26 - Lòng Người..........Hai Hùng 27 -Bộ Tam Sên.............Hai Hùng 28 - Mặt Trái Cuộc Đời.......Hai Hùng 29 - Tiếng hát Quê Hương...........Hàn Sĩ 30 - Vòng Hoa Tang..........Lê Vĩnh Hoà 31 - Mây Trôi – Bùi Thị Như 32-
31- Mây Trôi
Bùi Thị Như Lan
1.
Những tia nắng cuối ngày vội vã theo gió chạy về phía trời Tây rồi chui vào miệng dãy Khau Khang, hắt lên vòm trời quầng sáng nhiều màu giữa vô vàn khối mây cuồn cuộn trôi. Gió lạnh vẫn ào ạt thổi. Gió kéo tụi sương về giăng màn trên các mái nhà trong bản, chăng dây trên những ngọn cây. Gió đẩy tụi sương lên cao, nhập nhòa vào mây, kết thành những hình khối vừa lạ, vừa quen.
Vừa mới đấy mà sương đã nhúng ướt bờ vai em rồi. Mặc kệ, em vẫn ngồi như mọc rễ bên hai con chó đá ngoài cổng để mà suy ngẫm. Những ý nghĩ thoắt ẩn, thoắt hiện rồi cuộn tròn làm kén trong đầu em. Giá như em lấy được cái kén ấy ra khỏi đầu thì tốt biết mấy. Mắt em vẫn không nguôi ngước lên núi nhìn mây lũ lượt trôi đi. Mà kể cũng hay thật đấy, sao tụi mây dễ thay đổi đến vậy? Rõ ràng em vừa nhìn thấy đám mây trùng phùng tựa như đoàn quân vai đeo ba lô, gài đầy lá ngụy trang, súng ống nhấp nhô, băng rừng, đạp núi. Rõ ràng chưa hết một nhịp thở tụi mây ấy đã giãn nở thành dòng sông băng băng, cuồn cuộn, sôi réo trong mùa nước lũ... Mà kìa, sau một thoáng chớp mắt đã biến ảo thành bầy ngựa, vươn mình, bờm dựng đứng, tung vó thi nhau phi nước kiệu trên núi cao...
Em mải mê để nếp nghĩ trôi theo tụi mây. Bao nhiêu năm qua đi trong vui, buồn, sướng, khổ, em không thay đổi thói quen, vào độ gió lạnh se sắt, khi những cây đào trong vườn, trên núi nứt vỏ để tụi nụ chen nhau hé mắt, chờ ngàn vạn hạt mưa xuân rắc xuống, đua nhau khoe màu đỏ nồng nàn, sắc hồng quyến rũ. Vào lúc sương chiều duềnh lên, tan trong khói bếp ấm nồng là em ra ngoài cổng, chỗ hai con chó đá, nhướng mắt lên núi cao, thả hồn vía theo tụi mây, rồi trượt xuôi ánh mắt xuống những triền dốc ngút ngát màu xanh của cây rừng, qua từng thửa ruộng bậc thang, xuống con đường đất đỏ chạy qua trước nhà, đến lúc bóng tối dán kín mắt thì mới vào nhà. Nếp quen nhìn xuống dưới núi từ ngày nào em cũng không nhớ nổi...
Sương bồng bềnh, dênh dang, từng vốc, từng nắm ùa ập vào người lành lạnh, rồi lại nhẹ nhàng tản ra, nhởn nhơ đậu vào mái tóc dài búi nặng trịch sau gáy của em, giống như chơi trò đuổi bắt. Em dẩu mồm thổi phù phù, mắt mơ màng nhìn tụi sương li ti chạy dạt ra phía trước, rồi tụ lại thành đám nhỏ nhoi bay la đà, phiêu diêu. Ừ, những mùa đông thủa ấy, cũng ở chỗ này, anh và em, hai người thi nhau thổi đến cạn kiệt cả hơi, thi xem ai thổi nhiều hơn, sương phiêu diêu xa hơn là người ấy thắng cuộc. Em bỗng bật cười một mình. Bao giờ thì em cũng là người thắng để anh được ngắm đôi mắt to tròn, đen láy của em rạng ngời trong chiều hoàng hôn nhập nhoạng. Em tin thế!
Mấy năm qua, em luôn nghĩ anh đang ở bên em, rất gần, gần đến nỗi em thấy hơi thở của anh phả vào má em. Anh không đi xa, anh đang chơi trò ú tìm đâu đó giữa núi rừng mênh mang cùng những cây đào điệp trùng này, rồi anh sẽ về bên em để lắng nghe em nói, nhìn em cười, an ủi khi nước mắt lăn tròn trên má em...
Bây giờ, nỗi nhớ anh đã hóa đá trong tâm can em. Sự chờ đợi của em cuốn theo chiều gió thổi, mây trôi. Gió càng thổi mạnh thì mây càng đi xa để lại khoảng trời tràn căng trống trải.
2.
Trong bóng hoàng hôn chạng vạng, bốn con mắt của đôi chó đá thật trong trẻo. Không hề vương một chút bụi. Những ánh mắt nhìn em như cảm thông, an ủi, vỗ về. Em chợt run bắn lên.
Theo như pa bảo, cụ tổ nhà em từ xa xưa hì hụi khuân hai tảng đá đỏ từ dãy núi Khau Khang sau lưng nhà về. Đục đẽo, mài giũa thành đôi chó đá giống nhau như được đúc ra từ một chiếc khuôn. Đôi chó đá ấy ngấm nhiều mồ hôi của con cháu các đời trong dòng họ La, vì thế đỏ rừng rực như được chà sát, kỳ cọ bằng dầu bóng. Em không hiểu vì sao mà tụi chó đá này, vào những đêm ngày thường thì không tỏa sáng, thế nhưng năm nào cũng thế, đúng tối hai mươi bảy tết là trên mình đôi chó đá lại phát ra ánh sáng màu huyết dụ mờ mờ, ảo ảo lung linh, huyền diệu... Nó cứ sáng mãi đến hết tháng giêng thì mới thôi.
Hồi em là cô nhóc, ngày nào em cũng ao ước được cưỡi lên lưng chó đá. Nhiều hôm em quanh quẩn con bên trái, lại sang con bên phải cả ngày không biết chán. Vào những chiều hè, em nằm duỗi dài cạnh chó đá, nhắm mắt lại, lắng nghe trong gió có tiếng thở nhè nhẹ, phập phồng, êm ái... ru em vào giấc ngủ nồng say, cho đến lúc nghe tiếng pa gọi ời ời mới đẩy mí mắt lên thì trời đã nhập nhoạng tối rồi.
Giờ thì pa cũng không ở đây với em. Pa xuống phố huyện ở với anh trai, chị dâu của em. Pa thương em mà nấn ná, chần chừ không muốn đi. Thế nhưng, sau trận ốm cách đây tròn hai mùa con nước dâng dưới suối, nếu anh trai không về kịp đưa xuống bệnh viện huyện thì chắc pa không được như hôm nay. Anh trai cùng chị dâu em nói mãi thì pa xuôi tai mà ở lại dưới phố. Em dù không muốn để pa đi ra khỏi bản, thế nhưng pa ngày một già yếu, nếu pa có mệnh hệ gì thì em không biết phải làm sao. Bụng không ưng, nhưng ngoài miệng em phải nói lời nước chảy để pa yên bụng đi cùng anh trai. Bây giờ, cái chân pa yếu hẳn, không về được nhà, chỉ có anh trai thư thoảng kéo theo chị dâu cùng thằng cháu về chốc lát rồi đi.
Hôm nay hai mươi bảy tết rồi, trong gió dường như có tiếng lách tách bóc vỏ của nụ cây. Lác đác trên triền núi đã có những bông hoa như đốm lửa lập lòe đỏ gọi xuân về. Chẳng biết anh trai có về nhà không? Hôm qua em gọi điện thoại, anh trai đang bận gì mà không nghe, cũng không thấy gọi lại.
Em buồn. Cũng không hiểu có phải tại anh trai không trả lời hay là những ngày này nỗi nhớ anh cồn cào thắc thỏm, nên hôm nay em ngồi lâu hơn mọi hôm. Mặc cho trời mỗi lúc một lạnh, sương mỗi lúc thêm dày, em vẫn ngồi bên hai con chó đá mà nhìn sương, nhìn mây cho đến lúc bóng tối ập vào che kín mắt, em chưa vào nhà.
Đấy, bên sân nhà anh lại vang lên tiếng đôi guốc tre lộc cộc. Chẳng hiểu tại sao mé anh cứ thích đi guốc tre. Hàng dép mang đến bản mình, tới từng ngõ rao gọi, mời mọc thế mà mé anh vẫn không bỏ thói quen lồng đôi chân vào guốc tre.
Em quen với tiếng guốc tre kéo theo tiếng thở dài nặng nề, sâu hút của mé anh mỗi ngày. Quen đến nỗi hôm nào không thấy là em lo lắng, cập rập lấy hai dép tay làm bằng gỗ nghiến, gõ từng bước đi bằng tay trên nền đá để sang nhà anh. Vẫn biết, sự hiện hữu của em trong nhà anh là thừa, thế nhưng nếu em không sang nhà bên ấy thì bụng nóng như thể đám cháy đang tóa lửa, hun khói.
Anh sẽ hỏi vì sao em không đi bằng đôi chân như hồi anh còn ở bên em, mà lại đi bằng tay phải không? Chuyện này chỉ có tụi mây trôi trên trời, những hòn đá mồ côi ở núi Khau khang là thấu hiểu. Bao năm nay em vẫn buộc chặt cái đau này ở trong bụng thôi. Chuyện này nói ra thì phải nói từ đâu nhỉ? Chẳng lẽ từ thầy Tào coi lá số của chúng mình ư? Như thế có đúng không?
3.
Anh à, anh đi xa lâu ngày thế còn nhớ không? Người già bảo thế đất bản mình mang dáng cây hoa hải đường lớn được mọc ra từ chân núi Khau Khang. Những con đường mòn lên núi giống như trăm ngàn cái cành của cây hoa ấy. Đá trên núi nhấp nhô phô diễn vẻ đẹp hoang sơ, kỳ bí cũng mang màu đỏ tựa như ngàn vạn cánh hoa đua sắc dưới ánh mặt trời. Phải chăng vì thế mà người bản mình, đàn ông vâm váp khỏe mạnh, nước da đỏ au, còn đàn bà đôi má bốn mùa mang sắc thắm hoa đào.
Trên đỉnh núi Khau Khang có đôi hồ nước hình hai con dê núi nằm gối vào nhau. Trên đầu con dê là hai đôi cặp sừng xoắn bện từ ngàn năm không tách rời. Giữa khoảng trống của hai đôi cặp sừng nổi lên hòn đá lớn mang màu bắp nếp giát những viên đá li ti màu hồng ngọc. Vòng quanh tảng đá là dòng nước thắm đỏ để hai hồ hòa chung dòng chảy. Nước trong hồ không đun nấu mà lúc nào cũng nóng. Trên mình hai con dê ấy nước sủi lăn tăn như có ai đó ngồi trong bụng núi thổi bong bóng, nhúng vào chậu phẩm ngũ sắc lấp lánh xoay tròn, mê hoặc.
Đây là nơi người bản đầu năm đến rước nước về cúng trời, đất, cúng hồn rừng, hồn người thiên cổ. Và ở đôi hồ nước này là nơi những cặp nam thanh, nữ tú trước khi làm lễ cưới xin hai cốc nước mang về. Cốc đựng nước là do chú rể làm từ cây vầu. Trên cốc trạm trổ mây trời, chim muông, thú rừng... Thế nên nhìn cốc đựng nước chú rể mang sang nhà gái đủ biết có là người trai tài hay không.
Nước thiêng lấy về, chia đều vào bốn cái cốc. Hai cốc để nhà trai thắp hương trên ban thờ, còn hai cốc nhà gái dâng tổ tiên. Khi chú rể đi đón dâu mang theo nửa cốc nước đã thắp hương sang nhà gái. Cô dâu trước khi về nhà chồng, vái lạy tổ tiên, cha mẹ, xin nửa cốc nước trên ban thờ nhà mình, để rồi hai nửa nước thiêng hòa với nhau làm một. Chú rể cùng cô dâu mỗi người uống hai ngụm nước nhỏ. Một ngụm cho mình, một ngụm cho người mình yêu. Sau đó nước trong cốc rảy vào hai họ trong đoàn người đưa cô dâu về nhà chồng.
Hồi anh ở nhà, vào đêm ba mươi tết, đúng thời khắc sang canh, khi lũ gà nhà đua nhau khoe tiếng gáy chào ngày mới, em với anh thắp đuốc, cùng người bản lên đỉnh núi Khau Khang, nơi hai hồ nước ăm ắp, ấm nồng, múc đầy ống bương nước mang về nhà thắp hương tổ tiên. Rồi cũng từ ống nước lộc ấy chia đều cho từng người trong gia đình, mỗi người một ngụm thơm thảo thôi, còn dành cho tụi ngựa, dê, gà, lợn... mỗi con uống một chút, mau ăn chóng lớn, sinh sôi bầy đàn.
Tết năm ấy, trên đường rước nước về, anh thầm thì nói với em, ăn cái tết xong thì cũng em hết tuổi kim lâu, bước sang tuổi hai mươi hai, tuổi tròn đầy của người con gái, thế nên qua ngày mùng bảy tết gia đình anh mời thầy Tào coi ngày, sang nhà em làm lễ xin lá số, bàn việc cưới để hai đứa về chung một nhà. Chuyện này, mé anh đã định rồi, pá em cũng biết.
Anh nói thế làm em vui đến độ đôi chân ríu lại, quýnh quáng không bước nổi. Nếu lúc ấy chưa đi đến gần cổng nhà em, nơi đôi chó đá có niên đại hàng trăm năm tuổi đang tỏa sáng màu huyết dụ, thì em có lẽ mừng quá mà vấp vào đá rồi.
Cái tết ấy qua nhanh như thể người ta thở một nhịp thôi.
Cho đến hôm nay em nghĩ vừa trải qua giấc mộng buồn.
Thầy tào khi giáp hai lá số của chúng mình phán rằng, nếu hai nhà làm đám cưới thì trong ngày nhà trai rước dâu phải lấy vải chàm phủ che đôi chó đá lại. Điều này không được, vì đôi chó đá là linh hồn bao năm nay của dòng tộc. Người họ La từ đời này qua đời khác không ai nuôi chó trong nhà, cũng không ai ăn thịt chó bao giờ. Nhà nhà theo cụ tổ làm một đôi chó đá về để ngoài cổng cho nó trông nhà. Trong ngày vui phải để chó đá nhận mặt chàng rể.
Nếu không phủ vải chàm vào chó đá, thì anh với em đi lấy nước phúc ở đôi hồ trên núi không được đi theo lối người bản, phải cắt rừng, leo núi mở hai con đường khác nhau theo hai hướng, anh đi bên trái, em đi phía phải, sao cho khi gặp nhau ở đôi hồ nước sẽ vẽ thành một vòng khép kín. Có như thế mới ăn ở với nhau được...
Lời của thầy Tào chỉ biết nghe thôi, không được trái ý. Thế nên em với anh trước hôm hai nhà làm đám cưới đã lặng lẽ cắt rừng, băng núi tìm đường leo lên trên đỉnh Khau Khang.
4.
Sáng tháng Giêng lạnh tái tê. Cái giá buốt thấm qua da, ngấm vào từng mạch máu, lạnh như thể kim châm vào bụng. Sương bưng kín mắt. Bản tĩnh mịch nghe rõ tiếng thở của tụi trâu, lũ ngựa. Em cầm con dao đi rừng cùng cái cốc anh đưa mà người run lên từng hồi, từng chặp. Gió lạnh vẫn chạy ràn rạt lao qua đá.
Anh lặng lẽ ôm em. Hơi ấm nồng từ khuôn ngực vạm vỡ của anh nhẹ nhàng lan tỏa. Dường như hương thơm thanh tao của tụi hoa đào dưới chân núi cũng quấn quít theo hơi thở của anh mơn man, nhè nhẹ phả vào mặt em. Nếu như tụi gà rừng không đua nhau tấu lên bản nhạc gọi sáng làm em giật mình thì có lẽ chúng mình cứ say nồng mãi như thế giữa sương sa và gió lạnh.
Lúc ấy, anh thầm thì: - Em vứt lo lắng đi, cái chân đi chắc thì sẽ lên núi nhanh.
Em khe khẽ gật đầu, cười thật tươi để anh vui, rồi lặng lẽ quay người rẽ sang bên tay phải, theo đường rừng leo núi. Em lo, nếu cái chân không đi nhanh thì anh sẽ nhìn thấy nước mắt lăn tròn trên mặt em.
Em mải miết ngược núi. Người em như trôi trong sương và mây, cho tới lúc mặt trời từ đâu đó giữa biển sương mù dày đặc, tỏa muôn vàn sợi tơ màu lông gà non óng ánh xuống núi rừng, mồ hôi em túa ra thấm đẫm lưng áo chàm. Đôi giày vải em khâu, đế dày thế mà bị đá cào rách. Chắc giờ này đôi giày của anh cũng giống như thế.
Cặm cụi bước giữa trập trùng đá, muôn vàn cây lớn, cây nhỏ thì em bỗng giật mình. Có tiếng con gì thở phì phì như tụi ngựa thồ hàng nặng đập vào tai em. Cái chân ngập ngừng, chưa kịp rẽ lối thì mắt em đụng vào mắt con rắn to bằng bắp tay, da màu đỏ như đá núi Khau Khang này. Mắt nó có đám lửa cháy rừng rực làm em bủn rủn ngã khuỵu xuống. Trước lúc lăn qua đá núi, mê man, bất tỉnh, em vẫn nhận ra, lưỡi con rắn quấn bắp chân em, thít chặt...
Cho mãi gần hai năm sau, khi tỉnh lại trong bệnh viện, em mới biết, năm người đi du lịch trên núi Khau Khang đang trên đường xuống núi thì gặp em bị nạn. Và rồi, năm người ấy đã thay nhau cõng em, đưa vào ô tô chuyển đến bệnh viện huyện sơ, cấp cứu. Bây giờ, sau khi em sống thực vật, trải qua bốn lần chuyển viện, dường như với họ, em không bao giờ là gánh nặng, mà là người thân. Em cũng không biết có phải mệnh em cao số, hay là em đã gặp may, bởi thế nên em đã được sinh ra lần thứ hai nhờ vào những tấm lòng từ bi, thiện nguyện của người dân ở thành phố Thái Nguyên.
Khi em mê man, mặc dù trôi nổi giữa lằn ranh của ánh mặt trời và bóng tối, đến bờ con sông nước trắng như tuyết, lạnh đông cứng người, em thấy gương mặt màu đồng hun của anh rạng rỡ cười thật tươi, kéo em về hiện tại. Hơi thở anh nồng nàn, ủ ấm cho cơ thể lạnh giá của em, để rồi em vượt qua mê lú trong cõi hư vô, mà trở về với pá, với dân bản, với anh.
Ngày em về bản, pá mời người làng trên, bản dưới đến mổ lợn ăn mừng. Pá dỡ bát hương em trên ban thờ, mang đi giải mát dưới suối xa. Bản mình vui như ngày hội, duy chỉ có vắng thầy Tào và vắng anh thôi.
Anh tin đá núi đã vùi lấp em, thung sâu nuốt chửng em nên mới đau buồn đến thế phải không? Nếu như thầy Tào cùng mé anh không ép anh lấy con gái thầy Tào, cái đứa gái cắt tóc như con trai, mặt vẽ hoa, thoa phấn, môi đỏ chon chót, cưỡi xe máy của người đàn ông cho không mất tiền, vênh váo nhả khỏi vào mặt người bản, thì chắc anh sẽ không bỏ bản mà đi phải không anh?
Em nghe pá bảo, anh xung phong nhập ngũ vào bộ đội, qua mấy mùa mưa nắng không về. Gia đình, dòng tộc, người bản cũng không biết anh đang phiêu du ở đâu.
Bây giờ, cái mắt mé anh nhìn em ấm lại rồi, không sắc lạnh như ngày em mới từ bệnh viện trở về bản. Em đã khóc mừng vì điều ấy. Em cảm nhận rõ lắm, sự hắt hủi lạnh băng có chút nhẫn tâm của mé anh khi bà nghĩ, em là người gieo rắc tai vạ cho gia đình bà, gây ra nỗi đau rỉ máu trong anh, dẫn dụ anh ra đi mà không trở về.
Mé anh đâu có biết, từng khắc, từng giờ trôi qua, nỗi nhớ anh dày lên trong tâm hồn em. Mỗi khi gió lay cây vườn xào xạc là em lại giật mình. Khi tụi cây đào ra hoa như trải thảm đỏ từ núi xuống bản là em khắc khoải, dày vò. Trong em như thể có hai con người. Em nhớ anh trong vắt, tinh khôi, nhưng em lại mong anh hãy đừng vội về nhà. Em lo anh nhìn thấy em tàn phế như thế này...
Chiều nay mé anh bảo, tết này sang bên nhà anh cùng gói bánh đón xuân về, em vui đến nỗi mắt chảy nước không thôi. Mé anh bảo, mày khóc làm gì, cái mắt người đi xa không nhìn thấy. Nếu nước mắt kéo được chân thằng Ngún về thì tốt biết mấy. Nói thế rồi mắt mé anh ngấn đỏ, nhìn phía trời xa có tụi mây lũ lượt kéo nhau bay đi.
5.
Trời đêm trôi về gần sáng. Em bó gối qua đêm bên bếp lửa mà không chợp mắt. Lửa vẫn ngun ngún liếm gốc củi. Từng cơn gió bấc từ núi chạy xuống bản, chui qua khe liếp, đổ tràn vào bếp vuông trên nhà sàn, kéo ngọn lửa đổ nghiêng, đổ ngả, cuốn theo những đốm đỏ nhảy nhót giữa gian nhà trống trải.
Kìa! Mắt em không tin nổi, quầng sáng từ đôi chó đá ngoài cổng như có phép lạ. Chúng tưng bừng tỏa sáng để tụi sương nhảy nhót vũ điệu hoang dã, kết nối thành muôn vàn những bông hoa đào rực rỡ, kéo tụi chim rừng ngân vang giọng hót gọi ban mai, trôi trong tiếng reo vui của lá rừng xôn xao, cùng nhịp chân gấp gáp, chắc nịch của người đi xa trở về bản đón xuân sang.
Bùi Thị Như Lan
****
30 - Vòng Hoa Tang
Lê Vĩnh Hòa
Người lớn kêu nó là thằng Tây Say, còn trẻ nhỏ chúng tôi kêu nó là thằng Ðá, bởi vì tên nó là Pierre, người luôn luôn nặc hơi rượu.
Pierre Maurice trên 30 tuổi, hình thù dữ tợn trông phát tởm. Tóc nó vàng cháy, bú xù như một đống giẻ rách nát. Cả cái mặt chỉ thấy râu là râu. Râu xồm xàm khắp hai bên má, dưới cằm, tràn lan hai bên mép chỉ còn để lộ ra một cái lỗ mũi to lớn cao nhồng và hai tròng mắt đục ngầu màu sữa lỏng. Người nó cao lớn dình dàng, tôi chỉ đứng cỡ ngang hông.
Lông lá ở khắp ngực, bụng, tay, chưn của nó rậm như cỏ mọc trong vườn hoang Nghe người ta nói dân Tây ăn ở vệ sinh ra làm sao không biết, chớ như thằng Tây Ðá chắc khó có người Việt Nam nào ở dơ qua mặt nó nổi. Bộ đồ nhà binh của nó chắc đã cả năm không giặt một lần, lên nước đen hù, đất đóng dày như mo. Tay chưn nó hờm đóng cả lớp. Ðứng gần nó thiệt muốn bịt lỗ mũi.
Nhưng nói cho ngay, chưa ai từng bịt lỗ mũi trước mặt nó bao giờ trừ những kẻ không thích sống, bởi vì nó là thằng xếp bót tàn nhẫn nổi danh. Không say thì còn khá, say rượu rồi thì nó cũng say luôn máu người. Có máu nó mới vui. Xẻo một cái mũi, lắt một cái tai, lột trần truồng người ta cho kiến lửa cắn, vân vân ... đối với nó là một thú tiêu khiển thích thú. Bàn tay của nó đã vấy không biết là bao nhiêu máu của dân lành.
Mỗi buổi chiều, khi kèn giới nghiêm trên vọng canh sắp trổi, nó từ quán chú Xiếu trở về, đi xà nịch xà nang muốn chật đường lộ, lưỡi lê xệ xuống gần tới đầu gối. Ðường xá vắng hoe, cửa nẻo đóng chặt, chó mèo im hơi lặng tiếng. Nó nói ba xí ba tú, bước tới hai bước, bước lui một bước, quát tháo vang lừng. Có khi đương cười hô hố như chó sủa, nó vụt a lại ôm gốc cây, khóc hu hu như ông cha mồ tổ nó chết. Những giờ phút đó, sinh hoạt của mọi người, từ chợ tới bót gần như ngưng hẳn.
Hôm đó, sau buổi học chiều, tôi đang bồng em chơi trước ngõ, thì Tây Say tới. Cỡ nầy là nó mới bắt đầu đi lại quán chú Xiếu đây, người còn tỉnh táo. Không hiểu sao, khi qua ngõ tôi, nó đi chậm lại, mắt chăm chăm nhìn vào chúng tôi rồi nó đứng hẳn lại, đưa tay búng chóc chóc:
- Nhỏ !
Tôi hơi sợ nhưng vẫn riu ríu bước. Khi tôi đã tới gần, nó vẫn không làm gì cả. Nó đứng nhìn trân trối đứa em nhỏ mà tôi đang bồng trên tay. Qua giây phút đó, tôi bỗng bắt chợt được thái độ lạ lùng mà xưa nay hắn chưa từng có: đôi
mắt hắn lờ đờ hẳn đi, u ám như một buổi chiều mất nắng, gương mặt hắn trở nên phờ phạc và môi hắn hơi run. Trước mắt tôi, Tây Say không còn vẻ hung dữ độc ác nữa. Hắn chỉ là một con người như mọi người.
Hắn đưa bàn tay khổng lồ đầy lông lá ra, nhẹ nhàng xoa xoa trên bàn chưn nhỏ nhắn của em tôi. Thằng bé sợ quá úp mặt vào ngực tôi mà khóc hét lên. Tây Say rút tay lại, nuốt nước miếng. Vẻ khát khao, thèm thuồng tình cảm hiện rõ trên đôi mắt long lanh của hắn. Tôi thấy tội nghiệp cho hắn quá, nhưng phải bồng em đi chỗ khác dỗ. Tây Say chạy theo hỏi bằng tiếng Pháp:
- Em mầy hả ?
Tôi đáp bập bẹ:
- Vâng, em tôi.
Hắn vừa nói vừa ra cử chỉ cho tôi hiểu:
- Ồ ! Em mầy ! Tao thương nó lắm. Tao cũng có một đứa con nhỏ ...
- Ở đâu ?
- Ở nhà với mẹ nó. Nầy, tao thương nó lắm. Tao cũng thương em mầy nữa !
Y nói bằng môt giọng thành thật, thiết tha. Mặt y ngây ra, thờ thẫn, mắt nhìn ra xa. Tôi đứng lặng yên và em tôi vẫn giấu kín mặt, mắt nhắm híp lại. Tây Say đứng như vậy lâu lắm, mãi cho đến khi kèn giới nghiêm vang lên lảnh lót, hắn mới quay lại nắm chặt lấy bàn chưn của em tôi một lần nữa rồi cúi đầu, chậm chạp trở về đồn. Chiều hôm đó, hắn không đến quán rượu.
Chiều hôm sau và hôm sau nữa, hắn lại đến sân tôi, mỗi lần không quên cầm theo hộp sữa, một khúc bánh mì vuông hoặc mấy thẻ "chocolat" hay một nắm kẹo ngọt để cho em tôi. Và lần lần em tôi không còn sợ hắn lắm nữa. Hắn có thể ôm em tôi vào hai cánh tay lông lá của hắn. Hắn để thằng bé ngồi trên vai hắn, cho nó nắm mớ tóc hắn như nắm bờm ngựa rồi hắn chạy nhông nhổng cùng đường. Mỗi lần thằng bé thích chí cười khanh khách, đôi mắt hắn sáng lên một niềm vui man mác. Trước khi về, hắn lại để em tôi ngồi lên đầu, lên mắt hắn, rồi hun tất cả tay chân mình mẩy của thằng bé. Nhưng râu hắn nhiều quá. Em tôi lại khóc. Vài hôm sau, hàm râu kinh khủng được tẩy sạch.
Chiều chiều, quán chú Xiêu vắng được một ông khách ác ôn. Và xóm chợ tránh được những giờ phút kinh khủng. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là hắn đã hoàn toàn hết hung tợn trong những cơn say máu bất thường.
Giữa một buổi chiều xế tháng ba mà nắng trở nên gay gắt như đổ lửa vào thân thể và tâm tánh của con người thì có một loạt súng nổ vang ở đầu cầu ngang chợ.
- Ba thằng lính Tây bị bắn chết, đoạt súng ở xóm Tiều.
Tin loan trong chớp nhoáng. Thiên hạ dọn dẹp rần rần, đưa nhau chạy trốn. Súng từ bót nổ ra ầm ầm. Lê-Dương và Ma-Róc tủa ra tứ phía. Một cuộc trả thù tàn khốc hãi hùng. Bọn chúng hoàn toàn không còn là con người nữa. Ðó chỉ là bầy ác thú trong một buổi loạn rừng. Bắn sạch, phá sạch.
Bàn ghế bị quật nát, lu mái vỡ, tiếng người rú, tiếng gầm thét. Vô phước cho những kẻ chậm chơn.
Vừa bồng em, tôi chạy ra cửa sau; má tôi bị một bá súng vào cổ ngã lăn xuống bất tỉnh, thằng bé nằm sấp xuống thềm. Một tia sáng của lưỡi lê, một tia máu vọt lên giữa những chuỗi cười ghê rợn.
Khi tôi ngẩng đầu lên thì những tia nắng cuối cùng của một ngày tàn chỉ còn lưu lại đôi vệt yếu ớt trên các đọt cau đầu làng.
Tôi đã khóc bao lâu, tôi đã nói những lời gì trước ngôi mộ nhỏ bé ẩm ướt còn mới tinh nầy, tôi không rõ. Bụng đói, cổ khô, miệng đắng, và khắp mình đầy bụi trắng lẫn sình đen.
Ðứa em bé nhỏ xinh xắn của tôi không còn nữa ! Con chim sơn ca nhí nhảnh của tôi đã mất rồi ! Trời ơi ! Ðó là sự thật hay sao ? Ðó không phải là một cơn ác mộng hay sao ? Còn gì mà ngờ nữa: rõ ràng là bây giờ nó đã nằm yên dưới lòng đất, nép thân trong chiếc áo quan ghép lại bằng ba mảnh ván ngựa, sau hè.
Em bé của tôi ơi ! Nếu quả có một đấng Thượng đế, nếu quả có một đấng Thượng đế, nếu quả như có một vị tối cao tối linh, toàn thiện, toàn năng để xử công tội cho muôn loài thì đấng ấy quả có một sơ sót lớn lao đối với cái chết của em tôi ... Anh chứng cho em rằng: Em vô tội !
Chiều nay, anh đi học về đây! Không còn bóng em chập chững trước cửa đón anh, ôm lấy cổ anh, hôn trên má anh, líu lo ríu rít để cho anh siết bé vào lòng.
Trời ơi! Có thể nào tưởng tượng được có kẻ đang tâm đưa lưỡi lê vào ngực em, như kẻ vui chưn xéo nát cánh hoa trên một khúc đường ?
Tôi nghiến răng đứng phắt dậy. Lạ chưa ? Tây Say đã đến đây tự bao giờ, im lìm quì nghiêng trước mộ. Một vòng hoa tang kết bằng những vòng hoa dại:
hai nhánh dừa tây, mấy bông dành-dành trắng, một hoa hồng hé nụ và một miếng băng đen để ngay ngắn bên mồ.
- Tây Say ! bè lũ của mầy đã giết em tao ! Cút đi !
Tôi khinh bỉ quát lên, rồi sông vào đánh đá túi bụi. Tôi không còn sợ hãi nữa. Tôi vừa thoi vào mặt, vào mũi, vào tai nó, vừa nguyền rủa :
- Đồ tồi ! Mầy giết chết em tao.
Nó không tránh, không đỡ. Nhưng khi tôi vất phải mô đá, té nhủi xuống đất thì nghe có một tiếng nấc nghẹn ngào. Tây Say hai tay ôm mặt, gục đầu xuống mồ, khóc nức nở, toàn thân run rẩy. Mớ tóc vàng hoe hỗn loạn bê bết những bùn đen.
- Trời ơi ! Tôi đã giết đứa nhỏ ư ?
Tiếng rền rĩ của y lạc lõng giữa bóng tối chập choạng của buổi chiều. Tôi đứng dậy lặng yên.
Đêm buông xuống bao la. Tiếng kèn " lập binh" ngân dài áo não. Xóm thôn lạnh lẽo đau buồn. Xa xăm, lửa hực chưn trời một màu tang tóc.
Sương đã thấm ướt hai vai, tôi vẫn còn đứng lặng. Một bàn tay to lớn kéo sát tôi vào lòng và áp tôi vào ngực. Tôi nghe bên tai có những lời van lơn mà tôi không hiểu hết nhưng tôi biết rõ rằng : đứng trước ngôi mộ nầy, giờ đây không phải chỉ có riêng tôi là người đau khổ.
Người lính viễn chinh năm cũ ! Giờ đây mỗi lần nhìn thấy một lưỡi lê tuốt sáng, tôi lại nhớ đến anh. Anh hãy yên tâm, tôi đã tha thứ cho anh rồi !
Ngày nay đã lớn, tôi có thể hiểu được thêm rằng : bên kia bờ Đại tây dương bát ngát, tôi có những người bạn thân thiết chân thành.
Tôi biết ơn Jean-Jacques Rousseau, Montesquieu: những người cha đẻ của Bình đẳng, Tự do và Bác ái.
Tôi biết ơn những người vì nền hoà bình của hai dân tộc mà phải chịu khổ ải tù đày.
Với các anh, tôi biết rằng cũng như mọi con người, khi quả tim còn đập, máu còn chảy là tình nhân ái chưa chết hẳn trong lòng.
Tôi cầu nguyện cho anh đây, Maurice Pierre ! Nếu hôm nay, con anh bên bờ sông Seine chưa được thấy mặt anh, nét núi rừng Đông Dương chưa vùi lấp thân anh, nếu giờ đây, anh còn đương ghìm súng dấn thân giữa miền Constantine máu lửa ngất trời, thì tôi xin anh; tôi mong rằng anh sẽ không bao giờ phải đặt lại một lần nữa vòng hoa tang lên mộ ai như anh đã đặt nó lên mộ đứa em yêu dấu của tôi trong một buổi chiều nào.
Lê Vĩnh Hòa
***
29
Tiếng Hát Quê Hương
Hàn Sĩ
Tuy sống xa quê hương đã hơn một phần tư thế kỷ, bác tám vẫn còn theo nếp.
sống của người nhà quê miền Nam, buổi sáng thức dậy từ năm giờ, pha một bình trà uống cho ấm bụng. Tháng giêng ở Montréal, trời mùa đông lạnh giá buốt, bên ngoài tuyết phủ trắng xóa. Đường phố im lìm vắng vẻ dường như còn say sưa trong giấc ngủ. Chỉ có bác tám một mình một bóng bình thản ngồi uống trà, nhấp từng hớp trà thơm, thả hồn về quê của bác cách xa nửa vòng trái đất.
Bác tám sanh ra ở Cái Mơn, làng Vĩnh thành tỉnh Bến tre. Cái Mơn nổi tiếng là có sầu riêng ngon, thơm và những cô gái đẹp nhứt tỉnh. Cái Mơn cũng là quê của nhà học giả Petrus Trương vĩnh Ký. Sầu riêng cùng với chôm chôm, măng cụt, bòn bon...là những loại trái cây mà ông Petrus Ký đã mang giống về để trồng từ các nước gọi là miền dưới như Mã lai, Nam Dương, Phi luật tân. Vào giữa thế kỷ thứ 19, từ năm lên 15 tuổi, ông Petrus Ký được các ông cố đạo dạy dỗ, cho xuất dương du học tại Pénang nước Mã lai.. Ông là một nhà ngôn ngữ học. Ông đã soạn ra tự điển Việt-Pháp và có công phổ biến chữ quốc ngữ, khai đường mở lối cho sự phát triển của nền văn hóa Việt Nam. Ông Petrus Ký cũng là một sử gia. Ông là tác giả của nhiều bộ sách về lịch sử Việt Nam.
Thời thơ ấu, bác tám là một cậu bé "lí lắc" thường rủ bạn bè đi bắt chuột đồng làm thịt, ướp ngũ vị hương, rô ti hoặc theo các tay nhà nghề đi bắt rắn hổ về bán cho các bợm nhậu. Ban đêm còn có thú giăng lưới bắt dơi quạ về nấu cháo đậu xanh. Làng của bác tám còn có một trò chơi lý thú là "bắn giàng". Những người khá giả trong làng dùng một cây cung bằng gỗ mun để bắn bia với những viên đạn làm bằng ngà voi. Bia là một tấm thiếc, ở giữa có xoi một lỗ vừa đủ cho viên đạn xuyên qua được. Phiá sau tấm bia là một cái trống. Phải nhắm bắn sao cho viên đạn xuyên qua và trúng được cái trống. Có nhiều lần, cậu tám "lí lắc" bắn trúng, kêu lên một tiếng "thùng", được bà con cô bác vỗ tay khen rùm trời.
Cậu tám "lý lắc" còn nổi tiếng một thời với lối giã gạo tại Cái mơn gọi là "giã trổ", là giã gạo chày ba (ba người) có nhịp. Tiếng gõ nhịp nhàng trên cối nghe rất vui tai trong những đêm trăng thanh gió mát.
Sau khi học xong trung học, thời thế đưa đẩy bác tám vào làm việc văn phòng cho một hãng tư tại Sài gòn. Năm năm sau, bác tám được tuyển vào làm kế toán tại Bộ Ngoại giao Việt Nam, Nhiệm sở cuối cùng là Tòa Đại sứ VNCH tại Paris cho đến ngày 30 tháng tư năm 1975 ,lúc chính quyền quốc gia VN tan rã, bác tám đang làm việc ở Tòa Đại sứ VNCH tại Paris (Pháp).
Vì đã chán nghề "cạo giấy", bác tám quyết định từ nay kiếm sống bằng sức lao động tay chân. Bác tám chọn nghề lái ta-xi để kiếm sống và nuôi gia đình,vợ và hai con. Trong thời gian đầu, bác tám rất là bỡ ngỡ. Thành phố Paris quá rộng, lại có nhiều dọc ngang chi chit, phải khó khăn lắm lắm bác mới đưa khách đến nơi đến chốn. Mỗi lần nhận được tiền của khách, bác cảm thấy phấn khởi và quên đi mọi nỗi nhọc nhằn. Bác tám nghĩ đến vợ và hai đứa con thơ dại đang còn nhờ sự che chở bao bọc của mình. Về hai đứa con trai của bác, ngoài việc lo lắng đầy đủ cho con đi học, bác tám còn nghĩ xa hơn. Bác sợ đến lúc chúng trưởng thành mà còn ở trên đất Pháp, chúng sẽ bị động viên vào quân đội Pháp. Đó là điều mà bác muốn tránh. Trong một dịp đi thăm người bạn ở Montréal Canada, bác nghĩ ngay đến việc đưa gia đình sang định cư tại Canada để tránh vụ động viên cho các con vì Canada không có chế độ nầy.
Việc giáo dục con cái từ nay là mối quan tâm hàng đầu của bác tám. Tuy vì hoàn cảnh phải tha hương sống nơi xứ người nhưng lúc nào bác cũng hướng về quê cha đất tổ. Bác tạo môi trường cho hai con sống theo nền nếp của một gia đình Việt Nam không quên cội quên nguồn. Trong nhà bác, bàn thờ tổ tiên chiếm một vị trí quan trọng, có đầy đủ hoa quả, khói hương trong những ngày giổ, ngày Tết. Bác dạy các con nói và viết tiếng Việt, luôn luôn nhắc nhở cho chúng biết về dân tộc, về lich sử nước Việt Nam. Ngay từ lúc mới đến Montréal, mỗi kỳ nghỉ hè, hai anh em Tấn, Phát, con của bác tám, đều đi học tiếng Việt ở chùa Quan Âm. Chúng còn tham dự các lớp " Quê hương mến yêu" của Cơ sở khuyến học và Phát huy văn hóa VN để học hỏi thêm về lịch sử và văn hóa VN. Bác tám quyết noi gương của nhà bác học Petrus Ký trong đời sống lúc nào cũng noi theo câu châm ngôn la tinh "Sic Vos Non Vobis" (Ở với họ mà không theo họ) . Ông Petrus Ký ở với Tây mà không theo Tây, sống theo đạo đức Việt Nam, suốt đời phục vụ cho đất nước, cho văn hóa VN. Khi nhà bác học mất, cụ Trần khánh Chiếu, thủ lãnh Phong trào yêu nước Minh Tân đã cùng thân hào nhân sĩ miền Nam quyên tiền xây dựng tượng và tôn xưng là "Ông Thầy đạo lý của Nam kỳ".
