Tác giả: Tiến sĩ Ngô Phúc Lâm - 1746
Người dịch: Ngô Đức Thắng (Phái IV chi V họ Ngô Trảo Nha - Hà Tĩnh)
Ông Ngô Phúc Lâm, tự Thuật Trai thuộc chi 9, cháu bốn đời Tào Quận công Ngô Phúc Vạn, đỗ Tiến sĩ năm 1766 thời Lê trung hưng, làm quan đến Tả Thị lang, tặng phong Khiêm Quận công .
Vào khoảng 22, 23 tuổi lúc còn theo học Cụ Nguyễn Nghiễm người Tiên Điền huyện Nghi Xuân, ông biên soạn tập phả nhan đề “Tân kỷ Hoan Châu Ngô Thị truyền gia tập lục”. Cụ Nguyễn Nghiễm đề tựa (Cụ Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm giữ chức Bồi tụng ở Phủ chúa Trịnh, hiện nghỉ cư tang ở quê, mở trường dạy học).
Đây là tập phả duy nhất mà họ ta còn giữ được. Hiện nay tôi chỉ sưu tầm được 4 bản, đều là bản sao chép lại vào khoảng triều Tự Đức nhà Nguyễn.
Từ một bản gốc chép ra, nội dung các bản đều giống nhau, tuy nhiên có một vài chi tiết, sự việc, tên đất, tên người, bản này bản khác có khác nhau chút ít. Ví dụ:Trận đại phá quân Mạc Ngọc Luyện ở cửa sông Hát Giang của Thế Quận công, họ bà Lê Thị Đệ là họ Phan ở Đông Thành, hay họ Lê ở Đông Sơn v.v… Có thể là người đời sau sửa đổi khi chép lại.
Tập này tôi sao nguyên văn tập chữ Hán, lưu giữ ở phái nội thành Hà Nội, so với các bản kia có lẽ là sửa đổi ít nhất. Những chỗ nghi ngờ hoặc khác với bản khác, tôi ghi chú thêm ở phần dịch ra tiếng Việt.
Phần tiếp sau là gia phả tiểu tôn chi 5 ông Ngô Phúc Diễn (Diễn võ Bá) biên soạn năm 1809 (niên hiệu Gia Long thứ 8 triều Nguyễn) và cũng được sao chép lại năm 1855. Phần này nói là gia phả chi 5, thực ra chỉ có sự tích Hoành Quận công Ngô Phúc Túc có tên là Ngô Phúc Phương và thuỵ hiệu các cụ thuộc dòng trưởng trước Hoành Quận công.
Các chi khác như chi 9 có gia phả tiểu tôn ghi chép đến ông Ngô Phúc Lâm, do ông Ngô Phúc Trường con trai ông Ngô Phúc Lâm biên tập, còn các chi khác nay chỉ còn các bản thuỵ hiệu.
Chép lại và dịch nguyên văn bản chữ Hán này tôi có ý muốn lưu lại cho con cháu sau này một số tài liệu sử liệu của dòng họ, cho nên cố gắng giữ đúng nguyên văn, kể cả những lời của các nhà bình luận, không bỏ sót kể cả các câu chuyện truyền thuyết, thần thoại, mê tín dị đoan.
Cả hai tập, một tập của nhà Nho học Ngô Phúc Lâm, một tập của nhà Võ tướng Ngô Phúc Diễn, đều ghi chép theo lối biên niên, nội dung sưu tầm được chép hết không bỏ sót.
Ông Ngô Phúc Lâm chép việc tốt, điều nhân đức, đồng thời không bỏ qua những việc làm không hay lắm của các cụ ngày xưa như tư thông, dung túng, lấy Quận chúa, bỏ vợ cả ra ở nhà riêng, kiêu ngạo, xa hoa, lãng phí v.v… Chép sự việc có phê phán bình luận.
Ông chép truyền thuyết mà không tin thần thoại, chép mồ mả mà phản đối các nhà phong thuỷ, lừa đảo, làm tiền.
Ông Ngô Phúc Diễn chỉ chép điều hay việc tốt, việc không hay lắm thì hành văn dè dặt biến thành việc hay như chuyện bà Chiêu Nghi gọi gả Phương Huệ Quận chúa. Ông quá đề cao tướng số, thần tiên, đi đến thần tiên hoá Hoành Quận công. Vì tư tưởng quan điểm dĩ nhiên là phụ thuộc thời đại lúc bấy giờ, nhưng không khỏi quá thiên về Lê Trịnh (đã sụp đổ từ lâu) hạn chế tính khách quan của nhà chép phả.
