1.000 ngày đầu đời (từ khi bé được mang thai đến 24 tháng tuổi và thời điểm tuổi dậy thì) được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) nhấn mạnh là giai đoạn lý tưởng phát triển chiều cao và thể chất. Thiếu hụt dinh dưỡng càng sớm nhất là từ thời điểm bào thai sẽ đem lại hậu quả nặng nề tới sức khỏe và quá trình tăng trưởng của bé. Thế thì phòng ngừa thiếu dưỡng chất trong thai kỳ như thế nào?
Thiếu dưỡng chất trong giai đoạn mang thai sẽ ảnh hưởng rất lớn đến mô não, thần kinh và sẽ không bao giờ phục hồi hoàn chỉnh được. Hậu quả của việc thiếu dinh dưỡng trong thời kỳ mang thai sẽ phụ thuộc ở mỗi thời điểm thai kỳ:
Giai đoạn sớm thai kỳ: có khả năng làm sảy thai.
Giai đoạn hình thành những cơ quan của cơ thể: có thể dẫn đến dị tật bẩm sinh.
Giai đoạn cuối thai kỳ: kém phát triển bào thai dẫn đến trẻ sinh ra có cân nặng dưới 2500g.
Khi hàm lượng đạm nạp vào không đủ trong suốt thời kỳ mang thai thì số lượng tế bào của mô thai nhi sẽ suy giảm, trẻ sinh ra sẽ nhẹ cân và chiều dài không đạt mức tối đa theo tiềm năng di truyền cho phép.
Thiếu hụt chất đạm vô cùng nghiêm trọng đối với não bộ bởi vì sẽ hình thành nên sự chậm tăng trưởng không phục hồi.
Thiếu hụt folate ở các tuần đầu thai kỳ sẽ gây ra dị tật ống thần kinh như nứt đốt sống và thiếu một phần não bẩm sinh. Ống thần kinh đóng không hoàn toàn là nguyên nhân dẫn đến bại liệt, não úng thuỷ... Ống thần kinh thường đóng lại vào khoảng ngày 24-28 của thai kỳ, đây là khoảng thời gian đông đảo phụ nữ chưa nhận biết mình có thai vì vậy chế độ dinh dưỡng chưa được điều chỉnh thích hợp.
Thiếu hụt dưỡng chất trong thai kỳ không chỉ tác động đến sản phụ mà còn gây dị tật bẩm sinh ở trẻ
Thiếu folate trong giai đoạn cuối thai kỳ sẽ dẫn đến thai nhi kém tăng trưởng và bà mẹ mang thai có thể bị chứng thiếu máu hồng cầu to và các biến chứng trong thời kỳ mang thai như nhau bong non, xuất huyết.
Thiếu iốt trước và trong quá trình mang thai trẻ sinh ra sẽ ngu ngơ, nếu thiếu ít thì có thể dẫn đến chậm phát triển năng lực nhận thức & vận động của con trẻ.
Hiện tượng thiếu vitamin A ở bà bầu sẽ dẫn đến sinh non, thai chậm phát triển và sơ sinh nhẹ cân.
Thiếu hụt sắt ở mẹ có thể làm gia tăng nguy cơ chết chu sinh ở trẻ, sanh non, hoặc con sinh ra nhẹ cân, mẹ có thể bị băng huyết sau sinh, chậm hồi phục sức khỏe, giảm khả năng đề kháng.
Thiếu kẽm ở bà bầu sẽ tác động tới chiều dài tiềm năng của bé.
Thiếu vitamin D trong suốt thai kỳ sẽ gây rối loạn chuyển hoá canxi khiến hạ canxi huyết, co giật do thiếu canxi, suy giảm sản sinh men răng của trẻ và chứng nhuyễn xương ở mẹ.
Trẻ sinh ra từ phụ nữ có chế độ ăn không đủ vitamin B12 sẽ có nguy cơ cao bị kém phát triển.
Khám phá ngay:
Quan niệm thai phụ phải ăn gấp đôi là không chính xác vì ăn quá mức sẽ làm cho bà mẹ tăng cân quá mức cần thiết.