Bác tám quyết tâm noi theo gương của bậc tiền nhân, không bao giờ quên cội quên nguồn.
Lúc về già, bác tám thường tụ tập tại nhà với bạn bè ca hát, cùng nhau hát lên những bài đượm thắm tình quê hương dân tộc của thời VNCH trước năm 1975.
Bác tám siêng năng tập dượt nên giọng hát ngày càng dịu dàng, gây nên sự cảm xúc. Bác thuộc nằm lòng trên hai mươi bài hát loại trử tình như "Đường xưa lối cũ, Nắng đẹp miền Nam, Những con đường Việt Nam, Việt Nam Việt Nam, Hè về, Thành phố buồn ,Nổi buồn hoa phượng, vv...".
Bạn bè đặt cho bác biệt danh là "Tiếng hát quê hương".
***
Bác tám vừa mới mất sau khi bị vấp ngã vào một đêm tối trời. Bác "ra đi" một cách bất ngờ. Một tháng trước đây, bác còn tham gia chuyến du ngoạn ở một nông trại với anh em, ca hát vui vẻ trên đường về.
Để tõ lòng thương tiếc và tưởng nhớ "Tiếng hát quê hương", những người bạn hữu đã từng vui sống với bác tám tổ chức bên cạnh quan tài của bác một buổi họp mặt cuối cùng, hát lên những bài ca đượm thắm tình quê hương mà bác yêu thích.
Một mảnh đời lưu lạc đã vội vàng khuất bóng nhưng giọng nói chất phác, lời ca dịu dàng gợi lên tình tự quê hương dân tộc còn văng vẳng đâu đây !
Tiếng hát quê hương
Lặng lẽ anh đi, bỏ chốn nầy.
Còn vui sao lại vội chia tay?
Lời ca vương vấn tình non nước
Tiếng hát đầy vơi nỗi đắng cay!
Kiếp sống cơ hàn không khuất phục
Đường đời khúc khuỷu há lung lay!
Phong trần rũ sạch, anh từ biệt,
Bằng hữu còn đây, thương tiếc thay!
Hàn sĩ
(Những mảnh đời lưu lạc)
***
28
Mặt Trái Cuộc Đời
Hai Hùng
Sáng nay thức dậy như mọi khi hắn thấy mình không phải nằm trên cái giường nệm êm ấm của mình nữa, cái băng ca bằng inox lạnh ngắt truyền hơi lạnh khắp người khiến hắn rùng mình, đã vậy ai chơi ác mở cái máy lạnh chạy hết công suất hơi lạnh phun ra phà phà từ cánh quạt nâng lên hạ xuống liên tục, màn sương mờ ảo bao quanh khắp căn phòng, một cảm giác sợ sệt tột cùng đang bao trùm tâm trí hắn.
***
Đưa mắt nhìn quanh căn phòng, cũng có nhiều người như hắn nằm đây, người thì rên rỉ vì đau bịnh gì đó, kẻ gào thét với thân hình băng bột khắp nơi như một xác ướp thời ai cập, cũng có người dựa lưng vào tường đứng trầm ngâm nhìn mọi người với đôi mắt lạc thần, rồi bổng nhiên cách của phòng xịt mở ánh sáng bên ngoài ùa vào khiến mắt hắn bị chói, chưa kịp nhìn ra ai đã vào căn phòng này thì hắn nghe tiếng của ai đó vang lên:
-Cha nội này uống rượu say mèm lái xe tông vô con lươn ngoài xa lộ nè, thôi vô đây "Nhập hộ khẩu" với mấy người ở đây đi, chờ thủ tục rồi về dưới đầu thai kiếp khác nha cha nội, thiệt là khổ đã nói rồi "Đã uống rượu bia thì đừng lái xe" mà có cha nào chịu nghe đâu.
Nghe đến đây hắn mới biết mình đang ở trong nhà xác, hắn tự hỏi:
"như vậy mình đã Chết thật rồi sao, mà tại sao mình chết, vậy là cha nội bác Sĩ ở bệnh viện "Trần Diêu" chẩn đoán khi mình tầm soát sức khỏe tổng quát mới hôm qua, lão ta phán mình sức khỏe tuyệt vời, với sức khỏe này thì mình sống thọ lắm, vậy mà hôm nay như vầy, đúng là tay bác sĩ này xạo thấy bà cố".
Dòng suy nghĩ của hắn bị cắt đứt đột ngột do cánh cửa nhà xác bị đóng lại, tâm trạng buồn rầu chưa dứt thì hắn nghe tiếng một giọng nữ trẻ nói:
-Thôi anh ơi! Ai cũng có số phần hết hơi đâu mà buồn, ông bà mình nói chết trước được mồ mả, xuống dưới nếu hiền lành thì mình trở lại dương trần nhiều khi còn sướng hơn kiếp này đó anh.
Hắn quay lại nhìn cô gái mới đưa ra lời an ủi mình, thật ấm lòng khi hắn nhìn thấy cô gái trẻ thật đẹp, nàng ta duyên dáng trong bộ đồ bó sát thân người trông thật hấp dẫn, qua một hồi tâm sự hắn mới biết cô nàng mới "Nhập hộ khẩu" sáng nay giống như mình, rồi cái cảm giác buồn bã khi biết mình vừa từ giã trần gian không còn nữa, vì ít ra trên đường xuống suối vàng của hắn có cô nàng đáng yêu đi cùng .
Đang có cảm giác đê mê vì cô nàng nọ có cảm tình với mình qua những tâm sự khi nãy, cái không khí bình yên bị phá vỡ khi cánh cửa nhà xác lần nữa được mở tung ra, hắn nghe tiếng nhân viên giữ nhà xác đọc tên mình:
- Người nhà của Chu A Mùi đâu, vô nhìn kỹ mặt coi đúng ổng hông nha, "hàng" giao rồi không được đổi trả lại nha.
Hắn thấy người vợ trẻ của mình với gương mặt đầm đìa nước mắt nói với cha nội gác nhà xác:
-Dạ đúng ảnh rồi, anh cho ra xe nhẹ nhẹ tay kẻo anh đau tội nghiệp.
Nghe đối thoại của, bà xã mình với tay giữ nhà xác hắn nói lầm bầm trong miệng:
-Mẹ tổ nó tui vậy mà nó cho là hàng hóa, làm như buôn bán gì đó, con người chớ đâu phải cái Ti vi, cái máy giặt đâu mà làm khó dữ vậy, nếu có lựa,chọn tao kiếm nhà xác khác có khi họ ăn nói và hành xử đàng hoàng hơn tay này.
Và khi nghe câu nói của vợ mình, cô ta kêu nhẹ tay cẩn thận kẻo mình đau, hắn lại nói thầm:
- Chèn ơi ! Phải chi hàng ngày em nói lời dịu ngọt như vầy thì anh suốt đời làm thân trâu ngựa ra để phục vụ các thứ cho bà xã từ vật chất lẫn tinh thần chứ anh đâu mất thời gian la cà ngoài quán tiệm nhậu đến khuya khoắc mới mò về nhà, thôi thì vậy cũng được rồi, ít ra anh ra đi em mới thấy đó là sự mất mát không gì bù đắp được.
Đang suy nghĩ nhiều chuyện khác nữa, thì hắn thấy hai tay mặt mày bậm trợn lại khiêng cái xác của mình bỏ vô cái áo quan mỏng dính nhẹ hều ( bởi khai thác cây rừng nhiều quá, giờ gỗ là mặt hàng quý hiếm, giá cả tăng vọt từng ngày, để tiết kiệm và có lời nhiều họ làm cái áo quan mỏng mỏng cho tiết kiệm, vì cùng lắm một hai bữa thì "cát bụi sẽ trở về cát bụi" mà thôi, có điều phải chi bớt tiền tống táng lại cho người ta thì đỡ biết mấy)
Hai tay này khiêng hắn lên rồi thả vô cái áo quan, cô vợ thân yêu lấy hết can đảm đến gần chỉ chỏ sửa lại dáng nằm sao cho hắn được êm ái khi trên đường về với "Cửu tuyền", hai tay này vui vẻ làm theo yêu cầu của gia chủ nhưng kèm theo lời nói ngọt như mía lùi:
- Tụi em sẽ làm kỹ lưỡng cho ông anh mình bà chị đừng có lo, em lót vô này loại trà thượng hảo hạng bên tàu nhập cảng qua đó, trà "Thái Đức" đó nghe bà chị, hồi trước bảy lăm trà này dùng cho các nhà quyền quý mới có uống còn dân dả thì làm sao có mà uống, trà này thơm lắm bà chị yên chí ông anh ở trong đó cũng khoái ngất ngây con tàu đi luôn, chút nữa chị nhớ "Bồi dưỡng" hai thằng em kha,khá một chút là ok rồi chị.
Hắn thấy hai thằng này làm hơi lố, cùng lắm họ chèn xác mình bằng ba cái cọng rơm quấn trong giấy nhật trình, còn trà thì loại trà cám, trà cẳng đen thời "Bao cấp" xếp hàng cả buổi mới được một trăm gờ ram đem về uống chát ngầm, dễ gì có trà thơm Thái Đức, có chăng trà "Thức đái" thì họa may, thế là hắn ta gian nỗi sùng định dùng sức mạnh "Thần lực" đang có nhát tụi này một phen cho bỏ ghét, nghĩ là làm hắn lại thổi hơi thật mạnh lên mái tóc bồng bềnh của mình khiến tóc lung lay nhè nhẹ, cái thằng đang chèn cái đầu của hắn cho khỏi lắc lư khi di chuyển nhận ra điều này, tên nọ rợn tóc gáy miệng niệm phật lia lịa, niệm phật xong y còn vái người vừa nằm xuống đừng hù dọa để cho y làm xong phận sự rồi y cúng tạ ơn.
Hắn thấy gương mặt tái méc của thằng nọ khiến hắn cười lên nắc nẻ, cô gái đẹp nọ thấy vậy chạy lại âu yếm nắm bàn tay hắn rồi cô can ngăn:
- Anh Mùi ơi, thôi bỏ qua đi anh, làm vậy đủ rồi anh "mạnh tay" quá lỡ họ đứng tim chết thì anh mang tội ngộ sát đó.
Nghe cô gái mới quen khuyên bảo mình, và hơn hết là mùi hương tóc của cô gái tỏa ra thơm ngát, mùi dầu gội đầu còn lưu lại trên tóc nàng sao mà nó thím ngào ngạt, chẳng lẽ nào nàng dùng đúng loại dầu gội đầu mà tập đoàn của,mình sản xuất và quảng cáo ra rả hàng ngày trên vô tuyến truyền hình, bất chợt nhớ lại cô nàng đang siết chặt bàn tay của mình, hắn nhìn sang cô vợ đang đầm đìa nước mắt, dường như sợ cô vợ bắt gặp hắn muốn rút tay lại và đưa ánh mắt ngầm nói với cô tiên nữ coi chừng vợ hắn nhìn thấy.
Đã không rút tay lại mà cô gái lại nắm thật chặt và nói lớn như muốn cho cả phòng nghe:
-Anh Mùi ơi ! Loan mến anh từ cái nhìn đầu tiên, chắc ông trời sắp đặt cho mình "ra đi" cùng ngày, vợ anh và mấy người kia không thấy gì đâu anh đừng có lo chi cho mệt, lại đây với em nè.
Chưa kịp phản ứng với Loan hắn thấy hai tay nọ đóng nắp quan tài rồi đóng đinh chan chát vô để niêm phong lại, một cảm giác buồn bã lại dâng trào, hắn lại tiếc rẽ những khoảng tiền mình đã bỏ ra để làm đẹp cho thân xác mình giờ đành bỏ đi, tiếc nhất là hàm răng cấy chân trụ bằng inox cao cấp rồi trồng răng sứ thượng hạng hết gần cả trăm triệu, vậy mà hắn lại toan tính với thân mẫu già nua của mình từng hộp sữa Ensure bán ngoài chợ, miếng ngon thỉnh thoảng hắn cũng mua cho mẹ nhưng số lượng có hạn, nhưng hắn nào có biết mẹ hắn đâu cần ăn "Khô lân chả phụng", điều bà cần nhất là bận việc gì thì cũng nên về thăm mẹ thường xuyên, bà sống còn bao lâu nữa, bao nhiêu sức lực dốc hết cho cả bầy con, vậy đó giờ đây chữ hiếu chưa tròn mà hắn đi "Thăm ông bà" trước mẹ mình rồi, hắn nghĩ cảnh "Tre khóc măng" ôi đau tủi nào hơn.
Cái áo quan chứa thân xác phàm tục của hắn nằn gọn trong lòng chiếc xe chuyên phục vụ tang lễ, vợ con lần lượt chui vô xe ngồi dọc hai bên quan tài, hắn cũng leo lên xe ngồi cạnh bên vợ của mình mà cô nàng nào hay biết, cô nàng Loan thấy xe sắp đóng cửa lại cô cũng tranh thủ nhảy tót lên xe ngồi phía bên kia cạnh hắn, giờ thì hắn có ca bài "Đời tôi cô đơn hai tay nắm hai cô" thì cũng chẳng ai biết, hắn cảm thấy hạnh phúc vô cùng vì âm dương bên nào ai cũng nặng tình với mình..
Xe chạy vừa cổng bịnh viện, cái tu huýt từ miệng cha nội đen sì đang gác cổng thổi vang lên, ông ta cầm cây ma trắc đến bên tài xế cất tiếng hỏi trỏng:
-Giấu tờ đâu, chở hàng về tận đâu?
Tay tài xế cười cầu tài với tay gác cổng rồi nhanh nhẹn trao cái giấy chứng tử, rồi giấy cho phép chở quan tài về quê quán của người đã lìa đời, nhíu mày nhăn mặt một hồi rồi làm như còn thiếu thủ tục nào đó nên lão cứ hỏi han hoạch hẹ, rốt cuộc hắn cũng cho xe ra khỏi bệnh viện sau khi vợ Mùi đưa,tờ giấy bạc mới tinh cho lão đút vô túi, vừa mở cái cổng lão còn chúc một câu lấy lệ:
- Chúc cả nhà mình thượng lộ bình an.
Ngồi trên xe thấy hết cảnh khó dễ của lão gác cổng, Mùi giận run cũng vì cái xác của mình mà bị khó dễ đủ thứ, lúc này hắn nghĩ:
"phải chi vừa dứt hơi thở thì cái xác kia tự tan rã thấm xuống lòng đất cho xong một kiếp người, có đâu đã chết rồi mà không yên thân"
Quá uất ức hắn gào lên khiến cô Loan giật bắn người , cô cũng quên hẳn thân phận mình đã lìa dương thế nên lấy tay bịt miệng Mùi lại, chừng cả hai nhớ lại thân phận hiện thời của cả hai nên họ cười thả ga không sợ phiền hà ai hết.
Đường về nhà hắn thật gian nan, nhà ở khu đất sâu bên trong xóm ruộng, vợ hắn phải nhờ lối xóm phụ một tay khiêng cái quan tài băng qua vài con đê mới vô được sân nhà, nhìn thấy mọi việc chuẩn bị đón hắn về đất mẹ tươm tất vô cùng, bà con xóm làng hay tin hắn về cũng tề tựu đông đủ, mấy đứa nhỏ nghe tin hắn chết cũng hiếu kỳ kéo đến xem rất đông, vài chiếc đèn "măng xông" được thắp sáng lên treo lủng lẳng, ánh sáng đèn làm tăng thêm phần ấm cúng trong đêm, sau hồi kinh kệ của mấy ông thầy tụng, rồi đến phần bà con lối xóm đến viếng thăm. Người nhào vô đốt nhang cho hắn là thằng Tám Cò bạn chơi nhau từ nhỏ, nhưng lớn lên trong lúc thù tạc đôi lúc hai bên lời qua tiếng lại "Chỏi nhau", không biết có phải hối hận gì đó nên Tám Cò nhanh chân đến chuộc lỗi.
Đứng trước linh cửu bạn hiền, Tám Cò khấn vái:
-Mùi ơi, nay tao tới đốt nhang mầy nè thằng quỷ, tao nhớ còn thiếu mầy lúc bắn đạn cu li hồi nhỏ chừng năm cắc, rồi lớn lên nhậu xỉn tao có nói "xóc óc" mầy nhiều bận, thôi bỏ qua cho tao nhe.
Ngồi kế cô Loan nghe thằng bạn nói lời chí tình, Mùi cảm động nói với cô Loan:
-Đó bạn anh đó, thấy thương nó ghê chưa. Anh tha cho nó nhưng nó thiếu anh một đồng lận, thằng này hồi nhỏ chơi cũng ăn gian tổ mẹ chứ chẳng hiền gì .
Thiên hạ thi nhau vô đốt nhang, phúng điếu, có ông nọ ăn mặc bệ vệ chắc cũng chức sắc làng xã ghé vô viếng, nhìn kỹ mặt tay này giám đốc một hảng xuất nhập cảng ở tỉnh nhà, ông ta là đối thủ cạnh tranh với công ty của Mùi, ông đưa ra chiêu cạnh tranh mờ ám khiến công ty của nhà Mùi dần lụn bại thiếu điều muốn phá sản, vậy mà hôm nay ông cũng ghe lại viếng Mùi chắc câu "Nghĩa tử là nghĩa tận" được ông áp dụng theo dân gian truyền miệng chăng, trước khi đấm khấn vái trước vong linh của Mùi ông đã ngồi cạnh vợ hắn để phân trần thiệt hơn trong làm ăn, ý ông giải thích không phải ông muốn "lấy thịt đè người" nhằm để triệt hạ công ty của Mùi, mà do điều kiện thị trường đòi hỏi ai nhanh nhạy sẽ chiếm được phần thắng.
Nghe ông ta phân bua Mùi tức lộn ruột lộn gan, không ngờ ông nội này tráo trở vô cùng, đã vậy còn bày đặt mèo khóc chuột đêm nay, Mùi ước mình có phép mầu anh ta sẽ khoét hai cái lổ bên hông quan tài rồi thò tay ra vặn cổ tên này mới hả giận, nhưng ước ao thì cũng chẳng đạt được vì cáu thân vô tri vô giác còn giúp gì được cho hắn, còn hắn ngồi đây chứng kiến đám tang của mình trong tâm thế của kẻ mờ nhân ảnh, hắn cười khẻ rồi nói với cô bạn gái nơi âm phần của mình:
- Loan ơi! Em thấy không, nhờ chết rồi mình mới thấy rõ ai thương mình, ai ghét mình, ai gian dối lộ ra hết, hàng ngày mọi người sống với cái mặt nạ nhưng bên trong nhiều toan tính lọc lừa, giờ tìm người sống chân thiện mỹ như ngày xưa khó hơn mò kim đáy biển.
***
-Ông Mùi, hôm nay mắc chứng gì ngủ li bì vậy, nãy giờ chuông điện thoại cô Loan nào bên nhà in muốn tới làm việc hợp đồng ông đã bàn với cổ kìa.
Giật mình thức dậy Mùi ngỡ ngàng vô cùng, hắn mừng rơn vì mình chưa," Xí lắt léo", thì ra hôm qua tiếp khách quá khuya và bị say mèm, trong giấc ngủ Mùi mơ thấy mình không còn thấy mặt trời mọc, vậy mà mình vẫn còn sống nhăn răng, còn cô Loan cô cái đẹp trong giấc mơ lại trùng tên với cô Loan chủ nhà in quả là một giấc mơ dịu kỳ, rồi hân ngồi bật dậy vô nhà tắm làm vệ sinh, vừa đánh răng hắn vừa hát trong miệng câu :
- Vắng Loan này ta có Loan kia./.
Hai Hùng
***
27
Bộ Tam Sên
Hai Hùng
Đang cuốc đất be bờ lại cho mảnh ruộng nhà mình bổng Tư Nên nghe tiếng của Sáu Càng gọi:
- Cha chả hôm nay anh Tư mầm sớm dữ hung a, sao không kêu sấp nhỏ ở nhà ra phụ, già cả rồi đừng ráng quá anh Tư ơi, anh mần quá có ngày cụp xương sống là mệt cầm canh nghe anh.
Chống tay lên cán cuốc Tư Nên cười khì một cái khi nghe ông láng giềng quan tâm đến mình hơi quá, Tư Nên nói:
- Chú Sáu nói sao chứ tụi mình chưa đầy "Lục từng" mà già cái khỉ khô gì, bữa nọ mở đài vô tuyến truyền hình tui nghe mấy ông hội nông dân tọa đàm về sức khỏe và đời sống của nông dân mình, có ông lên ngâm hai câu thơ làm tui khoái chí lắm, vầy nè :
- Bảy mươi chưa phải là già
- Bảy mươi là tuổi mới qua dậy thì .
- Vậy đó, tui với chú thì so ra mình còn "trẻ con nhi đồng" lắm đó chú .
Nghe Tư Nên nói vậy Sáu Càng khoái chí cười khanh khách, sau tràng cười thiệt đã kia Sáu Càng lên tiếng:
- Anh Tư nói nghe có lý à nha, để tui dìa nói lại cho bà dợ tui cho bả sáng con mắt ra mới được, chứ ngày nào bà cũng "hát" hoài một bài:
- Ông Sáu nè, lúc này già cả rồi, mần cái gì cũng phải nghĩ đến gia đình con cái, ông bỏ cái tật léng phéng đi, hồi trẻ thì không nói gì, giờ già khú rồi lạng quạng thiên hạ cười cho thúi đầu luôn nghe ông .
Nghe Sáu Càng kể vậy, chẳng những Tư Nên không bênh ông láng giềng nọ mà ông còn "Đế" cho Sáu Càng thêm vố nữa :
- Thím Sáu ở bển nói dậy là trúng phóc rồi, tui cũng mến chú lắm nhưng nói thiệt (dụ) này tui (binh) chú không đặng rồi nhe, ai đời chú hết quen bà này tới bà khác, chú bay bướm còn hơn mấy tay giàu có ở Sài gòn nữa, họ tiền bạc rủng rỉnh nên họ mới đèo bồng, còn chú thì "Trên răng dưới... Dép" mà bày đặt học đòi, thím Sáu ở nhà coi (dậy) mà tốt ghê, gặp người khác chú có môn ra chuồng heo mà nằm .
Nghe "Đồng Minh" trở quẻ với mình, sượng sùng trong lòng Sáu Càng phân bua :
- Ai có muốn dậy đâu anh Tư, tại mấy bà thầy bói coi chỉ tay cho tui, bà nào cũng phán tui có số đào hoa, nên chuyện hai ba bà theo đuổi tui là chuyện bình thường, nhưng từ lúc tui quen bà bốn bên Giồng Trôm thì nó trở thành bất thường luôn, bà xã nhất quyết đòi "Xé hôn thú" làm tui năn nỉ gần chết thì bả mới cho tui vác cái xác về nhà. Sáu Càng thở dài một tiếng rồi kể tiếp :
- Anh Tư biết sao không, quê cơ nhất là cái hôm tui trở về nhà, bả chơi ác mở cuốn băng hài của Hoài Linh và Chí Tài diễn cái tiểu phẩm Ru lại câu hò, hình ảnh Chí Tài ăn mặc lôi thôi trở về sao giống y như hoàn cảnh tui lúc đó, tui chạy lại tắt phim này liền, thấy vậy bả chọt vô một câu ê ẩm cả người :
" sao rồi, nhột lắm phải hông ông, cho ông chừa cái thói trăng hoa nghe chưa".
Đang trần tình với Tư Nên, bổng dưng Sáu Càng đổi đề tài :
- Anh Tư nè, bộ "Tam sên" của anh lúc rày bộ rã đám rồi sao không thấy khắng khít như lúc trước nữa.
Tự dưng nghe Sáu Càng "quẹo cua cao bồi" nhắm đến bộ ba của mình, từ khi có phong trào "Kiều hối" của những người sinh sống ở nước ngoài gửi về cho thân nhân ở quê nhà và phong trào "Hợp tác lao động" , nên những dòng tiền của hai nguồn này đỗ về quê cho các gia đình có con em nằm trong trường hợp trên, vô tình nó lại là nguyên nhân gây ra sự hiềm khích, ganh tị lẫn nhau giữa Ba Gà với Sáu Bảnh
Sở dĩ nhóm ba người của Tư Nên cùng Ba Gà và Sáu Bảnh được mang cái biệt danh là "Bộ tam sên" mà Sáu Càng mới nhắc cho Tư Nên là được xảy ra rất ngộ nghĩnh.
Bữa nọ trong ấp Tân Phú nơi nhóm bạn bè chí cốt của Tư Nên cư ngụ, nhà Sáu Bảnh cất thêm căn nhà gỗ cho hai vợ chồng thằng con lớn ra riêng, xui cho Sáu Bảnh vì đang mùa thu hoạch lúa nên các công lao động đỗ xô ra đồng lo cho vụ mùa, chỉ còn lại một số người già và trẻ em ở nhà nên thiếu nhân công phụ cất nhà, Sáu Bảnh buồn bã bèn thả ra tiệm cà phê đầu xóm ngồi chờ thời, một là có thể gặp ai đó chịu phụ mình trong vụ cất nhà thì thuê mướn, hai là Sáu Bảnh thuộc loại bị "sâu cà Phê" hành dữ lắm, bữa nào không uống thì người dật dờ rất khó chịu vì thế không nữa nào Sáu Bảnh vắng mặt nơi tiệm cà phê này, dường như trời già cũng sắp đặt nhân duyên nên khiến sao hôm ấy Tư Nên và Ba Gà có mặt, sau một hồi tâm sự chuyện làng xóm nhà cửa ruộng vườn của nhau, Tư Nên và Ba Gà nghe Sáu Bảnh cầu cứu việc cất nhà nên hai người nhận lời ngay, coi như phụ giúp nhau trong lúc khốn khó về khía cạnh nào đó là điều tốt đẹp..
Khi mấy cây nhang đã tàn trong buổi lễ cúng khởi công xong, Sáu Bảnh bưng cái dĩa đựng " Bộ tam sên" gồm mấy con tôm càng, vài cái trứng vịt, miếng thịt heo ba rọi thật ngon đem ra cái bàn tròn đặt giữa mảnh đất dự định cất nhà, Sau Bảnh kêu con gái đem ra chai đế Gò Đen trong veo như mắt mèo mùi thơm phức, đây là loại ba xi đế chánh gốc Gò Đen do sui gia của Sáu Bảnh tự nấu nên rất ngon và không có hóa chất độc hại ẩn trong đó, bộ ba nhậu một trận tưng bừng cho đến khi ngà ngà say, bộ ba này mới bày ra cái màn " Kết nghĩa đào viên" và đặt cho nhóm có cái tên "Bộ Tam Sên", với ý nghĩa ba người gắn bó tình anh em cùng nhau lâu bền, ví như Bộ Tam sên mà thiếu một món trong ba món kể trên thì coi như không còn ý nghĩa gì hết. Chuyện đời cứ nghĩ mọi việc sẽ trơn tru tốt đẹp, và bộ Tam sên kia tưởng đâu là bạn tốt suốt đời, nhưng...
Nhà cửa cất xong con gái Sáu Bảnh được ấp chọn cho đi Hợp tác Lao động bên Nhật Bản, chưa bao giờ được đi xa, vậy mà con Hiền con Sáu Bảnh sắp có dịp kiếm tiền còn được du lịch thì còn ao ước nào hơn...
Con Gái của Ba Gà đi nước ngoài đã lâu, trước đây thỉnh thoảng gửi về một lá thư, con Thu kể lể nhớ cha mẹ, nhớ con mương bên hông nhà nhớ cây cau trước sân, dĩ nhiên có tía má mình !à vợ chồng Ba Gà. Không biết sau này tự dưng Thu gửi tiền dồn dập về cho vợ chồng Ba gà sửa sang nhà cửa thật tươm tất, cuộc sống nhà Ba Gà "dễ thở" một cách rõ ràng.
Con Hiền con Sáu Bảnh cũng đâu kém cạnh, một thời gian làm lụng khổ cực Hiền bắt đầu gửi tiền về cho cha mẹ, tuy vậy cuộc sống của nhà Sáu Bảnh không thể nào sánh bằng cuộc sống nhà Ba Gà....
Xích mích bắt đầu có nguồn cơn để hình thành, một bữa đang ngồi "Cu ki" bên ly cà phê, Sáu Bảnh buồn vô hạn, vì hôm kia thôi Sáu Bảnh ngồi đò qua sông nghe mấy bà đi chợ trò chuyện với nhau:
-Cha nội Ba Gà lúc này ngon cơm lắm nhe mấy bà, Hôm rồi cúng miễu trong xóm mình, ổng đứng ra thầu hết chi phí, mọi lần bà con còn góp vốn vô cũng kiếng, giờ thì xóm đó sướng ghê, à tui nghe nhà của ông Sáu Bảnh gì đó , có con gái mần ăn ở nước ngoài nhưng coi bộ tiền bạc không bằng nhà Ba Gà, mấy " Ổng " nghe nói chí cốt nhau lắm nghe, nhưng coi chừng ganh nhau thế nào cũng rã đám cho coi.
Sáu Bảnh mừng thầm trong bụng vì mấy "Bà tám" trên ghe không ai biết mặt mình nên họ đâu có biết Sáu Bảnh cũng đang thầm ghen tức vì điều các bà tám vừa rồi thổ lộ cho nhau.
Người ta thường nói " Oan gia ngõ hẹp" nên đang bực bội vụ Ba Gà, Sáu Bảnh ực cho xong ly cà phê vừa đứng dậy đi về, bổng Ba Gà cũng mò đến quán cà phê, gặp sáu Bảnh bà Gà vồn vã hỏi:
- Sao rồi anh Sáu, lóng rày con Hiền nghe nói gửi tiên về cho anh Khẵm lắm phải hông, hôn nay quởn nè, tụi mình qua rủ anh Tư Nên làm vài xị giải sầu chơi, lâu quá không ráp lại cũng buồn.
Nghe Ba Gà hỏi thăm vụ con Hiền, vì đang bực dọc trong bụng nên Sáu Bảnh cứ nghĩ Ba Gà chơi xỏ lá, móc lò cho mình quê chơi, Sáu Bảnh tự nhiên thấy máu nóng dồn lên đầu nên trả đùa cho bỏ ghét:
- Không dám đâu anh Ba ơi!, con Hiền nhà tui tiền bạc làm ra sao bằng con Thu con anh, nghe nói nó ăn tiền trợ cấp thất nghiệp mà lại có công việc làm hẳn hoi nên nó gửi về cho anh nhiều hơn con Hiền nhà tui là cái chắc, nhưng anh dặn con Thu cẩn thận nhe, ăn gian có ngày " phú lít" nó "Vịn" là tiêu nghe anh.
Nghe lời nói chói tai của Sáu Bảnh vừa thốt ra, Ba Gà bực dọc :
- Ai nói anh con Hiền nhà tui dậy chứ, nó có ăn tiền của chính phủ trợ cấp cái giống gì đâu, anh nghe mấy bà tám ngoài chợ đồn đãi bậy bạ không hà.
Thấy thái độ tức giận của Ba Gà, Sáu Bảnh hả hê trong bụng vì trả đũa được Ba Gà một cách đích đáng nên Sáu Bảnh cũng mát dạ, đến đây hai ông không nói với nhau lời nào nữa, chiến tranh lạnh giữa cái hột vịt và con Tôm càng của bộ Tam Sên bắt đầu, chỉ có miếng thịt heo (Tư Nên ) chưa biết điều xích mích trên.
Tuy vậy lần hồi Tư Nên cũng biết được nội tình của hai người bạn thân thiết của mình giận nhau vì chuyện không đâu, biết hai người bạn mình ai cũng là người cố chấp, muốn họ làm hòa với nhau Tư nên cảm thấy khó còn hơn tìm đường "Lên trời", qua nhiều đem tâm sự với vợ mình, bữa nọ nhân có giỗ ở nhà Tư Nên mời lối xóm có mặt đầy đủ nhưng chủ yếu là lôi cho được hai người bạn đến để có cơ hội cho họ làm lành lại với nhau.
Bàn tiệc Tư Nên ngồi kế bên là Ba Gà và Sáu Bảnh, ai nấy nói cười vui vẻ, duy chỉ có hai ông nọ là không thèm nói chuyện với ai, cư lầm lì tới tua là bưng cái ly mắt trâu rượu đế nốc ực cho xong bổn phận, khi rượu bắt đầu ngấm, chờ có vậy vì Tư Nên thấm nhuần câu tục ngữ "Rượu vào lời ra", sau vài câu chuyện vô thưởng vô phạt, Tư Nên bắt đầu ra chiêu :
- Mèn ơi ! bà Tám Hợi hôm rồi cúng động Thổ cất nhà bả không xài bộ Tam sên để cúng nữa, tui thấy vậy cũng được đa.
Ông Tư Cồ thuộc hàng bô lão trong ấp đâu có biết mánh lới của Tư Nên, vì vậy ông lên tiếng phản bác :
- Thăng Tư bây nói dậy là bậy dữ đa nghe, nào tới giờ vụ cúng đất đai nhơn trạch, ông bà mình khi cúng dứt khoát phải có bộ tam sên mới thành lễ nghe bây, ai chế bớt vụ này thì sai bét rồi đó, con mẹ Tư Hợi bậy bạ hết sức luôn bây, ý nghĩa cúng bộ tam sên là để tế cáo Trời đất sông nước thành hoàng thổ địa đó bây, tục xưa vậy mà làm, đừng có chế bậy bạ tội lỗi với trời đất nghe bây.
Tư Nên cố tình chế dầu vô lửa :
- Ông Tư ơi , con đồng ý cúng bộ Tam sên, nhưng lỡ kẹt cúng hai sên được hông ông Tư.
Biết Tư Nên đang " Thấu cáy" mình chuyện gì, ông Tư Cồ làm bộ hỏi:
- Cái thằng quỷ này, hai sên là cái giống gì tao chẳng hiểu đâu ra đâu hết, ý chú em mầy là sao, cứ nói huỵch toẹt ra đi cứ úp mở hoài.
- Con thấy nếu thiếu miếng Thịt heo thì cúng cái hột vịt với con tôm được không ông Tư, hai sên là vậy đó.
Nghe Tư Nên nói xong ông Tư Cồ cười với cái giọng sằng sặc đến độ nước mắt rị ra nơi khóe, ông Tư dụi mắt rồi nói:
- Thằng Tư mầy hôm nay nói xàm hết biết luôn nhe, cúng tế cáo mà bây giả ngộ hoài, ai đời cúng kiểu đó bao giờ, bây có cái ý gì trong này phải không?
Đến nước này Tư Nên mới kéo Ba Gà và Sáu Bảnh đứng lên thi lễ với ông Tư Cồ. Khi vái tạ người lớn tuổi với thái độ tôn kính, Tư Nên bèn nói:
- Dạ thưa ông Tư, ba đứa con là anh em kết nghĩa, tụi con ví như bộ Tam sên, con là miếng thịt heo, Ba Gà là con Tôm Càng , còn Sáu Bảnh đây là cái hột vịt, hổm rày hai cha nội này giận nhau vì cái chuyện không đâu khiến ai cũng buồn, hôm nay nhờ ông Tư cho biết ý nghĩa bộ Tam sên, và nếu thiếu một thứ trong đó coi như vô dụng.
Quay sang hai ông bạn già của mình, Tư Nên nói :
- Hai tía mần ơn hòa thuận lại giùm tui đi, mình có ba đứa mà bày đặt giận hờn chi cho tổn hao sức khỏe, cuộc đời ngắn ngủi lắm hai ông ơi!
Gương mặt Ba Gà và Sáu Bảnh thật sự xúc động, Ba Gà xoay qua ôm chầm Sáu Bảnh, Sáu Bảnh cũng ghì chặt lấy ông bạn của mình, thấy vậy ông Tư Cồ khoái trá khen :
- Chèn ơi , thằng quỷ Tư Nên này ghê thiệt bây, dám giỡn mặt với Lão Tư Cồ này hen, tao phải phạt bây mới được, cho tao ba cái ly xây chừng đi bây, phạt thằng Tư Nên ba ly một chỗ mới được
Rượu rót ra sóng sanh đầy tràn ba cái ly "xây chừng" để trước mặt Tư Nên, vừa định bưng lên uống thì có bàn tay ai giữ lại, thì ra Ba Gà ngăn lại, thấy vậy ông Tư Cồ làm bộ làm dữ :
- Ủa sao ngộ dậy cứ để thằng quỷ đó uống đi chứ.
Ba Gà nói với ông Tư Cồ :
- Thưa ông Tư, lỗi này do tụi con gây ra, bây giờ xin phép ông Tư có phạt thì Phạt nguyên bộ Tam sên đi, chứ phạt miếng thịt heo không thì tội nghiệp lắm.
Ông Tư Cồ cười giòn , ông nói :
- Chú em này thuộc bài ghê chưa, phải vậy mới đúng bộ tam sên chứ.
Ông Tư Cồ cầm cái ly mắt trâu lên hô lớn :
- Bà con ơi! Nâng ly chức mừng bộ tam sên tái hợp nhe.
Tiếng dạ rân lên, ai nấy vui mừng khi thấy tình nghĩa xóm làng của bộ Tam Sên thật sự gắn bó nhau đến cuối đời.
Viết xong 11.9.2017
***
26
Lòng Người
Hai Hùng
"Dò sông dò biển dễ dò.
Nào ai lấy thước mà đo lòng người"
(Ca dao)
Từ hôm ông Phát thôi không còn đi làm như mọi ngày nữa, do vướng vô mấy "phi vụ" làm ăn Riêng lẻ nên ông bị cấp trên cảnh cáo bắt nộp lại tiền bạc rồi cho "về vườn", tuy không còn những ngày "Lên xe xuống ngựa" và đã qua rồi cái cảnh "Nhất hô bá ứng" của ông, nhưng ông cũng chẳng lấy gì làm buồn, vì trước khi về vườn thì ông cũng đủ thời gian "thủ cẳng" cho mình một số vốn kha khá để sống cho qua những ngày tháng còn lại.
Đàn em dưới trướng nhiều đứa tỏ vẻ là người có trước có sau, ngày nào cũng có vài ba thằng đến nhà, họ mang theo rượu bia và mồi nhậu đến để giải khuây cùng ông, khỏi phải nói ông và bà Phát thấy được cái ân tình kỷ niệm của đám đệ tử ruột đối với mình không hề suy suyển nên trong một hôm ngà ngà say ông vỗ vai thằng Dũng ( một đàn em thân tính và nịnh ông rất khéo), ông Phát nói :
- Thiệt tình mà nói nghe Dũng, trong đám anh em mình bấy lâu nay đến giờ anh mới thấy chú mầy là đứa có tình có nghĩa với anh, chẳng bù những đứa ngày trước anh nâng đỡ nhiều mà giờ chẳng thấy nó vác cái mặt đến để an ủi anh, chắc bọn nó nói anh "hưu" rồi nên không còn "xơ múi" gì được nữa nên "hô biến" luôn, giá mà biết vậy ngày xưa anh chẳng cho thằng Nam làm sếp của Dũng, anh đưa Dũng lên luôn giờ có phải vui không.
Nói xong câu này ông Phát đưa mấy nhìn thằng Dũng dò xét xem thái độ nó như thế nào, nó có cảm động với câu nói ông vừa thốt ra không, phần thằng Dũng trong bụng nó nỗi Sùng khi nghe ông Phát nhắc lại việc này, vì có thời gian nó chắc mẽm chức trưởng phòng tài vụ phải nằm trong tay mình, thằng Nam so với thành tích "Điếu đóm" cho sếp làm sao qua nó cho được. Rồi Dũng âm thầm chờ đợi đến phiên họp nghe công bố quyết định, khi nghe cô trưởng phòng quản trị nhân sự xướng danh tân trưởng phòng tài vụ trong buổi họp, chức danh này đã lọt vào tay của Nam khiến mọi người trong buổi họp ngỡ ngàng vì trước buổi họp đã có cái "Ti dô" thằng Dũng sẽ là trưởng Phòng, vậy mà kết quả ngoài ý muốn của Dũng khiến nó thầm oán " ông thầy" của mình đá giò lái mình một cách đau điếng, vì trước đây trong những lần đi tiếp khách làm ăn với đơn vị, ông Phát thường hay đề cao khả năng của thằng Dũng, rồi cũng từ những buổi nhậu này Dũng bắt đầu o bế nịnh nọt ông Phát ra mặt để ngõ hầu vớ cho bằng được chức trưởng phòng cho mát mặt mát mày với vợ con và với cả những người dòng họ bên vợ, vậy mà mọi chuyện xảy ra thật bẽ bàng. Rồi hôm nay nghe câu nói của ông Phát tuy còn giận ông nhưng Dũng làm bộ ra chiều thông cảm với cái quyết định kia của ông Phát,( Dũng đâu có biết rằng sếp của mình bị sếp lớn hơn nên cất nhắc thằng Nam vì Nam là người thân thích của sếp lớn nọ), Dũng nói :
- Thôi chuyện cũ qua rồi anh Ba (Cách gọi của đám đàn em thân tính dành cho ông Phát) em thấy mình cũng chưa "đủ lông đủ cánh" để làm chức trưởng phòng đâu, có khi anh thương tình đưa em lên quá sức của em thì nhiều khi hại em không bằng, anh em mình thế này là được rồi, anh nghỉ việc nhưng tụi em vẫn quý anh như thường anh Ba ơi !
