Post date: Nov 12, 2012 8:28:21 AM
Trần Hoàng Vũ.
Bài đăng trên Tạp chí Văn hóa - Lịch sử An Giang số 91, tháng 10-2012.
Vừa qua trên các số 79 tháng 10 năm 2011, số 83 tháng 2 năm 2012, số 84 tháng 3 năm 2012, đã nổ ra cuộc "trao đổi" khá sôi nổi về địa danh, địa điểm vùng Năng Gù xưa và nay với nhiều nhận định khác nhau về địa lý. Gần đây, Tòa soạn có nhận được bài viết của tác giả Trần Hoàng Vũ cùng tham gia chủ đề trên. Qua đối chiếu với các bài viết trước, chúng tôi thấy đây là một bài sưu khảo được dẫn chứng bởi nhiều nguồn sử liệu xác đáng cùng với cách lập luận khá thuyết phục của tác giả. Vì vậy, chúng tôi cho đăng bài này với ý muốn khép lại việc tranh luận về địa danh Năng Gù để các nhà sưu khảo có thời gian tiếp tục tìm hiểu các địa danh khác của An Giang nhiều hơn nữa. Kính cáo!
BBT TẠP CHÍ VĂN HÓA - LỊCH SỬ AN GIANG.
Năng Gù trong thư tịch xưa.
Các ghi chép về Năng Gù xưa được biết đến nhiều nhất là tài liệu địa chí của triều Nguyễn nói về cù lao Năng Gù. Đại Nam nhất thống chí viết: “Bãi Năng Cù ở trước cửa dưới vàm Thuận Châu của Hậu Giang, dài 9 dặm, có thôn Bình Lâm, trên rừng nhiều tre, dưới sông lắm cá”[i]. Trước đó khá lâu, Trịnh Hoài Đức cũng đã viết về cù lao Năng Gù trong Gia Định thành thông chí. Ông cho biết: “Bãi Năng Cù, ở về trước cửa dưới Vàm Giao của sông Hậu Giang, dài 9 dặm, thôn Bình Lâm ở đấy; rừng trúc rậm rạp, chằm cá đầy rẫy, phàm dân ở thượng lưu sông Hậu Giang đều lấy tre gỗ cá mú là món nhật dụng trước hết, bông là thứ hai, mà thóc gạo lại là bực thứ nữa”[ii]. Cả hai tài liệu này đều chỉ đề cập đến cù lao Năng Gù mà không nhắc tới xép Năng Gù – tức đoạn sông nhỏ chạy dọc theo mé tay phải cù lao Năng Gù tính từ thượng nguồn đi xuống.
Tuy nhiên, địa danh Năng Gù được nhắc tới lần đầu tiên ở trong Hoàng Việt nhất thống dư địa chí của Lê Quang Định lại bao gồm cả cù lao Năng Gù và xép Năng Gù. Đây là bộ sách địa chí đầu tiên của triều Nguyễn, được tiến hành biên soạn ngay sau khi Gia Long lên ngôi, dựa trên báo cáo của các trấn về kết quả đo đạc đường đất trong địa hạt mình. Bộ sách được Lê Quang Định hoàn thành và dâng lên vua năm 1806, sớm hơn mười bốn năm so với Gia Định thông chí của Trịnh Hoài Đức. Khác với các sách địa chí về sau, Hoàng Việt nhất thống dư địa chí được biên soạn theo kiểu nhật trình. Tác giả lấy một địa điểm làm mốc (thường là chọn thành trấn, đồn thủ quan trọng) rồi từ đó kể ra đi bao nhiêu tầm thì đến địa điểm nào, lại đi thêm bao nhiêu tầm nữa thì tới chỗ nào. Đó là phần chính văn, được viết chữ lớn. Xen giữa phần chính văn này là phần chữ nhỏ hơn, tác giả dùng để chú thích thêm các chi tiết về sản vật, dân cư, di tích… dọc trên đoạn đường ấy. Trong bản dịch của Phan Đăng, phần chính văn được in đậm, phần chú thích được in chữ thường. Lê Quang Định đã mô tả về Năng Gù như sau:
“[Từ rạch Cái Đầm] 450 tầm, giữa sông có cồn, gọi là cù lao Năng Cù, trên đó có dân cư, ở đây nước chia ra hai nhánh, hai bên sông đều có dân cư và ruộng cấy lúa, phía ngoài là rừng chằm, đến rạch Năng Cù, rạch ở phía bên phải [tính từ thượng nguồn đổ xuống], rộng 5 tầm, sâu 2 tầm, chảy đến cùng thì có dân cư.