Ví dụ: Trịnh Khải thua chạy thì dùng câu Ngự giá Bắc hạnh. Hoàng đế Chiêu Thống, Hoàng đế Càn Long viết được đài cao một chữ, chỉ Tây Sơn thì dùng chữ : Nguỵ, Tặc.
Là một bản sao chép nguyên văn và dịch nguyên văn, với mục đích như đã nói trên, tôi giữ nguyên nội dung và lời văn, vì thế mà có lời giới thiệu này.
Hà Nội mùa thu năm Giáp Dần 1974.
Tài liệu tra khảo:
Truyền gia di cảo
Hồng châu biệt lục
Dạ dân ngự lục
Tướng công bi ký.Nguyễn Đôn phu soạn
Tiên nhân truyền ngự
Bia đá am Phúc Quy
Đại việt sử ký
Tu thạc công đường ký (Vũ quang Đại)
Trưởng lão di ngôn
Viết gia phả đã có từ xưa, là để ghi chép thế thứ, lai lịch mỗi đời, từ thủa nhà tranh lam lũ, đến lúc cửa nhà cao rộng, xe ngựa ra vào, con cháu sau này biết cây có gốc, nước có nguồn.
Lâu nay nghe tiếng đồn tôi chưa tin lắm, trong học trò theo học có Công tử họ Ngô, một thế gia lệnh tộc của châu Hoan ta, Trảo Nha Nghệ An cả nước hâm mộ.
Năm trước tôi phụng chỉ đi tham trấn biên khổn, đường đi có qua đó dừng ngựa ngắm phong cảnh, núi không cao mà xinh, sông không rộng mà đẹp, địa linh nhân kiệt ít có ai bằng. Kỳ lão trong làng kể cho tôi nghe chuyện thầy phong thuỷ báo ơn trả vàng, gia thế huân nghiệp vươn lên một cách kỳ lạ. Tôi chú ý lắng nghe, tiếc không đủ thì giờ để hỏi tường tận.
Ngày nọ, Công tử đưa tôi bản Truyền gia tập lục công tử vừa thảo, bảo tôi đề tựa. Tôi nhận lời xem bản thảo, lời văn uyên bác, sự việc rõ ràng, cấu thành một hợp gia phả gần 10 đời, bày ra như trước mắt. Tôi được biết từ nhà tranh vách đất trở thành một thế tộc đã là lạ, đằng sau mãn trụ (võ tướng) lại xuất hiện văn nhân mới càng kỳ lạ. Đọc xong, tôi biết không phải là cường điệu, chép sai sự thật. Nhớ lại cụ Đại Thừa chỉ nhà tôi đã từng quen biết Cảnh Quận công biết rõ gia thế của ông. Những lúc nhàn rỗi được ông cụ kể lại có biết ít nhiều. Bản thảo Công tử đưa tôi xem, tuy rút từ các tài liệu rách nát, chắp vá đứt quãng nhưng mỗi lời, mỗi ý đều không bỏ sót, vả lại văn hay mà không hoa hoè, thực tiễn mà không quê mùa, cho nên gọi là thực lục cũng được, gọi là tín sử cũng được, mà lấy làm bổ khuyết cho các sử cũng không có gì là không được.
Như vậy tôi đề tựa.
Hoàng Việt, mùa Xuân năm Mậu Thìn niên hiệu Cảnh Hưng (1748).
Đệ Nhị giáp Chánh Tiến sĩ (Hoàng giáp) khoa Tân Hợi năm (1731).
Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu Nhập thị Bồi tụng, Hình bộ Hữu Thị lang, hành Binh bộ Tả Thị lang, Xuân lệnh Hầu,Hồng Ngư Cư sỹ cốc hiên Nguyễn (huý Nghiễm),người làng Tiên Điền huyện Nghi Xuân.
Tất cả quan tước, thuỵ hiệu, tên tự, tên huý của các tiên công, nham cảo cũ đều chép liền tiểu sử mỗi người, nay chép riêng ra một nơi để tiện tìm xem.