Trong 3 tháng đầu thai kỳ, nhu cầu năng lượng tăng không quá nhiều. Vì thế, ăn đa dạng và đầy đủ các dưỡng chất vẫn thiết yếu hơn là ăn thật nhiều. Thế nhưng, đối với phụ nữ trước khi mang thai gặp suy dinh dưỡng thì sẽ cần tăng năng lượng ăn vào thấp nhất là 150 kcal, tương đương với tăng 1-2 bữa phụ như dùng thêm 1 ly sữa, ăn thêm hoa quả.
Ở 6 tháng sau thai kỳ, bà mẹ mang thai cần tăng thêm khoảng 300 kcal/ngày, tương đương ăn thêm 1 chén cơm kết hợp với các loại thực phẩm, uống thêm 1-2 ly sữa, hoặc ăn 1-2 bữa phụ.
Chất đạm từ chế độ ăn của mẹ sẽ được chuyển đến thai để tổng hợp chất đạm của thai. Lượng đạm nạp vào của mẹ sẽ tác động tới chiều dài tiềm năng có thể có được của thai nhi. Thai phụ cần tăng hơn lúc chưa mang thai khoảng 15g chất đạm mỗi ngày (nghĩa là phải thêm vào chế độ dinh dưỡng mỗi ngày khoảng 80-100 thịt hoặc cá, 2 cái trứng, hoặc 1 ly sữa và 1 miếng phô mai). Theo đó, bà bầu nên lựa chọn loại thực phẩm dồi dào đạm có giá trị sinh học cao như thịt, cá, trứng, sữa (hoặc những chế phẩm từ sữa), sản phẩm từ đậu nành... Thịt, cá, trứng còn là thực phẩm giàu chất sắt, kẽm, vitamin A. Sữa còn có dồi dào canxi, photpho, vitamin A, vitamin nhóm B...
Chất đạm có thể tìm thấy trong nhiều loại thực phẩm
Canxi từ mẹ được chuyển đến thai để hình thành xương và răng. Ở 6 tháng đầu, mẹ bầu dự trữ canxi trong xương. Một phụ nữ duy trì dưỡng chất tốt trước mang thai sẽ tích trữ trên 1000g canxi để sử dụng. Khi hệ xương thai nhi tăng trưởng làm nhu cầu canxi tăng cao trong 3 tháng cuối, thai nhi sẽ rút canxi từ nơi dự trữ của thai phụ. Do đó, nếu thai phụ không nhận đủ canxi từ thực phẩm thì sẽ có nguy cơ cao bị hư răng và loãng xương về sau này. Nhu cầu canxi của thai phụ là 1000mg/ngày.
Một vài thức ăn dồi dào canxi mẹ bầu có thể thêm vào chế độ dinh dưỡng mỗi ngày như: sữa, chế phẩm từ sữa, rau xanh, đậu nành, cá nhỏ ăn luôn xương, tôm tép ăn cả vỏ. 1 ly sữa 200ml cung cấp khoảng 240 mg canxi.
Thai phụ cần lượng sắt rất lớn để chuyển đến thai nhi, hình thành bánh nhau, lượng máu của mẹ tăng thêm khi mang bầu, và bù đắp cho lượng sắt mất khi sinh nở. Tổng lượng sắt cần cho mẹ trong suốt thai kỳ là khoảng 840mg. Trên thực tế, đa số các bà mẹ khi mang thai đều không có đủ lượng sắt dự trữ cần thiết cho thai kỳ.
Sắt bên trong thịt (nhất là thịt đỏ như thịt heo, thịt bò), cá, lòng đỏ trứng, rau xanh, đậu đỗ. Sắt từ thực phẩm từ động vật sẽ dễ dàng hấp thu hơn sắt từ nguồn thực vật. Thế nhưng, nếu sử dụng thức ăn giàu vitamin C cùng bữa ăn sẽ giúp tăng hấp thu chất sắt từ thực vật. Ngược lại, trà, cà phê, ca cao sẽ ức chế hấp thu sắt từ thực vật vì thế nên sử dụng cách xa bữa ăn.