2000 tầm, bờ bên phải là cồn Năng Cù, bên trái [tức bờ sông Hậu bên phía Châu Phú]có dân cư, đến đồn phân thủ ở rạch Vàm Nao Hạ”[iii].
Chúng ta có thể thấy rằng, ngay từ đầu thời nhà Nguyễn, địa danh Năng Gù đã bao gồm hai yếu tố gắn bó chặt chẽ với nhau. Đó là cù lao Năng Gù và rạch Năng Gù. Do chỗ hai địa danh này cùng xuất hiện đồng thời trong một tài liệu sớm nhất, khó mà khẳng định được tên gọi cù lao Năng Gù là gọi theo tên rạch Năng Gù, hay tên rạch Năng Gù là lấy tên từ cù lao Năng Gù, hoặc có thể cả hai địa danh này được đặt cùng một lúc. Chúng tôi nghiêng về giả thiết thứ ba vì cũng trong tài liệu của Lê Quang Định có nhắc tới rất nhiều cặp địa danh cù lao – rạch xép như vậy trên sông Hậu. Có thể hình dung khi các lưu dân tìm tới những vùng này, họ thấy cần thiết phải đặt tên cho vùng đất, con rạch, cái cù lao trước mặt. Và họ đã đặt cùng một cái tên cho cả cù lao lẫn rạch xép chạy dọc theo rìa cù lao. Vào thời điểm Lê Quang Định viết Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, vùng Năng Gù đã có hai điểm dân cư: một nằm trên cù lao, một nằm ở quãng cuối rạch Năng Gù. Điểm dân cư trên cù lao tức thôn Bình Lâm, nay là xã cù lao Bình Thủy. Điểm dân cư ở cuối rạch Năng Gù thì rõ ràng là tiền đề để xây dựng họ đạo Năng Gù, ở cái địa điểm “chẳng dính dáng chi đến cù lao Năng Gù cả”.
Hạt nhân của vùng Năng Gù từ đầu thời nhà Nguyễn, theo tôi, không chỉ là cù lao Năng Gù mà còn bao gồm cả phần đất bờ nam sông Hậu, dọc theo rạch Năng Gù. Có chứng cứ không? Có. Chứng cứ có trong bộ sưu tập địa bạ triều Nguyễn do nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu giới thiệu. Địa bạ tức là hồ sơ đất đai của các làng do giới chức của làng đứng ra kê khai, được quan lại địa phương và phái viên triều đình chứng thực. Mỗi sổ địa bạ đều có năm phần chính là:
-Địa danh và vị trí hành chính của làng, đặt ở bìa sổ.
-Bảng thống kê chung ruộng đất của làng.
-Nhân danh thôn trưởng và dịch mục khai trình chi tiết: 1- Tên làng và vị trí giáp giới ở đâu. 2- Mỗi loại hạng ruộng đất chia ra bao nhiêu sở, ở đâu, thuộc sở hữu của ai, trồng trọt gì hay sử dụng thế nào.
-Lời cam đoan khai thật (một câu y hệt nhau).
-Các con dấu, ấn triện và điểm chỉ.
Tính xác thực của một địa bạ được đảm bảo bởi: Hương chức gồm thôn trưởng, hương thân, hương hào đứng ra khai, có cai tổng và phó tổng cam đoan “Thừa nhận thiệt”; Tri huyện đảm bảo “Thừa duyệt thiệt”; thư lại của ty Án sát xác nhận “Thừa cứu”, thư lại của ty Bố chính xác nhận “Thừa tỷ”, quan Bố chánh và Án sát ở tỉnh công nhận “Thừa hạch thiệt”; các phái viên triều đình gồm thư lại của ty Tào Chính xác nhận “Thừa cứu”, Viên ngoại lang bộ Lễ xác nhận “Thừa tỷ” và Chủ sự bộ Binh chứng nhận “Thừa phúc cứu”. Ở miền Nam, địa bạ được biên soạn từ năm 1836 dưới thời Minh Mạng.
Về thôn Bình Lâm trên cù lao Năng Gù, địa bạ thôn ấy cho biết:
“Bình Lâm thôn, ở hai xứ Rạch Cát, Rạch Chanh.