Thuỵ hiệu Quản Lịnh Công - Thuỷ tổ Nghệ An vệ, Chánh Quản lịnh công, thuỵ Chính Nhân phủ quân.
Thuỵ hiệu Thái Nguyên trấn Tổng lịnh công - Thái Nguyên trấn Đô Tổng binh sứ ty, Đô Tổng binh Đồng tri Ngô Tướng công thuỵ Chính Đạo phủ quân.
Thuỵ hiệu Chủ bộ Thuần trung Hầu - Yên Vương phủ Chủ bộ, tặng Thuần trung Hầu, thuỵ Giác Tính phủ quân.
Thuỵ hiệu Thái Bảo Vĩnh lộc Hầu - Nghệ An xứ Đô Tổng binh sứ ty Đô Tổng binh sứ, tặng phong Thái Bảo, Ngô Tướng công, thuỵ Trung Túc phủ quân.
Thuỵ hiệu Thái bảo Thế Quận công – Phụ quốc Công thần, Đặc tiến Phụ quốc Thượng Tướng quân, Tây quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc Thiếu bảo Thế Quận công, gia phong Thái bảo Thượng Trụ quốc Thượng Tướng quân, Bật nghĩa Doanh Ngô Tướng công, tự Minh Trứ, thuỵ Đôn Hậu phủ quân.
Thái bảo Tứ Quận Công thuỵ hiệu - Hiệp mưu Dương võ Công thần, Đặc tiến Phụ quốc Thượng Tướng quân, Nam quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc Tứ Quận công, gia phong Thái bảo Thượng Trụ quốc Ngô Tướng công, tự Minh Triết, thuỵ Đức Long phủ quân.
Thuỵ hiệu Phó tướng Thái bảo Tào Quận công - Dương võ Uy dũng Công thần, Đặc tiến Phụ quốc Thượng Tướng quân, Trung quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc Chưởng phủ sự, Trung nhuệ quân doanh, Phó tướng Thiếu uý Tào Quận công, gia phong Thái bảo Thượng Trụ quốc, Ngô Tướng công tự Hùng Thao, thuỵ Mỹ Thiện phủ quân.
Thụy hiệu Nhuận quận Công - Đặc tiến Phụ quốc Thượng Tướng quân, Tham đốc thần vũ Tứ vệ, tặng Nam quân Đô đốc phủ Đô đốc Thiêm sự Nhuận Quận công, Thượng Trụ quốc, Ngô Tướng công tự Chân Thể, thuỵ Thận Ý phủ quân
Họ Ngô huý Nước, người thôn Trung Thủy xã Chỉ Châu, huyện Thạch Hà, trấn Nghệ An. Nhà ông vốn giàu có, sau gặp thầy lang chỉ bảo, dời nhà về ở Trảo Nha, sinh sống với nghề nấu rượu, lại có biết chữ được dân làng bầu làm Lý chính. Sau được phong tặng Nghệ An Chánh quản lịnh, tên thuỵ Chính Nhàn, ngày sinh ngày mất chưa rõ.
Ông cư xử rộng rãi, trung hậu, từ nghèo khó vươn lên, tiếp đó có con có tài năng, trở thành một dòng họ nổi tiếng ở châu Hoan. Khai cơ triệu tích, công lao thực từ đó.
Di cảo chép ngôi mộ ở Chỉ Châu, trên cồn cát trắng, giáp biển, kiểu đất ”Long Sa“. Trước mộ có dòng nước chảy du dương, xa xa sóng vỗ ỳ ầm, thật là kiểu đất Châu Long quý. Mộ đến nay vẫn còn, nhưng không biết mộ người nào được dời về đó.
Theo Trưởng lão di ngôn :
Ông nhà vốn giàu có thường hay chu cấp cho kẻ nghèo khó, thương người hoạn nạn lưu lạc. Một hôm có ba người khách Tàu, ban đêm đi lạc đường xin ngủ trọ, các nhà không ai cho trọ. Ông cho tạm trú chân, khách ra đi bỏ quên một túi lớn, ông nhặt được dưới giường nằm, mở ra xem thấy bạc ước ngàn lạng. Ông bảo Bà: Đây là tiền của khách buôn bán nên mới có nhiều như vậy. Nay bỏ quên ở đây, tay không quê người lấy gì mà chi dụng. Rồi đem cất giấu vào hòm. Hôm ấy ba người khách quay lại, ông hỏi:”Phải chăng đêm hôm qua có việc gì không vừa lòng, nói thật tôi nghe”, ba người kia nói thực. Ông nói: ”Quả có đấy“, liền đem túi bạc giao trả nguyên vẹn. Mấy người rất đỗi cảm đức tốt, xin biếu phần nửa, ông hai ba lần chối từ, khách vái nói: ”Tha hương lữ khách không ơn nào bằng. Chúng tôi ra đi không đành, xin ở lại hơn tháng, tìm được huyết đất tốt đưa mộ tổ của nhà ông về táng tại đó “, đề nham cảo rằng ” Tha hương võ tướng, lũy thế nguyên huân “.