Tuy bà mẹ mang thai có thể sử dụng nhiều thực phẩm dồi dào chất sắt nhưng vẫn không thể đáp ứng nhu cầu chất sắt tăng rất lớn ở thai kỳ. Do đó , để bảo đảm đủ lượng sắt tích trữ cho mẹ, tăng cường đủ nhu cầu cho thai và phòng ngừa thiếu sắt ở mẹ, Viện dinh dưỡng khuyến nghị bà bầu nên dùng thêm viên sắt bổ sung với liều 60mg sắt nguyên tố cùng với 0,4mg acid folic mỗi ngày từ khi biết có thai tới ít nhất 1 tháng sau sinh.
Chế độ ăn giàu sắt giúp thai phụ không bị thiếu máu
Bà mẹ cần cung cấp đủ i-ốt trong thời kỳ mang thai để tạo hormone tuyến giáp giúp phát triển hệ thần kinh trung ương của thai nhi. Iốt có thể được tăng cường cho cơ thể từ thức ăn chế biến từ vật nuôi, cây trồng trên đất giàu iốt. Mặc dù vậy, nước ta là vùng bị thiếu iốt nên vật nuôi, cây trồng cũng đều bị thiếu. Chính vì lý do đó, để phòng ngừa thiếu iốt một cách tốt nhất thì bà mẹ mang thai nên dùng muối iốt hàng ngày (nêm lạt) trong ăn uống và chế biến thực phẩm.
Thai phụ cần khoảng 15 mg kẽm từ chế độ ăn hàng ngày. Thiếu kẽm hay diễn ra ở những bà mẹ có chế độ ăn chủ yếu là ngũ cốc, ít thực phẩm nguồn gốc động vật, nhiều chất ức chế hấp thu kẽm (phytate có trong thực phẩm nguồn gốc thực vật), hoặc bà mẹ bị bệnh đường tiêu hoá (viêm tá tràng, hỗng hồi tràng, giảm tiết dịch vị) ảnh hưởng đến hấp thu kẽm hoặc đa thai. Chính vì lý do đó, các bà mẹ này cần được bổ sung kẽm.
Kẽm có nhiều trong thực phẩm nguồn gốc động vật, có rất ít trong thực phẩm từ thực vật (trừ mầm của các loại hạt).
Thực phẩm giàu kẽm nên được bổ sung vào chế độ ăn uống
Chế độ dinh dưỡng của bà mẹ cần có thức ăn có nhiều tiền sinh tố A (rau xanh đậm, củ quả vàng cam đậm) và vitamin A (thịt, cá, trứng, sữa). Cần vô cùng cẩn trọng khi dùng thuốc có chứa vitamin A cho thai phụ do vitamin A liều cao có thể khiến dị tật ở thai nhi. Vitamin A cung cấp từ thực phẩm thường sẽ an toàn hơn và không đến mức gây hại. Thế nhưng, thai phụ không nên ăn quá nhiều gan vì gan có rất nhiều vitamin A.
Vitamin D rất cần thiết để gia tăng hấp thu canxi vào cơ thể. Bà mẹ cần thường xuyên ra ánh nắng mặt trời (buổi sáng sớm hoặc chiều muộn) để da được tiếp xúc ánh nắng giúp chuyển tiền vitamin D dưới da thành vitamin D. Đối với các bà mẹ không tiếp xúc ánh nắng trong suốt thai kỳ thì cần được tăng cường vitamin D. Thế nhưng, không nên sử dụng liều cao vitamin D trong suốt thai kỳ.
Vitamin D rất cần thiết để tăng hấp thu canxi vào cơ thể
Folate cần thiết để tạo ống thần kinh của em bé trong các tuần đầu thai kỳ, giai đoạn sau folate cần cho quá trình phân bào, phát triển và tạo hồng cầu. Nhu cầu folate trong suốt thời kỳ mang thai là 400μg/ngày. Cung cấp đủ folate vô cùng quan trọng đối với người mang thai nhiều lần, thiếu máu mãn tính hoặc uống thuốc chống co giật.
Điều khác nhau so với các dưỡng chất khác là hiệu quả hấp thu folate giảm và bài tiết lại gia tăng trong thời kỳ mang thai. Đây là tác nhân quan trọng làm cho thiếu hụt folate trong thai kỳ trở nên là vấn đề quan trọng đáng chú ý.