Nghe thằng đệ tử ruột cho "uống nước đường" ông Phát hả dạ vô cùng, trong bụng ông thầm nghĩ:
"Mấy tay tướng số mình nhờ xem phán trật lất hết, nhất là thầy Năm, ổng Phán thằng Dũng này có cái tướng phản phúc không đáng tin dùng, vì trước hay sau gì cũng sẽ bị nó hãm hại, mình nghỉ việc rồi mà thằng Dũng này nó không bỏ mình, đã vậy nó ăn nói thật có tình có nghĩa trước sau như một, tiếc thật phải chi.."
Đang theo đuổi cái suy nghĩ của mình thì tiếng thằng Dũng lại oang oang lên làm cắt ngang luồng suy nghĩ của ông Phát :
-Thôi anh Ba ơi, ngày trước anh chưa kịp nâng đỡ em út thì anh phải về "vui thú điền viên" rồi (nó tránh xài chữ về vườn để ông Phát khỏi phải chạm tự ái) đúng là có thiệt thòi cho em quá, nhưng không sao vì ông Tám sếp tụi em bây giờ lại là "lính lác" của anh Ba mà, nếu... nếu ...
Thằng Dũng nó cố tình bỏ ngang câu nói trên là cố ý "thả mồi câu" khiến cho ông Phát thắc mắc không hiểu Dũng nhà ta muốn đề cập vấn đề gì, ông bèn vồn vã hỏi ngay :
- Dũng nè, em nói nếu là nếu cái gì, sao nửa chừng im re vậy, có phải Dũng muốn nhờ anh ba đây giúp Dũng chuyện gì phải không?
Chờ có bấy nhiêu, thay vì thằng Dũng chộp ngay cơ hội này, nhằm mượn ông Phát " Bắt cầu" với ông Tám để nâng đỡ cho mình , nhưng sự tinh ranh ma quái là bản chất của những kẻ cơ hội đã mách bảo hắn đừng hấp tấp quá có khi lỡ việc, Dũng thản nhiên nói :
- Ấy chết, ai dám làm phiền anh Ba đâu, anh nghỉ hưu rồi thì phải cho anh vứt bỏ những vướng bận công việc quan trường hàng ngày để toàn tâm toàn ý sống với chị Ba ở nhà, em dầu có "ba đầu sáu tay" cũng chẳng dám nhờ vậy anh việc gì đâu, thôi vô trăm phần trăm với em đi anh Ba.
Ông Phát và thằng Dũng cụng ly kêu côm cốp rồi cả hai cùng nốc cạn ly bia một cách ngon ơ, dằn cái ly bia xuống bàn ông Phát vén cái vạt áo thun đang mặc trên người lên làm khăn lau bọt bia bám quanh mép miệng, rồi ông hứng khởi nói với thằng Dũng:
-Chú em mầy khỏi lo, anh là dân biết chơi biết làm mà, anh hiểu ý thằng em mầy rồi, để anh a lô ( phone) cho thằng Tám giám đốc, kỳ này anh xúi thằng Tám cho chú em mầy lên Phó giám đốc luôn, mà chú em phụ trách bộ phận của thằng Nam đó nghe, tức là chú em mầy chịu trách nhiệm giữ cái "hầu bao" của đơn vị, chức này quyền sanh sát trong tay nghe chú em, tình nghĩa nên anh mới gửi gắm nhe, bằng không chú em có lo bao nhiêu thì cũng dễ gì thực hiện được đâu.
Nghe ông Phát nói với cái giọng tha thiết chân tình, lúc này hình như ông Thiện trên vai thằng Dũng đã lấn át được ông ác nên nó cảm động thật sự, nó chồm sang ông Phát dùng hai bàn tay mình bóp chặt bàn tay của ông Phát, có lẽ vì quá hạnh phúc với điều ông Phát vừa nói với mình nên Dũng xiết quá mạnh khiến ông Phát đau điếng la oai oái :
- Ui cha đau đau anh quá, chú em mầy muốn bẽ lọi tay anh Ba hay sao vậy ?
Nghe sếp cũ của mình la làng, thằng Dũng buông tay ông Phát ra rồi nó vội vàng phân bua:
- Ấy chết, em xin lỗi anh Ba, em mừng quá nên quên, thôi để em làm nó giảm đau nhe, "thuốc" này hay lắm anh dán nó vô thì hết đau tức thì.
Nói vừa dứt lời, thằng Dũng mở khóa chiếc cặp táp mà lúc nào nó cung mang kè kè bên mình, nó lấy ra một bao lì xì loại lớn màu đỏ thắm với lớp ruột dầy cộm phía bên trong, nó "đắp" ngay vô bàn tay ông Phát, nó nhoẻn miệng cười tươi với ông Phát, nó nói:
-Anh Ba thấy em nói đúng không? Dứt cơn đau ngay thôi mà !
Phần ông Phát thật bất ngờ với " món quà" từ trên trời rơi xuống do thằng đệ tử trao cho mình, với kinh nghiệm "quan trường" bấy lâu nay ông cũng nhẩm tính được giá trị của cái phong bì "nặng nhẹ" cỡ nào, và điều bất ngờ nhất ông Phát về nghỉ hưu rồi thì cho đến khi từ giã cuộc đòi dễ gì ông còn có cơ hội được đền ơn kiểu này...
Không hiểu vì lòng tự trọng, hay ông cố tình làm "màu mè" ông Phát nắm tay thằng Dũng ông trao cái bao lì xì lại cho nó rồi ông nói:
- Chú em mầy làm cái kiểu gì vậy, anh Ba đây chưa giúp gì mà chú em mầy làm vầy coi sao được, cất lại đi anh chỉ nói giúp thôi, quà cáp làm gì anh ngại lắm.
Thấy ông Phát trả lại số tiền đền ơn trước của mình, vì chính ông Phát từng nói với Dũng :
"Chú em mầy biết không, thời nào cũng vậy, " đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn", có vậy thì công việc làm ăn mới thuận lợi khỏi sợ khó dễ gì".
Dũng tái mặt tưởng rằng sếp cũ của mình chê ít, nó lật đật trao lại cái bao lì xì cho ông Phát, rồi nó nói lí nhí chỉ vừa đủ hai người nghe:
- Cái này là tình cảm của em đối với anh bấy lâu nay thôi, chứ có phải lo lót chạy chọt gì đâu mà anh phải ngại, sau này công việc thuận lợi em sẽ gửi thêm cho anh tiêu xài, chứ tiền hưu bổng thì ít quá anh ạ, còn phần của anh Tám nếu đúng như anh nói thì em cũng phải có chút quà cáp gửi anh Tám cho vui.
Nghe Dũng nói vậy, mà ông Phát đã đoán chắc thằng lính cũ của mình phải nói câu này thôi, nên ông cất vội cái bao lì xì vào túi quần, rồi với cái vẻ mặt đầy hân hoan ông Phát cầm ly bia lên cụng Ly với Dũng lần nữa , cả hai hớp cạn không còn một giọt bia nào trong ly với dụng ý là để thể hiện dốc hết lòng hết sức với nhau trong câu chuyện này, đặt cái ly xuống bàn ông Phát nói:
- Dũng nói vậy thôi thì anh cầm tạm cho em vui, chớ thật ra anh chỉ muốn giúp cho em thôi, bây bày đặt quá chừng, mai mốt đừng vầy nữa nhe .
Thấy ông Phát đồng ý nhận vái bao lì xì, thằng Dũng nó thở hắt ra như trút được gánh nặng ngàn cân trên vai xuống đất, nó vui vẻ nói:
-Dạ anh ba thương tình mà dặn dò như vậy thì em hiểu rồi, thôi em xin phép anh chị cho em lui gót, kẻo la cà lâu quá cô vợ già nhà em nó lại không vui .
Ông Phát thấy thằng Dũng rút lui đúng lúc nên ông cũng nói theo:
- Ừ thôi chú em mầy về đi, có tin gì mới từ thằng Tám anh sẽ cho chú em mầy hay liền, nhưng yên chí đi anh Ba này ra tay thì ăn chắc bây ơi.
***
Quả thật đúng y như câu phán của ông Phát với thằng Dũng cái hôm mà hai thầy trò nâng ly tại nhà ông, có hôm ông Tám lái chiếc xe Toyota Camry của xí nghiệp ghé lại nhà ông phát, sở dĩ ông Tám đích thân cầm lái là vì không muốn cho thằng Tư tài xế để ý công việc của ông , vì nghe đâu tay Tư này cũng là đệ tử ruột của anh Bảy gì trên Sở, hắn được gửi gắm vô lái xe cho Giám đốc Tám thay cho ông Hai tài xế cũ của ông Phát, họ nại rằng ông Hai đau bệnh đề rà không đủ sức khỏe để đi công tác xa và khuyến khích ông nghỉ trước tuổi kèm theo mớ trợ cấp nghỉ việc với một lần lảnh tiền. ông Tám nghĩ nếu để thằng Tư đưa mình đến nhà ông Phát, nó đồn đãi ra dư luận thì không tốt cho con đường hoạn lộ của mình, vì ông Phát bị kỷ luật nên dính líu đến thì thật phiền phức, nhưng kẹt một nỗi là ông Phát là người ơn nghĩa của mình, dẫu sao đi nữa có gì gì thì cũng tìm cách trả ơn lại cho ông Phát như vậy mới trọn đạo lý làm người.
Sau một hồi đàm đạo cùng nhau tại cái bàn hôm ông Phát tiếp thằng Dũng tại nhà mình, ông Phát nói :
- Nãy giờ anh nói hết tình hết lý rồi đó, thôi Tám mầy nhắm được cho thằng Dũng như gợi ý của anh thì anh mừng, còn như khó quá thì thôi coi như anh Ba này chưa nói ra vậy , đừng áy náy.
Ông Tám nghe ông Phát có ý gửi gấm mình cất nhắc thằng Dũng lên chiếc ghế phó trong xí nghiệp, một chút ưu tư, rồi ông lưỡng lự phân bua với ông Phát :
- Anh Ba này, ơn nghĩa anh đối với thằng Tám em nó "nặng" lắm, em thầm nghĩ bấy lâu nếu có dịp nào đó em sẽ giúp lại cho anh Ba, riêng việc cậu Dũng em không biết anh Ba thấy có nên không, vì em nghe râm ran mọi người đồn đãi tư cách cậu này không tốt cho lắm, nhưng nếu anh Ba nhất quyết thì em sẽ cố gắng.
Nghe ông Tám cảnh giác mình về tánh khí của thằng Dũng, nhưng hình ảnh cách đây vài hôm giữa ông và thằng Dũng hiện về, ông thấy nó chân tình lắm, thái độ vẫn tôn kính mình mặc dù biết mình không còn "làm quan", người như vậy không giúp thì giúp ai bây giờ, còn lời đồn đãi của bàn dân thiên hạ cũng chỉ là đồn đãi thôi chưa có gì chứng minh hết, ông Phát đưa mắt nhìn ông Tám rồi bằng giọng tha thiết ông nói:
-Tám à, anh biết chứ trước đây thầy Năm đã cho anh xem lá số tử vi của thằng Dũng, anh xem nhưng mù tịt có biết ất giáp gì đâu, thấy vậy thầy Năm mới giải thích cho anh nghe, thẫy nói tay này tính lòn cúi bợ đỡ và nhất là hay " đá giò láy" , phản phúc không đáng tin, nhưng anh về hưu lâu rồi mà Dũng nó vẫn thăm anh thường xuyên , rồi quà cáp " động viên" tinh thần anh và chị nhà nữa , vậy đó nên bói toán anh chỉ xem cho vui thôi, tin nó có ngày bán lúa giống , ha ha ha.
Biết dù có bàn ra, có can ngăn thế nào cũng khó lay chuyển ý nghĩ của ông Phát, ông Tám bấm bụng hứa với ông Phát:
- Dạ thôi được, nếu anh Ba nói vậy thì để em lo, nhưng nói thiệt anh Ba đừng buồn vì có nhiều khi câu chuyện này sẽ khiến anh không vui về sau này thôi.
Sau một vài tách trà đối ẩm hai ông chia tay nhau, ông Phát thì vui trong bụng vì thấy được lòng trung thành và đầy ơn nghĩa của ông Tám đối với mình, riêng ông Tám không vui mà cũng chẳng buồn vì ông nhủ lòng mình đã sống có trước có sau với ân nhân mình, còn nếu như sau này thằng Dũng có gây ra điều gì trong xí nghiệp thì đó là cái duyên cái nghiệp đành chịu thôi.
***
Từ lúc lên chức vụ mới theo đề bạt của ông Tám, phó giám đốc Dũng tỏ vẻ oai vệ ra phết, từ ông bảo vệ đến bà lao công trong xí nghiệp không ai ưa hắn cả, nhưng đang nắm quyền lực trong tay thì Dũng nhà ta đâu dễ gì biết được những cái huýt cái ngó xéo khinh bỉ ra mặt với vị phó giám đốc kia, mỗi lần tụm năm tụ ba ở quán cà phê bên kia đường cạnh xí nghiệp thì họ có dịp bàn tán:
- Ối cái thứ ốc mượn hồn này làm được cái giống gì mà phách lối, thằng ôn dịch này nó dữ phá banh "cái nồi cơm" của mình thôi.
Quả vậy sau một thời gian dưới sự quản lý của Dũng, xí nghiệp từ chỗ ăn nên làm ra nay phải mang nợ ngập đầu. Việc gì đến phải đến xí nghiệp phá sản đời sống mọi người bắt đầu thê thảm, ông Tám bị quy trách nhiệm để đơn vị làm ăn thua lỗ, những ngày này tên Dũng lặn không sủi tăm, bao nhiêu khó khăn đỗ dồn lên ông Tám, như đã biết được trước ngày này ông Tám không hề trách ông Phát một tiếng vì cũng từ ông Phát nên ông Tám phải " Dưỡng Hổ di họa"...
***
Biết được tình trạng đáng buồn của xí nghiệp của mình làm thủ lĩnh ngày nào đang đến hồi mạt vận, ông Phát đâm lo, ông lo vì nguyên nhân có trách nhiệm của ông một phần trong đó, ông lẩm nhẩm :
-Dũng ơi là Dũng! , mầy hại tao, hại thằng Tám, hại cả xí nghiệp rồi, trời ơi là trời.
Ông Phát đỗ bệnh ra từ đó, giờ thì chẳng có thằng em út nào đến thăm ông bà nữa, còn thằng Dũng thì nó "bặt vô âm tín" vì mỗi lần ông bấm điện thoại cho nó ông chỉ nghe âm thanh ò í e, ò í e trong ống nghe...
Một hôm ông đang bưng chén thuốc Nam mà bà Phát mới sắc cho ông, vừa dợm đưa lên miệng uống thì chuông điện thoại đỗ dồn khiến ông giật mình vội chụp ống nghe:
- A lô, a lô. Tui nghe
Bên kia đầu dây không trả lời, thình thoảng ông nghe tiếng cười của mấy cô gái bên kia đầu dây, rồi bổng đâu tiếng thằng Dũng vang lên như nó đang nói chuyện với ai đó trong quán nhậu:
- Anh nói gì ? Lão Phát ấy à, ối giời lão già rồi mà ngu đáo để, thằng em này đưa lão chút tiền mà lão đã gắn cho tớ đôi cánh bay xa, bay cao trên trời danh vọng. Khà khà khà
Biết là thằng Dũng trời đánh vô tình để cấn máy điện thoại gọi ngay số nhà ông mà hắn chẳng hay, nghe xong ông Phát giận xanh mặt ông đập ống nghe xuống đất vỡ tan từng mảnh như trong lòng ông cũng đang nát tan từng mảnh.
***
Đứt mạch máu não do giận dữ sau khi nghe lời bình phẩm về mình của thằng " Đệ tử ruột". Ông Phát "cưỡi Hạc qui tiên", ngày tiễn ông về nơi cuối trời quên lãng, có một gã đàn ông mang kính đen đi lặng lẽ theo đoàn đưa tang, quan tài ông Phát vừa khuất sau cánh cửa của chiếc xe tang, người đàn ông nọ giở cặp kính ra khỏi mắt, rồi lấy chiếc khăn mù soa lau vội đôi dòng lệ của cặp mắt đỏ hoe của hắn, bà lao công và ông bảo vệ thấy vậy họ che miệng nói với nhau:
" Nước mắt cá Sấu rơi kìa "
Viết xong 26.6.2017
***
25
TRĂNG LU
Lê Vĩnh Hòa
Nội xóm, từ quán chú Xồi tới nhà bác năm Cà-Cuống, coi kỹ không có chỗ nào làm rạp hát điệu cho bằng cái sân đình này.
Nè, " hậu trường " là ruột của bàn thờ ông Thần Nông bằng xi-măng, rộng rãi. Đào kép chun vô đó bôi lọ nghẹ, thoa bao nhang ấm cúng thấu trời. Còn hễ chun ra là đụng ngay cái nền gạch cao : sân khấu đó. Phía trước là sân đất rộng mênh mông, chứa năm trăm khán giả còn không chật. Muốn ngồi thượng hạng thì cứ leo tuốt lên cây gừa ngồi, chớ có ai cản đâu (trừ ông từ ưa ra nạt bất tử).
Bởi vậy cho nên, tối tối - những tối có trăng - tiếng trống ếch tung tung của thằng Hai Méo vang lên, xen lẫn với tiếng thùng thiếc bể xèng xèng của thằng Cảo con chú Xồi làm nôn nao ruột gan lũ trẻ trong xóm. Tụi nó hối hả lùa cơm, cột trâu, tắm?.cái gì nhằm lúc đó cũng phải làm gấp để kịp tụ hội tại rạp hát đúng giờ trước khi trăng tỏ.
Đào kép tiếng tăm ở ấp Trà-Lọt không sót một mặt nào. Về đào, phải kể trước hết là con Nga, tay chơn dịu nhĩu, chuyên đóng vai bi ai ; con Ái giọng eo éo, ưa giành làm cô Lan trong Hoa Rơi Cửa Phật ; con Nhãn tướng tá phục phịch thích làm tướng, con Nghĩa hò "số dách", thường đóng vai thôn nữ trong Tình Yêu Thôn Dã ; con Mai xuất sắc trong lớp Nguyệt-Thu-Nga.
Nói qua kép thì có thằng Út Trà-Lọt với sáu câu vọng cổ mùi rệu thấu xương. Trà-Lọt là tên anh em trong gánh đặt cho nó đó. Út Trà-Lọt mà gặp Sáu Nhỏ đờn ghi-ta thì phải biết ! Nó lim dim hai con mắt, rướn gân cổ nói lối, qua nhịp song lan, bỏ xuống chữ hò,người mộ điệu nghe qua thiếu điều muốn rụng rún. Ngoài ra còn phải kể thằng Tương ti hí mắt lươn, cái mặt xỏ lá, đóng vai nịnh không chê. Rồi tới Tám Rỗ, cái thằng mặt xấu xí vậy đa chớ nó có giọng cười be he không dễ gì kiếm, nên chuyên môn thủ vai công tử bột. Thằng Sáu Địa mập ù mập ú không biết ca, biết hát, đánh gươm đánh kiếm gì ráo, chỉ có môn làm vua đập bàn la ải ải và vân vân?
Trăng sáng hực hỡ ngoài trời. Trăng sáng tràn lan nơi sân khấu. Đào kép bấy nhiêu mà khán giả cũng chỉ bấy nhiêu. Vài mươi đứa chộn rộn ồn ào lăng xăng chờ đợi.
Cộp ! Cộp ! Cộp !
Hai cái chăn tắm dơ hầy " trịnh trọng " vẹt qua hai phía. Rồi thì một thằng cha Kinh-Kha từ dưới bàn thờ Thần Nông lót tót chun ra, mình bận áo sơ-mi măng-sết đen, quần vải hột dền cột túm ống. Nó đi tới đi lui, nói nghinh ngang phách lối một hồi cho đã, rồi hờ ơ thằng cha Tần-Thỉ-Hoàng mắc lo vuốt râu cười ha hả, liền nhảy a lại, rút con dao cây bôi lọ nghẹ ra ẹt cổ bạo chúa ! Nhưng rủi thay, con dao trợt ra ngoài, tráng sĩ chới với, liền bị mộât tên quân hầu cận bậân quần xà lỏn đứng kề bên vớt cho một đao ngang cuống họng.
Út Trà-Lọt - tức Kinh-Kha đó đa - té quị xuống rồi chờn vờn đứng dậy, con mắt chớp lạch, hai tay uinh uinh tới trước, rướn cổ lên quất trọn sáu câu ngon lành, xong xuôi mới yên bụng, từ từ ngã xuống gạch, chết giả.
Khán giả vỗ tay rốp rốp, la lên : " Cụp đa ! Cụp đa Trà-Lọt ! ".
Đêm đó trăng gần xế, tuồng mới vãng. Đào kép trổ hết tài, mồ hôi ra ướt áo. Vậy mà vừa hạ màn là tụi nó chạy ùa lại chỗ cây gừa, bu quanh anh Hai Hảo hỏi tíu tít :
Anh Hai coi được không anh Hai ?
Mùi hông ?
Ờ ! Mà tại con Mai nó chết bộ quá, chớ không thì còn ác nữa đa anh.
Đổ thừa hoài. Bộ người ta vậy mà chết nỗi gì ?
Hổng chết hả ? Mầy phải biết khi người ta đóng tuồng nầy hễ khi hát tới khúc " Anh ôi !? " thì phải rề lại gần thằng tướng Nhựt-Thanh-Thiên nắm tay nó. Cái nầy mầy đứng chết trân như trời trồng mà còn cãi nữa !
Đừng làm tàn. Giỏi sao hồi nãy hổng lên đóng đi. Ai mà làm kỳ như vậy cho được ?
Thôi thôi ! Giữ trật tự đi.
Tụi nó đương tức nhưng cũng ráng bấm bụng nín thinh, nghe lời anh Hai Hảo.
Từ ngày mở gánh tới giờ, đây là lần thứ nhứt mà " bổn ban " tụi nó hân hạnh được một quí khách là người lớn tới dự cho nên tụi nó vồn vã cũng phải. Chớ mọi lần người lớn có ai thèm léo tới coi tụi nó làm cái thứ gì. Nghe đánh trống điếc tai có khi họ còn lại nạt um sùm, báo hại cuốn màn chạy không kịp.
Anh Hai Hảo là anh ruột con Nga, tuổi nhỏ mà đi đây đi đó nhiều, tánh tình lại hiền lành, anh ở đời điệu như vậy hèn chi trong xóm ai nấy cũng đều thương hết cũng phải.
Chờ cho tụi nó dứt ồn ào, anh Hảo mới ngồi xuống đất, bảo tụi nó ngồi vòng quanh. Anh bắt đầu nói. Tụi nó im khe.
- Mấy em đóng tuồng khá lắm. Giọng ca trong trẻo, đóng có thần, điệu bộ tự nhiên, dạn dĩ. Nhỏ mà như vầy, lớn có tương lai lắm. Nhưng chỉ tiếc có một điều là các em không biết chọn lọc tuồng. Hát nhảm nhí có hại lắm. Tích xưa, tuồng hát máy cũng có cái dở, cái hay. Mình còn nhỏ mặc dầu chớ cũng biết cái phải cái quấy, ghét chuyện đói rách giặc giã, thích chuyện no ấm thái bình, biết thương bà con làng xóm, thương nước, thương người trung. Bày đặït hát làm chi cái chuyện giành vợ giựt chồng đánh chém đổ máu đổ mủ, có ai mà khen đâu. Vậy mà còn ôm bụng than van " Em ơi ! Cái quả tim anh ngày nay nó đã nát ngướu như một hũ tương hơ?hơ?hơ?tàu! ". Rệu quá.
Tụi nó cười ha hả. Coi bộ thấm ý. Anh Hai Hảo tiếp :
- Hồi nãy có em nào nói em Mai đóng chết bộ đó. Nói vậy cũng trúng mà cũng trật. Vậy chớ sống làm sao được. Còn con nít mà biểu nắm tay kêu anh ơi anh hỡi thì sống làm sao cho nổi mà sống nè ! Trong đồng bái thiếu gì chuyện hay. Cô bác mình còn biết thiếu gì tuồng tích có ý nghĩa. Trong làng xóm còn biết bao điệu hò, điệu múa theo kiểu chèo ghe, đập lúa cắt cỏ cho trâu ăn. Mình vừa làm vừa tập, tối đem ra hát múa lại, có phải vui không ? Anh nói vậy mà mấy em nghĩ coi có phải không ?
Phải ! Mà anh Hai tiếp dẫn tụi tui với đi.
ƯØ ! Anh tiếp.
Tụi nó hoan nghinh một cái rần.
Nắng chiều thoi thóp trên cánh đồng chỉ còn trơ gốc rạ xác xơ. Vài con cò uể oải bay xập xận bên kia rặng trâm bầu. Đìu hiu quá !
Sau một lúc lâu im lặng, con Nghĩa vuốt tóc con Nga, nói như khóc :
- Mầy đi, tụi tao buồn quá. Mất đào chánh chắc rã gánh rồi.
Con Nga khẽ lắc đầu. Oanh đứng bên, thơ ngây hỏi :
- Ở Sài-gòn chắc vui lắm chị há ! Có sung sướng cũng đừng quên tụi tui ngheo. Đừng quên gánh hát Trà-Lọt tụi mình ngheo !
Con Nga ứa nước mắt, không biết phải trả lời sao. Thằng Tám Rỗ thạo đời, xen vô giảng giải :
- Con Oanh mầy không biết cái gì ráo. Con Nga nó đi ở đợ giữ em cho bà chủ chớ làm vua làm chúa gì mà sướng mà vui. Tao hiểu nhiều mà ! Sài-gòn vui là vui với kẻ có nhiều tiền kìa, chớ còn mình bỏ nhà cửa, ra đi ở đợ ở đần, kiếm miếng cơm thừa canh cặn mà vui cái nỗi gì, Oanh ?
Tủi thân, con Nga bụm mặt, khóc òa. Tụi nó lặng thinh. Thằng Nhẹo ngó mông. Nó nhớ tới hồi mùa rồi, làng xóm còn khá giả, gánh hát tụi nó cũng nhằm lúc hưng thời. Từ khi sửa đổi tuồng tích, có người tập luyện, gánh hát thiếu nhi Trà-Lọt nổi danh như sét. Người lớn trong xóm hết coi thường tụi nó. Ai cũng trông cho mau có con trăng để được coi tụi nó hát, múa, hò lơ. Người ta khen, chê, sửa chỗ này, thêm chỗ nọ cho tụi nó. Chú Xồi có khi còn dám cho mượn hai cái đèn khí đá treo hai bên nữa. Hôm cúng kỳ yên, ông từ kêu chúng nó lại diễn tuồng " Bạch-Phù-Dung loạn trào " cho mấy ông già coi chơi. Vậy mà có thiếu gì người rơi nước mắt, móc tiền ra cho Bạch-Phù-Dung, lấy không muốn kịp. Tiền đó tính để mua màn.
Vậy mà mùa nay?Nó thở dài. Bỗng có tiếng đứa nào đó ngập ngừng nói lên :
- Đêm nay có trăng, tụi mình hát một đêm cuối đưa chị Nga lên đường. Đồng ý không anh em ?
- Đồng ý ! ? Chị Nga cũng hát nữa nghe. Hát một đêm với tụi tui đi.
Buồn quá làm sao mà hát cho nổi. Nga im lặng giây lâu. Nhưng không biết nghĩ sao lại khe khẽ gật đầu.
Đêm nay trăng lên quá ngọn tre. Sân đình im tiếng trống. Đàn trẻ ngồi khít bên nhau trên nền gạch trống trải bơ vơ, lặng lẽ.
Mới đêm hôm qua, con Nga còn ca múa trên sân gạch nầy. Giờ thì còn đâu nữa. Vì hồi sớm mai, sau đêm hát cuối cùng, Nga đã lên xe theo bà chủ đi Sài-gòn rồi. Hồi sớm mai, đưa bạn lên xe, tụi nó thấy con Mai bồng cháu bà chủ ngồi sát phía trong, day mặt dòm chỗ khác. Khi xe chạy, nó úp tay vô mặt, không dám dòm lên; hai vai nó run run. Bộ nó sợ dòm lên thấy bạn bè rồi tủi thân. Xe chạy mất rồi ! Chắc con Nga khóc nhiều. Tội nghiệp nó biết chừng nào.Thằng Tương ngồi ngó trân trân lên sân vắng. Nó nhớ quá ! Nó còn như thấy hình ảnh đêm qua : Đêm qua con Nga thủ vai Đào-Tam-Xuân tuyệt diệu.
Gọn gàng trong cái áo hồng thắt lưng xanh, đầu bịt miếng vải đen, con Nga rút gươm truyền lanh lảnh :
- Tam quân ! Đã đến tận kinh thành Tống thất. Lịnh truyền chúng tuớng đình binh. Cả tiếng kêu bớ Triệu-Hoàng huynh ? Khá thượng thành đối nại với Đào-Tam-Xuân cho mau bớ Triệu-Hoàng huynh ! (1).
Giữa tiếng kèn lá cây áo não, giọng của Đào-Tam-Xuân run lên, đầy uất hận :
- Hay cho Hoàng huynh ! Giỏi cho Hoàng huynh ! Tôi hỏi chớ Nhữ-Nam-Vương hà tội ? Mà Hoàng huynh nhẫn sát chi. Chồng tôi có tội tình gì ? Sao vô cớ võ tràng hạ sát là hạ sát làm sao chớ ??Chồng tôi có tội tình gì mà giết ? Có phải là tội hết lòng thờ nước, tội hết sức cứu dân, tội liều mình dẹp giặc Khế-Đơn, tội vì nước trừ quân gian nịnh, tội làm tôi trung tín, tội làm đứng công thần, tội muốn nhứt thống giang san, tội khuôn phò xã tắc. Hay tội gì ? Xin Hoàng huynh hãy nói đi, bằng không tôi sẽ đạp thành như bình địa?Thấy vẻ mặt căm hờn đau khổ của con Nga, nhớ tới anh Hai Hảo ngày nay không còn nữa?thằng Tương bỗng sợ quá. Nó đương đóng vai Triệu-Khuôn-Dẫn, nhưng nó tưởng chừng như chính nó thiệt tình đã làm cho gia đình con Nga khổ. Nó run rẩy, bệu bạo : - Tội nghiệp cho Trẫm lắm, Vương phi ôi ! Xin Vương phi chớ dùng nhiều lời gắt gao mà tội nghiệp cho Trẫm lắm Vương phi à !
Bỗng con Nga bật khóc. Khóc thiệt tình. Nó nức nở nghẹn ngào nói qua dòng nước mắt :
- Bây giờ Hoàng huynh mới biết tội nghiệp ! Hoàng huynh ơi ! Sao Hoàng huynh chẳng nhớ thuở bên cầu hộ giá ? Chẳng nhớ hồi cứu chúa xả thân, chẳng nhớ khi lưu lạc phong trần, chẳng nhớ lúc giang hồ lao lực. Nhờ ai ??Nước mắt lăn từng giọt, từng giọt, từng giọt trên má, xuống môi, xuống cằm và nhỏ trên áo hồng của Đào-Tam-Xuân. Có những tiếng khóc thút thít ở phía dưới sân khấu. Bao nhiêu người đã chia sớt nỗi đau khổ của nó, bác Năm lấy vạt áo chậm nước mắt, nói :
- Tội nghiệp con nhỏ quá !
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Lũ trẻ quay nhìn nhau. Trăng xế ngang đầu. Sương đêm bay trắng đất trôi một màu tang tóc. Đêm nay, đêm mai, cho mãi tới đêm nào, hình ảnh Đào-Tam-Xuân đã không còn nữa trên sân khấu quen thuộc thân yêu này.
Đêm nay, trăng lu.
Hàng dương cao rên rỉ thì thầm.
Có đàn trẻ lặng nhìn nhau, thẫn thờ, rướm lệ.
Lê Vĩnh Hòa
Những câu hát trích trong bài này rút trong tuồng Trảm Trịnh-Ân vì không rõ tên soạn giả nên không ghi ra đây. Xin cáo lỗi.
***
24
Bà Sáu Bỏ Cuộc Chơi
Đang ngồi ở cái cầu ván bắt de ra con rạch trước nhà, "Bà Sáu" dùng con dao yếm đánh vẩy mớ cá rô đồng, cá trào để nấu nồi canh chua và kho một ơ cá kho tộ cho cả nhà ăn trưa.
Bổng bàn tay ai đó ở sau lưng đập nhẹ lên vai mình và lên tiếng hù một tiếng làm "Bà Sáu" giật mình, quay nhìn lại "Bà Sáu" thấy con Mỹ bạn mình đang nhe răng cười, "Bà Sáu" bèn lên tiếng la con Mỹ:
- Chèn đét ơi ! Con quỷ này nha mậy, coi bộ muốn chồng dữ lắm rồi đó, mầy làm tao sợ điếng hồn, xém chút xíu nữa là tao nhảy tót xuống nước rồi đó con quỷ.
Tuy bị nhỏ bạn thân mình mắng mỏ như vậy, con Mỹ chẳng hề giận mà nó còn nói:
- "Bà Sáu" ơi ! Có con ma ở bến đò nó mới lấy tui chứ có ai đâu mà muốn chồng, bà biết hông lóng rày tui phải phụ tía lên mấy líp trồng mía, mần muốn nín thở luôn đó bà ơi.
"Bà Sáu" nghe vậy liền nói:
- Hèn chi mấy đứa trong xóm nói chắc mầy có hò hẹn với ai rồi nên tụi nó rủ rê mầy đi chơi (quài) mà hổng chịu đi.
(Quý độc giả nghe con Mỹ gọi "Bà Sáu" nghĩ rằng chắc là một người đàn bà có tuổi, thật ra con Sáu chừng (Hăm tám), do con Sáu giỏi giang việc nhà, việc mua bán nên đám bạn thân trong hội "Ê sắc" đồng lòng gọi là "Bà Sáu" để tỏ lòng tôn kính đàn chị trong nhóm, vì vậy từ đoạn này trở xuống tui không cho Bà Sáu trong ngoặc kép nữa.)
***
Ấp Mỹ Tú nằm ven Sông Hậu quanh năm có trái ngọt cây lành, người dân nơi này thật thà chất phát, tuy bà con trong vùng không khá dả nhưng tình nghĩa xóm làng đối đãi nhau thật ấm cúng
Sáng nay con Sáu vừa sửa soạn để chờ con Mỹ đến chở qua bên kia sông, mua trái cây và mật ong về bán, nhà của con Sáu vừa bán hàng tạp hóa linh tinh, vừa là quán cóc bán cà phê cho bà con nông dân quanh bến nước.
Vừa cặp nách chiếc nón lá bước ra khỏi nhà thì thằng Cò (Một thanh niên nhỏ hơn con Sáu hai tuổi, Cò thầm thương trộm nhớ con Sáu đã lâu) lò dò đi đến quán và cất tiếng nói :
- Chèn ơi ! Chưa bán cà phê cho tui mà bà Sáu đi đâu vậy, sáng mà không có ly cà phê của bà là tui bủn rủn tay chân hông mần ăn gì được hết ráo.
Con Sáu quay vào quán pha ly cà phê đem ra cho thằng Cò rồi nó định tiếp tục đi ra lộ đá chờ con Mỹ, Cò thấy quán vắng vẻ chỉ còn nó và con Mỹ nên nó dẹp cái tánh nhút nhát cố hữu của mình để bày tỏ tình cảm bấy lâu nay nó hằng ao ước:
- Bà Sáu ơi! Tui thấy cái hội của mấy bà bộ tính ở (dậy) tới già luôn hả? Xóm trên mấy người cỡ tuổi này ai cũng hai ba lửa rồi, tui thấy mấy bà "Già kén chọn hom" nên khó có chồng, phải chi đừng ngó cao, người như tui nè có phải dễ hông.
Bị "Kỳ đà cản mũi" khi xuất hành đi mua bán, giờ lại nghe thằng Cò nói chuyện kiểu như chọc ghẹo mình, con Sáu nỗi sùng trong bụng nó bèn làm cho thằng Cò một trận:
- Cò em em coi lại mình đi, chị đáng tuổi chị của em mà, chị cũng không mơ ước ông chồng cao sang quyền quý gì đâu, miễn yêu thương nhau là quý rồi, còn như em hả, chị lấy rổ hớt một cái cả đống luôn, thôi đừng mơ nữa nghe em.
Chưa hả cơn giận, con Sáu mần tiếp:
- À mà nè, tiền cà phê của chị em thiếu bộn rồi đó, sẳn nay tính luôn để chị gạch sổ, lóng rày thiếu vốn mần ăn quá, thông cảm cho chị nghe.
Tự dưng bị con Sáu đòi nợ ngang xương, thằng Cò "Tá hỏa tam tinh" nó đành xuống nước:
- Chèn ơi, bà Sáu "Giận cá chém thớt" há, tui mới nói chút xíu mà bà đòi tiền tui rồi, thôi bà biên (dô) sổ cho tui chịu ly này nữa đi, cuối (từng) này tui lảnh tiền mần cỏ lúa của ông Năm tui trả dứt nọc cho bà luôn, còn như chưa có tiền tui mần mọi cho bà tới lúc đủ trả nợ thì thôi bà chịu chưa.
Nghe thằng Cò kể khổ con Sáu cũng động lòng, thật tình số tiền cò thiếu chịu chẳng bao nhiêu, nó tính nói cứng để "răn đe" thằng Cò thôi đừng chọc ghẹo và đeo đuổi mình, và hơn thế nữa vì mang ơn cứu mạng của ông Sáu tía thằng Cò từng vớt mình khi rớt xuông sông lúc còn nhỏ nên con Sáu đổi giọng:
- Cò ơi, nói thiệt chị em mình nào giờ đâu có khó dễ gì với nhau đâu, nói vậy thôi em chưa có tiền thì để đó thủng thỉnh trả cho chị cũng được, chị biết em mến chị đã lâu nhưng duyên phận mình không có đâu, thôi em tìm người khác đi, biết đâu họ sẽ cho em thật hạnh phúc thì sao, mình chỉ là chị em thôi nha Cò.
Nghe con Sáu nói vậy, thằng Cò vừa vui vừa buồn, vui vì không phải lo trả nợ gấp gáp mà buồn vì bao nhiêu hy vọng ấp ủ bấy lâu nay mong có ngày cùng con Sáu "Bền duyên giai ngẩu" coi như không thành, Cò lẳng lặng cầm ly và phê uống ực một cái cạn ly rồi đứng dậy nhanh chóng đi xuống bến sông, nó đi thất thiểu như kẻ mộng du, đôi mắt dường như thất thần chứng tỏ Cò đang tan nát cõi lòng vì đặt trái tim của mình không đúng chỗ.
Phần con Sáu sau khi thằng Cò rời khỏi quán thì nó kêu lên :
- Tía má ơi, con qua thím Bảy với Bác Tám Bầu bên sông mua hàng nha, lên coi tiệm đi..
Vừa ra đến con lộ trải đá đỏ phía bên ngoài, con Sáu nghe tiếng con Mỹ càm ràm:
- Bà Sáu mần cái giống gì mà rị mọ nãy giờ (dậy) bà, tui thấy bà lúc nào cũng như "Con rùa có chửa" (dậy) đó.
Cười hiền con Sáu trả lời :
- Cũng tại thằng Cò hết thảy, (dừa) ra khỏi nhà là nó réo bán cà phê cho nó, đã (dậy) nó còn nói chuyện "Cà kê dê ngỗng" mới lâu (dậy) á, thôi mình đi đi.
Nói xong con Sáu leo lên yên chiếc Honda cũ mèm của con Mỹ, con Mỹ rồ ga cho chiếc xe phóng nhanh trên đường để đi về phía cầu ván, rồi từ đó đi ghe qua bên kia sông đi mua hàng.
Ngồi phía sau trên yên xe con Sáu cảm thấy bất an khi thấy con Mỹ lái xe quá nhanh, nó bèn lên tiếng:
- Chạy chậm thôi con quỷ, coi chừng mầy cho tao (dới) mầy nhào xuống ruộng bây giờ.
Con Mỹ chẳng những không bớt tốc độ mà còn "Thanh minh Thanh nga":
- Bà sao nhát khít, tui chạy (Dầy) là chậm lắm rồi đó, mới rồi nè có ba thằng công tử ngoài chợ huyện (dề) đây lấy le, tụi nó chạy "Bạt mạng cô hồn" tới khúc cua cầu ván cả ba nhào xuống ruộng, thiếu chút nữa hôm nay là ngày mở của mả rồi đó.
Nghe Mỹ nói vậy con Sáu lên tiếng :
- Chèn ơi, sao mầy nói gì ghê quá (dậy), tội nghiệp người ta, mầy nói cái giọng đó là khẩu nghiệp đó nha mậy.
Con Mỹ cố cãi lại :
- Khẩu nghiệp cái khỉ khô gì bà ơi, có sao nói (dậy) tội tình gì bà lo xa quá.
***
Ngồi trên ghe do cô Năm chèo đò đang cầm lái, ghe ra giữa sông gió thổi thốc từ mặt sông lên mát rượi khiến con Sáu thả hồn theo cảm xúc trong người, nó chợt cảm thấy buồn nghĩ phận mình duyên phận bẽ bàng, cũng vài ba mối tình đi qua mà không chàng trai nào trụ lại trong tim mình, nó nghĩ sao ông trời bất công với mình quá, so với con Út Đẹt con ông Sáu Rồng cạnh nhà, so về sắc vóc lẫn công dung ngôn hạnh thì Út Đẹt sao sánh bằng mình, vậy mà Út Đẹt đã được viên mãn về đường tình duyên, còn mình thì...