Nay là ngôi mộ tổ ở thôn Trung Thủy xã Chỉ Châu hiện giao cho anh em Ngô Tạo trông coi. Người ta nói rằng ba người ấy là ngườì Tàu huyện Linh Lăng, phủ Vĩnh Châu, đi Triều vạn vừa đến đó, đều là nghe nói, không rõ sự thực thế nào.
* * *
Lại có một truyền thuyết khác nói rằng:
Lúc còn trẻ ông đi lính, hết hạn về làm ruộng. Một hôm cày ruộng, được ba chiếc vò cổ chứa mười đỉnh vàng, mang về chôn cả dưới giường nằm. Không lâu ba ngườì khách Tàu sang tìm vàng không thấy, thăm hỏi biết ông khai phá đám đất ấy, vội tìm đến nhà hỏi: ”Ngài hàng ngày cày bừa, có bắt được vò vàng ở chỗ ấy không?”. Ông bảo: ”Các ông ở đâu tới định gieo hoạ cho nhà tôi chăng?”. Mấy người lắc đầu nói: ”Không phải thế, không phải thế, vàng ấy là của tổ tiên chúng tôi chôn cất lúc ở nước Nam, về Tầu dặn cháu con ngày sau qua lấy. Không ngờ trời trao cho người khác, chắc người ấy có tâm đại khoan hồng, có nhiều âm đức, cho nên từ xa đến chúng tôi dám đường đột hỏi như vậy, chỉ muốn xin nhìn thấy của ấy để nghiệm gia phả nhà tôi, ngoài ra không dám có tham vọng gì“. Ông nói: “Của nhà các ông, trời sai tôi cất giữ”, lấy ra kiểm lại, đối chiếu khớp với gia phả của mấy người. Khách khẩn cầu: ”Chúng tôi đi xa nhà khá lâu, tiền lương đã cạn, ngài ra ơn cho phần nào làm chi phí đi đường về“. Ông nói: “Trời cho ta, ta sao dám cho người, các ông hãy nán lại ít lâu để chuẩn bị hành lý“. Lúc này trong chuồng nhà ông nuôi lợn nái đẻ được sáu con, ông thui một con đãi khách, ngày hôm sau ba người xin về, ông giữ lại và bảo: “Nhà tôi thấp hèn, mệt sức các ông vạn dặm tới đây, mới gặp nhau qua loa một ngày, sao nỡ vội ra đi “, và cố giữ lại, mỗi ngày thui một lợn bột đãi rượu, tiếp đãi ân cần. Qua mười ngày ông đưa tất cả vàng bắt được trả lại khách, khách vái xin ông giữ lấy, ông không chịu, khách xin biếu một nửa, ông cũng không nhận, thề rằng một lai cũng không cầm.
Ba người bảo nhau rằng, chúng ta chịu ơn mà không báo, ngày khác mặt mũi nào gặp nhau. Hãy vì ngài tìm một huyệt đất âm phần, sau này phúc trạch dồi dào, thế mới tròn tình nghĩa (có bản chép trọn nghĩa vụ). Mới tìm huyệt đất ở cồn cát Chỉ Châu táng mộ tổ rồi từ biệt.
Hai truyền thuyết trên, không biết thuyết nào đúng, nên chép lại cả hai, để tra khảo.