-Đông giáp sông lớn.
-Tây giáp rạch thông lưu Năng Gù, nhìn sang địa phận thôn Bình Mỹ.
-Nam giáp sông lớn.
-Bắc giáp sông lớn và rừng”[iv].
Còn về thôn Bình Mỹ dọc theo hữu ngạn rạch Năng Gù, địa bạ viết:
“Bình Mỹ thôn, ở hai xứ Năng Gù, Trác Thượng Vật[v].
-Đông giáp rạch thông lưu Năng Gù, giáp thôn Bình Lâm.
-Tây giáp rừng.
-Nam giáp rạch Cây Sung và thôn Bình Hòa Trung.
-Bắc giáp sẻo Dầu và địa phận thôn Vĩnh Thạnh Trung”[vi].
Rõ ràng, thôn Bình Mỹ được xác định là ở xứ Năng Gù trong khi thôn Bình Lâm nằm trên cù lao Năng Gù lại được chỉ định là ở hai xứ Rạch Cát, Rạch Chanh. Đây là hai con rạch nằm trên cù lao Năng Gù, ngày nay vẫn còn tồn tại. Lê Quang Định tả cù lao Năng Gù có nói “ở đây nước chia ra hai nhánh, hai bên sông đều có dân cư và ruộng cấy lúa” là nói đến Rạch Cát và Rạch Chanh vậy. Xác định đất đai thôn Bình Mỹ, vốn “không dính dáng chi đến cù lao Năng Gù”, là thuộc xứ Năng Gù đó là lời của giới hương chức địa phương của làng Bình Mỹ xưa. Xét về sự am hiểu, họ xứng đáng là những thổ công của đất này. Lời nói của họ rõ ràng đáng tin hơn lời của mấy tay phụ xế, lơ xe đò không am hiểu đường đất mà thích đặt tên tầm bậy. Một lần nữa, chúng tôi lại khẳng định hạt nhân vùng Năng Gù xưa là khu vực cù lao Năng Gù và phần đất liền dọc bờ nam rạch Năng Gù, tương ứng với hai thôn Bình Lâm và Bình Mỹ thời nhà Nguyễn. Gần đây hai tác giả Vĩnh Thông và Liêu Ngọc Ân khi bàn về vùng đất Năng Gù đều xác định miệt Năng Gù là cù lao Năng Gù và phần đất liền dọc theo quốc lộ 91 từ giáp ranh Cái Dầu (Châu Phú) đến giáp ranh Chắc Cà Đao (Châu Thành) là chuẩn xác, có căn cứ lịch sử. Có điều là “cái gốc” của miệt Năng Gù không chỉ là cù lao Năng Gù mà còn là phần đất liền dọc bờ nam rạch Năng Gù như tôi đã đề cập và dẫn chứng ở trên. Vào thời điểm biên soạn địa bạ, phạm vi đông tây tứ cận của các làng Bình Lâm, Bình Mỹ đã được xác định khá rõ ràng, do đó không thể kết luận rằng “sở dĩ gọi là miệt Năng Gù vì ngày xưa nơi đây chưa có sự phân định rõ ràng về địa giới hành chánh” được. Trái lại, chúng ta hoàn toàn có thể xác định phạm vi đông tây tứ cận của vùng đất Năng Gù dựa trên ghi chép về hai làng Bình Lâm, Bình Mỹ trong địa bạ.