Đang thả hồn mơ màng về viễn cảnh sẽ có một ngày ông Tơ bà Nguyệt dòm ngó lại mình, khi ghe của cô Năm cặp vô bờ mà con Sáu chẳng bề hay biết, khiến con Mỹ nhắc nhở :
- Bà Sáu, bà Sáu, đang mơ về ông nào nữa phải không, tui cá (dới) bà nếu (hổng) phải thua cái gì tui cũng chịu.
Nghe con Mỹ nói xấu mình, con Sáu lấy trái chanh nhỏ của cô Năm để trong cái khạp trên ghe, nó chọi về phía con Mỹ và nói:
- Cho mầy chết nè con quỷ.
***
Vừa bước chân vô nhà Bác Tám Bầu, chưa kịp gọi Bác Tám thì con chó Phèn thấy khách lạ nó nhào ra làm dữ, nghe tiếng chó sủa vang phía trước nhà, Bác Tám Bầu từ nhà sau lật đật đi lên rồi lên tiếng la con Phèn :
-Suỵt suỵt Phèn con, không được làm bậy nghe con, đi (dô) đi (dô).
Con Phèn nghe lời bác Tám nó cụp đuôi rồi từ từ nằm khoanh tròn nằm phơi nắng gần cái lu nước, con Mỹ thấy vậy nó nói với con Sáu:
- Bà Sáu bà thấy con chó nhà bác Tám khôn "Dàn trời mây" chưa, không có bác Tám ở nhà thì mình mệt với nó lắm đó.
Bác Tám mời hai đứa vô nhà, rót hai ly nước mưa ra cho khách rồi bác Tám hỏi:
- Nay bây qua hái Cam phải hông, hổm rày trời oi bức quá mấy thằng thương lái nó (dô) nài riết mà bác (hông) cho nó hái, bác hứa (dới) ai là "Đinh đóng cột", để cho bây hái bác thâu hoạch ít hơn tụi kia nhưng thây kệ, bác ham tiền bán cho tụi nó rồi sao nhìn mặt bây cho đặng.
Con Sáu tiếp lời :
- Con cũng (dậy) bác Tám, nhỏ bạn con có (dựa) ngoài chợ quận thiếu cam quá, nó xúi con lấy cam (ăn thuốc) của người khác để cho nó bán nhưng con (hổng) có chịu, tiền ai (hông) ham, làm (dậy) hại bà con mình áy náy lương tâm lắm bác Tám.
Con Mỹ nghe câu chuyện đối đáp giữa nhỏ bạn mình và bác Tám thì trong lòng rất vui, vì hiện diện trước mặt nó hai người có nhân cách thật tuyệt vời trong thời buổi "Vàng thau lẫn lộn" này....
***
Bà con ấp Mỹ Tú bao đời nay đa số đều theo đạo Phật, ngôi chùa vùng này tuy không bề thế như những ngôi Tam bảo nơi khác nhưng cũng đủ sức chứa thật đông tín đồ, hội "ê sắc" của con Sáu, con Mỹ thường xuyên đến đây làm công quả, do thiếu thốn về đường tình duyên các cô nàng bù đắp lại tinh thần bằng câu kinh tiếng kệ và làm những việc thiện để tâm hồn được thanh thản, rồi dường như những bữa cơm chay những lời giảng của sư trụ trì đã cảm khía các cô nàng một lòng nghe theo triết lý của nhà Phật để buông xả những hũ nộ ai ố hằng ngày, kể cả chuyện tình duyên bẽ bàng của mình các cô nàng cũng đần quên lãng.
Hôm nay thiện nam tín nữ ai nấy ăn mặc đẹp đi viếng chùa, trong đám đông này có anh chàng nọ thoạt nhìn thì bà con cũng đóan được đây là khách phương xa, anh chàng vừa lạy phật xong vừa lui gót thì vô tình chạm ngay vào người con Sáu, biết mình sơ suất anh ta bèn nói câu xin lỗi và hỏi thăm nhiều việc để làm quen.
Qua nhiều câu chuyện thăm hỏi và tìm hiểu ngòai sân chùa, được biết con Sáu chưa có ý trung nhân và phần mình, Cường là chàng trai nọ đã mạnh dạn nói:
- Anh từ Canada về đây thăm bà con ở đây, thím Tư Cầu đó em biết không, anh muốn làm quen với em nhé.
Con Sáu dường như chời đợi câu nói này từ lâu lắm rồi, nó nghĩ chắc là ông Tơ bà Nguyệt đã đến lúc đền bù lại đường tình duyên của mình bị trắc trở bấy lâu nay nên nó không ngần ngại:
- Em cũng rất mừng được quen biết anh Cường, chèn ơi thím Tư Cầu thương em lắm, ai dè anh là cháu của Thím Tư.
Con Mỹ thấy bạn mình gặp phải tình trạng bị "Sét đánh" chẳng những nó không có ý ganh tị mà còn đôn đốc vô :
- Cha chả đây là duyên tiền định à nha, em ủng hộ bạn em với anh Cường quen nhau đó.
***
Đêm rằm ánh trăng sáng rọi vùng quê Mỹ Tú, trăng thanh gió mát nên nhiều cặp tình nhân rủ nhau ra cây cầu đúc ngoài lộ đá để tâm tình, con Sáu và Cường cũng kéo nhau ra đó, hai anh chị không ngồi trên thành cầu như những cặp khác, họ chọn cạnh gốc cây dừa sát mé sông để ngồi, đang âu yếm bên nhau Cường vừa định trao nụ hôn ban đầu cho người yêu mình, bổng đâu ánh đèn xe của ai đó đang chạy trờ tới khiến hai người luống cuống rời ra, con Mỹ thấy hai người bạn mình đang ngồi tâm sự khi nó vô tình chạy xe đến đây, chưa kịp nói câu nào con Mỹ bị con Sáu "sực" liền:
-Con quỷ này, mầy rình tụi tao phải không ?
"Nỗi oan ông Địa" khi không lại dính tới mình, con Mỹ tắt máy xe rồi vội lên tiếng:
- Bà Sáu ơi, ai ở không đi rình rập bà mần chi, tía tui kêu qua nhà ông Bốn phụ tát đìa với tía tui ngày (mơi) đó bà chằn.
Giờ tới lúc Cường nói với con Sáu:
- Em nghi oan cho cô Mỹ rồi thấy chưa, bây giờ bắt (thền) em nè.
Chưa kịp hiểu ý Cường nói gì, con Sáu bị Cường ôm hôn trước mặt con Mỹ, quá đỗi bất ngờ con Sáu vừa mắc cỡ vừa la chiếu lệ:
- Đừng anh, con Mỹ nó dòm mình kìa.
Cường nói :
- Mỹ kệ Mỹ, Pháp hay Anh gì anh cũng không sợ.
Nói xong cường tiếp tục hôn và ghì chặt người yêu của mình, con Mỹ thấy vậy nó làm bộ nói :
- Bà Sáu với anh Cường gan ghê, tui méc cho tụi nó biết cho coi.
Cả ba cười rân sau câu "hăm dọa" của con Mỹ.
***
Thủ tục đi đoàn tụ với vị hôn phu của mình đã hoàn tất, trước ngày lên đường nhà con Sáu chật ních người đến dự tiệc chia tay, ông Tám Bầu tặng quà cho con Sáu ông nói trong rưng rưng nước mắt :
- Bây đi rồi bác mất mối mần ăn, buôn bán nhiều năm bác thấy bây là đứa thật thà, có tình có nghĩa, thôi bây đi mạnh giỏi, (dợ) chồng bây cố gắng mần ăn cho tấn tới, nếu có dư dật chút đỉnh gửi dìa cho tía má bây chút đỉnh sanh sống nghe bây.
Con Sáu cũng rưng rưng không kém, nó cảm ơn tấm lòng của bác Tám Bầu, nó ôm bác vào lòng để bày tỏ tấm lòng thương mến.
Ở dãy bàn cuối ngoài Sân, đám bạn con Sáu cùng thằng Cò đang ngồi đó, khi con Sáu đến nơi thì thằng cò đứng dậy nó nói trong lúc có hơi men trong người:
- Bà Sáu ơi, bà có chồng bà đi Canada là được phần bà rồi, thiệt thòi nhứt là tui nè, bà pha cà phê tui uống rất ngon, bà đi rồi bác ba Tía bà ổng pha dỡ ẹc, tui uống không (dô).
Tía của con Sáu cũng đã sần sần do rượu, nghe thằng Cò nói xấu mình, ông liền nói:
- Cò nè, (mơi mốt) mầy đi Canada luôn đi, qua bển con Sáu nó bán cà phê cho mầy uống, chớ tao hông bán cho mầy đâu nha con.
Nghe Tía nói giận con Sáu liền giảng Hòa:
-Thôi mà Tía, tại Cò thương con nó mới nói (dậy), Cò nè xin lỗi tía chị đi.
***
Xin lỗi tía của con Sáu xong, thằng Cò tặng quà cho con Sáu xong nó thất thiểu ra về, trước khi leo lên cầu khỉ để qua bên kia con rạch, nó ngoái nhìn lại nơi nhà con Sáu bất chợt nó cất tiếng rên rỉ :
- Bà Sáu đã thật sự bỏ cuộc chơi rồi .
Hai Hùng
***
23
Rình Rập
Ông Tư cầm cây "Ba ton" vừa bước nhanh vừa lẩm nhẩm:
-Con Lành này quá đáng rồi nhe, tía mà bắt được bây tao cho bây biết tay, con gái con đứa gì cứng đầu quá chừng..
Vừa bước xuống từ chiếc xe đò định lội bộ về nhà, bổng con Hiền thấy thấp thoáng đàng xa một người ai như tía mình, chừng nhìn kỹ lại quả đúng là tía của mình, trong lòng Hiền ngạc nhiên vô cùng, nó tự hỏi:
-Giờ này sao tía không chịu ở nhà cúng quải mà vác cây "Ba ton" đi đâu vậy cà ?
Chưa tự giải đáp cho mình câu hỏi trên, Hiền cất tiếng gọi:
-Tía ơi tía! Con (dìa) rồi nè, tía phụ con khiêng đồ vô đi.
Đang nỗi sùng trong bụng vì con Lành, đứa con gái út không chịu nghe lời mình trong việc ông bà chọn thằng Phát con ông Sáu Phèn ở xóm trên làm rể đông sàng cho nhà mình, chợt nghe tiếng con Hiền, đứa con gái lớn của mình làm ăn xa trở về nhà trong những ngày cuối năm, ông Tư mừng rỡ vội chạy nhanh về phía con Hiền, xui cho ông Tư vì quá vui mừng ông không để ý, trong khi chạy nhanh ông vô ý vấp sợi rễ cây Dừa trồi lên mặt đất khiến bàn chân ông vướng vào làm cho ông té sấp xuống đất, cây "Ba ton" văng ra khỏi tay ông rồi rơi xuống con mương cạnh con đường đất mà ông Tư đang "Đo ván". Hiền thấy tía mình vấp té một cái quá mạng, nỗi xót xa trong lòng Hiền dâng lên nên nó quăng đồ đạc đang mang vác trên tay trên vai xuống đất, nó chạy u tới đỡ ông Tư ngồi dậy, nó hoảng hồn hơn khi thấy từ trong miệng ông Tư có một ít máu ứa ra từ đôi môi của ông, con Hiền vội hỏi:
-Có sao không tía, gấp gáp gì mà tía chạy để vấp té vầy nè, sao có máu chảy ra kìa tía coi có bị gì không?
Vừa hỏi vừa lần tay vô cái xách tay còn đeo kè kè bên hông, con Hiền lôi ra cái khăn nhỏ lau chùi vết máu cho ông Tư, tuy đau đớn vô cùng nhưng ông Tư cố làm tĩnh nhằm cho con Hiền bớt lo sợ, ông nói cà rỡn :
-Bây thiệt là ngộ nhe, ban ngày ban mặt mà hỏi có "sao có trăng hông", tía cũng hơi đau chút chút thôi, có điều "Thằng Răng nó nghĩ chơi thằng nướu" rồi nè.
Nói xong câu trên ông Tư phun xuống đất chiếc răng cửa bị gãy gần sát phần nướu bên dưới, máu cũng bắt đầu chảy nhiều, con Hiền thật sự hoảng hốt, nó nói:
-Tía này ngộ thiệt, gãy cái răng mà còn cà rỡn được nữa hả, dìa nhanh con đưa tía ra y tế xã để họ cho thuốc tía uống cho cầm máu, thiệt là cuối năm cũng còn xui.
Hai cha con Hiền tất tả đi nhanh về nhà, vừa đến đầu ngõ bà Tư thấy mặt con Hiền bà mừng rỡ chạy u ra xách phụ đồ đạc vô nhà, chừng thấy cái mặt ông Tư bí xị trên môi máu hãy còn ứa ra, bà hoảng hồn hỏi:
-Ông mần cái giống gì mà máu me tùm lum hết (dậy), tết nhứt tới nơi mà ông không chịu cẩn thận gì hết trơn hết trọi hà.
Ông Tư chưa kịp trả lời, con Hiền vội lên tiếng:
-Tại con hết thảy đó má, tía thấy con (dìa) ổng mừng quá chạy nhanh đến đón, ai dè vướng cái rễ Dừa té mạnh xuống đất gãy cái răng cửa rồi.
-Bà Tư kêu lên thống thiết:
-Cũng ông không hà, con nó (dìa) rồi thì từ từ có sao đâu, già rồi đâu còn nhỏ nhít nữa đâu mà ông hấp tấp chi cho khổ cái thân già.
Đến nước này ông Tư bèn lên tiếng:
-Ối bà ơi! Không phải tại con Hiền, cũng chẳng phải tại tui như bà nói đâu.
Không để cho ông Tư nói trọn câu, bà Tư cắt ngang:
- Ông hay giả ngộ quá, vậy chứ vì ai ông ra nông nổi như (dầy)?
Ông Tư lấy oai với con Hiền:
-Cái bà này, tui chưa nói hết câu bà nhảy vô họng tui ngồi rồi, vầy nè, tại con Lành hết trơn hết trọi đó bà ơi, nó không cãi lời tui với bà thì đâu có chuyện tui bị té gãy răng như vầy đâu, phải hông?.
Lúc này thì bà Tư "phản pháo" bênh vực cho con gái út của mình:
-Tui nói (dới) ông rồi, từ từ mình khuyên lơn phân tách phải trái cho nó biết, hôn nhân là hệ trọng cả đời, thế kỷ hăm mốt rồi, ép con chi ông ơi, biết rằng nếu nó lấy thằng Phát (mần) chồng thì no ấm một đời, nhưng liệu con có thật sự hạnh phúc hay không?, còn Thằng Việt bạn của nó tui thấy cũng đàng hoàng, con nhà có ăn có học, tuy nhà nó không giàu có nhưng cuộc sống nhà nó tui thấy cũng tươm tất, thôi tùy ý con đi ông.
Nghe Bà Tư nói câu trên, ông Tư lườm mắt nhìn bà rồi ông phán một câu:
- Cũng bà không, bà bắt cầu cho con Lành nó leo không hà, tui muốn con sung sướng tấm thân, còn chuyện yêu thương thì về sống chung từ từ cũng có thôi, giống tui với bà đó, hồi xưa tui có biết mặt bà tròn méo gì đâu, tía má tui hô lên tui ưng bà liền, vậy đó tui với bà cũng con cháu đầy đàn, rồi cũng sống với nhau đến giờ nè, bà thấy có chết thằng tây nào đâu bà thấy hông ?
Nghe tía má gây nhau về chuyện con Lành, Hiền đau lòng lắm, thì ra mọi chuyện đều từ việc dựng vợ gả chồng cho con Lành, Hiền đứng ra phân giải:
-Thôi tết nhứt tới nơi rồi, tía má gác chuyện em con lại đi, để từ từ con nói chuyện với em Lành, chuyện đâu vào đó thôi tía má.
Thấy con gái lớn nói cũng chí phải, hai ông bà thôi không còn đề cập tới chuyện ép gả con Lành, mọi người tập trung lo cho gia đình một cái tết thật tươm tất.
***
Còn không bao lâu nữa là đất trời sẽ "chuyển mình" sang năm mới, không thấy tăm hơi con Lành ở đâu, bà Tư bắt đầu lên tiếng càm ràm:
-Đó ông dí con nhỏ cho đã đi, nó sợ nó đi mất biệt luôn rồi, giờ này biết đâu mà kiếm nó đây.
Ông Tư trong ruột cũng đang rối bời như tơ vò, chứ ông đâu có sướng ích gì khi con Lành chưa trở về nhà, trong lòng ông như có lửa đang thiêu đốt, tuy ngoài mặt ông là ra vẻ cứng rắn nhưng ông bắt đầu hơi lo khi nghe bà vợ của mình đang than vãn, ông Tư lên tiếng trấn an.
-Ôi bà lo chi bà ơi! Tui dám cá với bà nó đâu bên nhà thằng Việt chứ hông đâu hết á, nó mà dễ gì ai ăn hiếp được nó mà bà lo, chút xíu nó lò mò về bây giờ nè.
Bà Tư đốp chát lại liền:
-Ông ngồi đó nói cho sướng cái miệng đi, con nhỏ nó sợ ông quá rồi, có gì thì từ từ nói, hở cái là ông lấy roi ra hăm he con nhỏ, nó lớn chồng ngồng rồi ông làm quá nó mắc cỡ với đám bạn trang lứa trong xóm rồi nó quẫn trí làm bậy bạ phải khổ cho con mình không?.
Nghe bà Tư nói vậy ông Tư như chợt tĩnh, ông cảm thấy áy náy trong lòng, thật ra ông cưng con Lành số một trong nhà luôn, bởi nó giống bà Tư như khuôn đúc, tánh tình nhu mì, làm việc học hành đều giỏi giang, với Lành nó chỉ có tội với ông Tư là không nghe lời đặt để của song thân trong đời sống hôn nhân, giận quá ông làm bộ lấy cây "Ba ton" chỉ để hù dọa thôi chứ thâm tâm ông đâu nào dám làm tổn thương con mình qua đòn roi, giờ thì con Út đang ở đâu thật sự ông cũng không hình dung ra.
Con Hiền cũng không khác gì tía má mình, nó cũng mong em Lành quay về nhà đón giao thừa với gia đình, mọi chuyện để qua tết hẳn hay, giờ nghe tía má than vãn nên con Hiền cũng rầu thúi ruột, Hiền lên tiếng đề nghị :
-Con thấy bây giờ mình chia nhau đến nhà những người quen trong ấp để tìm em Lành, nó lòng vòng trong xóm làng chứ không đi đâu xa đâu tía má đừng lo.
Bà Tư nghe con Hiền nói vậy bà lật đật đứng lên xỏ bàn chân vào đôi guốc vông, bà khoát thêm chiếc áo vào người để chống những làn gió lạnh ngoài trời. Bà nói:
-Con Hiền nó nói (dậy) phải đó ông, thôi mau mau đi kiếm nó (dìa) liền, để lâu không tốt đâu, tui qua xóm bên bà Bảy ú, men theo mấy nhà ven con rạch, còn ông (dới) con Hiền lần mò lên xóm trên, nhất là nhà thằng Việt may ra gặp nó, mà tui dặn nè, nếu gặp con Lành thì lựa lời ngon ngọt rồi dẫn nó (dìa), ông đừng mắng mỏ con nhỏ nữa nó tủi thân tội nghiệp.
Nói xong bà Tư rút trong hốc sau bếp lấy cây đuốc làm bằng lá Dừa , bà mồi lửa cháy cho ánh sáng bập bùng đủ để bà thấy đường để đi tìm đứa con thân yêu, riêng ông Tư và con Hiền thì cầm cái đèn Pin đi về hướng nhà thằng Việt .
Vừa qua khỏi cái cầu khỉ một đoạn chưa kịp tới nhà bà Bảy ú thì cây đuốc tắt ngúm khiến bà Tư phải lần mò từng bước một trong màn đêm u tịch của đêm ba mươi tết, chợt thấy phía trước con lộ đất có bóng dáng hai người đang bước đi nhắp nhô trên con lộ, nhướng mắt nhìn cho rõ bà Tư nhận ra một đôi trai gái đang đi về hướng mình, bà Tư đằng hắng một tiếng ra hiệu cho họ biết có bà đang đi tới, bà cất tiếng hỏi:
- Dì Tư má con Lành đây, ai đó bây ?
Nhận ra người quen trong ấp, chàng thanh niên lên tiếng:
-Con thằng Quân con ông Sáu Mạnh nè dì Tư, mà khuya khoắt dì đi đâu mà không có đèn đuốc chi hết vậy?
Bà Tư nghe tiếng thằng Quân mà mừng trong bụng, vì thằng Quân là một trong những đứa hay chơi chung với con Lành lẫn thằng Việt, gặp Quân ở đây thì thế mào cũng lần ra manh mối của con Lành, bà Tư hỏi:
-Chèn ơi! Quân hả con, bây giờ này còn lọ mọ ngoài đây chi (dậy), bây đi (dới) đứa nào đó, bây có thấy con Lành của dì đâu không?
Thằng Quân nó đâu biết chuyện con Lành bị tía rượt lúc chiều nay, nên nó trả lời theo kiểu "Tĩnh bơ sư cụ":
-Dạ chiều tới giờ con với Hà (cô gái đang sóng đôi với thằng Quân) coi Cải Lương ngoài chợ Quận, con nghe thằng Tám nó nói gặp thằng Việt với em Lành có mua vé coi Cải lương nữa, ngoài đó đông nghẹt nên con không biết hai đứa có ra coi hay không nữa.
Bà Tư nghe vậy bà cảm ơn thằng Quân, bà đỗi hướng để đi đến nhà thằng Việt...
***
Ông Tư và con Hiền có cái đèn pin trong tay nên đi đứng có phần dễ hơn bà Tư, sau khi tìm Lành khắp nơi không gặp cuối cùng ông với con Hiền đành phải đến nhà thằng Việt để tìm.
Vừa đến sân nhà thằng Việt ông Tư và con Hiền bắt gặp ngay ông Giáo Hậu là tía của thằng Việt đang ngồi chụm củi vào cái nồi nấu bánh tét, qua ánh lửa bập bùng ông Giáo Hậu nhận ra tía con của con Hiền sau khi tiếng con Ki ki sủa inh ỏi vì gặp người lạ đến, ông Giáo Hậu lật đật đi đến bên cạnh ông Tư rồi ông chìa tay ra để "Bông rua" ông Tư một cái để gọi là xã giao, ông Tư lúng túng giơ cả hai bàn tay nắm lấy bàn tay ông Giáo, bởi từ nào tới giờ lần đầu tiên ông Tư mới được bắt tay kiểu này, thường thì gặp nhau thân thiết thì vỗ vai, bá cổ, chứ cái khoản bắt tay kiểu "Tây" thì ông Tư chưa từng nên có phần lúng túng, ông Giáo Hậu thấy tía của con Lành đến giờ này thì chắc có chuyện gì hệ trọng lắm, vì theo lẽ thường giờ này thì ai nấy chuẩn bị bàn thờ để cúng giao thừa, vậy mà tía và chị của con Lành đến đây theo ông ắc có chuyện chẳng lành gì đây, ông Giáo kêu bà giáo rót nước mời khách sau khi mọi người yên vị quanh cái bàn bằng đá mài ngoài sân, ông Giáo thăm dò:
-Không biết có chuyện gì mà anh Tư với cháu Hiền ghé thăm giờ này.
Hớp miếng nước trà, ông Tư ngần ngại hỏi :
- Tui hỏi thiệt anh Giáo nghe, từ sáng tới giờ anh có thấy con Lành nhà tui qua đây chơi với thằng Việt con anh không?
Ông Giáo nghe hỏi như vậy ông chưng hững, quả thật là ông không thấy hai đứa từ sáng đến giờ bên nhau nên ông mau mắn trả lời:
- Hôm qua thì có, còn sáng tới giờ tui không thấy anh Tư ơi, bộ....bộ có chuyện gì hả anh Tư.
Chút bối rối trong lòng, ông Tư thú thật việc ép duyên con Lành, rồi sự phản kháng của nó nên mới ra cớ sự, rồi chút rưng rưng trong giọng nói, ông Tư tâm sự:
-Tui thấy con nhỏ với thằng con anh thương nhau quá, tui nghĩ lại rồi tui chấp nhận cho hai đứa nó bên nhau, anh Giáo thấy sao ?
Mấy lúc gần đây ông Giáo nghe thằng Việt than vãn việc tía của Lành không muốn hai đứa bên nhau suốt đời, ông Giáo cũng nóng ruột lắm, ông dự định sau cái tết này ông sẽ đích thân sang để gặp vợ chồng ông Tư về chuyện hai đứa nhỏ, thời may hôm nay ông Tư đến và chấp nhận cho hai đứa nên duyên chồng vợ thì còn gì hơn thế nữa, ông Giáo mừng vui ra mặt ông liền nói:
-Tui cảm ơn anh sui, ý anh Tư chứ, thôi thì anh tính vậy cũng phải, thấy hai đứa nó thật tình bên nhau tui cũng mừng, ra giêng đi rồi tụi mình bàn bạc chuyện cho hai đứa há anh Tư.
Rồi chừng như nhớ chực lại con dâu tương lai của mình đang mất tích, anh sui đang hớt hải đi tìm, ông Giáo chột dạ hỏi:
-Ngoài nhà tui ra, anh Tư nhắm cháu nó đến nhà nào không?
Ông Tư chưa kịp trả lời thì ngoài sân con Ki ki làm dữ lên với ai đó vừa bước vào sân nhà, bà Giáo mau mau ra xem thấy bà Tư đang lần mò bước vô, bà Giáo mừng rơn la lớn lên:
- Ông Giáo ơi ! Có chị sui , ý lộn có chị Tư tới nữa nè.
***
Để cho ông bà Tư và con Hiền nói chuyện với chồng mình, bà Giáo bước ra hè canh nồi bánh thay cho chồng, đang lui cui chụm lửa, bổng bà giáo nghe tiếng sột soạt trong lùm cây bông Bụp rậm rạp kế bên, bà liên tưởng ai đang rình rập nhà bà, gai ốc nỗi lên đầy mình bà bất ngờ la làng lên:
- Bớ người ta trộm, trộm....
Mấy người hàng xóm gần bên kẻ cầm cây, người cầm dây thừng chạy đến cứu ứng, trong nhà ông Giáo, vợ chồng ông Tư, rồi cả Hiền cũng chạy ùa ra, sẳn cây đèn pin trong tay, ông Tư rọi thẳng vô bụi rậm rồi quát lên:
-Tụi bây chui ra chưa? Tết nhất mà đi ăn trộm hả con, ra mau không thôi tao khện cho một cây là xi cà que hết ăn tết nghe con.
Kêu hai ba lần mà đám "ăn trộm" này thật lì lợm cố thủ không thèm ra, giận quá một ông hàng xóm nói:
- Để tui, trị tụi bây không được tao đi xuống đất bằng đầu luôn.
Có tiếng cười khúc khích rồi một giọng của bà nào đó kèm theo nhằm chọc quê câu nói của ông nọ :
-Thôi bây ơi! Mần tài lanh hoài, tụi nó hổng chui ra là bây đi bằng đầu rụng tóc hết nghe con.
Mọi người nghe bà nọ nói họ càng cười rần lên sảng khoái, ông nọ xách một gàu nước tạt mạnh vào bụi rậm, chợt mọi người nghe rõ ràng tiếng của thằng Việt la lên:
-Chú Bảy này kỳ cục quá nha, để từ từ con ra, mắc chứng gì chú tạt nước tụi con ướt như chuột lột hết nè.
Mọi người nhận ra, ai có dè thằng ăn trộm rình mò là con chủ nhà, đã vậy khi thằng Việt kéo một người nữa ra khỏi bụi rậm thì người la lên đầu tiên là ông Tư:
-Trời con Lành hả bây, mắc chứng gì hai đứa lủi vô đó làm chi cho khổ thân vậy không biết, may là chú Bảy tạt nước lạnh, chứ gặp nước nóng là tụi bây tiêu tùng luôn rồi.
***.
Sau khi lau khô mình mẩy xong thằng Việt lấy bộ đồ của bà Giáo mặc cho con Lành, hai đứa tội đồ ra trình diện mọi người, con Lành kể lại sự tình, sau khi bị tía rượt nó chạy lòng vòng đánh lạc hướng ông Tư rồi nó chuồn êm về đây gặp thằng Việt, hai đứa trốn trong bụi rậm từ trưa đến tối, thằng Việt vô bếp tha hai tô cơm nguội với cá kho quẹt hai đứa ăn ngon lành, ăn xong mệt mỏi hai đứa ôm nhau ngủ đến khuya rồi lọ mọ định vô nhà do muỗi cắn quá mạng, chưa kịp vô nhà con hai đứa thấy ông Tư và con Hiền đến nên "chém vè" tại chổ luôn, tưởng đâu yên thân ai dè đám kiến lửa đánh hơi mấy hột cơm ăn rơi rớt lúc ban chiều chúng kéo đến cắn luôn hai anh chị khiến hai đứa vừa gãi vừa đập muỗi nên tiếng động làm bà Giáo nghi là trộm rồi la làng ....
***
Giao thừa đến, ông Giáo cầm vợ chồng ông Tư ở lại cùng hai đứa con gái rượu cùng đón giao thừa với nhà mình, vui nhất là thằng Việt với con Lành vì từ nay hai đứa được công khai bên nhau không còn cảnh lén lút nữa, đang uống rượu mừng giao thừa thì chú Bảy hàng xóm làm tài lanh khi nãy bưng con gà xé phay qua đặt lên bàn cùng nồi cháo thơm lừng, chú nói:
-Việt ơi! Chú Bảy xin lỗi bây nghe, ai có dè hai đứa bây chui vô bụi (mần) chi, may là tao không khện bây cây nào, bằng không giờ đây bây vô nhà thương, còn tao vô "ấp" nằm rồi, xui mà hên chú Bảy tạ tội với bây bằng con gà với nồi cháo thím Bảy để dành cho chú nhậu đó.
Nghe ông Bảy nói xong ai nấy vỗ tay rân trời, tiếng vỗ tay vang lên thay pháo đón mừng năm mới đang về trên quê hương yêu dấu.
Hai Hùng SG
***
22
Con Tàu Chở Đầy Sự Lạ
Lên tàu cậu tôi lo nói chuyện văn chương với khách còn tôi lo ăn. Hết cái đùi gà rô-ti tươm mỡ đến miếng giò dày kẹp giữa ổ bánh mì nóng giòn, rồi bánh kẹo, trái cây, nước giải khát. Tôi chưa kịp nuốt thứ này đã có thứ khác tiếp đến. Đời tôi cho tới lúc đó chưa khi nào được ăn ngon và có người săn sóc như cô này. Cô ấy đưa thức ăn, ngồi nhìn tôi, cười thích thú.
Lúc đó tôi mười hai tuổi, còn sợ người lạ. Ban đầu tôi từ chối, sau cô ấy ép quá, thức ăn ngon, tôi không biết làm khách gì cả. Không hiểu tại sao mỗi khi đi xa bằng ô tô hay tàu hoả tôi thường thấy đói. Những người chung quanh tôi cũng thế. Họ nói vì đi đường xa, đổi gió. Cô gái cũng ăn, nhưng rất ít. Cô dùng cam quít, ăn rất chậm, cẩn thận, có lẽ cô sợ hư son môi. Cô cho tôi ăn nhưng không mời hai người kia, có thể cô để cho họ tự do nói chuyện. Hai người đàn ông vừa nói chuyện vừa nhìn phong cảnh hai bên đường. Họ chẳng chú ý gì tới hai cô cháu chúng tôi.
Sau kỳ nghỉ hè, cậu tôi thay mặt má tôi dẫn tôi vào Sài Gòn nhập học. Đi tới chỗ lạ, má tôi muốn làm sang, muốn khoe đứa con trai nên bảo tôi mặc bộ đồng phục của học sinh một trường Pháp nổi tiếng thời đó. Lũ học trò chúng tôi đều tự hào về ngôi trường và bộ đồng phục trắng may bằng ga-ba-đin có đính nhiều nút đồng sáng loáng. Trên áo có thêu huy hiệu nhà trường và có cả cái nón kê-pi chạy chỉ kim tuyến rất đẹp. Trông chúng tôi chẳng khác gì sĩ quan hải quân tí hon. Chắc cô gái tưởng tôi con nhà giàu hay con nhà quyền quí mới được vào học ngôi trường này. Sự thực tôi được đi học cũng nhờ uy thế bên ngoại tôi, tiền ăn học cũng nhờ ngoại vì cha tôi mất sớm, má tôi phải tần tảo nuôi con.
Nói thực ra bộ đồng phục này đem lại vinh quang thì ít, làm khổ thì nhiều. Mỗi lần áo quần dơ chúng tôi thường bị đánh đòn, có khi còn bị cấm túc mấy cái chủ nhật. Màu trắng rất dễ bẩn, chúng tôi là trẻ con hiếu động, làm sao tránh được vết dơ. Cô gái lấy khăn ăn quàng cổ cho tôi và lót một tấm khăn khác lên đùi. Thỉnh thoảng cô còn phủi vụn bánh mì rơi trên ghế.
Cậu cháu tôi chỉ biết hai người này từ lúc lên ga Nha Trang hồi ba giờ chiều. Tàu tới Ba Ngòi cách Nha Trang sáu mươi cây số hai bên đã xem như quen nhau lắm rồi. Cậu tôi và người đàn ông nói chuyện văn chương. Tôi biết được vì lâu lâu nghe hai người ngâm thơ, thơ Việt cũng như thơ Pháp và thơ chữ Hán. Hai người đàn ông say sưa chẳng thiết gì việc ăn uống.
Trong Va-gông cút-sét (toa giường nằm) chia thành nhiều ô, mỗi ô có bốn giường, hai trên hai dưới, giường nệm loại sang. Hai người đàn ông giành ngồi gần cửa sổ hóng mát và xem phong cảnh. Người đàn bà chăm sóc cho tôi. Bữa ăn này hoàn toàn bất ngờ. Cậu tôi, người Tây học đi đường không thích đem theo cơm nắm, cơm vắt. Trước khi đi, cậu dặn má tôi đừng lo thức ăn, trên xe người ta bán chán vạn. Ngược lại đi có một đoạn đường mà cô kia làm như cuộc viễn du, đem theo đủ thứ. Trong chiếc làn đan bằng mây cô ta rút ra nào gà rô-ti, chả giò, bánh mì, trứng gà luộc theo kiểu la-cót, trái cây, bánh kẹo, nước trà, khăn mặt, khăn ăn... Tất cả khăn tay đều đắm một thứ hương thơm rất đàn bà, giống như mùi thơm nơi má tôi treo áo dài. Tôi không đoán được tuổi cô vì tôi lúc đó chỉ mới mười hai, song tôi thấy ngưòi đàn ông đi với cô lại quá già. Về sau biết họ là vợ chồng, tôi chưa thấy cặp nào chênh lệch về tuổi tác với nhau đến thế. Người vợ đẹp và trẻ bao nhiêu thì ông chồng già và xấu bấy nhiêu. Da mặt ông sần sùi, gò má và chóp mũi đỏ như quả cà chua, hai vành tai quăn queo như tai chuột. Hồi ấy tôi chỉ thấy ông xấu xí và dễ sợ, sau này tôi biết đó là bộ mặt của người mắc bệnh phong hủi, đã tới thời kì nặng . Khi ấy tôi mới thấy cảm thông sâu sắc nỗi khổ của người vợ trẻ này. Từ nhỏ tôi chỉ thích bạn gái, họ dịu dàng, bạn trai thường ăn hiếp tôi. Tôi cũng thích phụ nữ hơn đàn ông. Phụ nữ chăm sóc còn đàn ông ép tôi học mà còn đánh đòn.
Chỉ mới gặp cô gái trên một đoạn đường ngắn cô ta đã chinh phục hoàn toàn tình cảm tôi. Hình như cặp vợ chồng này giàu có nhưng không có con. Tôi không thấy người đàn bà có vẻ gì đã làm mẹ. Cô trẻ lắm, may ra chỉ bằng nửa tuổi chồng. Nét mặt, giọng nói, cách trang phục đều trẻ và có vẻ "Tây". Ngay như ông cậu tôi, một người đàn ông bốn mươi hai tuổi, hai đời vợ, từng trải, giỏi nhảy đầm, sành chuyện trai gái thế mà lúc lên xe cũng đã lầm. Cậu tôi thốt lên một câu làm quen vô cùng tai hại:
- Chắc hai bố con du lịch Sài Gòn?
Người đàn ông chữa thẹn, đỡ lời:
- Tôi đi chữa bệnh, còn nhà tôi đi chơi.
Cậu tôi ngượng chín người, cố vớt vát:
- Ôi bà nhà biết giữ nhan sắc nên trông còn trẻ quá, ai không lầm?
Nghe thế cô gái liếc xéo chồng, cười. Lúc đó tôi chưa biết nụ cười biểu lộ sự đau đớn. Sau này tôi hiểu ấy là cô muốn chồng chia xẻ nỗi bất hạnh này.
Cô kéo tôi sát vào người để phủi mảnh vụn thức ăn. Tôi thấy cô trẻ thật. Lần đầu tiên tôi có dịp nhìn thật gần khuôn mặt một người đàn bà không phải là mẹ mình. Tôi thấy làn da cô trong bóng mịn màng. Làn da này không thể của người lớn tuổi, Má tôi trên bốn mươi nên da đã thô, có dùng phấn cũng không che lấp được. Mũi cô thanh tú, cao và trống, kiểu mũi đàn bà Pháp. Phải nói sau này nhiều chục năm, kiểu mũi đó vẫn ngự trị trong sự thẩm định về vẻ đẹp phụ nữ của tôi. Tôi luôn luôn có cảm tình với những ngưồi đàn bà có vẻ đẹp tây phương. Hoá ra thẫm mĩ hình thành ở trong ta rất sớm . Môi cô tô son màu huyết phượng, cẩn thân, sắc nét. Một làn môi rực rỡ. Về sau tôicũng thích vẻ rực rỡ. Nhu mì kiểu Á Đông, tôi không chuộng. Tôi ngạc nhiên vì sao cô ấy cũng ăn uống như tôi mà son môi không nhoà. Cặp mắt cô to và đẹp lắm. Lông mi dài cong như lông mi giả. Tôi chắc trong huyết quản cô có dòng máu tây phương. Đó là một cô gái lai nhưng không rõ lắm vì tóc cô không vàng và quăn. Lông mi cô dù không chải sáp nhưng cong, rời ra từng sợi, chia đều và đẹp lắm. Nghệ thuật trang điểm của người này hơn hẳn chị tôi. Có lẽ chị tôi không đến nỗi tệ nhưng vì cái gốc không đẹp nên son phấn không làm nổi lên được. Tồi nhất là cái "gu" nước hoa của bà ấy. Chị tôi dùng mùi quen quá, giống như mùi ô đờ cô-lôn đựng trong chai nửa lít mà lão Tạo cắt tóc dạo, hớt xong đổ mấy giọt vào hai bàn tay xoa lên mặt khách làm cho mấy chỗ lão cạo đứt rất rát.
Tôi thấy mình đang đứng giữa cặp đùi người đàn bà đẹp và trong làn hương son phấn rất dễ chịu. Mới mười hai tuổi nhưng tôi đã biết liên tưởng, biết so sánh. Tôi thấy cái khuôn mặt trẻ trung kiều diễm như thế này thì làm sao kề cận được với bộ mặt già nua sần sùi, chỗ đỏ chỗ trắng dễ sợ của người chồng cho được? Biết cô ta có gớm ghiếc hay không? Họ có ngủ chung giường không? Chỉ một vài phút sau tôi biết việc này.
Cô chăm sóc khuôn mặt tôi xong, tới hai bàn tay bê bết mỡ và đủ thứ bánh mứt. Cô lấy khăn ướt lau cho tôi, lau thực kĩ. Tôi cho rằng đã quá sạch song cô gái chưa chịu. Cô nắm bàn tay trẻ con tôi đưa lên mũi, cô nói:
- Chưa được.
Rồi cô nói:
- Thứ nước mắm Phan thiết ướp giò này, lau không sạch, phải có nước với xà phòng.
Cô đứng lên, với tay lấy bánh xà phòng thơm và không cần hỏi han hai người đàn ông, dẫn tôi ra khỏi khoang. Chúng tôi đi qua ba hoặc bốn khoang khác. Có nhiều ngưòi nhìn ra, chắc họ tưởng mẹ dẫn con. Chúng tôi rất giống mẹ con vì cùng sạch đẹp và sang trọng như nhau.
Thuở ấy hình như tôi là đứa bé rất dễ thương. Tôi nghe anh chị kể lại, lúc nhỏ tôi là một chú bé bụ bẫm, rất đẹp. Mới mười một tháng, má tôi đã bế tôi đi thi bê - bê (thi bé đẹp). Tôi trúng giải nhất. Phần thưởng là hai lon sữa hiệu Nestlé và cái áo len săng-đai (Ao ấm dài tay) màu đỏ. Với chiếc áo này tôi đã ngã một cái gần chết vào lúc giáp năm. Cả nhà nói tôi được mười hai bà mụ đỡ. Lúc học tiểu học, nhờ có nước da trắng trẻo, mỗi khi nhà trường có diễn kịch, tôi dược đóng vai thiên thần, có đôi cánh trắng làm bằng giấy. Sau này mỗi khi trong lớp diễn kịch cần vai nữ, không có nữ sinh, tôi cũng được chọn đóng vai giả. Chỉ cần bôi chút phấn son, lấy khăn trùm cái đầu trọc lại, tôi đã biến thành một giai nhân.