Có thể tăng cường folate trong khẩu phần bằng cách: chọn ăn thực phẩm giàu folate (mầm lúa mì, gan, thận, đậu đỗ, những loại hạt, rau xanh, trái cây đặc biệt là cam, dâu tây, lê, dưa hấu), ăn thức ăn tăng cường folate, hoặc tăng cường acid folic ở dạng thuốc. Tuy nhiên, nếu chỉ ăn thực phẩm dồi dào folate sẽ rất khó đạt được nhu cầu. Chính vì lý do đó, ngoài chế độ ăn thực phẩm có nhiều folate thì bà bầu cần được bổ sung khoảng 0,4mg acid folic mỗi ngày bằng thực phẩm được bổ sung acid folic hoặc thuốc bổ có acid folic.
Vitamin B12 cũng quan trọng trong quá trình phân bào và hình thành hồng cầu. Với các phụ nữ mang thai ăn chay trường rất cần được cung cấp vitamin B12, bởi đây là một loại vitamin chỉ có ở thức ăn từ động vật.
Bà bầu cần uống ít nhất khoảng khoảng 2 lít nước mỗi ngày để đủ nước cho tiêu hoá, hấp thu, chuyển hóa những chất dinh dưỡng, đào thải các sản phẩm chuyển hoá không cần cho cơ thể, và cũng để tránh táo bón. Bên cạnh nước chín, bà mẹ mang thai nên chọn các loại thức uống bổ sung dưỡng chất cần cho cơ thể để đạt nhu cầu khuyến nghị (nước trái cây tươi, sữa...).
Mẹ bầu đừng quên bổ sung nước mỗi ngày
Các thai phụ có chế độ ăn không đủ nhu cầu dưỡng chất (như kém dung nạp lactose, ăn chay, ăn kiêng, hoặc đa thai) thì cần được bổ sung thuốc bổ đa sinh tố hay khoáng chất để giảm rủi ro khiếm khuyết tăng trưởng não bộ, nâng cao chức năng miễn dịch.
Xem thêm:
Bà bầu bị mất ngủ phải làm sao?
Những thực phẩm bà bầu 3 tháng đầu không nên ăn
Để đảm bảo sức khỏe của mẹ cũng như hỗ trợ thai nhi tăng trưởng khỏe mạnh thì mẹ bầu cần tuân thủ chế độ dinh dưỡng như sau:
Ăn nhiều loại thức ăn.
Nên ăn nhiều bữa để đạt nhu cầu dinh dưỡng.
Để đạt nhu cầu năng lượng, mỗi bữa nên ăn thêm 1 chén cơm (cùng với thức ăn) so với lúc chưa mang thai.
Nhóm bột đường: gạo, nếp, mì, khoai... Nên lựa chọn gạo tốt, không xát kỹ do sẽ mất vitamin B1. Những loại khoai củ có ít chất đạm vì thế chỉ ăn thêm chứ không ăn thay thế bữa chính.
Thức ăn dồi dào đạm như thịt, cá, tôm, cua, trứng, sữa và các loại đậu, cụ thể thịt cá: 120-150g mỗi ngày. Một tuần nên ăn 2-4 lần thịt, khoảng 3 lần cá, hạn chế ăn gan. Trứng: 2-3 quả trứng mỗi tuần. Sữa: 2-4 ly mỗi ngày (ly 200ml), có thể thay thế bằng phô mai, yaourt. Không nên dùng nhiều sữa, yaourt quá ngọt do lượng đường quá nhiều sẽ không tốt.
Chất béo: nên dùng dầu thực vật và chỉ ăn vừa phải.
Trái cây chứa nhiều vitamin có lợi cho mẹ bầu
Nên ăn nhiều rau và trái cây tươi hàng ngày, nhất là rau lá xanh đậm và củ quả vàng cam đậm. Khoảng 300g rau (tương đương 3 chén rau chín) và 2-3 phần hoa quả mỗi ngày (1 phần trái cây tương đương 1 trái chuối, 1 trái cam cỡ vừa, 1 miếng đu đủ...)
Chất ngọt cũng chỉ ăn vừa đủ. Ăn nhiều thực phẩm ngọt sẽ khiến bà bầu tăng cân nhiều thế nhưng vẫn có khả năng bị thiếu các chất dinh dưỡng cần thiết như chất đạm và những vi chất.
