Post date: Nov 26, 2015 9:01:46 AM
Huỳnh Thị Mỹ Thanh
Bảo tàng An Giang
Bài đăng trong Hội thảo khoa học nhân vật lịch sử Thư Ngọc hầu Nguyễn Văn Thư.
Chợ Mới, ngày 25-11-2015.
Thư Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thư là một trong những vị khai quốc công thần của triều Nguyễn, ông được phong tước “Đặc Tiến Phụ Quốc, Thượng Tướng Quân, Thượng Trụ Quốc, Khâm sai Chưởng doanh Thư Ngọc Hầu” nhưng cho đến nay vẫn rất ít người biết đến và trong những quyển sử biên niên của triều Nguyễn cũng nói rất vắn tắt về thân thế và sự nghiệp của ông. Ấp ủ dự định tìm hiểu về Thư Ngọc Hầu cũng đã lâu nhưng mãi cho đến ngày 29/8/2015 nhằm ngày 16/7/Ất Mùi là ngày mở và hong sắc truyền thống của gia đình Tộc Nguyễn tôi mới được mục sở thị sắc phong của ông. Vào ngày đó mỗi năm, gia đình làm mâm cơm canh cúng gia tiên (giống như một lễ giỗ) để mở hòm sắc và hong sắc. Đoàn chúng tôi gồm 14 người đã liên hệ trước với nhau khởi hành từ Long Xuyên sang bến đò Phủ Thờ, xã Bình Phước Xuân, huyện Chợ Mới tỉnh An Giang đón 10 người con cháu Nguyễn Tộc cùng đi đến nhà thờ tổ (bên ngoại) của dòng tộc Nguyễn ở xã Mỹ Xương, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp - nơi lưu giữ sắc phong của Thư Ngọc Hầu. Tôi may mắn được thấy bản sắc phong gốc của ông Nguyễn Văn Thư nên đã chụp ảnh để tra cứu và dịch thuật lại bản sắc phong này.
Sắc phong của Thư Ngọc Hầu là một tấm vải màu vàng dài 115 cm, rộng 75 cm, được thêu nổi hình 12 con rồng tinh tế, sắc sảo. Thời gian dài trôi qua, tuy có ẩm mốc và rách đôi chỗ nhưng vẫn hội tụ đủ sự trang trọng, quý giá của một bản sắc. Trong quá trình tra cứu dịch thuật bảng sắc phong này tôi đã tham khảo bản dịch của Lý Thân trong sách Thư Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thư của nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Hiệp do Hội Văn học Nghệ thuật An Giang xuất bản năm 1993. Bản dịch của Lý Thân chọn dịch theo lối thơ tự do đậm chất văn chương nhưng có đôi chỗ do hạn chế về từ ngữ trong thơ nên dịch khá ngắn gọn, sát với nguyên văn chữ Hán quá nên đọc hơi khó hiểu. Bản thân tôi chọn dịch theo lối văn xuôi, dùng ngôn ngữ hiện nay dịch ngắn ngọn nhưng rõ ràng, mạch lạc, mong muốn gửi đến bạn đọc một bản dịch gần gũi, dễ hiểu để văn chương cổ điển trở nên sinh động và mềm mại hơn.
Sau đây là ảnh sắc phong, nguyên văn sắc, phiên âm theo nguyên văn, phiên âm có ngắt câu, tạm dịch và bình chú.
Nguồn ảnh: Huỳnh Thị Mỹ Thanh.
Nguyên văn sắc
Phiên âm theo nguyên văn sắc
Phiên âm có ngắt câu.
Sắc cố: Tiền quân doanh Phó tướng Khâm sai Chưởng cơ Thư Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thư hổ lược kỳ tài biền lâm cự phách, phản bái tối tiên yết giá, trung thành chi chí khí khổng chương, thôi luân dĩ thứ dương tiên, dũng cảm chi uy danh tố trứ. Tao ngộ tế hưng long chi vận, trì khu phân hàn mã chi lao, quân thinh vạn đội tỳ hưu, bộ tướng nhậm Tiền doanh chi phó. Tặc thế liên đồn phong nghĩ, chu sư đương chính diện chi xung, loan cung vị quải ư phù tang bảo kiếm cự trầm ư quế hải. Thi thạch nhất trường oanh liệt, tảo thù mã cách chi tâm, ba đào vạn khoảnh uông dương, khinh thị hồng mao chi mệnh. Truy tư tráng chí nghi tích vinh danh khả gia tặng: Đặc Tiến Phụ Quốc Thượng Tướng Quân Thượng Trụ Quốc Khâm sai Chưởng doanh Thư Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thư. Ích uy dũng ư huy, chước diệu di chương dụng, biểu nhĩ nhị thập nhất tải tinh trung chi tiết. Trạc dương chính khí mặc tương dư, ức thiên vạn niên hồng nghiệp chi truyền, ê nhĩ tiềm hinh phục tư, minh mệnh cố sắc.