Thuở đó xe lửa có vài toa sang dành cho người Pháp và người bản xứ làm quan hay giàu có. Cuối toa cút-sét có phòng toa-lét (phòng vệ sinh) rộng rãi, đèn sáng trưng, la-va-bô bằng sứ trắng tinh, có vòi nước bằng đồng đánh bóng sáng ngời, chung quanh phòng gạch men trắng và không một mùi xú uế. Cô dẫn tôi vào phòng toa-lét, quay lại khoá trái cửa gỗ rất chắc chắn đánh véc-ni màu cánh dán, có tay nắm hình quả xoài làm bằng sứ trắng, rồi cài chốt bên trong lại. Cô nói: "Sợ xe lắc le, cánh cửa bật ra" Đứng nơi đây tôi thấy sợ và ngợp. Xe chao đảo mạnh quá, chắc là đang đi qua đoạn đường xấu và chạy rất nhanh trong cơn gió thổi ngược. Tiếng gió, tiếng xe gào thét dữ dội. Tôi phải tựa lưng vào tường, nếu không thì ngã. Cô mở nước giặt mấy chiếc khăn, vắt khô, móc lên đinh. Cô kéo tôi lại la-va-bô rửa mặt cho tôi, rửa hai tay, lau khô.
Cô đặt tôi đứng tựa thành xe rồi ngồi như quì trước mặt tôi. Cô sửa lại áo quần và lặng lẽ ngắm nhìn tôi. Cô hất ngược mái tóc loà xoà trước trán tôi và rất tự nhiên cô đặt lên trán tôi một chiếc hôn vô cùng trìu mến. Hôn xong cô giữ chặt vai tôi, đẩy tôi ra một đọan, nheo mắt nhìn tôi mỉm cười. Ánh mắt cô loang loáng. Cô lại kéo tôi vào, hôn lên trán, đúng vào nơi cũ, lại đẩy ra, nhìn và cười. Rồi liên tiếp là cái hôn thứ ba, thứ tư và hôn tới tấp. Lần này cô không đẩy ra nhìn và cười nữa. Mắt cô nhắm nghiền, sau đó cô không hôn trán, môi cô chuyển xuống dưới hai mi mắt, rồi má, rồi cằm. Cặp môi cô nhờn son, hăng hăng hơi người, mùi cam quít. Cặp môi rối rít tìm kiếm cái gì trên mặt tôi. Tôi sợ, tính kêu lên nhưng miệng tôi đã bị môi cô bịt chặt. Hồi lâu tôi mới thốt lên được:
- Mạnh quá, cô làm em ngạt, em đau!
Cô như sực tỉnh, buông tôi ra, cười gượng, chữa lỗi?
- Dễ thương lắm, thơm tho lắm, không còn hôi hám như trước nữa.
Tôi nói:
- Em muốn đi ra.
- Được rồi, để cô sửa soạn chút đã.
Cô đứng lên, nhìn khuôn mặt mình trong gương, hơi sững sờ. Hình như chính khuôn mặt cô, một khuôn mặt đàn bà rất thật, rất nghiêm trang, đánh thức cô bừng tỉnh, nhắc nhở cho cô biết mình là ai, lôi cô quay về hiện tại. Cô thoáng buồn. Cô chải tóc, sửa quần áo, tô lại son môi. Cô xoay người nhìn trước nhìn sau thực kỹ. Cô đưa tay nắm cái chốt cửa toan mở, chợt dừng lại, nói: "Ôi may quá, một tí nữa đã mang bộ mặt hề ra cho mọi người cười!". Rồi cô bế tôi lên cao để có thể nhìn mặt mình trong . Ôi đúng là bộ mặt hề. Mặt tôi đầy vết son môi, tóc tai bù xù. Tôi còn nhớ trước đây, trong khi ăn uống, người phụ nữ xinh đẹp này đã khéo léo đến nỗi không để lại một vết son nhỏ nào trên những chiếc cốc làm bằng giấy, thế mà giờ đây mặt tôi đầy vết son đỏ, đủ thấy phút giây ấy mãnh liệt biết chừng nào. Tôi đã chìm đắm giữa một vùng hương thơm son phấn, thức ăn và cái chất son môi nhờn nhờn trong một khung cảnh xáo động ghê gớm của tiếng gió hú, tiếng bánh sắt siết trên đường ray, bảo sao tôi không hoảng? Người đàn bà lau thực kĩ vết son trên mặt tôi, sửa lại áo quần, rồi xoay tôi một vòng kiểm soát lại lần cuối cùng trước khi dẫn tôi ra.
Tôi không ý thức được câu chuyện xảy ra trong bao lâu. Thời gian đó hai người đàn ông có đi tìm hay lo lắng gì cho chúng tôi hay không? Trở về toa cũ tôi thấy hai người đàn ông vẫn nói chuyện. Họ hoàn toàn không chú ý tới sự vắng mặt của chúng tôi. Lúc này đã hoàng hôn. Cảnh vật hai bên đường đã chìm vào một thứ giống như khói màu vàng, ngày càng hoá đen. Hàng cây hai bên đường lướt qua như chiếc bóng kéo dài vô tận . Gió lạnh tràn vào phòng, đồng ruộng mờ mờ, không biết nơi đâu là bờ, xóm làng mất dần trong màu núi tím than. Những tàn lửa từ ống khói bay ngược về phía sau, gió chiều thổi khói vào khoang tàu. Người đàn ông hạ cửa xuống.
Cô ấy chuẩn bị món ăn cho chồng và cậu tôi. Không ai hỏi nhưng cô ấy vẫn nói láo: "Cu cậu đi xe không quen, lại ăn nhiều, vào toa-lét trút ra hết rồi. Chắc bây giờ đã đói" . Mười hai tuổi, tôi đã biết khôn, tôi không ăn và cũng không cãi. Tôi leo lên giường ngủ. Xe lắc lư , tiếng động xình xịch đưa tôi vào giấc ngủ ngon lành. Tôi chẳng bị câu chuyện vừa qua làm cho khó chịu. Tôi ngủ dễ và sớm như gà.
Sáng hẳn, xe tới Sài Gòn. Khi hai cậu cháu tôi thức dậy, xe đã vào sân ga. Mọi người chuẩn bị hành lý xuống. Hai người đàn ông lưu luyến chia tay. Tôi tưởng cũng được cô gái ôm hôn tiển biệt. Nhưng không, cô không nhìn đến tôi dù một ánh mắt thoáng qua...
( viết theo hồi ký của ba tôi )
Quý Thể
***
21
Tín Hiệu Mùa Xuân
Trông họ giống như một cặp tình nhân mới yêu nhau. Mới yêu nhau nếu yêu lâu, người ta cũng đã lười chớ chẳng được tình tứ đến thế. Cách sống của cặp nầy khiến cho người chung quanh đem ra bình phẩm bàn tán, dị nghị. Có người khen, cũng có người chê. Chị Việt nói :" Trông anh Tưởng với chị Viên giống như hai con chim bồ câu lúc nào cũng quyến luyến mớm mồi cho nhau. Đi đâu đều có đôi, ăn gì cũng ngồi cạnh nhau, gắp thức ăn, chăm sóc cho nhau. Họ mê nhau chớ chẳng phải vợ chồng. Tình tứ đến thế là cùng! Vợ chồng mình chỉ mong được một phần mười như thế đã mừng rồi..." Mụ Nguyệt lại nói:" Vợ chồng đầu ấp tay gối, ăn đời ở kiếp với nhau, chớ đâu phải ngày một ngày hai. Phải biết chuyển cái chữ tình thành cái chữ nghĩa, như thế mới bền. Ở trong phòng muốn làm gì cũng được, ra chỗ đông đúc âu yếm với nhau như kiểu xi-nê ai chịu được? " Mụ Tám bánh canh lại nói :" Ngó dị òm! Người mình chớ Tây Đầm gì mà ra đường ôm vai, hót cổ nhau ở chỗ đông người, không biết chướng!"...
Nếu mấy người ấy biết được cách sống của cặp nầy ở trong nhà khác thường hơn thế nữa, họ còn bàn tán đến đâu. Ai đời đã là vợ chồng, sống chung một nhà mà có khi còn thư từ cho nhau, giấu dưới gối. Nội dung những thư từ thì tỏ lòng yêu mến trách móc giận hờn, chẳng khác gì trẻ con. Tối, trước khi đi ngủ chàng và nàng còn "good night", chúc mộng đẹp . Sáng sau chàng đi làm còn hôn vợ từ giã mong sớm gặp nhau. Trưa về chờ đón trước cửa. Sinh nhật, kỉ niệm ngày cưới lễ lạc linh đình.
Nhà họ không hề thiếu hoa tươi. Những lời khen tặng nhau. Họ sống đúng theo "sách vở" . Thời buổi khó khăn nầy hiếm có gia đình nào như họ.
Mọi sự đều có căn nguyên của nó. Trước tiên là điều kiện kinh tế. Nếu vợ chồng đầu tắt mặt tối thì còn hơi sức nào bỏ công làm cái chuyện "tiểu thuyết" như thế ? Đàng nầy cô vợ nhờ hưởng khoảng hồi môn lớn, với cơ sở sản xuất tháng nào cũng có đồng vào, mà lại nhiều nữa, tiêu không hết, không sống phong lưu cũng uỗng. Chị Viên còn thừa hưởng của gia điønh cái tính nghệ sĩ, lãng mạn, ảnh hưởng nặng nề phim ảnh TV và cũng bởi tiểu thuyết tâm lí ái tình và nhất là thi ca ướt át. Chị ta cố sống sao cho thật giống những nhân vật tài tử giai nhân ấy. Thuở còn đi học chị Viên đã có ước mơ, sau nầy tổ chức cuộc sống và hướng cho người bạn đời của mình, ngày nào cũng vui như ngày mới cưới, đêm nào cũng thú vị như đêm tân hôn. Cuộc đời phải thi vị hoàn hảo như thế từ ngày đầu tiên cho đến khi tóc bạc răng long từ giã cuộc đời nầy. Viên sợ nhất là thiếu tình yêu. Nàng còn sợ vợ chồng nhàm chán nhau, sự nhàm chán là kẻ thù của hạnh phúc. Muốn được thế, mỗi ngày phải là một ngày mới, phải tìm ra niềm vui mới lạ để cuộc sống luôn luôn lấp lánh ánh sáng hạnh phúc diệu kì. Muốn được thế còn phải có thêm một điều kiện nữa là người bạn đời cũng phải đồng quan điểm.
Cũng may, anh Tưởng chồng cô là một người hết sức ba phải. Vợ nói gì anh cũng nghe theo. Anh lí luận: Chìu vợ lợi trăm bề, được ăn ngon mặc đẹp, việc nhà chẳng cần mó tay, cơm nước tiền nong chi tiêu trong nhà đã có người lo. Vậy thì chống lại vợ làm gì? Cái tự ái hão huyền của thằng đàn ông ích lợi gì? Lí luận nầy cũng đặt trên cơ sở "tương quan lực lượng kinh tế". Cán cân nghiêng hẳn về phía người vợ. Chị giàu anh nghèo. Anh tứ cố vô thân. Mỗi khi mấy người bà con xa của anh đến thăm chỉ làm anh xấu hổ với vợ. Anh xuất thân từ một gia đình nghèo. Cái vốn của anh chỉ là bộ mặt điển trai với cái bằng kĩ sư tại chức.
Tuy thế anh Tưởng cũng có công việc làm trong nhà. Anh chọn cho mình một loại công việc nhẹ. Tuy nhẹ song đó là công việc mang tính sáng tạo, giống kiểu lao động nhà văn, nhà thơ... Ấy là việc ngày ngày tìm lời tán tỉnh vợ. Những câu khen tặng không thể cứ ngày nầy sang ngày nọ không được thay đổi. Nói rặt một câu thì chán chết. Phải đổi mới, giống như hàng ngày đổi món ăn. Vì thế anh cũng phải động não tìm cái mới. Thời gian đầu có bao nhiêu câu khen tặng hay ho anh đã phung phí hết cả rồi. Thành ra cái vốn ấy đáng lí ra để dùng cho một thời gian lâu dài, anh tiêu nhẵn trong có mấy tháng đầu sau lễ cưới. Vì thế anh phải sáng tạo, sáng tạo mãi. Cũng may Tưởng là người sáng dạ. Khi đã cạn những lời xưng tụng, anh tìm "nguồn" trong sách vở, nhất là trong mấy bộ tiểu thuyết ái tình rẻ tiền, loại in chữ lớn, dày cộm. Tưởng mở sổ tay ra chép mấy câu văn hay ho nầy, học thuộc lòng, có dịp đem ra nịnh vợ. Lần nầy anh chàng đã biết tiết kiệm lời khen, mỗi ngày chỉ đem ra dùng một câu, không dám phung phí như buổi đầu. Nhưng rồi nguồn nầy cũng cạn. Tưởng lại tìm đọc. Anh trách sách vở ngày nay viết bật bạ quá. Trai gái bây giờ chúng chẳng bỏ công tán tỉnh nhau, mới quen đã lôi vào phòng ngủ. Tưởng thầm oán xã hội ngày nay đã đánh mất sự lãng mạn. Tưởng xoay qua tìm nguồn trong thơ. Lúc đầu chưa có kinh nghiệm, anh vớ phải mấy tập thơ siêu thực. Anh cầm lên ngâm nga, chưa được bao nhiêu câu đã hoảng hồn vì thơ ngày nay chẳng có câu gì nghe êm tai cả. Đại loại như:" requiem, hom hem, tèm lem...!" Cũng may mấy năm gần đây thơ tình lạm phát. Nhớ lại cái thời thơ tình là món hàng quốc cấm, bài nào có chữ "em ơi" là bị sổ toẹt ngay. Đích thị là "một thời để nhớ". Song con người luôn luôn hành động theo kiểu quả lắc đồng hồ, chẳng bao giờ nó chịu đứng yên ở cái thế trung dung mà thường từ cực tả sang cực hữu. Thơ cũng thế. Sau khi được buông thả, thơ chuyển sang hướng cực hữu, thể hiện rõ nhất ở chỗ người người làm thơ tình. Lão ông lão bà gần đất xa trời cũng miệt mài làm thơ tình. Thơ tình đủ cấp độ, từ phường xã tới trung ương. Anh Tưởng cứ việc theo kiểu trích cú tầm chương, chép vào sổ tay, lâu lâu xổ ra một câu. Cái lỗ tai của cô Viên cũng tiến kịp với trào lưu văn nghệ hiện đại. Trình độ nàng cũng đã thưởng thức được những câu tán dương cao cấp, trừu tượng, siêu thực...Viên rất bằng lòng về người chồng có thể gọi là lí tưởng nầy. Những hoài bão lớn trong cuộc sống của nàng đã thành hiện thực. Chỉ còn vấn đề...
Trong cuộc sống, có một loại sinh hoạt tối quan trọng, đó là việc gối chăn. Viên còn muốn trộn lẫn cái chất lãng mạn vào lĩnh vực "trần tục" nầy. Nàng không thể chấp nhận chủ nghĩa thực dụng đi vào trong cái chốn đầy sự tế nhị nầy. Chỉ riêng cái cách mời gọi nhau cũng là một vấn đề.
Làm sao để người bạn tình biết rằng mình đang cần và lúc nào là an toàn và thích hợp nhất. Lâu nay Viên áp dụng ngừa thai theo phương pháp Ogino, nàng rất sành tính toán, lại thêm cái tính cẩn thận, muốn được an toàn tuyệt đối, nên tính tới tính lui, trừ hao, mỗi tháng chỉ còn lại có hai ngày. Hai ngày ngắn ngủi làm sao để chàng biết nhiệm vụ. Việc nầy không thể dùng lời lẽ, vì dù có văn hoa văn vẻ cách mấy cũng thành phàm tục. Cũng không thể làm theo kiểu mấy ông lớn ở cơ quan, đầu tuần giao ban và sau đó "lên lịch công tác". Theo Viên phải có một loại tín hiệu, tín hiệu hồng, hín hiệu xanh, gọi chung là tín hiệu mùa xuân, để báo rằng người phụ nữ đang ở trong mùa xuân, sẳn sàng nở hoa kết trái, và rất cần ong bướm. Lọai thông điệp mật nầy chỉ có hai người biết. Nghĩ mãi không ra. Mọi phát kiến lớn về khoa học thường thường đến do tình cờ. Ở đây cái phát kiến ra "thông điệp mùa xuân" cũng xuất hiện một cách tình cơ.
Một hôm hai vợ chồng ngồi ăn cơm trưa. Chàng thấy dưới mái tóc ngắn đen bóng cắt theo hình cánh chim sắc cạnh, có chiếc hoa tai bằng nhựa, một tấm nhựa dày màu hồng hình quả tim vỡ. Chàng cất lời khen:
- Trông thấy chiếc hoa tai tim vỡ em đeo lòng anh thấy rạo rực. Anh thèm khát yêu em...
Sự thật vì buổi trưa hôm ấy trời rất nóng, chàng vừa nốc hai chai bia Saigon, chất cồn chảy rần rần trong máu nên mới có lời khen ngợi "mạnh bạo" này. Song lời ca ngợi ấy làm khuấy động sâu xa lòng nàng. Từ đó không hẹn mà cả hai cùng chấp nhận chiếc hoa tai tim vỡ là dấu hiệu mùa xuân đã tới đối với người phụ nữ lãng mạn. Mỗi lần nàng mang nó, anh ta hiểu ấy là nàng bật đèn xanh cho anh hành động.
Phát kiến thật vĩ đại giải quyết một cách hết sức tế nhị cái chuyện vô cùng tế nhị giữa hai người. Nó chính là "tín hiệu mùa xuân" trong lòng và thể xác người nữ. Nó thành hình trong tình cờ và giúp cho vợ chồng giải quyết được việc lớn. Nó hoàn thành trách nhiệm tốt trong một thời gian dài, kể ra cũng gần mười năm. Thế nhưng tình hình giữa cặp này có thay đổi. Nàng ngày càng phây phây, ở tuổi tiền mãn kinh, nàng béo ra, cổ có ngấn, da bụng dày cả tấc. Trong khi ấy người nam lại rơi vào tình trạng đi xuống, sức khoẻ xuất hiện nhiều vấn đề. Những dấu hiệu đi xuống hiện rất rõ nơi cái đồ thị sinh lý người nam. Đồ thị lúc đầu chỉ là một đường cong nhẹ, về sau, mũi tên đi xuống, chúc xuống nhiều hơn. Cuối cùng nó gần như rơi tự do. Tội nghiệp, trong khi đó con đường người nữ lại có xu hướng đi lên, cuối cùng nó phóng lên cao như tên lửa, rồi thì hình dáng đồ thị người nữ như ớt chỉ thiên!
Lúc này anh Tưởng thấy nàng mang hoa tai liên tục. Nhiều lần chàng giả bộ không chú ý, không thấy. Nàng cố làm cho chàng thấy, và mỗi khi ngồi gần chàng nàng còn vén cao mai tóc lên, rung rinh lúc lắc đầu để chiếc hoa tai rung động, gây chú ý. Thế nhưng có gây chú ý cách gì anh chồng cũng làm bộ không thấy. Song làm lơ mãi không được. Đôi khi anh Tưởng thấy giận chiếc hoa tai mùa xuân. Anh nghĩ phải chi không có nó, nó biến mất đi thì hay biết bao nhiêu ! Và thế là anh tính ăn trộm hoa tai. Anh biết nàng cất nó ở đâu. Sau anh nghĩ vô lí quá. Chẳng cần là Sec-lốc-hôm cũng đoán ra thủ phạm. Có thằng ăn trộm nào khó khăn vào nhà để chỉ ăn cắp chiếc hoa tai bằng nhựa rẻ tiền? Song anh chưa biết tính thế nào thì một hôm...
Một hôm anh chở vợ đi chợ, đang đi bỗng xe rung động và tiếng nàng la thất thanh:
- Cướp! Cướp ! Cướp !!! Đuổi theo nó nhanh, cái thằng mặc chíếc áo Pul màu đỏ kia kìa !
Anh rồ ga đuổi theo. Chạy chỉ một đoạn anh đã thu ngắn khoảng cách. Chỉ cần tông vào nó, cả hai đều ngã là tóm được.
Anh hỏi:
- Nó cướp cái gì?
- Chiếc ví tay
- Có gì trong ấy?
- Có tiền,
- Nhiều không?
- Ít thôi, nhưng có đôi hoa tai tim vỡ !
Chợt anh mừng thầm, nghĩ, nó cắp đôi hoa tai là giúp mình, sao mình lại hại nó. Đây đích thị là thằng cướp nghiệp dư. Ai đời đi cướp giật mà mặc áo đỏ rất dễ nhận ra trong đám đông. Tội nghiệp, mình tính ăn trộm đôi hoa tai thì nó đã làm giùm mình. Đang tăng tốc bỗng anh đột ngột giảm ga thắng gấp. Viên ngã nhào tới, mặt nàng tống vào lưng anh. Nàng hét lên :" Tại sao thắng lại?". Anh la to:
- Chiếc xe chết tiệt, hỏng hóc rồi. Thôi không đuổi nữa.
Anh dừng xe, thấy bóng dáng thằng ãn cắp tà tà chạy trước./.
Quý Thể
****
20
Thêm Bước Nữa
Từ khi có bà Tám dọn về ở cái xóm này đã nhiều việc xãy ra khiến cho nhiều người thích thú, việc đầu tiên bà cho sơn phết lại toàn bộ căn nhà với màu xanh két cái màu mà ít có ngôi nhà nào chủ nhân ưa chuộng , cả xóm tôi căn nhà bà như nổi bật hẳn lên, cũng vì cái màu sơn này khiến ông Sáu khều ngứa mắt, nên vào một sáng nọ sau chầu cà phê ở quán Bà Tư bán ngay đầu hẻm ông Sáu lò dò thả bộ đến trước cổng nhà bà Tám rồi ông réo lên :
- Chị Tám ơi ! Có nhà không chị ?
- Ai đó in như anh Sáu Khiều phải không ? Sáng sớm tìm tui có gì không cha nội , may cho tui là bà giá chứ không khéo lúc ông chồng tui còn sống ổng ghen dàn trời , thấy ông tìm tui kiểu này ổng xữ đẹp ông liền đó nghe cha già Sáu .Ha ha ha .
Nghe bà Tám nói kiểu " kèo trên " ông Sáu hơi " quê độ " trong bụng , ông liền trả đũa :
- Cái bà này , bạn bè lâu năm với nhau ông Tám ổng rành cái bụng tui sáu câu vọng cổ bù lon luôn làm sao ổng ghen tuông với tui cho được , bà nói hơi lố rồi nhe bà chằn lửa . Hi hi hi
- Cái ông quỷ này , sáng sớm lại kiếm chuyện với tui hé , cũng may cho ông nhe , chị Sáu còn sống tui méc với bả là ông " Xí lắc léo " luôn chứ ở đó mà làm le với tui . Thôi không giỡn nữa ông kiếm tui có vụ gì hông ?
- Có chuyện tui mới ghé chị chứ khi khổng khi không mắc mớ gì tui ghé qua đây chi cho mệt cái thân, cái nhà này hồi trước tui giới thiệu cho chị mua , cái màu sơn cũ tui thấy nó trang nhã vô cùng để vậy ở được rồi , chị sơn lại cái màu hổng giống ai , tui uống cà phê ngày nào cũng nghe thiên hạ xầm xì hoài , đại khái họ nói chị chơi nổi , nào là bà Sáu có tuổi rồi còn nhí nhảnh , chung quy họ không thích cái màu sơn nhà của chị .
- Anh Sáu ơi !Hơi đâu chấp nhất chuyện thiên hạ thị phi , họ có nuôi cơm tui ngày nào đâu , quyền tự do tui thích màu nào là chuyện của nhà tui , ai nhiều chuyện tui biết là tui đào m....
Bà Tám chưa nói dứt câu , thì ông Sáu khều nhanh tay bụm miệng bà lại , rồi ông lấy ngón tay trỏ của bàn tay còn lại kê lên miệng ra dấu cho bà Tám im lặng,
Ông Sáu ngó dáo dác chung quanh may mà không có ai ở gần để nghe được sự đối đáp giữa hai bên , ông Sáu nói khẻ:
-Bà Tám ơi , có gì từ từ nói , bà nóng lên bà rũa xả thiên hạ , họ nghe được xúm lại dợt bà một trận là Sáu Khều này không bênh bà được đâu đó .
Vẫn chưa hết bực bội bà Tám tiếp tục :
-Mắc chứng gì phải sợ anh Sáu , mấy ông mấy bà đó ở không nhiều chuyện quá ai chịu đời cho thấu , mình mà hiền quá họ trèo lên đầu hồi nào không hay .
Thấy tình hình căng thẳng quá độ , xét vì cũng tại mình buôn chuyện cho bà Tám đã không được một tiếng cảm ơn mà còn thiếu điều muốn vạ lây vô câu chuyện này nên ông Sáu tính kế chuồn êm :
-Thôi chuyện không có gì , chị cũng đừng để bụng , họ nói riết rồi cũng chán, mai mốt uống cà phê tui nghe ai bàn ra tán vô vụ cái màu sơn nhà chị lần nữa thì không cần chị ra tay , lúc đó đích thân tui " dũa " mấy ông mấy bà đó liền một khi cho chị coi .
Nghe Ông Sáu Khều nói những câu khác chi " Anh hùng mã thượng " vuốt ve mình khiến bà Tám đỗi giận làm vui , bà cười giòn và xỡi lỡi nói :
- Chèn đéc ơi , nảy giờ lo đôi co với anh tui quên mời anh vô nhà uống miếng nước , dô đây anh Sáu tui pha bình trà hai anh em mình nhắc chuyện đời xưa cho vui .
Còn gì vui bằng và bà Tám gãi trúng chổ ngứa của ông Sáu, ông định vào nhà chuyện trò với bà Tám cho vui chứ về nhà giờ này ông cũng nằm chèo queo trên chiếc võng rồi ôm cái Radio nghe suốt đến trưa , khi bụng đói cồn cào ông mới mò vô cái " Gạc măng rê " lôi cái nồi cơm nguội với mấy miếng khô cá tra cá sặc chiên sẳn lúc sáng để ăn, những lúc ấy ông Sáu mới nhớ về người vợ thân yêu nhất của mình ...
* * *
Ngồi vắt vẻo đong đưa hai chân trên cây cầu khỉ nối liền con kênh , Sáu khều móc trong túi ra lá thư mà anh ta viết sẳn, dự định chút nữa gặp cô Phấn anh sẽ trao lá thư này, vốn tính tình hiền lành nhút nhát anh sáu Khều không đủ ngôn từ để diễn đạt tấm lòng của mình đối với cô Phấn, vì lẽ đó suốt đêm qua anh nặn óc viết viết rồi xé xé không biết bao nhiêu tờ giấy, có lúc viết gần xong lá thư anh nhẩm đọc lại thấy nó chưa đủ sức thuyết phục trái tim cô thôn nữ , anh viết lại lá thư khác, có nhiều chổ cần thổ lộ tình cảm mà anh không biết dùng lời lẽ như thế nào , bí qua anh bèn đến bên giường cô em gái dựng đầu em thức dậy để góp ý cho anh vì dù muốn dù không cô Bảy Nở so với anh sáu thì trình độ học vấn cao hơn ông anh mình nhiều , hơn nữa cô Nở còn được cha mẹ cho ra tỉnh học đến nơi đến chốn , còn anh Sáu thì sự học không được suôn sẻ cho lắm hơn nữa anh phải bỏ họ dở dang để đi vào quân ngũ , cuộc đời chinh chiến triền miên anh Sáu cũng như bao lứa thanh niên khác cứ miệt mài hành quân cho đến ngày rã ngũ trở lại quê nhà ...
Cô Bảy xem quá lá thư rồi phá lên cười cho dù cơn ngáy ngủ vẫn còn , cô gạch gạch xóa xóa rồi viết lại những ý khác cho anh Sáu chép lại , khi xong lá thư cô Bảy liền đòi tiền công :
-Anh Sáu ngày mai phải bao em một tô hủ tíu Hoành Thánh của chú Ba bán ngoài chợ nghe .
Nghe cô Bảy nói , Sáu Khều như "Đĩa phải vôi " liền đáp ngay :
- Đâu có được Bảy , sáng mai anh hẹn chị Phấn rồi , bữa khác được hông?
- Hổng chịu đâu , lâu lắm em chưa được ăn hủ tíu của chú Ba , thèm lắm rồi .
-Thôi nè , cầm trăm đồng nhờ thằng Nam bạn em nó chở đi , nhớ thối tiền lại cho anh nghe , ông già tía mình mới cho anh hôm qua đó , em mà xài hết là anh húp cháo rùa luôn đó nghe .
- Cám ơn anh Sáu em biết rồi , thương anh Sáu nhất nhà .
Nói xong Cô Bảy ghì đầu Sáu Khều hôn lên má hai cái , khiến Sáu Khều cười nhẹ rồi nói :
-Con Bảy nhà này nịnh ác ôn luôn tía má ơi !
Hai anh em Sáu khều đồng cười vang lên khiến ông Hai tía Sáu Khều giật mình lên tiếng hỏi :
-Trời trời , khuya lơ khuya lắc mắc cái giống gì mà hai đứa làm um xùm vậy , má bây bả bệnh mới chợp mắt chút xíu bây chọc cho bả thức giấc bả "bố"cho cả đám là chết nghe bây , thôi tắt đèn đi ngủ dùm tui đi cô cậu ....
* * *
Mặt trời gần đứng bóng mà chẳng thấy bóng dáng của của Phấn đâu , lòng như lửa đốt nên Sáu Khều không ngồi đong đưa chân nữa , Anh ta đi qua đi lại cây cầu khỉ không biết bao lần , đôi mắt thì chăm chú nhìn về phía con đường làng , mỗi khi có bóng người xuất hiện từ xa thì Sáu Khều cứ thấp tha thấp thỏm mong sao nàng tiên trong giấc mộng của mình mau chóng xuất hiện, vài người đi qua mà chẳng thấy bóng dáng cô Phấn trong lòng Sáu khều buồn vô hạng . Thẩn thờ nhìn xuống dòng kênh nước lờ đờ chảy , từng dề lục bình hoa tím nở thật đẹp trôi theo dòng nước , bất chợt nhìn vào sát mép nước dưới kênh , Sáu khều gặp hai con Còng gió đang quấn quít bên nhau ra chìu thật hạnh phúc , bất chợt một trái dừa khô rơi xuống nước tạo con sóng thật mạnh đánh dạt hai con Còng ra hai phía, tưởng chừng chúng sẽ bỏ cuộc hẹn hò kia sau cái tai nạn nọ , nhưng khi sóng lặng gió yên chàng và nàng Còng gió kia tìm lại bên nhau để vui vầy Hạnh phúc , lúc này Sáu khều cũng mong sao tình cảm của anh ta với cô Phấn sẽ viên mãn như tình của đôi Còng gió nhỏ bé kia .
- Anh Sáu , chờ Phấn có Lâu không ? Vừa xách xe đạp ra khỏi nhà thì tía em kêu mua rượu nên có hơi trể . Xin đừng giận Phấn nghe .
Nghe tiếng Phấn gọi , anh Sáu hoàn hồn thôi mơ mộng để trở về thực tại .
- Ờ ờ có hơi lâu nhưng không sao , anh chờ Phấn được mà .
- Tội nghiệp anh Sáu của em , em mắc đền anh nè .
Phấn móc trong túi áo bà ba lấy ra cái khăn Mù soa có thêu hình đôi chim liền cánh trao cho Sáu khều , Phấn nói:
- Em thêu suốt đêm qua đó , tặng anh Sáu làm kỷ niệm , sau này có " dợ " cũng đừng có bỏ em buồn lắm đó nghe
-Anh sẽ giữ mãi mãi bên mình , có " dợ " anh bắt " dợ " giặt giũ cho anh chớ làm sao bỏ được .
Anh Sáu và Cô Phấn dìu nhau đến ngồi dưới góc dừa cạnh bờ kênh , gió dưới kênh thổi thốc lên mát rượi , hai người lặng yên không biết nói thêm điều gì, một lúc sau lấy hết can đảm Sáu Khều móc lá thư có tẩm mùi dầu thơm trao cho Phấn :
- Anh gửi em cái này , anh viết suốt đêm qua , xem xong đừng cười nhe.
Cầm lá thư trên tay Phấn vội ép chặc lá thư vào ngực mình , nàng thỏ thẻ:
- Ai mà cười anh Sáu đâu mà sợ , ai cười hở mười cái răng , ha ha ha .
- Đó đó Em cười đó . ..
Mở lá thư ra , ngồi tựa lưng vào nhau Phấn đọc chậm rãi thỉnh thoảng nàng cười e thẹn khiến đôi má đỏ hây hây , còn Sáu Khều thì đang đánh lô tô trong bụng , anh chàng sợ lá thư kia chưa đủ sức chuyên chở tấm chân tình của mình dành cho nàng , nói dại nếu nàng mà lắc đầu khi đọc xong lá thư chắc Sáu Khều sẽ " Phong rong " xuống dòng kênh để trốn chứ mặt mũi nào để nhìn nàng nữa . Thời may xem xong lá thư Phấn quay lại ôm chầm người Sáu Khều làm cho Sáu ta như chạm phải dòng điện 110 volt , nhưng rồi phản xạ tự nhiên Sáu Khều cùng ghì chặc phấn vào lòng mình, cả hai trao cho nhau những nụ hôn thật nồng nàng . Dường như hai thỏi nam châm hút nhau chẳng bao giờ rời ra nếu không có sự tác động của con người , đến khi có tiếng mái chèo khua nước và tiếng í ới nói chuyện với nhau của người qua đường thì hai anh chị mới bừng tỉnh thoát ra khỏi cơn mê tình ái .
Thư đi tin lại , hẹn hò nhau trao nhau những lời thệ ước , như trái chín trên cành rồi cũng đến ngày thu hoạch . Đám cưới của anh Sáu và cô Phấn thật tưng bừng, bạn bè trong xã ngoài quận bà con nội ngoại hai bên đông đủ , đôi tân lang và tân giai nhân rực rỡ trong ngày cưới , hai vợ chồng sau khi làm thủ tục trao nhẫn cưới và uống rượu giao bôi thì bắt đầu theo cha mẹ đi vòng vòng để chào bàn khách tham dự .
Khi đến bàn của vợ chồng Tám Tâm đôi bạn thân thiết của Sáu Khều và Phấn , vừa đưa ly rượu mời cả bàn nâng ly thì cô Tám đứng lên cầm ly rượu cụng mạnh vào ly rượu của Sáu Khều rồi hỏi :
- Sáu Khều nè , có con Phấn bạn tui nè ông hứa cho tụi tui nghe đi :
Biết Tám cũng còn tình cảm với mình mặc dù đã se duyên cùng Tâm , sẳn dịp đông người Tám muốn ghẹo Sáu Khều một phen cho vui , Sáu khều muốn khẳng định tình yêu với Phấn và sẳn có hơi men trong người , Sáu khều nói ngay không cần suy nghỉ :
- Tui hứa với bà tui yêu Phấn trọn đời , sau này già yếu mà lỡ nàng có theo ông bà trước thì tui quyết ở giá trọn đời luôn.
Cả bàn tiệc vỗ tay rần rần , Tám cũng cười như mọi người trong bàn nhưng nếu tinh ý thì mọi người sẽ thấy nụ cười gượng gạo ...
* * *
- Ông Sáu , nảy giờ làm gì như mất hồn vậy ông ? Nhớ bà phấn rồi phải không ?
Sáu khều với giọng buồn buồn :
- Tội lắm bà ơi , trước khi nhắm mắt Lìa đời Phấn đưa cho tui cái khăn mù soa hồi xưa rồi bà nói tui quên lời thề nơi bàn tiệc hồi đó đi , vì hai đứa tui đâu có con cái gì đâu , Phấn kêu tui nếu được thì bước đi bước nữa , ráng kiếm đứa con cho vui . Nghe Phấn nói mà tui muốn đứt từng khúc ruột .
- Bà Phấn bả nói chí phải đó , giờ có một thân một mình ốm đau ai lo cho ông?.
- Tui sống vậy quen rồi bà ơi !
Ông Sáu thòng thêm một câu :
- Nói vậy chứ bi giờ ai đâu mà ưng tui, gì cúp bình thiếc rồi mần ăn gì nữa bà ơi !
Bà Tám cười rân rồi đáp :
- Ông nói vậy chứ tui thấy mấy bà trong xóm này hay nhìn lén ông lắm nghe , được cái ông đẹp lão , ta coi bà nào hiền hiền hốt đại bả về đi cho có cật có ruột mới vui nhà vui cửa , ông ở cu ky một mình buồn lắm , tui được cái có con Mén nó thủ thỉ tối ngày nên không mấy lẻ loi .
- Bà thì sướng rồi còn nói cái giống gì nữa . À mai bà ra quán bà Tư uống cà phê với tụi tui đi , có mặt bà ít ra cũng bớt được vài cái miệng sàm tấu .
- Cũng được , cái thằng cha quỷ này giờ mới chịu kêu tui uống cà phê , chờ câu này mấy chục năm rồi đó , ha ha ha ..
* * *
Không biết có nhờ các ông bà bạn ngoài quán cà phê xúi giục hay không , hay lửa gần rơm lâu ngày cũng bén , hoặc thấy cảnh cô đơn lâu ngày nên cần có đôi có bạn để an ủi nhau lúc ốm đau hoạn nạn nên Sáu Khều và bà Tám quyết định góp gạo thổi cơm chung .
Trong lúc ngồi ghi thiệp báo tin , bà Tám chọt một câu :
- Ông Biết tại sao tui chọn màu xanh Két để sơn nhà không , là ông Tâm đó mắc chứng gì ngày xưa ổng khoái mấy con két của bạn bè trên Ban mê thuộc tặng , sau này mua sắm đồ dạc trong nhà thứ nào ổng cũng xài cái màu này, ban đầu tui bực lắm nhưng lâu dần thấy cũng quen rồi nhiễm cái màu này và yêu nó luôn , ổng mất đi tui buồn lắm để nhớ lại kỷ niệm xưa tui mới sơn cái nhà màu này , người bên ngoài đâu hiểu chuyện cứ tưởng tui người cõi trên không hà .
- Thì ra là vậy , thôi cứ để y màu xanh két đi bà , vì ông bà mình có câu " Dù ai nói ngã nói nghiêng , lòng ta cứ vững như kiềng ba chân ".
Bà Tám cười cười ra chìu tán đồng với câu nói trên của ông Sáu Khều , bổng dưng bà cắc cớ hỏi một câu khiến ông Sáu ú ớ nói không nên lời :
- Bây giờ ông tính sao với lời hứa hôm uống rượu cưới ở bàn tụi tui hồi đó .
-Ờ thì , ờ thì . Bà này muốn làm khó tui phải không ?
Hai ông bà quá hiểu ý nhau sau câu ú ớ của ông Sáu Khều nên đồng cười vang , trên khuôn mặt hai người hiện rõ mùa xuân vừa trở lại ...
Hai Hùng
***
19
Kích Cổ Thôi Hoa
" Kích cổ thôi hoa" là đánh trống giục hoa nở. Điển tích nầy lấy từ sự tích Võ tắc Thiên hay còn gọi là Võ Hậu mùa xuân ra thăm vườn thượng uyễn, thấy muôn hoa còn run rẩy trong ngọn gió cuối đông, chưa chịu khoe sắc.Võ Hậu giận lắm, hạ chiếu cho hoa viên quan bảo lính ngự lâm đem trống chầu, trống đại ra vườn hoa mà đánh thật mạnh, tiếng trống như tiếng sấm rền đánh thức hoa, giục cho hoa nở. Uy lệnh đức vua bà nghiêm khắc vô cùng, khiến bao nhiêu loài hoa vườn ngự, tuân chỉ răm rắp, nở ra những đóa hoa đẹp nhất kính dâng lên đấng kim thượng ngự lãm. Có một loài hoa, cây cao, lá to, hoa đỏ, một màu đỏ ánh lên sắc tím cánh sen, là loài hoa ngoan ngoãn hơn cả, mới nghe tiếng trống đầu tiên, cả họ hàng thức dậy, đồng lọat nở ra những đóa hoa màu đỏ rực rỡ tràn lan khắp nơi. Đó đây trong nhà ngoài sân ,ngoài vườn, một màu đỏ, màu của niềm vui, phúc lộc tràn trề. Vua bà hài lòng lắm hạ chiếu ban cho hoa ngự danh Mãn đường hồng( đầy nhà một màu đỏ). Hoa trà khoe sắc trinh trắng, hải đường khoe lòng chung thủy sắc son đỏ vui mắt, rồi thì mẫu đơn đủ màu sắc, nguyệt quế trắng trinh nguyên, mấy nàng hồng mang danh hoa hậu, huệ của hoa của nhà thờ, sen cua chùa chiền, phong lan vương giả. Chỉ riêng nàng cúc không chịu nở hoa.
