bà ở miếu Bà Chúa Xứ núi Sam.
Chính lễ cúng Ông Tà hay lễ cúng cầu an.
Chính Ngọ ngày 19 tháng Giêng âm lịch, một con heo trắng được đưa đên trước sân miếu, một vị trưởng lão thắp hương khấn thỉnh trình báo Ông Tà là con heo khỏe mạnh, sạch sẽ và xin phép thần được giết mổ con vật để cúng thần. Tiếp theo người ta dùng rượu trắng tưới lên mình con heo. Động tác này mang ý nghĩa là con vật đã được vệ sinh thanh tẩy trước khi giết mổ. Sau đó con heo được đưa đi nơi khác giết mổ. Làm xong người ta cắt thủ vĩ và một chút nội tạng và 12 miếng thịt ba rọi có kích thước 3cm x 12cm đặt vào một mâm dâng cúng ông Tà. Số thịt còn lại đem nấu chín làm món cúng. Từ trưa ngày 19 tháng Giêng, người dân các ấp trong xã và vùng lân cận lần lượt mang lễ vật đến miếu cúng ông Tà. Ai có lễ vật gì cúng lấy, miễn là tâm thành. Món người dân cúng thường là: Xôi, cá lóc nướng trui, thủ vĩ heo luộc chín, vịt gà quay, trái cây,... khi người đân cúng lễ Ông Tà, ban nhạc lễ của miếu tấu nhạc. Cúng xong, người dân kiếng lại Ông Tà một phần vật phẩm cúng, số còn lại mang về nhà dùng với ngụ ý xin chút lộc của Ông Tà và được ông phù hộ.
Đến 3 giờ chiều, các món được dọn lên 6 bàn thờ ở nội thất, 2 bàn thờ miếu Bà Chúa Xứ,và miếu Thổ thần cùng 7 bàn thờ tượng trưng đặt ngoài trời là: bàn thờ Tổ Quốc, bàn thờ Cửu huyền thất tổ, bàn thờ Trăm quan cựu thần, bàn thờ đất đai viên trạch, bàn thờ Thần nông, bàn thờ Chiến sĩ trận vọng- liệt sĩ hy sinh vì Tổ quốc, bàn thờ các bậc tiền bối có công xây dựng miếu Ông Tà. Sau khi dọn lễ vật dâng cúng ở tất cả các ban thờ, Ban quản lý miếu cùng bà con có mặt tiến hành nghi thức cúng Ông Tà và cúng cầu an. So với lễ cúng Kỳ yên ở các đình hay lễ cúng vía bà Chúa Xứ thì lễ cúng miếu ông Tà ở Tà Đảnh đơn giản hơn về mặt hình thức. Cúng xong trong Miếu, ông chủ lễ đến các bàn thờ ở hai miếu nhỏ và các bàn thờ đặt ngoài trời cúng khấn và rót rượu cúng. Nghi lễ cúng hoàn tất ban quản lý miếu cùng bà con quây quần bên mâm vui vẻ “ăn cơm với ông Tà”
Sau lễ những người có nguyện vọng thỉnh bùa lộc Ông Tà (những miếng vải nhỏ cắt ra từ tấm vải phủ đá ông Tà đã được thay ra) về cầu mong được Ông Tà phù hộ độ trì khỏe mạnh, làm ăn xuôi buồm thuận gió,…
Tiền công đức của miếu Ông Tà một phần để tu sửa, chi phí đèn nhang lễ vật, còn phần đem làm từ thiện như làm cầu nông thôn, sửa lộ, sửa cất nhà cho người nghèo trên địa bàn. Đây là một việc làm giàu tính nhân văn trong đời sống xã hội hôm nay.