Gia Long thập tam niên cửu nguyệt thập nhị nhật.
Tạm dịch:
Sắc phong cho: Tiền quân doanh Phó tướng Khâm sai Chưởng cơ Thư Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thư là bậc kỳ tài trí dũng song toàn, một trong những người theo hầu vua sớm nhất, ý chí trung thành tuyệt đối, gặp hiểm nguy không chùn bước, danh tiếng dũng cảm lẫy lừng. Duyên tao ngộ lúc vận nước rối ren, phận rong rủi gian lao khó nhọc, vạn quân ta vang tiếng dũng mãnh kiêu hùng, Thư đương nhậm chức bộ tướng Phó Tiền doanh. Nhưng thế giặc liên đồn đông như kiến cỏ, thuyền giặc giăng đầy bao vây trước mắt chắn lối xông ra, cung nỏ chưa kịp giương đã rơi, kiếm báu phù tang vội chìm nơi biển quế, một trận chiến oanh liệt can trường, sớm bày tỏ tấm lòng của bậc trượng phu, muôn trùng sóng dữ dâng trào vẫn xem tính mạng nhẹ tựa lông hồng . Trẫm luôn nhớ đến ý chí quật cường đáng được vinh danh thiên cổ ấy, nay ban tặng tước: Đặc Tiến Phụ Quốc, Thượng Tướng Quân, Thượng Trụ Quốc, Khâm sai Chưởng doanh Thư Ngọc Hầu, uy danh làm rạng rỡ tự hào cho cả dòng tộc quê hương, để biểu dương cho hai mươi mốt năm tận trung tiết tháo. Chí khí chính trực vừa sáng tỏ rộng lớn lại vừa âm thầm hỗ trợ lẫn nhau để nghiệp lớn truyền mãi nghìn vạn năm không dứt. Mau lưu truyền rộng khắp để tiếng thơm được giữ mãi muôn đời. Hãy làm sáng tỏ mệnh lệnh tờ sắc này!
Gia Long, ngày 12 tháng 9 năm thứ 13.
Bình chú
Bài sắc của vua ban với những lời lẽ tuyên dương công nghiệp Thư Ngọc Hầu vô cùng thống thiết, có thể tạm chia làm ba phần:
Phần thứ nhất Tiền quân doanh Phó tướng Khâm sai Chưởng cơ Thư Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thư hổ lược kỳ tài biền lâm cự phách, phản bái tối tiên yết giá, trung thành chi chí khí khổng chương, thôi luân dĩ thứ dương tiên, dũng cảm chi uy danh tố trứ. Phần này nêu lên chức danh, tài năng và khí tiết của Thư Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thư. Dưới thời các chúa Nguyễn (đến năm Thiệu Trị thứ 7) trong việc phong tước cho các công thần thì những người được phong một trong năm tước (theo thứ tự cao thấp là Công, Hầu, Bá, Tử, Nam) thì phần lớn tiếng đầu đặt hiệu tước là tên húy, chữ thứ hai tiếp theo thường là một tính từ tượng trưng cho đức tính, phẩm hạnh của người mang tước và chữ cuối là tước được phong. Ông Nguyễn Văn Thư được phong tặng Thư Ngọc Hầu tức là vị Hầu tước có phẩm cách quý sáng như ngọc. Tiếp đến nói về tài năng của Thư Ngọc Hầu, triều đình đã trân trọng dùng chữ “kỳ tài – bậc tài năng hiếm có” để nói về tài năng của ông. Nguyễn Văn Thư là một “Biền lâm – võ tướng” cực phách, trí dũng song toàn – một tài năng hiếm có trong thiên hạ. Về khí tiết ông nổi danh là một người có đức tính trung thành, dũng cảm tột bực “trung thành chi chí khí khổng chương”
Phần thứ hai Tao ngộ tế hưng long chi vận, trì khu phân hàn mã chi lao, quân thinh vạn đội tỳ hưu, bộ tướng nhậm Tiền doanh chi Phó. Tặc thế liên đồn phong nghĩ, chu sư đương chính diện chi xung, loan cung vị quải ư, Phù Tang bảo kiếm cự trầm ư quế hải. Thi thạch nhất trường oanh liệt, tảo thù mã cách chi tâm, ba đào vạn khoảnh uông dương, khinh thị hồng mao chi mệnh.Phần này chủ yếu mô tả trận thư hùng với giọng văn trang nghiêm, xúc tích. Quân – thần gặp nhau trong cảnh đất nước rối ren nhưng không vì thế mà lòng quân bất ổn, ngược lại “Quân thinh vạn đội tỳ hưu” - quân ta một lòng phụ tử, tướng sĩ dũng cảm kiên cường, lúc này Nguyễn Văn Thư đương giữ chức bộ tướng Phó Tiền doanh. Cảnh đối đầu trực diện của hai bên được viết bằng giọng văn bi tráng “Chu sư đương chánh diện chi xung, loan cung vị quải ư phù tang bảo kiếm cự trầm ư quế hải,…”, các điển tích được nêu lên một cách hợp lý và đúng chỗ tạo tính hình tượng cao cho bản sắc phong này như Phù Tang bảo kiếm, quế hải, mã cách chi tâm,…Phù tang bảo kiếm là kiếm báu, kiếm quý – thanh kiếm đại diện cho đấng nam nhi tung hoành, thế nhưng kiếm ấy đã trầm nơi quế hải nghĩa là vị tướng lĩnh đã không còn. Quế hải không phải là địa danh mà ý muốn nói đến việc chết ở dưới biển. Cách viết trang nghiêm “phù tang bảo kiếm cự trầm ư quế hải” khiến cho người đọc, người nghe dễ liên tưởng đến cảnh các ông bị giặc bao vây tứ phía, không cách chi chống cự, từng người một đã ngã xuống cùng chiến thuyền của mình nhưng hình ảnh không bi thương mà là bi tráng, các tướng lĩnh chết đúng tư chất của kẻ trượng phu, tử trận nơi chiến trường như cụm từ “mã cách” lấy trong câu nói của Mã Viện thời Đông Hán mã cách quả thi nghĩa là da ngựa bọc thây, “Kẻ trượng phu nên chết ở chiến trường lấy da ngựa bọc thây”- cái chết nơi chiến trường là cái chết hào hùng, oanh liệt.
Phần thứ ba Truy tư tráng chí nghi tích vinh danh khả gia tặng: Đặc Tiến Phụ Quốc Thượng Tướng Quân Thượng Trụ Quốc Khâm sai Chưởng doanh Thư Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thư. Ích uy dũng ư huy, chước diệu di chương dụng, biểu nhĩ nhị thập nhất tải tinh trung chi tiết. Trạc dương chính khí mặc tương dư, ức thiên vạn niên hồng nghiệp chi truyền, ê nhĩ tiềm hinh phục tư, minh mệnh cố sắc. Truy phong tước hiệu cho người đã khuất với mong muốn tiếng thơm lưu truyền mãi ngàn đời sau. Sau khi cơ đồ đã vững, Vua Gia Long vẫn không thể nào quên được vị tướng trí dũng song toàn lại “khinh thị hồng mao chi mệnh – xem tính mạng nhẹ tựa lông hồng” xứng đáng được vinh danh để hậu thế noi gương nên phong tặng tước hiệu “Đặc Tiến Phụ Quốc Thượng Tướng Quân Thượng Trụ Quốc Khâm sai Chưởng doanh Thư Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thư” đây là một tước hiệu vô cùng cao quý mà nhà vua đã phong cho vị anh hùng xứ Cù Lao. Đặc Tiến Phụ Quốc là người có công phò giúp đất nước thật đặc biệt, Thượng Trụ Quốc: chức quan tương đương với Thừa tướng (như tể tướng) là quan nhất phẩm so với các quan khác ở triều đình. Phần còn lại của bản sắc nêu lên công lao của Thư Ngọc Hầu và ý muốn hậu thế muôn đời noi theo tấm gương sáng ấy.
Tác giả dịch bản sắc này dùng ngôn ngữ hiện nay kết hợp với vốn hiểu biết của mình chắc hẳn còn nhiều sai sót khó tránh khỏi, cốt yếu muốn dịch sao cho thật dễ hiểu, gần gũi với văn phong hiện đại để người đọc dễ tiếp cận. Phần bình chú sắc theo quan điểm cá nhân, cách cảm thụ thư tịch cổ của bản thân, rất mong được lắng nghe ý kiến từ hội thảo để bản dịch được hoàn thiện hơn./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại Nam thực lục chính biên tập II, Quốc sử quán Triều Nguyên, Nhà xuất bản Sử học, 1963.
2. Đại Nam nhất thống chí tập V, Quốc sử quán Triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa – Huế, 1992.
3. Sông núi quê nhà, Nguyễn Hữu Hiệp, Hội Văn học Nghệ thuật An Giang, 1993.
4. Thư Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thư, Nguyễn Hữu Hiệp, Hội Văn học Nghệ thuật An Giang, 1993.