Thời sơ khai ấy hoa cúc chỉ có mấy cánh, cánh to thô, mộc mạc, nhạt sắc phai hương, rất ít được yêu chiều và cũng chỉ mọc ở miền Hoa bắc. Có một nàng cung nữ lớn tuổi hết duyên bị thất sũng, biếm vào lảnh cung, suốt ngày chỉ biết ngồi bên hoa trò chuyện với hoa. Hoa với người đều tủi thân. Cả hai cùng chung cảnh ngộ và tâm sự. Nàng cung nữ nói, để ta ban cho ngươi sắc đẹp. Hoa không tin, hỏi:" Nàng là tiên nữ giáng trần sao? Nàng có phép lạ sao?" Cung nữ: - Không, ta chỉ là một cung phi bất hạnh, phép lạ của ta phát xuất từ lòng tốt. Chỉ với lòng tốt con người bình thường cũng có thể hóa thần thánh, đoạt quyền thượng đế phóng tay tạo phép màu nhiệm làm cho thế gian nầy tốt đẹp dễ chịu hơn. Ta sẽ tặng cho ngươi nhan sắc mới làm món quà xuân. - Cúc không tin. Cung nữ lấy chiếc trâm vàng mũi nhọn tước mấy cánh hoa to thành rất nhiều cánh nhỏ và dài uốn cong, phả vào hoa hương thơm. Từ đó cúc mới có nhiều cánh dài và toả hương, và sau nầy tự hoàn thiện và làm phong phú hơn lên bằng cách lai tạo với nhau và với loài khác thành nhiều loài như cúc ngày nay. Hoa cúc chỉ chịu rét, rất ghét cái nắng nóng phương nam.
Hôm "kích cổ" Cúc còn say giấc đông miên, không nghe tiếng trống " thôi hoa" chưa kịp thức dậy đón vua bà. Lệnh bà giận lắm, cho cúc phạm tội khi quân, xuống chiếu đày cả họ nhà cúc từ nay xuống ở miền hoa nam , không cho bén mảng lên hoa bắc.
***********
Anh Viễn tìm đọc sách xưa xem thử có truyền thuyết nào về hoa mai vàng của ta không? Không thấy, phương bắc cũng có mai nhưng khác, loài ấy là mai cho quả, trong Kiều có câu : " Quả mai ba bảy đương vừa..." Phương Bắc không có hoàng mai như miền nam. Hoàng mai là cây của phương nam, cây của miền nhiệt đới nắng lửa. Hiện tại Viễn cũng đang có" Vấn đề" với cây mai. Vấn đề cũng tại anh. Anh rất cần giục cho cây mai nhà mình nở hoa để chào đón người anh yêu là nàng ca sĩ ngôi sao tên Liễu Mai, một người nổi tiếng trong làng ca nhạc thành phố và cả nước nầy.
Có một lần anh đi phòng trà nghe hát. Nàng hát rất hay, anh vô cùng cảm phục, đợi nàng hát xong anh vội vàng cầm bó hoa lên sân khấu tặng. Anh được nàng kề má sắc hương. Hát xong nàng ca sĩ Liễu Mai cảm cái lòng ái mộ của anh, nàng xuống ngồi chung bàn. Bao nhiêu cặp mắt nam thanh nữ tú đổ dồn về phía anh. Họ không biết anh là ai , tất cả đều đoán anh là chàng công tử hào hoa giàu có ở nơi nào mới đến. Hai người quen nhau từ đó. Anh nhớ hôm ấy trong bài hát có câu:"...và anh sẽ tặng em mùa xuân..." Lúc nầy đã qua hạ nhiều tháng rồi. Song trong cơn hứng khởi không kềm chế được, anh âu yếm nhìn nàng nói :" Vâng, anh sẽ tặng em mùa xuân, đúng như lời bài ca..." Cô ca sĩ nghe thế chỉ thốt lên :" Xạo hoài ! Đang giữa mùa hè nóng thấy mồ nầy ông lấy mùa xuân đâu tặng tui?" Theo cô " xạo" nghĩa là láo, không thật, nói khóac, nói tướng... Tóm lại đều mang ý nghĩa xấu. Liễu Mai cô ca sĩ đầy thanh sắc song lại xuất thân trong cảnh quê mùa bần hàn, học vấn thấp, văn hóa kém, biểu lộ rất rõ trong cách nói năng. Thế nhưng đã yêu rồi anh thấy cách ăn nói đó thật hay, anh vẫn yêu, và tự hứa, với tình yêu khi cô ta về làm vợ, anh sẽ mài giũa để, nói theo kiểu cường điệu anh biến đá thành ngọc và sắt thành vàng, than hoá kim cương! Tình yêu làm được nhiều thứ kì diệu. Anh sẽ biến hóa để nàng thành người thuộc đẳng cấp thượng lưu, quí phái, học thức...Hôm ấy anh đã hứa chắc :" Cứ chờ đó! Không lâu đâu. Lúc nào thuận tiện dù mùa xuân chưa đến anh sẽ đem tặng công chúa của anh, một mùa xuân đẹp"
Nhà anh có cây mai, năm nào mai cũng ra hoa rất đẹp. Tết đến người ta tốn tiền mua mai, riêng anh thì không. Năm nay cũng như mọi năm cây mai nhà đã trổ hoa rất đẹp, hoa nở lai rai từ 27 tết đến đêm giao thừa sáng mồng một hoa nở rộ lên, rồi sau đó nở chậm lại cho tới hết tháng giêng. Nhờ anh biết chăm sóc và năm nào cũng trảy hết lá mai vào đúng ngày rằm tháng chạp, nên hoa nở đúng kì , trước tết mấy ngày và nở rộ vào ngày đầu xuân. Khách khứa vào nhà thấy cây mai đầy hoa từ gốc đến ngọn, hoa kép, nhiều cánh, tỏa hương thơm lừng ai cũng quở:" Năm mới hoa nở như thế nầy thì tha hồ hưởng tài hưởng lộc nhé!"
Thế nhưng không rõ tại sao năm nay mai lại chẳng cho một hoa nào. Viễn nhớ suốt năm qua anh vẫn bỏ công chăm sóc mai, lâu lâu lấy bớt đất cũ ra, vô phân mới, đất mới và đôi khi được bạn bè tặng gói phân phun lá, nhúm phân vô cơ, phân vi sinh anh đều bón cho hoa. Và hồi tháng chạp, nhân dịp nghỉ phép năm anh dành nhiều thời gian cho khu vườn nhỏ. Trước tết 20 ngày anh đã vặt trụi lá từ gốc tới ngọn. Sắp đến tết Viễn không còn hồi hợp chờ hoa như những năm đầu, vì giờ đây anh đã có nhiều kinh nghiệm và hiện tại cây mai đã nhú những mầm non trông như những chiếc ngòi bút tí hon. Anh hi vọng năm nay mai còn đẹp hơn mọi năm. Thế nhưng năm nay lạ quá, những mầm nhọn như đầu ngòi bút ấy chỉ là mầm lá. Tòan mầm lá, không hề có lấy một chiếc búp. Lúc đầu anh nghĩ tại thời tiết khác thường, năm mất mùa mai, song không phải, mai vườn nhà người ta cũng đã vàng rực. Thế thì tại cây mai nhà anh trở chứng hay có vấn đề gì đây? Mùa xuân này cũng là lần đầu tiên anh phải thân hành ra chợ mua mai, chở xích lô đem về chưng tết, vừa tốn tiền lại không được như ý. Mai không ra hoa làm anh buồn, song cùng với nỗi vui chung của mùa xuân, anh chóng quên.
Bây giờ đã giữa tháng năm dương lịch, hết xuân lâu rồi mà vì yêu vì rượu, vì hứng bất tử, dám nói tặng người ta cả mùa xuân. Mai là loài hoa riêng của mùa xuân. Lấy mai tượng trưng cho mùa xuân trên đất nước mình là tốt nhất. Mấy năm trước, thường vào ngày 20 tháng chạp anh đã nhờ người bê chậu mai rất to rất nặng vô nhà, đặt nơi phòng khách và những năm trước thời kì đó trên cành đầy nụ xanh và đã lác đác vài đóa hoa vàng. Anh cũng đã bắt đầu trang trí cành mai, treo chùm đèn nhấp nháy nhiều màu và cột các tấm danh thiếp bạn bè gần xa gởi tới chúc tết.
Riêng năm nay cây không ra hoa nên anh không bê chậu mai vào nhà. Những chiếc búp như ngòi viết chỉ nở ra chùm lá xanh tươi, thay áo mới cho cây, thắp lên màu xanh lá non cho những cành khô trông cũng đẹp , nhưng vẫn thiếu sắc vàng điểm xuyết . Giờ đây, sau mấy tháng cuối xuân khô hạn, thêm một nửa mùa hè không được tưới giọt nước mưa nào, lá non trở thành lá già. Trừ truyền thuyết " Nhị độ Mai" thì mai không thể nở hai lần. Viễn nghĩ, cây mai nhà mình còn nợ mình một mùa hoa, còn giấu trong nó cả một mùa xuân, làm sao cho nó bật ra? để mừng sinh nhật Liễu Mai.
Anh nghĩ ra rồi. Chẳng cần "kích cổ thôi hoa" như sự tích xưa. Anh đã có cách "thôi hoa". Cách ấy là phải làm một mùa xuân giả để lừa cho cây ra hoa. Viễn bắt đầu thay thế quyền tạo hóa làm thêm cho năm nay một mùa xuân nữa, ấy phải là mùa xuân thứ hai trong năm, đi ngược qui luật đất trời song anh nghĩ , với sự giúp đỡ của khoa học kĩ thuật bây giờ anh có thể làm được. Vậy thì chỉ cần đánh lừa cây, làm ra một mùa xuân nhân tạo.
Muốn thế việc trước tiên là phải chống nóng, chống nóng đã có máy lạnh. Anh nhờ người khiêng chậu mai vào phòng làm việc, họ hỏi khiêng vào trong đó làm gì? Anh nói để nơi làm việc có màu xanh nhìn cho mát mắt. Viễn mở máy lạnh để chạy suốt ngày đêm. Không khí lúc nào cũng 20 độ, anh quan sát thấy cây có vẻ tươi tốt hơn lúc ở ngoài vườn chịu cái nắng tháng năm. Thế nhưng nhiều ngày sau, mọi thứ trên cành đều trở nên nhợt nhạt. Anh chợt nghĩ ra, trách mình ngốc. Cây xanh cần ánh sáng để quang hợp. Nhưng không lẽ ngày nào cũng nhờ người khiêng ra khiêng vào? Anh cần phải làm ông mặt trời giả thôi. Anh bắt thêm mấy ngọn đèn néon thước hai mở sáng suốt ngày. Cây có khá hơn, lá lại xanh tươi. Thế nhưng vẫn còn thiếu một cái gì, anh nghĩ ra rồi. Thiếu độ ẩm trong không khí, lạnh làm cho bao nhiêu hơi nước trong không khí ngưng tụ thành sương, không khí khô quá, cây không chịu. Anh đặt mấy thau nước gần cây, song thấy không hiệu nghiệm, mấy chậu nước có mặt thoáng nhỏ quá, bốc hơi chậm, không đủ, phải tạo mặt thóang rộng hơn, có một cách hiệu quả và đơn giản hơn cả là đổ nước lên sàn nhà. Bây giờ nhà anh lúc nào cũng lênh láng nước. Rất bẩn, không quét nhà được, nhưng đã lỡ hứa làm ra mùa xuân nên anh đành chịu bao khổ sở bực mình. Bây giờ chẳng cần máy móc đo độ ẩm , mới bước chân vào phòng đã thấy không khí đầy hơi nước.
Cái "tiểu thế giới " ( Biosphère) đi ngược qui luật đất trời cốt tạo một miền cao nguyên mát mẻ đầy hoa giữa lòng thành phố nắng nôi ngột ngạt nầy đã thành công. Một lần anh ngồi ghế mây nhắm mắt lại tưởng tượng thấy chỉ còn thấy thiếu tiếng thông reo tiếng, tiếng chim hót, tiếng suối róc rách, nữa là hoàn toàn giống Đà Lạt. Anh tính toán thời gian và thấy đã đến lúc ép xác cây, bỏ nó nhịn khát, và tuốt lá. Sau thời gian ngừng tưới, cây có vẻ khô cằn. Nó đang trong thời kì thối lui để lấy đà lao vào mùa xuân, nở ra những bông hoa đẹp nhất. Sau thời kì khắc khổ anh cho cây thêm phân thêm đất và thêm nước. Trên những cành trụi lá đồng loạt nhú lên những chồi non, chồi lá và rất nhiều chồi nụ.
Hoa chẳng phụ công người. Cây mai sống trong mùa xuân giả, một mùa xuân nhân tạo cũng theo qui luật sinh học, làm tròn nhiệm vụ thiên phú, nghĩa là đến kì cũng nở nhụy khai hoa... Cũng vừa đúng lúc sinh nhật lần 22 của nàng Liễu Mai. Viễn tính toán phi phỏng thôi nhưng sao lại đúng phóc, sinh nhật của người yêu cũng là lúc cành mai nở rộ! Viễn vô cũng mừng rỡ, anh chắc Liễu Mai sẽ ngạc nhiên, còn hơn cả sự ngạc nhiên, là sự thán phục, về điều chỉ có người yêu của nàng làm được, và có lẽ chưa ai yêu ai, chưa ai khổ vì một lời hứa một cách công phu như chàng. Đó là cách anh nghĩ.
Hôm nay Liễu Mai chưng diện rực rỡ như những lần nàng lên sân khấu, một bà hòang ca nhạc. Nàng cũng chính là một đóa hoa đầy hương sắc. Mới bước vô nhà, Mai nhìn xuống nền nhà ẩm ướt, ái ngại than: " Nhà cửa..." Anh Viễn thực thà không hiểu hỏi:" Gì? Nhà cửa ai?..." Mai không cần trả lời. Nàng mang đôi dép gót cao cả tấc, thấy cao hẳn lên hơn ngày thường, cái váy nàng mặc hôm nay thuộc loại maxi kiểu rất mới, rất dài, thấy tha thướt lượt là, đứng thẳng váy chỉ còn cách nền nhà một vài phân. Ngồi xuống, thế nào chiếc váy viền đăng ten nầy thế nào cũng chấm nước. Mai kéo váy rón rén bước vào. Khi đã ngồi lên ghế ý tứ gác đôi chân thon dài và rất đẹp, nàng rất kiêu hãnh về đôi chân dài và rất sung sướng khi nghe bọn đàn ông, giới ăn chơi thì thầm " Trường túc bất tri lao"( Chân dài chẳng biết mệt) nàng nhìn quanh, ánh mắt khó chịu, than: " Anh sống trong căn phòng kín như cái hang nầy mà chịu được, cũng lạ. Sao không mở tung cửa sổ ra cho ánh sáng vào nhà? Ban ngày lại thắp làm gì hai ba ngọn đèn thước hai?"
Viễn thấy không nên giải thích, chàng cần giành cho nàng sự bất ngờ, sự kinh ngạc. Anh ngầm quan sát từng cử chỉ nhỏ nhặt của người yêu, trước tiên là ánh mắt rất khó chịu khi nàng nhìn xuống nền nhà. Sau đó là khó chịu vì sự chật chội và ngột ngạt. Nàng xít xoa nho nhỏ, lấy hai tay xoa vào nhau và xoa hai cánh tay để trần, rên rỉ: " Lạnh quá, tay chân nổi da gà hết trơn hết trọi rồi đầy nè! Da thịt người ta ngày thường được tiếng trắng mịn màng mới ngồi có một tí nổi cả mốc meo lên, gớm chưa?" Viễn cầm cái điều khiển chỉnh số nhỏ cái máy điều hòa không khí. Mai nói vẫn còn lạnh, gắt: "Thôi tắt mẹ nó đi!" Mai nói: " Mở toang cửa ra, ngột ngạt quá ai chịu cho nổi?" Anh đứng lên làm theo, ánh sáng tràn vào căn nhà lâu nay đóng kín cửa, mọi thứ đều sáng trưng, đẹp nhất là những bông mai vàng đa cánh rực rỡ.
Liễu Mai tỏ ra hoàn toàn không thích thú gì về cái vi khí hậu, cái mùa xuân nho nhỏ người yêu mình bỏ ra bao nhiêu công sức tiền bạc. Nàng chú ý đến mọi thứ lặt vặt song không hề nhìn cây mai vàng đang khoe sắc vì nàng. Viễn ban đầu mới hơi buồn, sau thì hơi thất vọng, sau nữa thì hoàn toàn thất vọng rất buồn về cô gái nầy. Anh thấy mất hết hứng thú. Anh mong nàng về để anh còn lại một mình với hoa. Hoa đẹp thơm tho tử tế còn người vô duyên ngốc nghếch, xấu xí, người chỉ gây sự thất vọng. Anh tức giận mình vô cùng, sao lại chọn người như thế để khổ công yêu dấu và tôn thờ?
Lúc gần về Liễu Mai mới vờ ngạc nhiên:
- Ủa! Anh mua cành mai giả nầy hồi nào? Bao nhiêu tiền? Mình người tử tế nhà cửa đàng hòang, chưng chi đồ giả?
Viễn thất vọng chua cay, anh thấy với người kém cỏi như thế. chẳng cần biện bạch, phân trần chi cho mệt, anh trả lời cho qua chuyện:
- Ừ , chưng cho vui , rẻ thôi...
Chẳng cần nhìn lâu, Mai nói:
- Không đẹp chi cả! Xấu òm! Không giống bông thiệt , mới bước chân vô nhà đã biết đồ dỏm... Mùa hè chưng cây mai làm chi? Thấy lãng xẹt!
Rồi Mai tiếp, giọng tỏ ra rất sành sõi:
- Nơi góc đường Nguyễn Tri Phương, Trần Hưng Đạo trong quận 5 Chợ lớn, có hàng bán vật liệu làm bông giả, bông, búp, lá, và cả cành nữa...Mua mỗi thứ vài trăm cà-ram đem về, lượm cành cây khô gắn vô, đẹp mất hồn giống hệt thứ thiệt, mà lại còn rẻ nữa. Còn nếu có tiền bỏ ra kha khá mua cành mai giả bằng nhựa, bằng vải. Hoa vải đẹp mất hồn! Còn cành mai nầy mua bao nhiêu tiền, mới liếc qua đã thấy là đồ giả, đồ dỏm trăm phần trăm !!! ./.
Quý Thể
***
18
Trận Đòn Năm Xưa
Ngồi bệt dưới bãi cỏ nơi bờ sông mắt tôi dỏi nhìn theo cái phao đang nổi phập phìu trên mặt nước, chốc chốc cái phao bất chợt chìm xuống nhưng nó vụt trồi lên ngay khiến tôi nóng máu nói lầm bầm:
- Có cắn câu thì cắn đại cho rồi, tụi bây cứ nhấp nhấp hoài làm tao bực mình lắm rồi đó nha.
Lại thêm lần nữa phao chìm nhanh xuống nước, không đợi thêm phút nào tôi giật mạnh cần câu về phía sau, một chú cá Chạch nhỏ bằng ngón tay út của mình con cá ngo ngoe vùng vẫy, vói tay chụp sợi dây cước tay kia buông cái cần câu xuống đất để gỡ con cá ra khỏi lưỡi câu, thả con cá vào cái xô nhựa xong tôi tiếp tục móc con trùng đất vô lưỡi câu rồi vung mạnh cần câu về phía trước và tiếp tục ngồi chờ thời.
Lâu lắm rồi tôi mới có dịp hưởng cái không khí yên bình nơi quê nhà, cái thú đi câu nó đã ngấm trong máu tự bao đời nay, vì phải bận bịu mưu sinh hàng ngày nên tôi đành gác lại cái thú vui này, ở thành phố sáng nào chạy xe đi làm trên những đại lộ mới mở sau này, bên cạnh những làn xe nối đuôi nhau hối hả ngược xuôi thì cũng có những người nhàn rỗi ngồi buông câu ở các con rạch chạy dọc theo đại lộ này, hai hình ảnh tương phản trong cuộc sống, những người tất tả lo toan cho công việc không đủ thời gian để hoàn thành nên khi thấy các tay đi câu nhàn tản kia, tôi thầm ao ước giá mà có thể bỏ tiền ra để mua được thêm thời gian để có giây phút rảnh rang như những người này thì tôi sẽ sẵn sàng không chút tính toán thiệt hơn.
Được sở làm cho nghỉ phép thường niên, thú thật tôi chờ đợi cái ngày này lâu rồi, bao nhiêu tính toán dành thời gian cho những ngày phép quý giá này được tôi dự trù nào là giúp ngoại lợp lại cái mái nhà, tu bổ cái chuồng heo rồi lôi cái xe đạp sứt tay gãy gọng của ngoại ra để sửa lại để ngoại làm chân đi tới đi lui quanh làng. Rồi cái đám bạn lóc nhóc thuở tóc còn để chỏm đến giờ, tôi nhớ lắm những trưa hè trời như đỗ nắng thế mà cả đám quay quần nhau chơi những trò chơi, nào là đánh đáo, cờ gánh,chơi u, chơi năm mười, nhưng hai món lôi cuốn nhất là trò chia phe nhau đánh trận và chơi bông vụ. Còn cái thú không thể nào từ bỏ của tôi là cái thú đi câu.
Tôi còn nhớ dạo ấy khi đến trường vào mỗi sáng thì ngoài cổng lúc nào cũng đủ thứ hàng quán, người buôn gánh bán bưng, bà Tám thì sống bằng cái thúng xôi vò, chỉ cần hai cắc bạc thì đã no cành hông, ông già "cắc chú" lúc nào trên đầu cũng cái nón mây rộng vành che mát cả thân người, ông này chuyên dụ khị tôi và mấy bạn trút hầu bao để thưởng thức món cà rem bẹ, nào là cà rem đậu xanh, sữa, dừa, lá dứa. Cái mà tụi tôi khoái khẩu là món độc chiêu của ông bán là ổ bánh mỳ ngọt tròn tròn dẹp dẹp, ông lấy con dao nhỏ bén ngót ông rạch đôi ổ bánh mỳ nhưng không cho đứt hẳn, ông lấy cái vá tròn để múc kem cái vá này có dạng như cái tông đơ của thợ hớt tóc, múc một vá kem đủ màu trong đó, ông kê ổ bánh mỳ vào bóp mạnh cần cái vá thì viên kem tròn trỉnh nằm gọn trong ổ bánh mỳ, thường thì một ổ ông cho ba bốn viên kem tùy theo số tiền chúng tôi đặt mua, ông rắc vào một ít đậu phộng rang, rưới thêm một ít sữa đặc có đường hiệu ông Thọ, có đứa cắc cớ hỏi ông cắc chú:
- ông ơi! ông Thọ là đàn ông thì làm sao có sữa để bán vậy ông?.
Ông cười hiền và nói:
- Nị nhiều chiện quá, ở đâu kệ nó miễn ngon là được rồi, sau này lớn lên nị biết mà.
Ông rải thêm lớp dừa nạo thành sợi, rồi quấn lớp lá chuối gói cái bánh mỳ trao cho chúng tôi cũng là lúc ông thò tay lấy tiền của chúng tôi trả và bỏ vào học tủ nhỏ bên thành xe kem. Khi cho kem này vào miệng thì ôi thôi nó ngon không thể tả, cho đến tận giờ trong những cơn mộng mị tôi vẫn còn có lúc nhớ về ổ bánh mỳ ngọt dồn kem của ông cắc chú kia.
Về trò chơi cái bông vụ đây là cách gọi của trẻ con ở miền nam, còn theo người miền bắc thì gọi bằng con quay, bông vụ có vài loại tùy theo thị hiếu của đám trẻ con, tôi chắc rằng ngày xưa khi làm ra cái bông vụ này mấy ông chủ xưởng tiện thế nào cũng đi lòng vòng trong xóm làng để xem cách chơi của trẻ con, rồi về nghiên cứu thêm mẫu mới để moi tiền đám trẻ mê chơi như chúng tôi, mẫu mã cho mấy cái bông vụ thì nhiều loại, có loại tròn mập như trái lê kiu ma nhỏ, có loại bầu bầu như trái lý, có loại thon dài và có những rãnh lớn để quấn dây vào. Nhưng tóm lại có hai loại bông vụ, một là có cái đinh tròn ngắn gắn sát vào phần gỗ của bông vụ, loại này dùng cây cột mấy đoạn vải ngắn trên đầu bằng dây thun khi tạo cho bông vụ có lực quay ban đầu xong thì lấy cây này (giống cây phất trần của các ông tiên trong truyện cổ tích) quấc nhiều lần theo chiều quay của bông vụ, ai điều khiển bông vụ quay thật lâu không ngã thì thắng cuộc. Còn loại thứ hai thay vì xài cây đinh ngắn do nhà sản xuất gắn dưới đáy cái bông vụ, chúng tôi tháo đinh ngắn của nhà sản xuất ra và gắn vào đó cây đinh bốn năm phân được cắt ngắn bớt độ dài còn nhô ra khoãng hai đến ba phân, dưới cùng chúng tôi đập dẹp ra giống như cây xà beng của thợ đào giếng, đã vậy có đứa mài cái xà beng này bén ngót. Chơi cái bông vụ này chúng tôi phải sắm một đoạn dây dù loại tròn nhỏ chiều dài chừng một thước đến thước hai là được, chúng tôi lấy dây dù quấn tròn quanh cái bông vụ và phải quấn từ dưới lên trên, đương nhiên phải quấn cho thật chặc tay thì khi phóng cái bông vụ xuống đất mới có cái lực mạnh làm cho bông vụ quay tít. Cuộc chơi bắt đầu trước tiên vẽ vòng tròn nhỏ chứa bông vụ tùy theo số người chơi được chia làm hai phe, phe nào oảnh tù tì mà thua thì cho bông vụ vô nằm trong vòng để phe thắng thi nhau "Mổ" bông vụ phe kia, có hôm nọ không biết thằng bên phe kia mổ thế nào làm cho cái bông vụ nằm trong vòng tét ra làm đôi đưa cái lõi trắng hếu nằm chỏng chơ lên trời y hệt như những địch quân bị hạ gục trên chiến trường, tiếc của nên thằng có cái bông vụ bị tét khóc hu hu và bắt thằng kia phải đền tiền cho hắn để mua cái khác, hai bên cãi nhau chí chóe, thằng mổ tét bông vụ thì nói:
- Có sức chơi, có sức chịu mầy ơi! Còn lâu tao mới đền cho mầy, mầy có ngon thì đi kiện cò bót đi tao sẽ đi hầu.
Nạn nhân thì cố cãi lại:
- Ai biểu mầy mài cái "xà beng" bén ngót làm chi, nếu không đền tao về méc má mầy quánh cho một trận đó nghe con.
Nghe đối phương hăm he méc má của mình, thằng nọ hoảng quá chạy vại mượn đứa này đứa kia một ít tiền để trả cho nạn nhân, tuy trả tiền đó nhưng còn ấm ức thằng nọ nói với nạn nhân:
- Tao đền cho mầy nè, nhưng oa oa xịt nghỉ chơi mầy ra luôn, vậy nha tụi bây.
Nghe bị đòi nghỉ chơi, thằng nhóc xanh mặt, nó sợ khi bị cả đám tẩy chay rồi thì biết chơi với ai, không lẽ đi nhảy lò cò với đám con gái, một thoáng bối rối nó cầm mấy cắc bạc trao lại cho thằng nọ rồi lí nhí nói:
- Tao không mắc đền mầy nữa, tụi bây đừng nghỉ chơi tao nghe.
Cả đám chúng tôi cười xòa, không những thằng nọ không lấy tiền lại mà còn an ủi nạn nhân bằng một câu mát ruột:
- Tao nói chơi thôi lỗi là do tao, tao mài cái xà beng bén quá mới ra nông nổi như vầy, mầy cứ cầm tiền mua cái khác mai mình chơi tiếp.
Nó vừa nói dứt câu chúng tôi vô tay rần rần tán thưởng, nhờ chúng tôi đối xữ có tình có lý trong các cuộc chơi nên tình bạn chúng tôi vẫn duy trì tốt cho đến tận giờ, ngày nay trò chơi cái bông vụ hầu như "tuyệt chủng" tôi không còn thấy nó hiện diện trong cuộc chơi của con nít thời nay nữa rồi...
* * *
Tiếp tục ngồi chờ cá đớp mồi, thời gian trôi qua chậm chạp mặt trời đang chẩm chệ trên cao rọi ánh sáng chói chang xuống đất, hơi nóng bắt đầu bốc lên khiến cho những hạt sương đêm le lói đậu trên cành cây ngọn cỏ bốc hơi tự bao giờ. Tôi ngó qua mấy người ngồi gần bên, họ cũng khắc khoải chờ đợi cá cắn câu, tâm trạng ai nấy dường như thất vọng hiện rõ trên khuôn mặt của mọi người, đoạn rạch này ngày xưa nổi tiếng rất nhiều cá ở quê tôi, tôi còn nhớ dạo ấy tôi chỉ là một nhóc tì chừng mười một mười hai tuổi, cái tuổi tò mò thích khám phá và nhất là thích thể hiện mình là người lớn, tôi thấy chú Út Ba trong xóm tôi ổng có biệt tài câu rê, nên những buổi không đi học tôi thường theo chú Út Ba đi câu cá để thọ giáo, nhiệm vụ của tôi là phụ xách cái xô nhựa đựng nước uống và thức ăn, có hôm là hai gói xôi hoặc bánh mỳ kẹp thịt, còn đồ nghề chú Út tự mang là cái cần câu dài ngoằng, cái đục mang theo bên hông trong đó nhốt vài con nhái bén để làm mồi câu, khi ra đến đám ruộng rau muống cạnh con rạch này, chú Út thong thả bỏ đồ nghề xuống đất, không khí mát mẻ làm cho buổi đi câu thêm phần hứng thú, chưa vội móc mồi và buông câu chú Út thò tay vào cái túi áo móc bịch thuốc rê Gò Vấp ra quấn một điếu to bằng ngón tay cái, châm lửa và rít thật mạnh đưa vào buồng phổi, khi chú nhả khói tôi cứ tưởng như ống khói của đoàn xe lửa đang phun ra khiến tôi bật cười một mình với cái so sánh ngộ nghĩnh của mình, đang miên man liên tưởng thì chú Út làm tôi giật mình:
- Nó kìa Phương, con thấy nó mới táp móng bờ đê phía trước không, chú dám chắc con này ít ra cả kí lô chứ chẳng vừa đâu.
Nhìn theo hướng chú Út chỉ, tôi thấy một vòng tròn gợn sóng mỗi lúc càng to dần lên, chú Út liền xắn tay áo lên móc lưng con nhái bén vào lưỡi câu, dường như cảm nhận cái đau thấu xương khiến con nhái giật giật cả bốn chân liên tục, mà cũng ngộ đi câu mà không có mồi sống (cục cựa) thì khó lòng câu được mấy chú cá Lóc tinh ranh háu đói đang ẩn mình dưới làn nước đục ngầu bên dưới.
Chú Út cầm sợi nhợ có con nhái bén chú quay tròn nhiều vòng để lấy đà rồi chú vụt qua ra xa về hướng cá vừa đớp móng khi nảy, con nhái vừa chạm mặt nước tưởng đâu mình được tự do nó liền xải chân bơi nhanh thì cũng là lúc chú Út rê cái cần câu qua lại kéo theo chú nhái bén đang vùng vẫy trên mặt nước, bất ngờ tôi nghe tiếng Phụp mạnh vừa lúc ấy chú Út giật mạnh cần câu lên, quả y như rằng chú cá Lóc đen trui trủi vùng vẫy mạnh khiến cần câu cong vút, chú cá Lóc nằm gọn trên bờ hai mắt thao láu tôi thầm nghỉ chắc con cá lóc không hiểu tại sao nó lại nằm trên bờ như vậy, chiều hôm ấy nhà chú Út có nồi cháo cá thơm ngon do tài nấu nướng của thím Út tôi cũng được thím múc cho một tô cháo to, trên mặt tô cháo có đủ hành ngò và một ít tiêu bột, khi húp vào muỗng cháo đầu tiên tôi nghe ấm cả ruột, đang chăm chú húp tô cháo thì như muốn "thưởng công" cho tôi chú Út nói:
- Chú có hai cái cần câu để phía sau nhà, ngày mai thằng Phương mày muốn câu thì chú cho mượn đó, nhớ giữ cẩn thận không khéo nó bị gãy là uỗng lắm nghe bây, hai cái cần này chú mua tận Xuân Thới Thượng ở Hốc Môn lận đó, chổ này mới có loại trúc tốt để làm cần câu chứ mua ba cái cần câu bán ở Chợ Cầu dỡ ẹc hà, họ lấy ba cây trúc non rồi cũng hơ lửa làm ra vẻ trúc loại tốt, khi cá cắn câu giật lên thì cần gãy đôi còn cá thì lặn mất tiêu nhiều lúc tức ói máu luôn vậy đó.
Nghe chú Út dặn dò kỹ lưỡng tôi dạ rân và hứa giữ "đồ nghề làm ăn" của chú thật tốt, cái ý nghĩ lần đầu tiên tôi sẽ được tự đi câu khiến tôi bồn chồn suốt đêm mong cho trời mau sáng để còn thực hiện cái sở thích của mình, cũng may cho tôi vì sáng hôm sau là ngày chủ nhật nên tôi không phải đến trường...
Mới năm giờ sáng, khi tiếng đại hồng chung của chùa Phổ Minh gần đấy điểm công phu tôi lò mò ra khỏi giường, nghe tiếng lục đục của tôi má tôi thức giấc bà hỏi:
- Hôm nay chủ nhật mắc cái giống gì bây thức sớm bửng vậy? Ngày thường kêu thức dậy đi học như kêu đò, năm lần bảy lượt bây mới thức, có vụ gì phải không?
Nghe má hỏi tôi điếng hồn vì bị phát hiện cách simh hoạt bất thường, tôi phân vân chưa biết trả lời sao để không bị cản trở cho buổi câu cá hôm ấy, nếu nói thật thì chắc chắn ba má tôi sẽ không cho vì ông sợ tôi mãi mê sông nước trượt chân xuống rạch thì nguy hiểm bởi trước đó ước chừng nửa tháng, xóm trên có hai thằng nhóc nổi hứng tập bơi ở con rạch này, mỗi đứa ôm một bập dừa nước nổi lềnh bềnh trên rạch, chẳng may có đứa hụt tay vuột cái bập dừa chìm dần xuống rạch khiến nó uống nước đầy bụng làm cho đôi mắt trắng dả vì bất tỉnh nhân sự, thằng còn lại hồn vía lên mây la làng kêu cứu, may cho thằng nhóc kia Chú Út đi câu sớm nên chú nhảy ùm xuống rạch túm tóc kéo nó vào bờ, chú hô hấp nhân tạo cho nó liên tục, hồi sau khi tỉnh lại nó quỳ lạy để tạ ơn chú Út như tế sao, nghe tin này ba má cắm tiệt tôi không cho léo hánh đến con rạch vì sợ con mình bị "ma da" kéo cẳng, bí thế và không kiềm chế được cái lòng ham muốn đi câu tôi đành phải nói dóc cho má tôi an lòng:
- Hôm nay lớp tụi con làm bích báo để chuẩn bị mừng xuân, con tới nhà thằng Xuân để phụ tụi nó.
- Nhà thằng Xuân thằng xuyết gì ở đâu? bây nói đi má kêu anh Thọ bây nó lấy xe đạp chở tới, chứ đi một mình xe cộ nguy hiểm lắm, chưa kể "Mẹ mìn" bắt cóc nữa.
Thấy bị má tôi "chiếu bí " tôi bèn xạo tiếp :
- Nhà thằng Xuân ở ngã tư chợ đó má, con lội bộ ra đầu đường đón xe ngựa lên đó có một cắc bạc là tới rồi, còn mẹ mìn hả má đừng lo vì ba thằng xuân là Cảnh sát mà nhà nó trong Cảnh Sát Cuộc đó mẹ mìn nào dám vô bắt cóc hả má.
Nghe tôi xạo cũng có căn, má tôi an tâm phần nào, tuy cho tôi đi nhưng cũng không quên thòng một câu:
- Ừa đi thì đi, nếu gặp nguy hiểm gì thì ghé vô Hội Đồng Xã kế bót cảnh sát có chú Xuân lính nghĩa quân đóng ở đó, chú Xuân quen với ba bây lắm có gì thì chú giúp cho, nhớ chưa?
Tôi vâng dạ cho qua chuyện bởi trong lòng chỉ mong sao mau đến nơi con rạch nọ để câu cá cho thỏa lòng ao ước bấy lâu.
Tạt ngang nhà thằng Răng bạn cùng xóm tôi rủ rê một hồi làm nó xiêu lòng nên cùng tôi đến nhà chú Út lấy đồ nghề rồi dông thẳng ra bờ rạch, trên đường đi chúng tôi cũng không quên mua hai ổ bánh mì nhét cá mòi hộp vào nhằm có cái nhét vào bao tử trong lúc chờ đợi cá đớp mồi, thằng Răng cũng nhanh nhẩu ghé tiệm cà phê của bà Tư mua bịch nước xá xị con Nai hiệu Phương Toàn để làm nước giải khát, buổi đầu đi câu mà chúng tôi cụ bị như vậy kể ra cũng phong lưu vô cùng.
Ngồi chẳng bao lâu kể từ khi thả mồi xuống con rạch, thằng Răng đúng là tay sát cá nó giật lia lịa lúc thì cá Trào, khi thì cá Rô, rồi thì cá Trê vàng ươm cũng cắn câu của nó, còn tôi thì chẳng thấy cái phao động tịnh nói chi cá cắn câu, đang chán nản với tình thế trên, đột nhiên cái phao cần câu của tôi nó mất hút khỏi mặt nước, từ lúc đi theo chú Út xem câu cá tôi chưa thấy tình trạng cá ăn mồi "hỗn" kiểu này, không chần chờ tôi nắm vội cần câu và giật mạnh lên, cầu câu bị sức nặng của con cá trì xuống làm cần cong vút, tôi cố sức kéo nó lên bờ, khi con cá trồi lên khỏi mặt nước tôi chưa kịp nhìn thì thằng Răng cười nắc nẻ rồi nó buông ra câu chọc ghẹo tôi:
- Cái thằng quỷ Phương này, mầy câu kiểu gì ngộ vậy, mầy chống con mắt lên ngó con cá Trê vàng kìa, câu kiểu "dậy" là đưa vô "Ghi nét" được rồi đó, ha ha ha.
Nghe thằng Răng cười giòn, tôi nhìn kỹ cái thành quả cũa mình khiến tôi cũng bật cười theo, các bạn biết sao không? chắc rằng ai cũng biết ý nghĩa của câu:
"Chó ngáp phải ruồi", câu này theo nghĩa bóng ám chỉ ai làm việc gì đó vô tình mà đạt được kết quả ngoài sự mong đợi mà không do thực lực khả năng của mình tạo nên thì người đời dùng câu này để mỉa mai. Hôm ấy trường hợp tôi câu được chú cá Trê vàng to và nặng cả ký lô gam là do "Chó ngáp phải ruồi", số là tôi móc con Trùn đất vào lưỡi câu quá sâu làm cho mũi nhọn của lưỡi câu nhô ra, chú cá Trê vàng bơi ngang tuy không cắn mồi nà mắc câu là do lúc bơi vô tình cái đuôi của chú dính vào cái lưỡi câu, có lẽ đau quá chú quẫy mạnh cái đuôi làm cho phao chìm thật nhanh và kết quả chú bị tôi lôi lên bờ với tư thế chỏng ngược cái đầu xuống đất. Mừng con hơn bắt được vàng, nhốt con cá vào cái đục tôi vội vàng hối thằng Răng mau mau trở về nhà, hai đứa đến nhà chú Út tôi trao con cá Trê chi chú rồi nói:
- Con câu được nó nè chú Út, Chú đưa thím kho cho mấy em để ăn chiều.
Chú Út ngỡ ngàng khi thấy con cá trê "khổng lồ" do tôi tặng chú, chú Út chưa kịp hỏi han thì thằng Răng nó diễn tả lại y như cuộn phim chiếu chậm, nghe xong câu chuyện chú Út cũng vui lây, chú đến bên tôi chú ôn tồn nói:
- Mới ra nghề mà bây giỏi vậy, thôi chú cho hai đứa hai cái cần câu để dành đi câu cho vui, nhưng bây nhớ học hành đàng hoàng, ham câu quá bỏ bê học hành tía bây biết được mắng vốn là chú không vui đâu nhe.
Mừng còn hơn trúng số, tôi với thằng Răng cảm ơn chú Út có tấm lòng hào hiệp với con cháu vô cùng, khi tôi đem cái cần câu về nhà thì sự việc gian dối cũng đà bại lộ, tôi được ba tôi "thưởng" mấy cây "Chả lông gồi" đau điếng, ba tôi thủ tiêu cây cần câu khiến lòng tôi đau quặn, ba tôi còn nhắc:
- Cố gắng học hành đi con, sau này thành tài rồi mặc sức mà "câu".
Ba tôi nay đã trở thành người thiên cổ đã lâu, nhớ lại câu nói ngày nào của ba sau này tôi mới hiểu từ "câu" với nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, tôi chạnh nhớ đến ba mình, nếu không có trận đòn hôm ấy có thể cuộc đời tôi sẽ sang ngã rẽ nào khác chăng.
Hai Hùng SG
***
17
Ngào Ngạt Hương Đời
Trong số mấy người bạn của Hoa có chị Nguyệt là sành chuyện ăn diện son phấn hơn cả. Hoa là gái mới lớn còn Nguyệt đã già dặn chuyện đời, Hoa chỉ đáng mặt học trò, em út của chị Nguyệt. Hoa có thể ngồi yên hàng giờ lắng tai nghe Nguyệt thuyết giảng về nghệ thuật trang điểm, để, theo chị nói một cách không úp mở rằng:" Làm bọn đàn ông, con trai chết mê chết mệt! " Chị Nguyệt có khoa ăn nói, chị nói chuyện rất hấp dẫn và đề tài hay hơn cả là việc dùng mùi hương quyến rũ kẻ khác phái, cụ thể là việc sử dụng nước hoa. Theo chị, phụ nữ không thể thiếu nước hoa. Chị nói : " Ngòai nhan sắc ra, còn cần phải thơm tho. Khi ngọn đèn ngủ tắt, ấy là lúc khứu giác làm việc. Mùi hương góp phần lớn trong hạnh phúc lứa đôi... " Nguyệt là người chuộng thực tế, chị không tin chuyện sách vở xưa nói, người đàn bà quí tướng thân thể tự phát ra mùi hương thiên phú. Dù có đi nữa, hạng nữ lưu này cũng chỉ muôn người có một. Nguyệt cũng không là người lãng mạn, chị nghi ngờ cái gọi là "mùi thơm da thịt trinh nữ " mà các nhà văn, nhà thơ tô vẽ, bày đặt ra, chuyện hão huyền, không thực tế. Phụ nữ bình thường ba ngày không tắm là có "vấn đề" ngay ! Ngày nay khoa học làm được nhiều điều kì diệu, hàng trăm, hàng ngàn mùi thơm, bắt chước thiên nhiên hay nhân tạo, tại sao không dùng nước hoa ?
Trước tiên Nguyệt dạy cách chọn, mua và dùng nước hoa, dùng sao cho quyến rũ và có "cá tính". Chị ta có khoa sư phạm, nói và làm đi đôi. Chị tới bàn phấn lấy lọ nước hoa hiệu Chanel N'5, một hiệu nước hoa nổi tiếng và rất đắt tiền. Nguyệt bắt đầu chỉ cách thử:
- Cùng một lọai nước hoa nhưng mỗi người dùng nó tóat lên một mùi thơm khác ấy, bởi nước hoa còn phản ứng với da người dùng. Vì thế phải chọn lọai nào thích hợp với da thịt, nhan sắc, vóc dáng, tuổi tác mình.
Nguyệt chấm một giọt lên lưng bàn tay mình, nói :
- Phải đợi vài phút cho chất cồn bay hết và nước hoa kịp phản ứng với da mình, sau đó mới ngửi.
Nguyệt đưa lên mũi mình rồi đưa cho Hoa ngửi, nói :
- Để hơi xa một tí, phảng phất thôi, đó, nghe chưa? Em ghi nhớ mùi hương ấy đi.
Rồi chị cũng làm như thế nhưng lần này với bàn tay Hoa. Xong rồi hỏi :
- Em có thấy cùng một lọai mà tay chị và tay em có hai mùi khác nhau không ?
Hoa chẳng thấy khác gì cả nhưng cũng nói cho chị ta vui lòng:
- Vâng, khác hẳn !
Nguyệt sung sướng:
- Đó mới là "Cá tính "!
Nguyệt tiếp:
- Còn một điều này nữa, tối ư quan trọng. Người dùng nước hoa giống bọn sì ke ma túy, nghĩa là ngày càng phải tăng "đô" việc này ít người biết, thế nên rất nguy hiểm. Mũi mình quen nhưng người khác đâu quen. Nếu dùng nhiều đến mức mình nhận ra thì "Chết" cái lỗ mũi thiên hạ ! Nhất là mùa nắng, trong phòng chật chội, đông người. Bởi thế trước sau phải giữ nguyên một mức, mùi thơm phải thoang thỏang , "sắc sắc không không" mới tuyệt !
Chị Nguyệt bày cho cô gái mới lớn cách mở lọ nước hoa để trong tủ áo quần. Đến khi lấy ra dùng, mỗi bước đi quyến theo làn hương trong tà áo, thực là "Ấn tượng" !
Nguyệt khoe có lần ra phố, một người đàn ông đã vượt qua còn quay lại sững sờ cảm phục. Chắc lão ta nghĩ mình vừa được cái diễm phúc động chạm vào làn hương có thực mà như hư ảo giữa chốn trần ai đầy bụi bặm này !
Càng nói Nguyệt càng say sưa. Nhìn cảnh thuyết giảng này người ta dễ liên tưởng đến một vị trưởng lão, võ công cái thế đang truyền lại bí kíp cho đệ tử mới nhập môn.
***
Nguyệt nằm ngửa trên giường, cổ kê gối, dưới có lót tấm nhựa không thấm nước, tóc chảy dài gần chấm đất. Dưới là một thau nước đầy, bốc khói, màu nâu nhạt hương bồ kết, có mấy cái vỏ chanh nổi lềnh bềnh. Con Sáu, người giúp việc, tay cầm gáo, tay kia luồn trong chân tóc chủ. Nó múc nước xối nhè nhẹ, cào da đầu cho chủ. Nguyệt nằm yên, mắt lim dim khoan khóai, nói:
- Mở ngăn kéo lấy chai Zest cho cô, chai Sunsilk nhạt lắm.
Con Sáu đi lấy dầu gội tóc, Nguyệt nằm lơ mơ nghĩ chuyện huê hụi. Sáu trở lại mở chai dầu, Nguyệt dặn :
- Tay chân làm cá xong phải rửa cho kĩ, dùng xà phòng bột, rửa đi rửa lại hai ba lần, lấy vỏ chanh bóp ra mà chà. Ngày trước làm gì có nhiều chất tẩy rửa như bây giờ . Mỗi lần làm cá xong cô phải dùng tro bếp rửa tay, nhất là cá sông, cá dìa, rửa bao nhiêu nước cũng còn tanh. Mình là dàn bà con gái phải thơm tho, bọn con trai mới thích.
Sáu nghe cô chủ nói, nó chỉ ừ hử cho qua chuyện. Lúc trưa làm cá xong nó đã rửa tay rồi, rửa bằng xà phòng cục. Nó chẳng hơi sức đâu rửa kỹ như cô nói, nó còn trăm công ngàn việc. Cô thì sạch sẽ quá mức, áo quần thay ra giặt ngay, chăn mền mỗi tuần mỗi giặt, nhà quét ngày ba lần. Được cái cô chủ thân thích gần gũi với nó. Có nhiều buổi trưa Nguyệt mất ngủ, không biết phải làm gì, hai cô cháu kéo nhau ra hiên ngồi bắt chí cho nhau. Đầu cô sạch lắm, da trắng bong không một chút gàu, tóc không một cái trứng chí. Hàng tuần cô đi tiệm uốn tóc, đội cái lồng sấy to tướng nóng hổi trên đầu cả tiếng đồng hồ, chí làm sao sống nổi ? Cô chưa có một sợi tóc bạc, nhưng cô lại muốn có bàn tay người khác mân mê da đầu. Tới phiên cô bắt chí cho con Sáu. Buổi chiều, ngòai hiên, gần cây khế ngọt, gió hiu hiu, hoa khế màu tím li ti rụng tơi bời. Sáu buồn ngủ lắm, nó chỉ muốn chui tọt vô bếp đánh một giấc. Nó phải ngồi yên, cúi đầu xỏa tóc cho cô bắt chí. Nó mơ màng nghe cô chủ dạy :
- Phải siêng gội đầu. Tóc mầy chua quá. Lấy chùm kết cô mua hồi tết nấu lên mà gội. Mùa hè ba ngày không gội, ai chịu nổi ? Đàn ông họ thích hôn hít mái tóc mình. Bọn nhà thơ gọi lá suối tóc, làn mây... Tóc mày như thế này, thằng nào dám động vào ?
Sáu ừ hử cho qua chuyện, Đến khi cô vào nhà, nó đứng lên, cổ mỏi nhừ. Nó vô nhà bếp ngủ một giấc, đến bốn giờ chiều cô thức nó dậy mua bún sứa chả tôm. Có đêm thầy đi đánh bạc khuya không về, cô sợ ma bảo con Sáu lên nằm chung. Nằm được một lúc Sáu nghe tiếng đồng hồ đỗ mười hai tiếng, Sáu làm lụng cả ngày mệt lắm, ngả lưng xuống là ngáy. Cô lay nó dậy, nói :
- Làm con gái phải cho "sảy" ngủ. Người khác động đến chân giường thì biết. Ngủ say như mầy chúng nó tới "mò" cũng không hay. Với lại tao nghe người mầy đầy mùi hành tiêu ớt tỏi. Phải siêng tắm rửa để cái mùi nước mắm hành tỏi dao thớt bay đi . Hôi hám như thế này thằng nào dám xáp lại gần? Lỡ ôm mầy hít phải cái "mùi nhà bếp" chúng nó chạy xa. Tao có lọ nước hoa cũ, tắm rửa sạch sẽ, tao cho.
Sáu không dám đụng đến nước hoa. Có lần nó về thăm quê, cô cho mượn cái áo cánh màu hoa cà, áo để mấy năm trong tủ không động đến vẫn ngát thơm. Mấy bà già dưới quê nói :" Mới lên thành phố mấy tháng đã học cái thỏi đĩ thỏa !"
Nguyệt không con, trong nhà có kẻ ăn người làm nên rỗi nhiều lắm. Chồng Nguyệt cũng ít có bạn bè tới lui thăm viếng. Chị ở nhà lay hoay mấy việc gội đầu, tắm rửa, làm móng tay, uốn tóc, son phấn, ra vào. Nguyệt nghĩ ra cho mình nhiều trò chơi, trong đó có trò trang điểm cô dâu. Nguyệt kêu con Sáu lên, bắt nó ngồi trước bàn phấn, trang điểm cho nó. Hôm nay chị biến nó thành cô dâu. Sáu mắc cỡ không dám nhìn bóng mình trong gương. Đang lúc đó chồng Nguyệt đi làm về. Nguyệt giữ chồng lại , hỏi :
- Trông có đẹp không ?
- Đẹp lắm
- Em mở tiệm uốn tóc trang điểm cô dâu được không ?
- Được !
Chồng Ngụyệt tính bỏ đi, Nguyệt giữ lại, nói :
- Đứng lại đã, mới trang điểm làm tóc chớ chưa mặc xoa-rê.
Rồi Nguyệt tự nhiên cởi áo con Sáu ra, bên trong thấy cái nịt vú màu hồng nho nhỏ Nguyệt cho nó. Con Sáu mới dậy vú, mà ngực đã to, cái nịt vú của cô thì nhỏ không ôm trọn bộ ngực đứa con gái nhà quê. Sáu xấu hổ lắm cựa quậy. Nguyệt gắt : "Ngồi yên ! rục rịch cái gì ?" Khi Nguyệt đứng lên mở tủ lấy áo thì con Sáu còn lúng túng hơn, nó thấy thầy đứng sau lưng nhìn chầm chầm hình nó trong gương.
***
Về sau Nguyệt mới biết trò chơi của mình là vô cùng tai hại. Có lần nửa khuya Nguyệt khát nước thức dậy, không thấy anh chồng nằm cạnh. Nguyệt kêu con Sáu rót nước, nó không lên. Nguyệt xuống bếp mở đèn, không thấy con Sáu nằm trên giường. Nhưng dưới chân giường còn lại hai đôi dép. Của con Sáu và của chồng. Nguyệt lên nhà cố dỗ giấc ngủ nhưng không làm sao ngủ lại được. Nguyệt không ghen tuông gì cả, cô chỉ tức bọn đàn ông, thực là một lũ ngốc. Bao nhiêu hiệu nước hoa thơm lừng không ưa, lại chui xuống bếp hít cái mùi nước mắm hành, tỏi, ớt, tiêu, gọi chung là "mùi nhà bếp". Sau cùng nàng tự nhủ:" Mặc kệ cái lũ ngốc ! Hơi đâu mà tức ... " Nhờ nghĩ thế nàng ngủ lại được. Ngủ một giấc ngon lành !!!
Quý Thể
17
***
Bất Chính
Đáng lẽ tôi không nên dính vào những chuyện mà người đời thường gọi là bất chính. Tôi nói "đáng lẽ" bởi vì tôi thường dính vào. Và thường dính vào bởi tôi không biết phân biệt thế nào là bất chính. Tôi vẫn được cái mà nhà Phật gọi là vô minh, tiếng dân gian nôm na là dốt.
Cái dốt đó, tôi đổ thừa tại mắt kém. (Ai chẳng biết người sành sõi nhìn đời với con mắt tinh tường ? Mắt không tinh, sao tường được ?) Việt Nam mình mà mới bảy tuổi đầu đã phải mang kính là chuyện cổ kim hiếm cực kỳ. Chuyện bắt đầu từ một chiều đi học về, tôi ra vườn chơi với con bò đang gặm cỏ, vừa lúc nó phất cái đuôi. Bò mà, muốn phất đuôi lúc nào thì phất. Có phải người ta phất cờ khởi nghĩa đâu mà phải lựa thời cơ. Hậu quả là sáng hôm sau, cả nhà kinh hoảng tưởng đêm qua tôi hoá thân làm con gái qủy : hai hồ thu trở thành hai hồ máu. Hai hồ máu tròng trành chắc chắn hãi lắm !
Thôi thì hết thỉnh bác sĩ này tới thầy thuốc kia. Ai cũng cho vài ba món rồi chuồn. Bố mẹ phải cầu tới tiên tới thánh. Tiên thánh nhập vào cái ông ngồi giữa chiếu trước bàn thờ, đầu trùm khăn đỏ ủ chiếc khăn đóng bên trong. Chiếc áo dài the đen phần dưới nổi bật với chiếc khăn đỏ phủ xuống ngang lưng lắc lư nghiêng ngả, đũa cầm tay gõ gõ viết viết lên chiếc mâm đồng, ồn ào nhộn nhịp tạo cơ man hy vọng ! Bằng giọng lơ lớ âm dương, ông phán tôi lạy tất cả mọi người chễm chệ trên bàn thờ. Nào ông Tổ ông Tằng ông Cao ông Cố... Ai cũng với nụ cười nửa miệng, khinh khỉnh, thách thức sao sao. Và cái nhìn các cụ trông khiếp lắm : mình bước sang phải sang trái gì các cụ cũng trừng trừng rõi theo, ý muốn thấu suốt coi lòng mình có thực sự thành kính hay không ! Xong tôi uống chén nước lạnh mà ông tiên ông thánh đã huơ huơ đũa thần vào đấy. Rồi tiên thánh cũng chịu thua, vất đũa, thăng. Thường thì trước khi thăng, tiên thánh hay cười khanh khách, ta đây lắm, hất ông trùm khăn đỏ ngã lăn quay, chỏng trơ bất động hồi lâu. Nhưng lần này tiên thánh chỉ cười khúc khích (bởi vì không cười thì bớt vẻ "tiên" đi), không quên hất nhào cái xác phàm mình đã nhập vào, đủ hiểu tiên thánh cũng "tri túc", biết chắc lần này mình không thể biến hai hồ máu kia thành hai hồ thu trở lại. Ông Cao ông Cố vẫn tủm tỉm, nhưng có phần tẽn tò, ngại con cháu coi thường thực sự (rồi chúng nó sẽ chẳng thèm hoá vàng hoá bạc cho thì có mà... khất thực !). Bố mẹ héo hon. Tôi thì không nói ra chớ chẳng tơ hào buồn, tự nhiên được miễn ngày hai buổi tới trường, lại được chăm chút đặc biệt.
Anh con cậu, biết bố ghét dị đoan. Nhưng tới nước này thì cũng đành thủ thỉ thôi thì rước thử ông thầy pháp thầy gì gì đó. Cùng đường rồi, bố gật. Vừa bước vô sân, ông thầy phán "có gì đâu, anh em nó gặp nhau mừng nhau đó mà", rồi đặt bàn cúng ngoài sân và bảo phải làm cây cung với bốn mũi tên. Chị tôi lấy len cho bố làm dây cung.. Ông rầm rì dụ dỗ anh tôi gì đó (thầy pháp dụ ma như trai dụ gái) , xong bảo tôi bắn bốn mũi tên đi bốn hướng. Chẳng là anh Ba tôi chết non, chưa đầy tuổi. Chết non yểu thiêng lắm. Và vì đứng hạng nhì sau qủy nên có kiểu mừng của thế giới bên kia, thế giới bên này hơi bất mãn. Và dây cung mà bằng len thì bắn xa vạn dặm, hiệu nghiệm như một viên đạn du kích bắn chết một hơi bảy tên GI : sáng hôm sau thức dậy, mắt tôi xanh như mắt đầm. Cả nhà mừng hơn bắt được của (dĩ nhiên còn tùy của gì). Tôi thì cũng chẳng nói ra nhưng tiếc, biết là sắp tới ngày ôm cặp, và cũng chẳng còn lý do để cứ đôi mắt máu liếc tới đâu là y như toại nguyện cái ấy nữa. Sáu tháng sau, tôi bắt đầu mang kính. Người ta thường gọi quê tôi là nơi khỉ ho cò gáy, chớ nếu tỉnh thành thì chắc chắn tên tôi được thượng vào danh sách chuyện lạ bốn phương !
Để góp phần vào cái thị lực mong manh ấy, tôi rất ít nói, mà hễ mở miệng thì văn hoa bí hiểm. Người cho tôi tàng tàng (bố lờ đi, không nghe). Người (chắc là tàng tàng) thì cho tôi có máu thi sĩ (bố tủm tỉm, bảo con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Và không nghi ngờ gì lòng thủy chung của mẹ, bố nhứt định là tôi mang máu bố, chính thống). Ví dụ vào năm lên mười, đang ăn cơm, bất chợt tôi nhăn nhó với mẹ :
- Có người quyên sinh !
Cả nhà ngưng đũa, trợn mắt nhìn. Tôi gật gù tiếp :
- Trên sông. (Các đôi mắt vẫn không chớp) Bên đám rong rêu.
Bố thở dài. Con gái đã mang tật mắt lại còn dở hơi thì dù có đại tiện trên đống vàng cha mẹ cũng chẳng vui nào. Nhưng bố quên là tôi con nhà tông, mang máu bố, chính thống. Mẹ buông đũa ôm vai tôi :
- Ăn đi con. Chuyện thiên hạ ở đâu mà nói làm gì.
Tôi lắc đầu suýt văng cả kính :
- Nhưng nó muốn chui vào bụng con !
Có một đứa con như vậy thì phải biết lòng kiên trì của mẹ. Những sợi tóc mai chân trắng nghiêng xuống bên tôi :
- Ai mà chướng vậy, nói mẹ nghe.
Tôi chỉ vào chén canh, có cái gì lênh đênh. Bố sửa mục kỉnh, liếc, nhướng mày nhìn mẹ :
- Con ruồi, mẹ nó à !
Bối rối, mẹ vội lấy chén cơm tôi săm soi rồi kêu lên :
- Ruồi muỗi gì đâu, nấm hương đó con. Còn một cái bỏ thì tiếc, mẹ xắt bỏ vô canh. (Chép miệng) Con nhỏ mắt mũi đã vậy mà ông thì cũng chẳng hơn gì ! Thôi ăn đi con, có ai quyên sinh đâu !
Tôi thích ngồi trầm ngâm hằng giờ chẳng cục cựa, tịnh khẩu, mắt nhìn xuống. Mà hễ nhìn ai thì cứ chăm bẳm không chớp khiến thiên hạ rờn rợn với ý nghĩ dù tội từ tổ tông, dưới mắt tôi cũng sẽ phơi phới chưng ra. Người ta ơn ớn, muốn tìm mà chẳng hiểu nổi trong cái đầu tóc bum-bê kia chứa đựng phù phép gì. Và họ cho tôi giống bà già. Thì mới nứt mắt đã mang mục kỉnh, đã "nói chữ" ra gì thì có muốn trẻ e cũng khó. Ở trường tôi không có bạn gái. Tôi không thích bọn con gái chớ không phải mới nứt mắt đã ham trai. Vô lớp đầu giờ hay sau giờ chơi, ông cai luôn luôn dành cho tôi cái vinh dự đánh trống. Tôi cho đó là cách cảnh tỉnh chúng sinh, nhắc nhở tới lúc phải trở về với thực tại, với trách nhiệm, đừng lao mãi vào vũng lầy nhân loại (tôi ưa dùng chữ này lắm !). Giải thích vậy mà bọn con gái vẫn không hiểu tại sao tôi thích đánh trống ! Và tôi hỏi tại sao bọn con gái thích chơi trò cút kiếm. Bởi lần nào tôi kiếm cũng chẳng ra ai, mà trốn thì cứ bị bọn nó bắt gặp liền, lại bị úp mặt vào tường đếm tới trăm xong dáo dác đi kiếm, lại cũng chẳng ra ai, lại úp mặt vào tường đếm trăm... có gì thú vị ?
Trở lại, năm đầu tiên tôi lên trung học, chị tôi xin mẹ cho bạn là chị Điểm ở trọ, vì nhà chị Điểm mãi trong quê. Nhà lại quen chú Đạm, chẳng biết bạn ai. Bố thì lớn hơn chú nhiều, anh Hai thì đàn em quá trẻ, và chị em tôi thì gọi bằng chú. Chú Đạm tốt lắm, thường tới nhà chơi và chỉ trời mới biết từ bao giờ, chú hay giúp chị Điểm làm bài. Nhưng vì tánh tình ba hoa mà kín đáo, chú hay đưa cho tôi bao thư, dặn không nên nói ai nghe, chị Điểm sẽ mắc cỡ là không tự mình làm bài được. Bài làm của mình còn lười huống chi bài làm của người khác thì xem làm gì, tôi chỉ nhận và đưa. Chú Đạm có nhiều cách giải bài khác nhau, nên mỗi lần chị Điểm chỉ đưa cho tôi một đề bài, chú Đạm giải đáp những ba bốn lần. Vậy mà chú không dạy học, cũng tiếc. Có khi chú hỏi gì chẳng rõ ràng mà chị Điểm chỉ trả lời bằng mắt là chú hiểu ngay. Thông minh dễ sợ !
Hơn một năm trôi qua như vậy, kể cũng êm đềm. Nhưng sau hè năm đó chị Điểm bỏ học, ít có tin tức. Chú Đạm không còn ai để giải bài, cũng thưa lui tới.
Bỗng vào những ngày gần Tết, chị Điểm tới thăm. Sau khi đã trò chuyện cùng mẹ và chị tôi, chị Điểm vuốt lưng tôi và chỉ chỗ bài làm sai. Công lao chú Đạm chẳng phí. Công lao phát thư của tôi cũng lợi. Rồi chị kể tôi nghe nhiều thứ lắm về đời sống thôn dã. Chị đem hết gia phả nhà chị ra như vẽ trước mắt tôi một bức họa đồng quê vô cùng ngoạn mục. Nào con chó Mực ngày ngày đóng vai vú em khi chị đi vắng. Nào những con heo đực heo cái thả rông trong vườn, ủn ỉn chán lại thênh thang vào nhà cạ lưng vào cột. Nào đàn gà mẹ gà con tíu tít trong sân, trẻ con nhà quê thường ăn cứt gà như con nít phố ăn kẹo mù u . Nào mấy con bò... tới đó thì tôi khựng. Kỷ niệm không may với bò vẫn còn rành rành. Nhìn bò đâu đâu tôi cũng thấy anh mình núp bóng tính "mừng" - cái kiểu mừng của bên kia thế giới, thế giới bên này hơi bất mãn. Chị kể phải tảo tần ra sao để nuôi đứa con sinh non thiếu sữa... Tôi ngạc nhiên :
- Xuất giá... ?
- Không, chị không xuất giá. Chị có người thương mà cha mẹ chị không chịu. Chị có bầu, phải ra riêng nên mới cực.
Sửa lại mục kỉnh, tôi chép miệng lắc đầu :
- Vũng lầy nhân loại !
Chị cũng lắc đầu, thở dài :
- Chị cực như con chó.
Bất giác tôi đưa mắt nhìn con KiKi ngủ dưới bàn, đang tủm tỉm với chó cái trong mơ. Chắc chị Điểm nói con chó nào ở nhà quê, chớ con KiKi ngày hai bữa, rong chơi rồi ngủ, không bị đi học, lại được cả nhà cưng. Chị Điểm tỉ tê nhiều thứ lắm, thứ nào nghe cũng ngồ ngộ lạ tai. Và chị cần tiền, cần lắm. Rốt cuộc để cho kiếp sống của chị không phải kiếp chó, hay ít ra đỡ cực hơn chó, tôi đập bùng binh, tài sản tích trữ những dịp Tết, đưa hết cho chị. Đâu được bốn trăm. Tôi hài lòng, ít ra đồng tiền mình hữu ích. Chớ có phải tiền bất chính đâu mà cứ trốn chui trốn nhũi mãi trong hũ.
Gần Tết năm sau chị Điểm lại ra thăm, đúng hẹn. Sau khi đã trả tiền cho tôi, chị Điểm bắt đầu kể chuyện. Trong câu chuyện, tôi thấy đám chó vẫn còn ve vãn truyền kiếp cho chị. Và chị kết luận không kém phần sôi nổi duyên dáng :
- Vì giữ lời hứa phải trả cho em, chớ nếu chị có số tiền này thì đủ mua thuốc độc tử tử cho cả nhà, chị với hai đứa nhỏ.
Tôi trố mắt sau lớp kính sáu vòng :
- Song sinh ?
- Không phải song sinh, đứa lớn hơn một tuổi, đứa nhỏ mới hai tháng. Chị mắn con, ảnh mà đụng tới chân giường là chị có bầu.
Tôi vẫn nhìn chị, ý hỏi vậy thì ảnh phải tránh đụng cái giường ? Chẳng biết chị Điểm có hiểu thấu ý tôi không mà bật cười gật đầu. Khổ vậy mà vẫn cười được thì quả chị Điểm là người can đảm. Rồi chị lại trở về câu chuyện thuốc độc. Chị tả cái đường đi nước bước của thuốc độc vào thân thể chị và hai đứa nhỏ, ngon lành như đang ăn phở. Chị nói say sưa, nghe phát thèm. Chị tả cái hậu quả kỳ diệu khi chất độc đã theo dòng máu giang hồ khắp nơi rồi hăm hở chạy về tim.... Đến nỗi thuốc bắt đầu ngấm trong người, tôi tò mò :
- Quyên sinh ?
Chị gật đầu :
- Chớ sống làm gì, chị cực như con chó !
Con chó nào được chị Điểm đem so sánh chắc chắn ở nhà quê. Mà ở nhà quê thì cả đời chó có đứa không biết tới công khó bác nông phu. Thế chúng nó xơi gì ? Nó xơi... Thôi, đó là chuyện của chó. Nhưng nếu đời không có chó, hoặc con người làm dồi hết để xuống âm phủ khỏi chép miệng tiếc hậm hụi, không biết chị Điểm sẽ so sánh với con gì. Tôi nhìn chị với cách nhìn bẩm sinh và chị chịu nổi, cũng nhìn lại thẳng vào mắt tôi, không chớp. Tôi nhìn tấm thân mảnh dẻ của chị. Tôi nhìn đôi mắt tròn vo với con mắt phải hơi le lé dễ thương của chị. Tôi nhìn cặp môi rõ nét cong cong đang tủm tỉm của chị... Có lần mẹ nói con Điểm có cái đẹp gian truân. (Bất giác tôi giật mình vì khám phá cái đẹp của chị hao hao con... KiKi ! Thôi chết !)... Tất cả đã cho tôi cảm giác chị đáng sống cuộc đời tốt đẹp hơn, xứng đáng hơn, đỡ khổ hơn. Và nếu cần phải so sánh thì phải so sánh với con người - một người nào đó bất kỳ, ví dụ với bà Chín bán rau muống ai cũng chê rau già như bà, không mua, cũng được đi, nhưng đừng với chó - dù đó là con KiKi ngày hai bữa, rong chơi rồi ngủ, không bị đi học, lại được cả nhà cưng. Và tôi cảm thấy có bổn phận phải cứu chị khỏi kiếp này, khỏi những con chó cứ chờn vờn chung quanh. Và tôi cảm thấy một lần nữa, những đồng tiền mình không nên nằm uể oải vô ích trong bùng binh, mà phải tích cực giúp chị Điểm đầu thai một kiếp huy hoàng hơn, đỡ chó hơn. Và tôi cảm thấy lòng lâng lâng, lần đầu tiên trong đời cảm thấy sự hiện diện của mình hữu ích. Và tôi đưa hết cho chị số tiền chị vừa trả...
Lạ, Tết năm đó nghe xôn xao có người uống thuốc độc tự tử, mà không phải chị Điểm. Hoặc người bán thuốc mắt kém đưa nhầm thuốc bổ thay vì thuốc độc cho chị. Hoặc người bán thuốc đưa nhầm thuốc độc của chị cho ai vừa chết đó... Dù sao chị cũng bặt tăm. Tới hè, tôi chuẩn bị khăn gói vào Sài Gòn du học thì cũng là lúc nghe thím Đạm đòi ly dị vì khám phá ra chú Đạm "tằng tịu" và có hai con với chị Điểm. Năm đó 1964, đã có bộ Luật Gia Đình. (Vậy mà khi nghe chị ấy nói về chồng, chẳng bao giờ tôi biết hỏi chồng chị là ai !). Mẹ bảo : cái thằng bất chính ! Tôi hỏi : Mẹ nói "tằng tịu" là thương, vậy tại sao thương mà là bất chính hả mẹ ? Mẹ chỉ hứ.
Gần tết năm thứ hai ở Sài Gòn, tôi xuống bưu điện chính phôn về nhà. Làm gì có điện thoại mà nghe phôn, phải nhờ nhà hàng vàng bên cạnh :
- Mẹ, con về sau Tết.
Giọng mẹ sôi nổi nồng nàn :
- Sao lại về sau Tết ? Khoảng đưa ông Táo phải về chớ con ? Ở lại làm gì mà về trễ ?
- Con chờ toà xử.
- Xử ai ? Xử cái gì ?
- Tội ăn cắp.
Bên kia đầu giây hình như có ai chọc tiết mẹ (hy vọng không phải mẹ vừa chớp cái gì của bà hàng vàng và đang đính chính) :
- Cái gì ? Ai ăn cắp ?
- Mẹ hỏi con hả mẹ ?
- Chớ tao hỏi ai bây giờ ? Ai ăn cắp ?
- Bạn con.
Giọng mẹ uất nghẹn :
- Thì cơn cớ gì mày mà mày về trễ ?
- Con... làm chứng !
Mẹ thở hắt ra nghe mới não nùng ! Rồi cằn nhằn hỏi bạn ăn cắp cái gì, của ai, mà sao con lại phải làm chứng, con ơi con dính vào những cái bất chính đó làm chi... Tôi làm thinh. Điều bạn tôi làm không mảy may bất chính. Đó là tình yêu. Đó là cái đam mê của tình yêu. Mẹ làm gì hiểu nổi vì mẹ có biết tình yêu mặt mũi ra sao. Ông Ngoại ông Nội bạn nhau, hứa hẹn làm sui. Ngoại tới giờ trăn trối, cả nhà phải vắt giò lên cổ lo đám cưới chạy tang. Lúc đó mẹ mười bảy, sợ phải chờ ba năm, thành gái già. Về nhà chồng, tuổi "bẻ gãy sừng trâu" không địch nổi cụ Khổng Tử khắp nơi. Không những cụ Khổng ngồi trên bàn thờ, mà còn trong phòng khách, trên bàn ăn, ngoài sân, dưới bếp... Ra đường thì bước sau bố một bước. Tiếp khách thì ngồi sau bố một cái lưng. Ăn cơm thì sau bố một chén. Tóm lại cái gì mẹ cũng phải nhường bố một bực. Không nghe mẹ nói cụ Khổng có vào tận giường không. ƯØ, thì chắc mẹ cũng phải... dưới bố. Nhưng thôi, đó là chuyện phòng the. Và tóm lại, thường thường cái gì mẹ cũng cho là bất chính.
Mẹ mà hỏi cái gì thì tới cùng. Rốt cuộc tôi phải khai ra. Bồ thằng bạn thích cái ghế kiểu xưa của ông khoa trưởng. Thích mê, nói hoài. Mỗi lần nhắc tới cái ghế như nhắc nem công chả phụng, nước dãi thập thò. Thằng bạn đặc biệt khoái những giọt dãi e ấp bên khoé mép này, cho là con nhỏ ưa cái gì là "đam mê hết mình", thì nó cũng sẽ yêu tao tận cùng con tim. Thằng bạn nhờ tôi phụ một tay làm quà tết. Nặng kể gì. Đang hì hục thì ông gác trường bắt gặp.
- Trời ơi, chẳng lẽ bồ nó ham cái hột xoàn, nó đập kính ăn cắp rồi mày cũng giúp nó hả ? Chết con ơi, mẹ chịu, không hiểu nổi con !
Tôi chợt nghĩ bố có thể hiểu. Nhưng ý nghĩ vừa thoáng qua đầu là tiêu ngay. Bố mà hiểu nổi lòng đam mê của tình yêu thì đã cãi lời ông nội, không chịu cưới mẹ. Bố đeo cô ả đào như sam mà phải nhả. Nghe đâu "anh, ả" đối đáp toàn bằng thơ phú văn chương, kề vai lả gối, tâm ý gì cũng rất rất hợp. Mẹ nói cưới về bố nhìn mẹ như nhìn hoa cứt lợn, trong khi bố chỉ tơ tưởng tới hoa hồng.
Anh lính nào đó thường rên rỉ "Tết con không về chắc mẹ buồn lắm, mái tranh nghèo..." Tôi không là lính. Nhà tôi không phải mái tranh. Nên mẹ không buồn, chỉ bực bội kết án "Con lớn rồi, sao cứ dính vào những chuyện bất chính đó làm chi ?"
Không cãi làm gì, mẹ lại trùm thêm cho cái khăn bất kính, bất hiếu, bất mục gì gì đó. Tôi cứ làm thinh, mẹ cứ lải nhải. Cuối cùng hai mẹ con cùng cúp máy, bất mãn. Chợt tôi không muốn lớn lên, bởi vì người lớn thì chắc chắn lắm lúc phải sống dối lòng để không mang tiếng là "bất chính".
Miêng
***
Con Cá Lia Thia
Hồi trước trong xóm tui chỉ có duy nhất nhà ông Bảy Sơ nuôi cá Lia Thia để bán. Ðám con nít tụi tui thời bấy giờ ( Thập niên sáu mươi) rất khoái nuôi con này con nọ, trong đó có cá Lia Thia là khoái nuôi nhất.
.
Ông Bảy vốn là người làm nghề thợ Sơn, hàng ngày ông đi theo mấy người Cai vô làm những công trường xây dựng , ông thuộc hàng thợ giỏi nên lương của ông lút nào cũng cao hơn những người thợ khác, mấy người Cai, Thầu khoán rất kính nể ông vì ông làm việc có trách nhiệm và hoà nhã trong cách đối nhân xử thế hàng ngày, vậy mà ông không theo nghề đã nuôi sống ông bấy lâu, bữa nọ ông về nhà làm cái nghề mới mẻ vô cùng đó là nuôi cá Lia Lia để bán.
Sau cả năm ông sửa sang lại vườn tược, ông dành một khu đất nhỏ trong vườn làm nơi nuôi và ép cá Lia Thia.
Tui còn nhớ mùa Hè năm nọ khi được cho nghỉ ba tháng, thì đám nhóc tì tụi tui xúm lại bày đủ thứ trò chơi, trước đó tụi tui đã nghe phong phanh nhà ba thằng Tèo tức ông Bảy Sơ có nuôi cá Lia Thia , nên thằng Răng Lớn bạn tui nó rủ rê:
- Hôm nay tụi mình kéo vô nhà thằng Tèo coi cá Lia Thia đi, nghe nói ông Bảy nuôi đủ thứ hết , nào là cá Xiêm, cá Phướn, Cá Tàu, cá Bảy màu nữa, nếu ông Bảy bán rẻ rẻ thì tụi mình mua về chơi, chứ chú Ba Tàu bán Cá trước cổng trường mắc thấy mồ luôn.
Tui nghe nó nói vậy tui khoái chí lắm nên hưởng ứng liền:
- Ờ thì vô đó chơi , coi cá xong mình qua chùa Phổ Minh chơi ?Ðánh đáỏ cho mát mẻ
Mấy đứa bạn kia hình như cũng có cái máu tò mò, nghe nói vô nhà ông Bảy coi cá Lia Thia cũng khoái chí tử lắm, nhưng cái máu sợ ma nó lấn át cái tính tò mò nên thằng Cu Hoành bàn ra:
- Chèn ơi! Nhà ông Bảy xung quanh mồ mã không hà, nghe nói có nhiều người bị Ma nhát ban ngày luôn đó.
Thằng Cu bà Mười thì nghe tới cá Lia Thia là nó hí hửng, khi nghe thằng Cu Hoành nói vậy nó cự lại liền :
-Thôi mầy ơi, bá láp vừa thôi , nào giờ Ma cỏ nhát người vào lúc ban đêm thôi, chứ ban ngày mần gì có Ma cỏ gì đâu mà sợ, nếu mầy sợ thì ở nhà đi, còn tụi tao với đó coi cho đã .
Mấy thằng khác cũng hưởng ứng ý kiến của thằng Cu Bà Mười, vậy là cả đám tụi tui bắt đầu đi vô con hẻm ngoằn ngoèo để tiến về khu đất nhà ông Bảy Sơ, thằng Cu Hoành tưởng nó sẽ ở nhà , dè đâu nó cũng lót tót theo sau cho đủ bộ .
?
Qua khỏi khu chòm mã là tụi tui đã đặt chân lên đất vườn nhà Thằng Tèo rồi, cái hàng rào bằng cây Dâm bụt đã trổ bông thấy mê, cổng rào ông Bảy làm bằng cây tầm vông, nói là cửa rào tưởng đâu nó chắc chắn để ngăn ngừa trộm đạo, nhưng nếu quả tình ai muốn đột nhập vô nhà ông Bảy thì dễ như trở bàn tay, chỉ cần đẩy nhẹ là cánh cửa rào thì nó mở ra toang hoác tức thì, (mà thật ra những năm đầu của thập niên sáu mươi, đất nước thật yên bình có nhà đi ngủ chẳng cần đóng cửa, vì chẳng có ai đi trộm cướp bao giờ, ai cũng chí thú làm ăn theo cái nghề của mình, dân tình sống lương thiện có trước có sau, đùm bọc tình nghĩa xóm làng thật lòng và không câu nệ điều gì. )
Vô sân nhà thằng Tèo tụi tui thật ngỡ ngàng, ông Bảy tạo quang cảnh khu vườn nhà ông như cảnh thần tiên nào đó mà tụi tui từng đọc qua trong cuốn truyện cổ tích, dọc lối đi vô nhà ông trồng những hàng bông sứ Thái Lan trong những cái chậu bằng sành ngó thật đẹp mắt, phía hông nhà ông Bảy cất một cái chái nơi ông để nhiều hồ kiếng nuôi cá Lia Thia , cá Bảy màu, kế bên mấy hồ kiếng là giàn kệ gỗ nơi ông trưng bày những cái hủ bằng thủy tinh, trong mỗi cái hủ là một con cá Xiêm to, loại cá này ông bán cho những người chơi đá cá, nghe đâu một con ông bán cả mấy đồng bạc nên tui hỏi thằng Tèo:
- Ê mầy Tèo, Tía mầy ổng bán mấy đồng một con trong hủ này phải hông mậy.
Tèo nói liền một khi :
- Ðúng rồi, nhưng khi mua tía tao ổng vớt trong hồ ra, chứ cá trong hủ để trưng bày thôi, mấy con đó hiếm lắm, từ màu sắc đến dáng điệu nó bơi lượn coi đã lắm.
Nghe thằng Tèo nói vậy tui hơi buồn trong bụng, vì tui lận lưng quần đúng một đồng rưỡi, vậy mà ông Bảy bán tới mấy đồng thì đến Tết ?Công gổ thì cái đám cây lố cố tụi tụi mới may ra mua được, tui bèn nói với cái giọng yếu xìu:
- Tao tưởng đâu chừng đồng rưỡi là mua được, ai dè ông Bảy bán cũng cao giá quá chừng, giá này cũng bằng giá chú Ba Tàu bán trước cổng trường của tụi mình đó.
Tui xin mở ngoặc chỗ này chút xíu, tui không dám nói thẳng thừng là ông Bảy bán mắc y như ông Ba Tàu, vì nói vậy tui sợ ông Bảy và thằng Tèo không vui rồi có thể họ sẽ không cho tụi tui ở lại coi cá thì buồn lắm.
Thằng Tèo nghe tui so sánh giá bán cá của Tía nó với chú Ba Tàu, tui nghĩ trong bụng chắc nó sẽ cự nự dữ lắm, ai dè nó cười hiền rồi giải thích cho tụi tui:
- Tụi bây hông phải dân sành về cá Lia Thia, thật ra coi hai con cá giống nhau nhưng cá Tía tao bán là cá được ép từ cá giống loại tốt, cá đá nhiều trận mà chẳng thua bao giờ, còn cá Chú Ba ổng bán là loại cá sa cạ nên giá chú Ba rẻ hơn tía tao là đúng rồi, không tin tụi bây coi nè .