Hai chữ "Năng Cù" trong Hoàng Việt nhất thống dư địa chí của Lê Quang Định
Về nguồn gốc địa danh Năng Gù, tài liệu của nhà thờ Năng Gù cũng như lời nhà Nam Bộ học Sơn Nam đều cho biết Năng Gù là từ tiếng Khmer “XeNeng Cô” tức “sừng bò” đọc trại thành. Vào đầu thời nhà Nguyễn, có bằng chứng cho thấy người Khmer không chỉ có mặt ở vùng núi phía tây An Giang mà còn cả ở vùng Phú Tân – Châu Phú – Châu Thành. Gia Định thành thông chí xác định khá rõ các cộng đồng người Khmer ở ven các con rạch Vàm Nao, Tắt Cây Sung, Cái Đầm, Mặc Cần Dưng cũng như hình thái cư trú của họ. Có người nói rằng “sử cũ chép tên Năng Gù bắt nguồn từ “Long Cù” (cù hóa long) sau nói trại ra thành Năng Gù”. Tôi thẹn mình kiến văn nhỏ hẹp, học nghệ chưa tinh nên chưa được đọc qua cuốn “sử cũ” nói trên. Chứ còn trong các bộ sử có ít nhiều ghi chép về miền Nam như Phủ biên tạp lục, Đại Việt sử ký tục biên, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Việt sử thông giám cương mục khảo lược… đều không hề nhắc đến chi tiết Năng Gù bắt nguồn từ Long Cù. Từ Hoàng Việt nhất thống dư địa chí của Lê Quang Định tới Gia Định thông chí của Trịnh Hoài Đức, rồi đến Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn và cả Đại Nam nhất thống chí – Lục tỉnh Nam Việt của Tu Trai Nguyễn Tạo sau này đều thống nhất dùng chữ Hán “Năng Cù” để chỉ địa danh Năng Gù. Trong đó, “Năng” là chữ năng trong khả năng, năng lực, “Cù” có nghĩa là con đường lớn. Trương Vĩnh Ký trong cuốn Tiểu giáo trình địa lý Nam Kỳ khi nói đến các sở thủy lợi ở miền Nam có kể tên sở Hóa Cù, tức Năng Gù. Ở một số bản đồ du lịch bỏ túi, tôi thấy có vẽ rạch Năng Gù với chú thích “sông Quả Cù”. Đáng tiếc là tài liệu của Trương Vĩnh Ký viết bằng tiếng Pháp nên không thể biết rõ tự dạng chữ Hán của hai chữ Hóa Cù. Do chỗ cái tên Hóa Cù được ghi nhận vào một thời điểm khá muộn (1873), chúng ta có thể kết luận rằng hai chữ Năng Gù khó mà bắt nguồn từ hai chữ Hóa Cù mà ngược lại, chính Hóa Cù là cái tên phái sinh từ tên gọi Năng Gù thì đúng hơn.
Cù lao Năng Gù, nhà thờ Năng Gù và phà Năng Gù.
Ngày nay theo quốc lộ 91 đi từ Châu Đốc tới Long Xuyên, chúng ta sẽ lần lượt bắt gặp phà Năng Gù, rạch Năng Gù và cù lao Năng Gù rồi đến nhà thờ Năng Gù. Phà Năng Gù, cù lao Năng Gù và nhà thờ Năng Gù thuộc về ba đơn vị hành chính cấp cơ sở khác nhau nhưng lại cùng có chung một cái tên. Có điều, phà Năng Gù và nhà thờ Năng Gù đều không nằm trên cù lao Năng Gù thì tại sao lại được sử dụng cái tên Năng Gù?
Trước hết nói về nhà thờ Năng Gù. Theo Monographie de la province de Long Xuyen của chủ tỉnh Duvernoy soạn, in năm 1924 thì từ năm 1845, nhóm người Công giáo do Linh mục Jaques Dương dẫn đầu đã góp phần khai phá Năng Gù[vii]. Tài liệu của giáo phận Long Xuyên cho biết giáo dân đầu tiên là ông Jacobe Lê Phước Ngãi (mất năm 1861), người gốc Trung Hoa, quê quán Đồng Nai, là quan cựu trào chạy giặc về Năng Gù. Lúc ban đầu, các bí tích được cử hành chui tại vùng Kinh Ông Quýt, sau đó tại Rạch Gộc. Nhà thờ đầu tiên được xây ở sau chỗ núi Đức Mẹ bây giờ, có lẽ vào khoảng 1859. Chuông nhà thờ có từ năm 1892. Nhà thờ Năng Gù được xây dựng ở cuối rạch Năng Gù, trên vùng đất thôn Bình Mỹ xưa, mà thôn Bình Mỹ theo địa bạ lại nằm ở xứ Năng Gù thì việc gọi tên nó là “nhà thờ Năng Gù” cũng là lẽ đương nhiên, không có gì để bàn cãi cả.