Người Hoa ở Tri Tôn chiếm khoảng 3 đến 4% dân số, họ chủ yếu sống tập trung ở thị trấn Tri Tôn, một số ít sống ớ thị trấn Ba Chúc và xã Châu Lăng. Người Hoa đến Tri Tôn vào những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Người Hoa đến Tri Tôn và Nam Bộ nói chung họ mạng theo tín ngưỡng đến vào đất mới như: Tín ngưỡng thờ ông địa và thần tài (trong mỗi gia đình), tín ngưỡng thờ Ông Bổn, thờ Bà Thiên Hậu, lễ Thanh minh,... Trong quá trình cộng cư trên địa bàn tín ngưỡng có nguồn gốc của người Việt người Hoa và Khmer ảnh hưởng qua lại với nhau.
Lễ Thanh minh được tổ chức vào ngày tiết Thanh minh theo lịch 24 tiết khí trong 1 năm theo lịch cổ của Phương Đông (thường là ngày 4 hoặc ngày 5 tháng 4 dương lịch). Không chỉ người Hoa mà tất cả các gia đình người Việt và số đông các gia đình người Khmer trên địa bàn thị trấn Tri Tôn đều tổ chức lễ cúng Thanh minh Trong tiết lễ Thanh minh ở thị trấn Tri Tôn gồm có: tảo mộ, cúng mộ (mỗi gia đình) và cúng cô hồn do Hội quán chùa Ông Bổn tổ chức.
Tảo mộ:
Là một tục đẹp về tinh thần để con cháu hướng về tổ tiên, cội nguồn, tưởng nhớ, tri ân đối với ông bà tổ tiên và người đã khuất. Tảo mộ là công việc dọn dẹp, sửa sang vun đắp, làm đẹp lại các ngôi mộ của tổ tiên ông bà, của những người thân trong dòng tộc..
Đối với người Việt nói chung, kể cả người Việt ở các xã ở huyện Tri Tôn thì việc tảo mộ và cúng mộ thường diễn ra vào ngày 25, 26 tháng Chạp trước Tết Nguyên đán (nên còn gọi là lễ Chạp mộ), mà không tổ chức tảo mộ và cúng mộ vào tiết Thanh minh. Vào những ngày này con cháu dọn cỏ, phát cây, quét dọn vệ sinh, sơn mới mộ mả ông bà, tổ tiên.
Lễ cúng mộ:
Sau tảo mộ con cháu trong dòng tộc bày lễ vật (thực phẩm, trái cây, bánh ngot, rượu, nến, giấy vàng mã,..) trước ngôi mộ, đốt nhang cầu khấn cúng và thỉnh mời người đã khuất thụ hưởng, và độ trì cho con cháu được bình an, trong cuộc sống, cúng xong mội người ăn uống tại chỗ hoặc mang về gia đình.
Sự độc đáo trong tổ chức lễ Thanh minh ở thị trấn Tri Tôn.
Đối với người Hoa nói riêng và người Việt, người Khmer ở thị trấn Tri Tôn thì Thanh minh là một trong những lễ lớn của năm, là dịp để con cháu hướng về tổ tiên, cội nguồn. Đối với những người đi xa, đây là dịp trở về sum họp với gia đình, thăm viếng mồ mả ông bà tổ tiên và hiểu thêm về cội nguồn của mình.
Công việc tảo mộ được tiến hành trước ngày Thanh minh (ngày 4 hoặc 5 tháng 4 tùy mỗi năm) cả chục ngày tức là từ những ngày cuối tháng 3 dương lịch. Vào những ngày này khu nghĩa địa Chưn Num bên sườn núi Tà Pa như một công trường xây dựng tấp nập người (thân nhân, thợ hồ, người đổ đất thuê, người dọn cỏ phát cây thuê,…) lao động khẩn trương như xây mới, sửa sang, quét dọn, đổ thêm đất, sơn lại,… các ngôi mộ. Công việc tảo mộ phải hoàn thành trước khi lễ cúng mộ. Riêng đối với những ngôi mộ xây mới có thể hoàn thành sau ngày Thanh minh một tuần. Những ngôi mộ được sửa sang, dọn dẹp sạch sẽ, vun đắp thêm đất mới, đó là đạo đức, là bổn phận của người đang sống đối với người đã khuất.