Di cảo chép:
”Vào thời Hoằng Trị nhà Minh (Vua Trung Hoa 1498-1509) mấy người lái buôn Trung Quốc (Có một người, người Vũ Hồ Thái Bình) đi thuyền vào nước ta bán hàng, đến cửa Nam Giới (cửa Sót) gặp bão, thuyền vỡ, của cải trong thuyền đắm hết, người thoát được vào bờ. Ông ra bãi, xa xa thấy sáu người trần truồng, lại gần hỏi han, tay chỉ ra làn sóng biển đói lả không bước được. Ông thương hại, dìu về nhà cho ăn mặc, ở lại trong nhà ngót hai năm xin từ biệt, ông giữ lại không chịu, đành chuẩn bị lương khô, tay nải cho họ về.
Ra đi được hơn 10 ngày, bọn họ quay lại nói chịu ơn sâu phải báo đền xứng đáng, ngài có muốn đời sau con cháu làm nên bậc chí tôn không. Ông thản nhiên trả lời, thuyền bé đâu dám chở nhiều, tôi tài hèn, đức bạc làm gì dám thế. Khách nói : ”Chính lời ngài vừa nói rất tốt, gần đây chúng tôi đi khắp trong vùng, khắp mọi danh sơn, tìm được ở núi xa kia một huyệt đất, lấy Lam Giang làm minh đường, Hồng Lĩnh làm tiền án, các nguồn nước tụ hội, các ngọn núi chầu về, long hổ trướng bình trùng trùng điệp điệp, thật là huyệt đất con cháu đời đời công khanh (huyệt đất ở chân núi Mã Sơn(1), xã Phúc Lễ). Chúng tôi xin lấy huyệt đất ấy báo đền âm đức của ngài. Để lại cách thức an bài huyệt pháp rồi từ tạ ra đi”.
Về sau đất ấy được thiên táng, con cháu phát phúc mãi đến nay, đời đời là danh giá.
Ngự lục chép:
Ông trước ở bãi biển, vườn ở làng Trung Thủy xã Chỉ Châu(2) sau gặp thầy hay khuyên nên dời nhà nơi khác mà ở. Ông bèn đem gia quyến dời về mạn bắc, đến thôn Tảo Sơn, xã Trảo Nha thấy ở đó có gò đất địa thế rộng, hoang vu lâu ngày, gai góc rườm rà, xin kỳ lão trong làng làm nhà ở đó, nay là vườn hương hoả. Hàng ngày phạt dọn cỏ gai, dần dần thành vườn, nấu rượu nuôi lợn, sinh sống tạm ổn, xin nhập hộ tịch, cùng chịu thuế khoá tạp dịch. Từ đó ngày càng hưng vượng, con cháu thêm đông, thành thuỷ tổ họ ta.
Chú thích của ND:
(1) Nguyên bản chép Mã Hạ sơn, tôi sửa lại Mã Sơn hạ, dưới chân núi Mã Sơn, tức là rú Rum, sau này là mộ ông Tổng binh Ngô Phúc Hải, còn đến nay, hàng năm họ đi tảo mộ.
(2) Bản khác ở chi 9 chép : nhà ông ở Chỉ Châu, sau dời về thôn Trung Thủy, rồi lại rời về Thổ Sơn, có khi đúng hơn, phù hợp với cảnh gia đình đang tìm nơi cư trú ổn định, hơn nữa thôn Trung Thủy không thuộc xã Chỉ Châu. Ngày ấy thôn Thổ Sơn thuộc xã tên lúc bấy giờ là Đan Liên, đời sau mới đổi là Trảo [Nha].
Phiên Âm Tạm dịch
Duy quản lịnh công Ông quản lịnh công
Cổ chi quân tử Xưa thực quân tử
Vượng tửu vi tư Nấu rượu nuôi thân
Tốn kim thủ nghĩa Giả vàng giữ nghĩa
Chu cấp cùng phạp Chu cấp người nghèo
Khuynh hoá bất kế Tốn hao chẳng kể
Phương thốn chi trung Dù trong gang tấc
Nhất đoàn thiên lý Giữ tròn đạo nghĩa
Thiên tương cát nhân Người lành trời báo
Tích chi phúc địa Dành cho phúc địa
Tử tử tôn tôn Cháu cháu con con
Thế tế kỳ mỹ Được người ca ngợi
Tướng tướng công hầu Tướng tướng công hầu
Biến diệp bất tạm Cha truyền con nối
Di chí vu kim Mãi đến ngày nay
Dụ xương dụ xý Càng thêm rạng rỡ
Cùng bản sóc nguyên Gốc rễ ngọn nguồn
Thực tư ư thử Khởi đầu từ đó
(Còn nữa)