Vấn đề rắc rối nhất là tên gọi phà Năng Gù. Nhìn trên bản đồ, chúng ta dễ dàng nhận thấy tuyến đường di chuyển của phà Năng Gù quả không dính dáng chi đến cù lao Năng Gù, cũng không có liên quan gì đến rạch Năng Gù. Vậy tại sao phà này lại được gọi tên là phà Năng Gù? Giáo sư Huỳnh Ái Tông trong bút ký “Làng tôi” viết xong ở Louisville ngày 20-01-2007 có giải thích: “Ở đầu làng có một ngôi chợ, nơi đó có một bến đò thường gọi là bến đò Năng Gù, về sau gần đó có một bến Bắc (phà), những người phụ xế (lơ) xe đò, không rành về địa phương, thấy bến bắc gần bến đò Năng Gù, nên họ đặt tên là “Bắc Năng Gù”, thật ra chiếc Bắc này đưa người đi từ làng Bình Mỹ sang Hòa Hảo và ngược lại, không dính dáng chi đến cù lao Năng gù cả. Đây là sự sai lầm mà chúng tôi muốn giải thích nguyên do vì sao có tên là “Bắc Năng Gù”.” Lời kể của giáo sư Huỳnh Ái Tông đã gợi ra vấn đề nguồn gốc và tính hợp lý của tên gọi phà Năng Gù. Tuy nhiên, vẫn có người phản biện lời kể của giáo sư Huỳnh Ái Tông, vì suy cho cùng thì không lẽ những người thành lập bắc Năng Gù lại không có khả năng đặt cho nó một cái tên, mà phải vay mượn từ một cái tên sai lầm do những tay phụ xế, lơ xe đò gọi bậy hay sao? Tác giả Vĩnh Thông giải thích rằng: “Bến phà hình thành trước là đò máy, sau nâng cấp lên phà do chính quyền quản lý thì mới được có tên gọi chính thức. Còn trước đó, khi đang còn là những bến đò nhỏ thì chưa có tên và những lơ xe phải gọi là Năng Gù”.
Đến đây chúng ta phải nói qua về sự hình thành phà Năng Gù dựa trên những nguồn tư liệu ít ỏi mà tôi thu lượm được. Theo tác giả Vĩnh Thông thì lịch sử hình thành phà Năng Gù bao gồm hai giai đoạn: giai đoạn đầu là đò máy, chưa có tên chính thức nên lơ xe tạm gọi là Năng Gù; giai đoạn sau là bắc, tên Năng Gù được chính thức hóa. Tại địa điểm phà Năng Gù hiện nay hẳn là đã có một bến đò từ rất xưa vì vào nửa đầu thế kỷ XX, trong những câu chuyện về Đức Huỳnh Giáo Chủ đã có chi tiết mấy lần ngài đi đò sang Năng Gù (không phải cù lao Năng Gù). Tên gọi bắc Năng Gù thấy được ghi lần đầu tiên trong nội quy Ban phụng tự Tổ đình ban hành ngày 3-7-1962 với nội dung “cho chiếc bac Năng Gù hoạt động trở lại”. Như vậy là đến những năm 60 của thế kỷ trước, bến đò từ Bình Mỹ sang Hòa Hảo đã được nâng cấp thành bắc và đã có tên gọi là bắc Năng Gù. Vào thời điểm đó, bắc Năng Gù là một cơ sở tư nhân thuộc quyền quản lý của Ban phụng tự Tổ đình. Sau 1975, bắc Năng Gù được giao lại dưới quyền quản lý thống nhất của Xí nghiệp phà An Giang. Phải chăng khi nâng cấp bến đò lên thành bắc, Ban phụng tự Tổ đình đã lấy lại một cái tên sai lầm do mấy tay phụ xế, lơ xe đò đặt mà không cần suy nghĩ, càng không nhận ra tính bất hợp lý trong cái tên ấy?
Thuyền ghe cập bến ở bờ Hòa Hảo xưa
Theo ngu ý của tôi thì là không.
Một là, vào thời điểm đó, người dân thường dùng các địa danh “nôm” để gọi các vùng đất hơn là sử dụng địa danh hành chính do nhà nước đặt. Chẳng hạn, họ thích gọi Năng Gù hơn dùng tên Bình Mỹ, thích gọi Chắc Cà Đao hơn An Châu, Mặc Cần Dưng hơn Bình Hòa. Tất cả các tên này đều đã xuất hiện ngay từ đầu thế kỷ XIX và được ghi nhận trong địa bạ triều Nguyễn. Huống hồ, khu vực phà Năng Gù nay cũng thuộc làng Bình Mỹ xưa, mà làng Bình Mỹ xưa là xứ Năng Gù. Vào thời điểm tên gọi xứ Năng Gù chưa bị xóa nhòa bởi các địa danh hành chính, việc gọi một bến phà thuộc xứ Năng Gù là phà Năng Gù phải chăng là không hợp lý?