Sử dụng muối iốt trong ăn uống và chế biến thực phẩm (nêm lạt).
Uống nhiều nước (1,5- 2 lít nước mỗi ngày).
Giảm thiểu tối đa thức uống có cồn (rượu, bia).
Caffeine qua nhau có thể làm tăng nhịp tim và nhịp thở của em bé. Caffeine có trong cà phê, một số loại trà, nước ngọt có gaz, nước tăng lực, cacao... Thai phụ không nên uống quá 2 ly cà phê mỗi ngày.
Không hút thuốc lá (kể cả hít khói thuốc lá từ môi trường xung quanh): nicotine từ khói thuốc lá sẽ vào hệ tuần hoàn của mẹ, qua nhau thai làm ảnh hưởng đến cung cấp oxy cho em bé.
Hay xảy ra vào các tháng đầu thai kỳ. Nếu nghiêm trọng sẽ gây thiếu chất đạm và năng lượng, chất khoáng, vitamin và điện giải. Khi đó cần chia nhỏ bữa ăn, chế độ ăn nên ít béo, ít gia vị và nhiều chất bột đường. Không nên uống nhiều cùng với bữa ăn. Nếu tình trạng này kéo dài thì nên nhập viện để được truyền dịch để tránh mất nước và điện giải.
Mẹ bầu có thể phải truyền nước nếu tình trạng nôn ói xảy ra thường xuyên
Thường ở giai đoạn sau của thai kỳ vì tử cung to gây áp lực lên dạ dày cùng với sự nới lỏng cơ vòng thực quản do đó dịch tiêu hoá dễ trào lên thực quản làm nóng rát. Triệu chứng này sẽ giảm bằng cách ăn ít mỗi bữa, tăng số bữa ăn và không nên nằm ngay sau khi ăn. Tránh thức ăn béo, cà phê và nước uống có gas.
Thường ở giai đoạn cuối thai kỳ bởi vì giảm nhu động ruột, ít hoạt động thể lực và vì tử cung to đè lên đại tràng. Những chứng này có khả năng suy giảm khi bà mẹ mang thai ăn nhiều thực phẩm dồi dào chất xơ như ngũ cốc không xát kỹ, rau và trái cây, uống nhiều nước. Nên uống 1 ly nước khi thức dậy vào buổi sáng.
Thỉnh thoảng tình trạng ngộ độc thực phẩm xảy ra ảnh hưởng nghiêm trọng tới em bé. Bà mẹ có thể phòng tránh bằng cách chú ý vệ sinh ăn uống, rửa kỹ rau quả, gọt vỏ trước khi ăn, rửa tay kỹ, sử dụng nước chín, tránh ăn thức ăn chưa nấu chín (thịt tái, gỏi cá sống, trứng lòng đào hoặc trứng sống, hải sản nướng...), tránh xa vật nuôi như chó mèo vì có thể nhiễm giun sán từ những thú cưng này.
Nên ăn chín uống sôi để tránh ngộ độc thực phẩm
Đái tháo đường thai kỳ chủ yếu xuất hiện sau 20 tuần và thường tự khỏi sau khi sinh. Mẹ bầu cần ăn đủ nhu cầu, theo dõi đường huyết thường xuyên, giữ mức đường trong máu ổn định, ngăn ngừa tình trạng cạn kiệt nguồn dinh dưỡng tích trữ. Thành phần những chất đạm : béo : chất bột đường trong chế độ ăn nên cân đối ở mức 15 : 30 : 55% năng lượng.
Tăng huyết áp thai kỳ là một hội chứng gồm có tăng huyết áp, đạm niệu, và phù nề. Xuất hiện khoảng 7-8% thai kỳ và thường ở 3 tháng cuối thai kỳ. Tình trạng này làm giảm lượng máu đến tử cung gây ra thai bị kém nuôi dưỡng. Thai phụ cần được theo dõi sức khỏe thường xuyên để đảm bảo an toàn cho mẹ và thai.
Nguồn tham khảo:
https://www.friso.com.vn/kinh-nghiem-hay/hien-tuong-chung-to-me-bau-thieu-dinh-duong-trong-thai-ky