Trong ngày Thanh minh, khu nghĩa địa Chưn Num bên sườn núi Tà Pa từ sáng sớm đã trở nên đông đúc và nhộn nhịp như một ngày hội. Số người đi cúng mộ có thể lên đến hai ngàn người, nếu Thanh minh trúng vào ngày thứ 7 hoặc chủ nhật thì số người dự cúng ở đây còn đông hơn nhiều, xe máy, xe ô tô đậu kín bãi gửi và hai lề đường trước khu nghĩa địa. Trước khi người ta trang trí (có người gọi là lợp nhà) bằng cách dán (mộ xây) hoặc ghim (mộ có nấm đất) những dải giấy ngũ sắc dài khoảng 25cm rộng 2cm lên các ngôi mộ. Sau đó người bày lễ vật trước mộ để cúng người nằm dưới mộ. Lễ vật cúng Thanh minh nhiều ít to nhỏ tùy sự giàu nghèo của mọi gia đình, nhưng phải có bánh hỏi thịt heo quay, bánh và trái cây và giấy tiền, nhang, đèn cầy và rượu trắng. Cạnh ngôi mộ (mộ lẻ) hoặc ở một góc khuôn viên khu mộ của gia đình đều có đặt một tấm bia nhỏ có khắc (viết) chữ Hán thờ thổ địa. Chủ gia khi cúng Thanh minh mộ người thân cúng luôn thổ địa. Lễ vật cúng thổ địa là dĩa tam sên (thịt luộc, trứng sống, mực khô), bánh ngọt, giấy vàng mã và chút rượu trắng. Trong nghĩa trang nếu có những ngôi mộ không có chủ, thì người đi cúng Thanh minh mộ bên cạnh thường thắp cho ngôi mộ đó một nén nhang. Khi nhang tàn những người trong gia đình dọn đồ cúng tổ chức ăn uống vui vẻ ngay tại nơi cúng Thanh minh.
Cúng cô hồn:
Trong ngày Thanh minh, ban Thào kê chùa Ông Bổn (Phúc Đức Từ) thị trấn Tri Tôn, tổ chức cúng cô hồn tại một khoảng đất rộng dưới chân dốc cạnh nhà nghỉ tha la. Lễ vật cúng cô hồn ngày Thanh minh gồm 3 con heo làm sạch, mổ banh để nguyên con, gà nguyên con luộc, bánh trái cây, nhang đèn, rượn trắng, gạo muối và giấy tiền. Kinh phí dùng tổ chức cúng cô hồn là do ban Thào kê vận động quyên góp từ các thành viên Hội quán người Hoa chùa Ông Bổn và một số người Việt người Khmer hảo tâm khác. Ngay từ sớm ngày Thanh Minh tại nơi cúng cô hồn, trên tấm ni lông những con heo đặt nằm úp đầu hướng về phía nghĩa địa, các lễ vật khác đặt bên cạnh. Khi cúng ông Trưởng ban Thào kê chùa Ông Bổn khăn áo chỉnh tề đốt nhang, khấn bái thỉnh các cô hồn về thụ hưởng lễ vật, và phù hộ Quốc thái dân an. Lễ vật sau khi cúng cô hồn, một phần thịt heo được gởi kiếng cho những người đã đóng góp tiền mua lễ vật, phần còn lại chuyển cho bếp ăn từ thiện bệnh viện huyện và cho người nghèo, cơ nhỡ trên địa bàn.
Tín ngưỡng thờ Ông Tà ở miếu Ông Tà xã Tà Đảnh và lễ cúng Thanh minh ở thị trấn Tri Tôn là một sinh hoạt tín ngưỡng của công đồng dân cư Việt-Khmer và Hoa. Đó là nét đẹp về bản sắc văn hóa dân tộc, khẳng định một sự giao thoa tín ngưỡng, một sức sống tinh thần mãnh liệt và trường tồn trên vùng đất Tri Tôn trong quá trình xã hội - lịch sử.