Hai là, vì bắc Năng Gù được nâng cấp bởi những người lãnh đạo Phật giáo Hòa Hảo nên phải đặt mình vào vị trí của các vị ấy để nhận định vấn đề, tức là không phải nhìn phà Năng Gù từ bờ Bình Mỹ mà phải nhìn phà Năng Gù từ bờ Hòa Hảo nhìn sang. Đến đây ta muốn hỏi, theo các vị ấy, đích đến của phà Năng Gù là chỗ nào? Là xứ Năng Gù, không phải cù lao Năng Gù. Có điều, phà Năng Gù không cập bến ở trung tâm vùng đất Năng Gù vì bị cù lao Năng Gù án ngữ ở trước mặt. Lộ trình của một chuyến phà thường là đường thẳng nên không cần thiết phải bẻ cong đường đi của phà để nó cập bến đúng ngay trung tâm vùng đất Năng Gù, nhưng mục tiêu chở khách của phà vẫn là Năng Gù. Ở đây, những người đứng đầu Phật giáo Hòa Hảo đã phóng một tầm nhìn bao quát hơn ra toàn vùng Năng Gù chứ không chỉ bó hẹp ánh mắt của mình lên một dải đất hẹp bên kia sông, nơi phà Năng Gù chạm vào bờ.
Bản thân tôi cho rằng việc gắn kết nguồn gốc tên gọi phà Năng Gù với vai trò của các phụ xế, lơ xe đò của giáo sư Huỳnh Ái Tông chỉ là một cách kiến giải về nguồn gốc một cái tên, hay ít ra chỉ là một khía cạnh của vấn đề. Con đường hình thành một địa danh- mà ở đây là tên “phà Năng Gù”- thường bao gồm nhiều yếu tố. Một địa danh do người xứ khác đến đặt phải có tính hợp lý nhất định thì mới được người dân địa phương chấp nhận, mới sống được cùng với thời gian.
Vấn đề ở đây là từ khi ra đời đến nay, tên gọi Năng Gù chưa bao giờ được sử dụng như một địa danh hành chính chính thức, khác với các địa danh Xuy Tôn (về sau trại thành Tri Tôn), Nhà Bàn, Cái Dầu. Cho nên, cùng với sự củng cố vai trò của các địa danh hành chính thì cái tên Năng Gù -để chỉ vùng đất bao gồm cù lao Năng Gù và phần đất dọc theo quốc lộ 91 từ giáp ranh Cái Dầu đến giáp ranh Chắc Cà Đao- cũng dần dần mai một, khiến cho giới trẻ 9X ngày nay có khi lầm tưởng vùng đất Năng Gù chỉ bó hẹp trong phạm vi cù lao Năng Gù mà thôi, còn những vùng đất khác nếu có gọi là miệt Năng Gù chẳng qua cũng chỉ là vay mượn, ăn theo hoặc thậm chí là chiếm dụng.
[i] Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam nhất thống chí, tập 5. NXB Thuận Hóa, Huế, 2006, trang 215.
[ii] Trịnh Hoài Đức. Gia Định thông chí. NXB Giáo dục, 1998, trang 64.
[iii] Lê Quang Định. Hoàng Việt nhất thống dư địa chí. NXB Thuận Hóa & Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2005, trang 330.
[iv] Nguyễn Đình Đầu. Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn: An Giang. NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, trang 261.
[v] Trác Thượng Vật ở đâu? Trác là một bãi sình lầy ngập nước. Còn ý nghĩa hai chữ Thượng Vật? Tôi có nghe một số người lớn tuổi ở Cái Dầu nói đến địa danh rạch Thú Vật, lại ở gần đó có tên cầu Phù Dật. Phải chăng Thượng Vật, Thú Vật và Phù Dật là từ một nguồn mà ra?
[vi] Nguyễn Đinh Đầu. Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn: An Giang. NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, trang 261-262. Xin nói thêm là địa bạ xác định thôn Bình Hòa Trung “ở hai xứ Chắc Cà Đao, Mạt Cần Dưng” còn thôn Vĩnh Thạnh Trung thì “ở xứ Cái Dầu”.
[vii] Victor Duvernoy. Monographie de la province de Long Xuyen. Hanoi, 1924, trang 95.