Thằng Tèo đến bên hàng mấy hủ keo đựng cá , nó rút tấm giấy cứng ngăn giữa hai cái hủ keo để hai con cá cận nhau không Phùng mang trợn nó đá cái bóng với nhau, tui nghe mấy người nuôi cá nếu để hai con cá đá như vậy thì con cá sẽ bị xuống sức, do nó hay táp mỏ vô vách cái hủ keo hoài thì bị tà mỏ, do đó khi lâm chiến thiệt thụ thì thua cá đối phương là cái chắc, tấm giấy cứng vừa được thằng Tèo rút ra, hai con cá Xiêm bắt đầu giương kỳ và đổi màu xanh tím xem đẹp mắt vô cùng, hai cái vây phía dưới của con cá Xiêm đỏ rực , hai con lao vào nhau để cho đối thủ biết thế nào là lễ độ, nó uốn éo mình, rồi dùng đuôi quạt mạnh nước về đối thủ , coi được chừng vài giây thì Tèo đã dùng giấy chặn lại khiến hai con cá cũng cụt hứng vì trận đấu dừng lại đột ngột khi chưa phân thắng bại.
Chưa để cho tụi tui thắc mắc, thằng tèo chỉ tay về phía ông Bảy đang thả lăng quăng cho đám cá bảy màu ăn gần đó, nó nói nhỏ:
-Tía tao ông kỹ lắm, ổng không cho tự tiện rút giấy ra cho cá đá nhau, ổng biết là tao bị ?Xực ? liền.
Thì ra giàn cá trong hủ này ông Bảy quý như báu vật, ông chỉ biểu diễn khi có mối lái thân thiết mà thôi, được vài giây chiêm ngưỡng như tụi tui như vậy là quý lắm rồi.
Rồi chỗ nọ, Thằng Tèo dẫn tụi tui ra phía sau nhà, một cái ao nhỏ đầy rong rêu hiện ra, đàn cá Xiêm con bơi lội thoải mái trong làn nước mát lạnh , có nhiều con lội đến hòn giả Sơn trong hồ, nó rướn lên rỉa những sợi rêu li ti mọc trên tảng đá gần mặt hồ, ngắm nhìn đàn cá bơi lội tui cảm thấy thư thái trong lòng vô cùng, bổng tiếng ông Bảy vàng lên:
- Sao đây, nay mấy ?anh? mua cá gì, tui để vốn cho. Cá Xiêm lớn năm cắc một con, cá Phướn thì bốn cắc, vậy là rẻ lắm rồi đó.
Nghe ông Bảy nói vậy tui lật đật lên tiếng:
- Vậy ông Bảy bán cho con ba con cá Xiêm đi, con lấy cá trong keo phía chái nhà được không ?
Ông Bảy như đụng phải lửa, ông nói liền :
- Thằng Phương mầy giỡn chơi Hoài, mấy con đó ba đồng ông chưa bán nữa đó, thôi bây lấy cá trong ao đi, ông lựa con bự cho về mặc sức mà chơi, còn đứa nào mua nữa không để ông vớt luôn một thể.
Không đứa nào lên tiếng, vậy là có mình tui mua mà thôi, tui cảm thấy Không vui trong bụng vô cùng, vì nghĩ rằng đứa nào cũng mua một và con về chơi, có vậy mới có cơ hội chơi đá cá cùng nhau mới vui, đàng này có ba con cá của tui thôi thì chán chết, hỏi ra thì tụi nó thú thiệt không đứa nào có tiền để mua, vậy thì đành thôi chứ biết sao bây giờ .
?
Trưa nọ tui đang nằm tòn ten trên cái võng, tự nhiên có bàn tay ai đó vỗ vô lưng tui, chừng nghe tiếng thằng Thành nói thì tui hết mơ màng trong giấc ngủ trưa:
-Ê Phương! Tụi nó rủ xuống đám ruộng Năng gần cầu Ðen xúc cá Lia Thia về chơi kìa.
Tui ngồi dậy đưa tay che miệng ngáp, tui hỏi nó:
- Lấy cái gì để xúc cá, phải có đồ nghề gì mới bắt được.
Thành nói:
-Dễ ẹc hà Phương ơi! Lấy mấy cái rổ tre với mấy cái lon sữa bò đem theo là được rồi, còn không lấy bịch nylon đựng cá cũng được.
Tui nói:
- Rổ tre ở đâu ra, nhà tao có hai cái để má tao mần đồ ăn, lấy đi ngâm dưới sình khi về là có ?Bánh tét nhưn mâỷ ăn liền, tao không dám đâu.
Thành liền đáp:
- Mầy yên chí đi, tụi nó có rổ hết rồi, mầy đem theo lon sữa bò thôi, kệ đi cho vui với tụi tao đi mầy.
Thú thiệt nghe Thành rủ đi xúc cá Lia Thia thì tui mê lắm, nhưng tui có phần e ngại vì trước đây trong xóm mấy người lớn tuổi hay kể khu cầu Ðen có Ma Da kéo cẳng, rồi nước trong mấy ruộng Năng rất hôi thúi ngâm mình dưới đó về nhà tắm cả buổi chưa hết mùi sình bùn, ông già tía tui biết được sẽ ?Cạo đầu khổ tức thì, sau một hồi suy nghĩ thiệt hơn, tui làm liều một phen vì không đành để bạn bè đi mà không có mình, dầu sao tui cũng là đứa hay bày đầu các cuộc chơi, giờ bỏ tụi nó ku ki sao đành, tui nói với thằng Thành:
- Mầy ra ngoài đường lộ trước đi, tao sẽ ra sau, đi cả đám má tao thấy bả hỏi han phiền lắm.
?
Trưa mùa Hè nắng chói chan, hơi nóng phía trên phà xuống, hơi nước dưới ruộng Năng bốc lên, mùi hôi của sình lâu ngày nay có dịp lan tỏa trong không khí làm cho đám nhóc tụi tui hứng trọn.
Cả đám nhào xuống ruộng Năng, mặt nước trên ruộng đến đầu gối, đi chuyển đến đâu thì mùi sình bay lên đến đó, nước dưới ruộng Năng có phèn nên trong veo như mắt mèo, nó cũng là điều thuận lợi cho tụi tui đi xúc cá, cả đám trải ra hình vòng tròn như để bao vây đám cá, từng cái rổ xúc lên ban đầu chỉ gặp toàn là cá bảy trầu, họa hoằn lắm dính được một vài con cá Phướn con nhỏ xíu, nước dưới ruộng Năng bắt đầu đen thui do bùn sình bị khuấy động, cả tiếng đồng hồ quần thảo với đám ruộng Năng tưởng đâu ra về trắng tay, nhưng Trời Phật còn thương tình tụi tui cũng xúc được cả chục con cá Xiêm đẹp tuyệt trần.
Cá Xiêm xúc được đem về chia đều cho mọi thành viên hôm đó đã tham gia, tui cũng được chia một con Xiêm đẹp nhưng tui không lấy, tui nhường lại cho thằng Răng bạn tui, Răng nói:
-Vậy thời tao lấy con cá Xiêm này cho thằng Răng nhỏ em tao, nó cũng mê cá Lia Thia lắm.
?
Hai con cá Xiêm của Tui và của thằng Răng đang tỉ thí trong cái ?Diệm? tráng men màu da bò, dưới làn nước trong veo hai con quần thảo nhau hồi lâu , điều bất ngờ con cá Xiêm tui mua của ông Bảy lại thua con cá Xiêm của thằng Răng mà tụi tui xúc được hôm nọ, đứa nào cũng trầm trồng khen con cá thằng Răng quá mức, có thằng còn ghẹo tui:
- Con cá năm cắc mà đi thua con cá Cầu đen, quê xệ quá Phương ơi!
Phải công nhận bữa đó tui quê thiệt, vì con cá được ép ra từ nhà ông Bảy thì không thể là con cá tầm thường, vậy mà lại thua con cá hoang dã ngoài ruộng đồng hỏi ai không tức, đã quê vậy mà tui còn phải chung cho thằng Răng cây cà REM đậu xanh do chú Hai đi bán mỗi ngày ngang nơi đây.
Về nhà đêm đó tui nhìn lại ba con cá Xiêm của mình, từ lúc thua trận hồi sáng khiến tui mất niềm tin về đám cá Lia Thia này, nản chí tui chui vô mùng với giấc ngủ chập chờn vì mình là tên bại tướng không bằng .
Mới tờ mờ sáng tui đã nghe tiếng thằng Răng là làng:
- Con cá Xiêm của con đâu rồi má, má có thấy đâu không.
Bác Tư má thằng Răng nói:
- Cá kiết của bây nuôi má có biết đâu mà rờ, bây coi chừng thằn lằn nó câu đó, hồi hôm có đậy lại không.
Bác Tư lần mò đến bên cái bàn nơi mấy hủ cá Xiêm của thằng Răng nuôi, nhiều giọt nước còn đọng lại trên mặt bàn gần cái hủ keo đựng con cá bị mất.
Bác Tư vỗ bàn nghe cái chát, bác nói:
- Ðích thị là thằn lằn nó câu rồi bây ơi, mơi mốt nhớ đậy đệm cẩn thận, mấy con thằn lằn nó khôn dàn trời mây luôn đó.
Mất con cá chiến của mình, vì nó mới lập chiến công sáng nay, vậy mà giờ đây nó đã nằm trong bụng thằn lằn rồi, thằng Răng lẫm bẫm nói:
- Ðám thằn lằn quỷ này tụi bây sẽ biết tay tao.
Kể từ hôm đó, đám gà nòi của Bác Tư có thêm nguồn thức ăn dồi dào nhiều chất đạm bổ dưỡng, thằng Răng lên chiến dịch tiêu diệt đám thằn lằn trong nhà để trả thù cho con cá Xiêm yêu quý mà chết yểu của nó.
?
Thời gian như ?bóng Câu cửa sổ? đúng y như câu thơ của thi sỹ nào đó đã nêu, mấy chục năm sau mỗi khi có dịp gặp lại nhau tụi tui ôn lại kỷ niệm thời thơ ấu thật vui, rồi thì cuộc sống vô thường cũng điểm danh từng người, thằng Răng bạn tui nó về thăm ông bà trong cơn bạo bệnh, đến viếng tang thăm nó, tui dự định mua một con cá Xiêm, bỏ trong cái hủ đem lại để trên bàn thờ cho nó xem, nhưng tui không dám thực hiện, bởi còn nội ngoại nó hai bên nếu tui làm vậy đôi lúc gây khó chịu cho gia đình vì họ đâu có hiểu chuyện ngày xưa của đám con nít tụi tui, thôi Răng ơi! sau này tới phiên tao về dưới gặp mầy, tao sẽ ráng mang theo bịch cá Xiêm có vài con trong đó để anh em mình tiếp tục chơi trò đá cá Lia Thia nghe Răng .
Một ngày nhớ đến bạn tui
Thứ Bảy 20.7.2022- 18:31
Hai Hùng SG
***
Chọi Kiến
Thằng Hai ! Thằng Hai ! Mầy còn sống không?
Trong cơn sốt li bì tôi nghe tiếng lão Thạch gọi. Tôi rền rĩ:
- Con khát quá!
Ngăn bên kia có tiếng chiếc gáo dừa cọ trên nền đá và tiếng lão Thạch:
- Từ sáng đến giờ tao kêu gọi cháu hoài, không nghe động tĩnh, tao sợ cháu chết quá. Thôi bò ra lấy nước uống đi con.
Đầu tôi nhức như búa bổ, tay chân rã rời. Tôi cố gắng hết sức bò tới đưa tay ra lấy cái gáo dừa đựng thứ nước đục lờ lờ, mà cũng không nhiều, chỉ được một ít dưới đáy. Tay tôi vừa chạm vào gáo thì bị lão Thạch chộp lấy. Bây giờ tôi mới được nhìn thấy một phần da thịt của người tù bên kia. Một bàn tay nhăn nheo cháy sạm vì tuổi tác và cũng vì bao nhiêu cay đắng của cuộc đời tù tội. Ông lão cầm tay tôi, ve vuốt, nói:
- Ờ, đỡ rồi đó, da thịt đã mát. Tao lo quá thành hoảng chớ sức con trai như cháu làm gì chết dễ dàng được.
Uống nước xong tôi chẳng thấy khoẻ ra tí nào mà còn nôn nao khó chịu, chỉ chực nôn trào ra. Lão Thạch:
- Ba ngày nay mày đau, tao được no. Phần cơm mày tao đã xơi hết rồi. Mấy ngày liền không thấy mày bò ra lấy cơm, tao biết mày bệnh nặng lắm rồi. Cơm kiến nó bu đầy, tao tiếc lấy ăn. Bữa nào mầy mạnh, ăn trả lữa tao sẽ nhịn trả mầy. Bây giờ nghe đỡ chưa con?
Tôi thều thào:
- Bác Ba ăn đi, con nuốt không nổi.
Lão Thạch và tôi là hai người tù, một già và một thằng bé con. Lão ở căn hầm bên kia, tôi bên này. Mỗi bên chỉ rộng vừa đủ cho một con người nằm, không thể đứng hay ngồi. Ngăn rất nhỏ, với tôi thì còn đỡ vì nhỏ người, còn lão chắc khó khăn xoay trở lắm. Hai căn hầm khít nhau, nói thì nghe chớ chẳng thể nhìn thấy nhau. Mỗi bên có một cái lỗ nhỏ sát trên nền đá, chỗ bọn cai ngục đặt cơm nước và cũng là chỗ chúng lấy đi cái ống tre đựng chất phế thải của hai thằng tù. Hai cái lỗ này cũng là nơi chúng tôi giao tiếp với nhau. Chưa thấy mặt lão già này song cuộc đời của lão tôi đã thuộc nằm lòng. Mỗi ngày lão kể cho tôi nghe một đoạn đời của lão, giống như đọc truyện Tàu từng chương từng hồi. Đúng là một cuộc đời giang hồ ngang dọc. Lão là tuỳ tướng của Hoàng tướng công ( Hoàng Hoa Thám, hùm thiêng Yên Thế). Cuối cùng, như lão nói, chỉ vì thấp trí thua mưu nên phải sa cơ. Lão đang mang cái án "Trảm giam hậu" mà theo kiểu nói của lão thì chúng nhốt tạm vào đây để chờ mài dao ! Lão trú trong cái hang đá này gần năm năm thì tôi chui vào. Tôi chỉ là một thằng bé con , bị bắt khi đi làm liên lạc giao một bức thư. Bức thư ấy nói gì tôi chẳng biết. Thế nhưng với một đứa trẻ con như tôi chúng cũng đem nhốt vào hình lao cũng vì chúng biết cha tôi là địa chủ rất giàu có. Chúng moi tiền nhà tôi nhiều lần rồi song vẫn không chịu thả, giam tôi cũng chỉ để bòn rút thêm tiền. Cái đề lao hang đá này dễ vô khó ra. Hoàn cảnh đã kết hợp một già một trẻ. Không có lão Thạch chắc tôi không thể vượt qua nổi những ngày, những đêm tù tội trong chốn địa ngục trần gian này. Cái tôi sợ nhất không phải là đòn tra tấn mà là thời gian. Làm sao vượt qua được, những ngày, những đêm, những tháng, những năm dài dằng dặc ? Tôi hỏi, lão trả lời:
- Có chớ, cháu có đi học, có chữ nghĩa, cứ nằm vắt tay trên trán ngẫm nghĩ sự đời. Nhất là nghĩ cách trả thù. Tao đã nghĩ ra 432 cách trả thù. Nằm đây nghĩ cách báo thù cái đứa nó làm cho mình đau khổ là thú vị nhất, và nhờ thế thời gian cũng qua đi nhanh.
Tôi hỏi:
- Còn có cách nào nữa không bác Ba?
Lão Thạch:
- Còn chớ.
Tôi hỏi:
- Cách gì?
Lão Thạch:
- CHỌI KIẾN !
Tôi kinh ngạc, tôi là đứa bé ở quê quen nghề chọi dế, chọi gà, chọi trâu. Tôi chưa nghe ai nói chọi kiến. Tôi hỏi lại:
- Chọi kiến?
Lão Thạch:
- Ừ, chọi kiến
Tôi hỏi:
- Chọi kiến là chọi làm sao?
Lão Thạch:
- Là cho hai con kiến cắn nhau đó mà. Đừng tưởng trò này không thú. Tao chơi trò này đã ba năm rưỡi rồi vẫn không chán, càng chơi càng ghiền. Trước đây kiến tao chọi kiến tao, ít thú. Bây giờ có mày vào đây, kiến tao kiến mầy chọi nhau, có ăn có thua, thú vị biết bao!
Hôm đó lần đầu tiên trong đời tôi được coi một trận chọi kiến. Lão kêu tôi lết ra cái lỗ xem trận đấu mà lão nói đó là trận đấu rất đặc biệt mà lão chờ cho tôi khoẻ mạnh mới bắt đầu. Trước tiên là màn giới thiệu các đấu sĩ. Lão đẩy về phía tôi cái hộp gỗ cũ, loại hộp bọn lính đựng thuốc lào, lão nói:
- Đó thấy chưa? "Đại tướng quân" oai phong lẫm liệt không?
Tôi thấy "Đại tướng quân" là một con kiến to, đầu như hạt đậu xanh, mình vàng rực, bóng như thoa mỡ. Cặp râu dài sáu chân cao lớn vạm vỡ, cái càng sau rất khoẻ, nâng cái bụng to nhiều ngấn. Tôi hỏi gốc gác vị đại tướng này. Lão nói:
- Bữa đó trong cái gáo dừa còn sót lại vài hạt cơm. Lạ quá, như những bữa khác kiến đã bu đầy, lần này không một con. Tao cầm lên coi thì thấy dưới đáy có vị tướng công này ngự bên trong thành ra bọn kiến tiểu tốt chẳng dám xâm phạm. Chiều đó tao mở hội khai đao đại tướng quân với con Cáp Tô Văn (tên một nhân vật tướng Phiên trong hát bội) Cáp tô Văn là một con kiến đen to tướng, mình có vằn vện chẳng khác gì tên tướng phiên Cáp Tô Văn. Mới nhập trận, chưa đầy hiệp. Đại tướng quân huơ cặp râu chẳng khác gì "đệ nhất anh hùng Lữ Phụng Tiên" (Lã Bố), mới xáp vô, đại tướng quân đa huơ đao chém nhầu. Than ôi! Cáp tiên phuông hồn lìa khỏi xác!
Sau đó, trong khi mày bệnh tao bắt được anh chàng này, cũng thuộc hạng danh gia, anh hùng hào kiệt, con nhà võ tướng oanh liệt. Đây mày xem. Lão đẩy qua cho tôi coi con kiến khác. Một con kíên lớn màu nâu, bóng như gương, hai cái ngàm to chẳng khác gọng kềm, trông tướng mạo rất khoẻ chỉ có hơi chậm chạp.
Lão Thạch:
- Con này dị dạng, tao đặt cho tên Ô nguyên nhung. Bữa kia nó đã tỉ thí với con Dương Phàm ( đều là nhân vật hát bội). Cũng chưa đầy hiệp Dương tướng quân không còn chỗ dội mão!
Chọi kiến khác với chọi trâu chọi gà, chọi dế, con thua bỏ chạy, con thắng không đuổi theo, chỉ đứng lại ca khúc khải hoàn. Chọi kiến ghê tợn hơn. Con thua không bao giờ bỏ chạy, không biết đầu hàng, con thua rất quật cường và không bao giờ chịu sống nhục. Con thắng cũng không khi nào chấp nhận tha tội chết cho kẻ thua cuộc. Lão Thạch nói lão rất thích cái khốc liệt tàn nhẫn của trận đấu. Lão nói thấy kiến mà buồn cho mình. Những kẻ thất trận như tao đáng lẽ phải da ngựa bọc thây, chứ sống thừa sống nhục trong cái ngục bằng đá này cũng là chỉ để chờ thời. Ở trong tù phải luyện cái chí bình sinh.
Lão Thạch còn thuyết thêm một hồi nữa rồi mới cho khai cuộc. Tôi còn nhớ hôm đó là một buổi chiều mùa hè oi ả, khoảng năm giờ. Hàng cây keo ở toà khâm có mấy con ve ca khúc nhạc hè trong ánh chiều muộn. Xa xa có tiếng kèn đồng của bọn lính tây làm lễ hạ cờ. Còn sớm mà trong ngục đã đầy tiếng muỗi vo ve.
Đại tướng quân và Ô nguyên nhung được bỏ chung vào một chiếc gáo dừa. Hai con kiến quờ râu tìm nhau. Chúng không mất nhiều thời gian để tìm thấy sát tinh của mình. Loài kiến chẳng cần diệu võ dương oai, chúng lao tới nhau ngay. Cả hai mở cặp hàm rộng nhất, ngoạm lấy nhau với tất cả sức lực. Giây phút căng thẳng là đây. Mấy ngón tay lão già gõ trên nền đá càng lúc càng nhanh. Lão hồi hợp thở khò khè rồi thét lên:
- Đó, đó, có sướng con mắt không?!
Hai con vật cắn chặt vào nhau, sáu đôi chân chống chống vào lòng chiếc gáo dừa. Tôi cũng bị rơi vào sự cảm khoái căng thẳng ghê gớm dữ dội. Hai chân sau của Ô nguyên nhung có hơi run, nó xuống tấn , nhưng hình như công lực đã bị tản mạn. Nó bị đẩy lùi thêm mấy bước nữa. Đại tướng quân thừa thắng xông lên, siết thêm hàm, đẩy mạnh, rấn tới. Ô nguyên nhung núng thế, thối lui thêm một bước. Đại tướng quân không đẩy tới nữa mà nâng bổng Ô nguyên Nhung lên chạy một vòng quanh đấu trường rồi đặt xuống nhanh chóng cắt lấy thủ cấp. Than ôi, phút chốc Ô nguyên nhung hồn lìa khỏi xác!
Lão Thạch như nghẹt thở sau trận đấu, giây phút sau lão ngậm ngùi:
- Thắng thua là lẽ thường tình. Miễn sao sống cho hùng mà chết cũng cho oai. Tao chơi trò chọi kiến cũng vì thích cái khí phách của những con vật nhỏ bé này.
Chúng tôi một già một bé con đã sống qua những ngày như thế. Nhờ trò chơi chọi kiến mà chúng tôi vượt qua được những ngày dài đầy khó khăn. Đúng như lão nói bây giờ trò chơi có phần lí thú hơn. Kiến tôi chọi kiến lão, có ăn thua có khích bác nhau, thực là vui. Buổi đầu kiến của tôi thường đại bại, dần dần tôi cũng có kinh nghiệm, cũng có thắng được lão đôi trận. Trong hang có nhiều kẽ đá hở, kiến làm tổ bên trong. Tổ nào cũng có một con kiến to làm tướng và vô số kiến nhỏ. Kiến trong cùng một tổ không khi nào chọi nhau. Khác tổ thì chúng đánh nhau cho tới chết.
Một hôm tôi may mắn bắt được anh chàng kiến lửa rất lớn. Lão Thạch người đọc thuộc và rất nghiện truyện tàu, lão biết hết tên những nhân vật trứ danh, lão đặt tên cho con kiến lửa của tôi là Hoả hổ. Lão và tôi bàn nhau sẽ tổ chức trận đại tỉ thí giữa Hoả hổ và Đại tướng quân vào ngày rằm tháng mười. Lão nói : " Kiến lửa dữ như cọp, cắn lại rất đau, may ra thắng được Đại Tướng quân" Tôi hỏi vì sao lại chọn ngày rằm tháng mười. Lão nói đó đúng là ngày năm năm trước lão rơi vào cái ngục A tì có thực trên đời này. Hùm thiêng khi đã sa cơ nhục còn hơn con chó. Chúng tôi chưa kịp tổ chức tỉ thí thì mùa đông đã tới. Lũ kiến trốn thật kĩ vào hang sâu. Không khí trong ngục luôn luộn lạnh lẽo ẩm thấp. Lão Thạch ho nhiều lắm. Mỗi đêm lão già chỉ ngủ được vài giờ. Mỗi buổi sáng nhìn ra ngoài cái lỗ tôi thấy bàn tay lão. Hình như trong ngục tối quá nên lão phải đưa tay ra ngoài xem đã khạc ra cái gì. Lão mở bàn tay ra thấy có cục máu, đỏ và đã đông lại như tiết gà. Lão nói:
- À, bệnh lao phổi thổ huyết đây mà.
Tôi đau đớn quặn thắt trong lòng, cắn chặt hàm răng lại đẻ không thoát ra tiếng nấc. Lão lên tiếng:
- Thằng Hai, mầy khóc đó à? Trời ơi "đấng trượng phu" ai lại dụng nước mắt? Nước mắt là của bọn "quần thoa nhi nữ" . Mầy biết rồi đó, tao có cái án trảm giam hậu, cái đầu nằm trên cổ là chỉ gởi tạm. Chết cách gì cũng là chết. Chỉ có điều chết già chết bệnh, chẳng khoái bằng chết vì yêu nước, dưới lưỡi đao của bọn đao phủ. Thôi nín đi con. Bên mày còn con nào không đem ra chọi hết đi. Mùa đông tới rồi, cuộc vui đã hết, chờ sang xuân.
Lão nói câu "chờ sang xuân" với cái giọng không tin tưởng gì cả. Tôi chắc lão biết có sống qua tới xuân mới hay không? Đêm ấy tôi nghe lão ho dữ dội. Hồi gần sáng nghe lão rên. Tôi biết đó là lúc lão" không bao giờ rên la khóc lóc, yếu đuối. Vừa đúng lúc đó có tiếng nổ lẹt đẹt xa xa. Lão Thạch kêu: "hằng Hai, mầy thức đó hả?"
- Dạ
- Mầy nghe tiếng súng chớ ?
- Dạ có nghe.
- Nghĩa binh về hốt đồn Mang Cá đó. Tiếng súng lạch tạch rời rạc là của ta, lốp bốp, nổ dồn là súng tây, bởi súng ta nạp tiền, súng nó nạp hậu.
- Nạp tiền nạp hậu là làm sao bác Ba?
- Nạp tiền là nạp thuốc đạn và hòn chì vào từ miệng súng. Súng Tây nạp hậu, hòn chì và thuốc đạn nó đúc sẵn một cục trong cái vỏ đồng, gọi là viên đạn, và nạp phía sau. Súng nó bắn nhanh và mạnh gấp mấy súng ta. Ta không mạnh hơn nó bởi súng ống đạn dược, ta chỉ cái mạnh hơn ở tinh thần yêu nước…
Lão Thạch nằm trong ngục, chỉ nghe tiếng súng nổ xa xa mà bình luận trận đánh rất thành thạo. Lúc đầu giọng lão phấn chấn vô cùng, về sau trở thành hoang mang, cuối cùng là thất vọng hoàn toàn. Lúc đó tiếng súng nghĩa binh tắt dần rồi chấm dứt hẳn. Đến sang, lão nói với tôi như trăn trối:
- Thằng Hai, tao dặn mày điều này, có khổ cách mấy cũng cô gắng mà sống. Sống được ngày nào hay ngày nấy, sống mà chờ nghĩa binh tới cứu. Lần này ta thua nhưng lần khác chắc thắng. Hồn thiêng sông núi đâu nỡ để con Lạc cháu Hồng mãi trong cảnh nô lệ.
Tôi hỏi:
- Tại sao bác nói thế?
Lão Thạch:
- Biết chớ. Bọn chúng giam tao lại là để chờ có dịp mà đem ra chém trả thù.
Tôi tan nát cả tâm can. Thật lão đoán không hề sai. Ba ngày sau, lúc trời còn tối có ánh đuốc bập bùng chiếu qua lỗ hổng. Bên phía ngoài hầm lão thách có tiếng nhiều người. Tiếng thanh gỗ va vào thành đá để đóng cái then gông. Tôi nghe tiếng lão Thạch quát lớn:
- Khoan đã, chờ tao trao cái này cho thằng Hai bạn tao ở bên kia.
Có ai nói:
- Trao cái gì? Đưa đây khám!
Có tiếng cười:
- Một miếng bao tải rách với hộp đựng con kiến?
Lão Thạch:
- Không phải bao tải rách mà long bào của vua nhà ngươi đó. Không phải con kiến tầm thường. Đại tướng quân bách chiến bách thắng đó.
Tên lính hỏi:
- Đưa cho thằng bé con hả?
Lão Thạch:
- Ừ!
Rồi lão gọi:
- Thằng Hai mày đưa tay ra cho tao nắm một cái.
Tôi đưa tay ra, một bàn tay khô khốc gầy gò nhăn nheo và giá buốt ôm ấp lấy bàn tay non nớt của tôi. Tôi nhận cái hộp, với mảnh bao tải rách, tài sản người tù.
Lão Thạch:
- Thằng Hai, ở lại mạnh giỏi nghe con. Tao gởi mày trông nom đại tướng quân. Mùa xuân tới chơi chọi kiến một mình, cố gắng nuôi cái chí bình sinh. Thôi tao đi đây…
Bên kia có tiếng cánh cửa đóng sập lại. Tiếng nhiều bước chân rầm rập xa dần. Tôi cố gắng cắn chặt răng, tự dặn: Đại trượng phu không được dụng nước mắt. Thế nhưng nước mắt nơi đâu như nước nguồn tràn về, nuốt không kịp phải trào cả ra ngoài. Nước mắt chảy theo hai con mương cạnh mũi, xuống miệng mặn chát.
Xế trưa bọn cai ngục về kháo với nhau: " Tao đã làm cái nghề này mười lăm năm rồi, chứng kiến bao nhiêu cái đầu rơi, chưa klần nào kinh khủng như lần này. Cả pháp trường, quan tây quan ta dân chúng đi coi đều xiu hồn phách tán. Ai đời ra pháp trường mà lão đi như người ta đi ăn cỗ. Đến nơi, lão đứng sừng sững, không chịu quì. Tới khi đầu rơi rồi mà nụ cười vẫn còn phảng phất trên môi. Trời ơi lại còn chuyện vô cùng quái đản ! Cái thủ cấp lão rơi lên chính giữa tổ kiến lửa. Lũ kiến vội bu vào. Cho đến khi một con kiến chúa đỏ rực từ trong hang chui ra, bò một vòng quan sát, chỉ huy, không biết nó làm sao mà hàng vạn con kiến khác không dám bu nữa mà cùng xúm vào đùn đất lên. Mới đó đã thành nấm mộ, chỉ còn búi tóc đen ló ra ngoài. Trời đất đang sáng trưng bỗng, nổi lên trận gió quái rồi tối sầm lại, nói như mấy ông già là " thiên hôn địa ám".
Mấy ngày sau, mở hộp ra thấy đại tướng quân, tôi lại khóc. Lần này thì tha hồ khóc vì chẳng sợ lão la rầy. Tôi định thả vị đại tướng trở về chốn cũ. Tôi nhẹ nhàng đặt con kiến trước cửa hang. Đàn kiến nhỏ xúm lại. Đại tướng quân hiên ngang giữa đoàn quân. Tôi gọi thầm " Lão Thạch ơi ! Đại tướng quân đã trở về bản doanh của người rồi!"
Theo lời lão dặn, tôi cố sống. Mùa xuân mới tôi được nghĩa quân giải thoát. Năm đó tôi chưa đầy mười lăm tuổi ./.
Quý Thể
***
Lang Băm
Lần đầu ra tòa, hắn nói láo, tòa án tha bổng. Lần sau ra tòa hắn tin lời ông quan tòa, khai báo thành thật, để mong được hưởng lượng khoan hồng, trớ trêu thay, tòa dựa vào lời khai ấy tống hắn vào tù ba năm. Ra tù, một lần nữa hắn cố gắng làm người lương thiện, đi xin việc khắp nơi, không ai nhận. Hắn thấy muốn làm người lương thiện không phải dễ, không nghề nghiệp, không việc làm, làm sao sống lương thiện cho được? Thật đáng kinh ngạc, cả thành phố ai cũng nhận ra hắn là người tù? Đến chó cũng biết, chẳng chút thân thiện, thấy mặt là gầm gừ chỉ muốn lao vào cắn xé. Hắn chắc từ người tù phát ra cái mùi gì đó rất gớm ghiếc, người và chó đều ghét. Giống như mùi hôi thối của lòai thú ăn thịt, một thứ tín hiệu nguy hiểm chết chóc cho các con mồi biết mà tránh xa, khiến chó và người đều ghét . Hắn đặt tên cho cái mùi đó là "mùi bất lương".
Hắn bỏ cái mộng đi tìm việc, làm người lương thiện, hình như cuộc đời này không muốn thế, và hắn phải tồn tại theo cái cách của mình. Hắn nhớ lại họ tộc ba đời nhà hắn làm thầy thuốc, cứu nhân độ thế. Cả ba đời cần cù làm lụng. Đến đời cha hắn chỉ còn lại cái tài sản cỏn con, một mái tranh nhỏ bằng cái chuồng trâu với khu vườn bé như bàn tay. Hắn bán đi, quyết tâm làm giàu. Hắn phải làm giàu theo cách của hắn, sao cho có tiền nhanh chóng và nhiều hơn ông cha mình. Hắn thấy người dân mình rất ngây thơ, lại hay ốm đau, bệnh hoạn ít chịu đến bệnh viện, tin vào các ông lang. Các ông thầy lang là bậc thầy về khoa tâm lí trị liệu. Chữa bệnh bằng lời nói ...
Mỗi ngày hắn ôm thùng đồ nghề ra chợ ngồi từ sáng tinh mơ. Hắn chọn một chỗ trống đặt thùng đồ nghề và bày mấy chai nước lã. Và hắn bắt đầu nói. Hắn biết lời nói quan trọng vô cùng, trời cho hắn khoa nói. Chưa nói đến chuyện nói hay hay dở, hắn có biệt tài nói rất to rất dai, không cần máy móc giấy tờ hỗ trợ. Hắn có thể gào lên át cả tiếng động ầm ầm phiên chợ đông người. Hắn nói khỏe lắm, giọng lanh lảnh, hắn có thể đứng trong cái nắng đổ lửa, lưng đẵm mồ hôi, cổ bỏng rát, nói như gào thét liên tục hàng giờ, không biết mệt, không tắt tiếng và nhất là không bao giờ hết ý. Hắn lại còn cái tài hơn người là có thể nói mà không cần ai nghe, ai tán thưởng. Hắn đứng nói với cái sân trống trơn hoặc may lắm chỉ có vài đứa trẻ con bụng õng rách rưới trần truồng bao vây chung quanh và mấy người nhà quê lần đầu xuống chợ. Hắn nói đủ thứ lí thuyết y học đông tây kim cổ, đủ thứ bệnh tật, đủ lọai thuốc men. Thứ thuốc chữa được bách bệnh kì diệu nhất trên đời là "Nước của sự sống" mà hắn chứa trong mấy cái chai đục lờ lờ kia.
Giúp việc cho hắn trong những lần trình diễn này có một vật gọi là "Ông tướng thầy ba". Ông tướng là hình nhân nhỏ bằng ngón tay, thắt bằng chíếc khăn mu-soa cũ bẩn thỉu màu đỏ ."Ông tướng" thường biểu diễn trò, nhảy nhót trên bàn tay chủ và dù bị nhốt trong cái dĩa úp chén lên vẫn thóat ra được và chui vào túi áo hắn mà ngủ. Ông tướng tội nghiệp này có khi bị hắn tháo ra thành cái khăn bẩn lau mồ hôi hoặc hỉ mũi. Trẻ con và những người nhà quê có thể kiên nhẫn đứng chờ hàng giờ để được xem trò ảo thuật nghèo nàn rẻ tiền đó.
Một buổi chiều, trong khi hắn đang thao thao bất tuyệt về những điều kì diệu của nước thiêng, sau lưng hắn có tiếng thở dài não nuột :" Đời này làm gì có thuốc tiên. Nếu có thì tôi đã không phải chịu đau đớn cả ngày đêm suốt mấy năm nay !" Hắn quay lại thấy một mụ già gầy còm . Hắn nói :
- Có chớ, miễn có niềm tin ...
Bà lão nói :
- Cái gì tôi nghèo chớ đức tin tôi có thừa. Bán cho tôi một chai, mua về uống thử, thấy khá tạ ơn thầy .
Hắn làm bộ trách :
- Thuốc tiên thuốc thánh không mua, phải "thỉnh" , không uống thử, uống thật.
Hắn trao thuốc, mụ già khúm núm nhận lấy, lấy tiền xong, lại thuyết giảng, quên luôn bà lão. Sáng ngày hôm sau, bà lão đến rất sớm, thưa :
- Lạy thầy, lúc đầu tôi quả thực có yếu lòng tin. Đúng là nước của sự sống. Ðêm qua tôi đã ngủ được một giấc dài, ngủ say như con cù lần ở trên cây mùa đông. Sáng dậy trong người khỏe khoắn, thấy mình không bệnh tật gì cả. Suốt đời tôi xin đội ơn cứu tử !
Từ ngày hắn ra nghề tới nay mới có người cung kính như mụ già này. Hắn cười thầm, làm ra vẻ đây là điều hiển nhiên. Hắn hỏi :"Tin chưa ?" Mụ già chắp hai tay xá một xá thực sâu, nói :" Thưa đã. Không còn chút hồ nghi nào cả !" Hắn thấy sáng hôm đó nơi mảnh đất góc chợ, cạnh đống rác to tướng đầy ruồi lằn xác chuột bọ bốc mùi xú uế diễn ra một quang cảnh thiêng liêng giống hệt thánh kinh đã mô tả: Chúa quở trách kẻ thiếu đức tin. Chúa chữa bệnh cho người mù sáng mắt, chữa cho người bại liệt .
Từ đó mụ già ngày nào cũng tới thỉnh "nước của sự sống" và hắn nhờ đó cũng có đồng ra đồng vào. Và cũng nhờ mụ già, nhiều người tin theo, hắn bán được rất nhiều chai "nước của sự sống". Giờ đây tiền hắn làm ra nhiều lắm, tiêu không hết .
Thế nhưng từ ngày uống "nước của sự sống" mụ già ngày càng héo hon. Bụng to lên như đàn bà có chửa. Người biết chuyện nói mụ bị khối u ác tính, ung thư. Mụ cương quyết không đi bệnh viện. Từ ngày biết hắn mụ chỉ tin nơi hắn. Giờ đây số phận buộc hắn phải lựa chọn: Cứ tiếp tục như thế này để mụ già chết hay nói thật ra tất cả tức là tự sĩ nhục và tiêu tan cái sự nghiệp mới gầy dựng lại rất khó nhọc ? Và hắn cũng vừa đau đớn lựa chọn, phân vân một lúc rồi quyết định... Sáng hôm sau mụ già tới lấy nước .Hắn hỏi :
- Mụ thấy trong người thế nào ?
- Bạch thầy, có thầy tôi yên tâm biết chừng nào !
- Có gì mà không yên tâm, nay mai sẽ khỏi." Nước của sự sống" đã gom cái nghiệp chướng của mụ thành một khối ở trong bụng rồi. Giờ đây chỉ việc lấy nó ra.
- Làm sao lấy nó ra ?
- Đến bệnh viện, bác sĩ lấy ra, dễ như móc đồ trong túi...
Mụ già hỏang hồn :
- Mổ bụng người ta ra rồi còn gì nữa. Mổ như mổ gà, moi bộ đồ lòng ra ngòai. Trời ơi !
Hắn tươi cười cố nói sao cho sự việc trở thành dễ dàng, nhẹ nhàng :
- Ừ thì tạm thời nói thế nhưng đâu phải như làm thịt gà lôi cả bộ đồ lòng ra ngòai ? Nói gì ghê vậy. Họ làm cái rẹt là xong, nhanh chóng .
- Đau đớn ai chịu cho nỗi? Người ta nói đau như đứt ruột, đọan trường....Mô Phật !
Hắn cãi :
- Không ! Trước đó đã chụp thuốc mê. Nói là "chụp" nghe ghê gớm thế chớ không hẳn chụp giật gì đâu. Có cô y tá xinh tươi trẻ đẹp, mặc cái áo blu trắng tinh, nhỏ mấy giọt thuốc mê lên cái khăn mù soa bằng lụa hồng thơm như nước hoa. Cô phe phảy trước mũi mình như đuổi ruồi, thở một vài hơi rồi mơ màng thiu thiu, chập chờn đi vào mộng. Ngủ ngon lành, ngon như thức khuya đạp lúa ở sân đình, xong việc, gà cũng vừa gáy, ngả lưng xuống là ngáy khò khò. Khi tỉnh dậy mọi việc đã xong.
Mụ già thắc mắc:
- Còn chỗ mổ thì sao ?
- Người ta may lại, vết may khéo lắm. Không như kiểu lấy cây kim to sầm xỏ sợi dây gai may miệng mấy cái bao tời sọc xanh đâu. Họ có cái máy may cầm tay, may cái rẹt là xong. Bây giờ bên tây Mỹ, đàn bà đẻ, thấy rặn năm ba hơi không ra người ta rạch một đường ẳm đứa bé ra rồi may lại, vài ngày sau thành sẹo. Mấy chị có con, năm bảy lửa, bụng thon như con gái. Tắm biển cởi quần ra không ai thấy cái sẹo.
Mụ già tò mò :
- Thật không ?
- Thật !
- Thầy nói cục gì trong bụng tôi ?
- Cục nghiệp chướng. Nói nôm na là cục thịt thừa .
- Tại sao thịt thừa lại chui vô bụng tôi ?
- Ừ , cớ sự là ở đó ...
Mụ già vẫn không chịu, nói liều :
- Để nó luôn trong đó có được không ?
- Nó to lên, ăn uống không được, nó chận nơi chớn thủy thở không được. Cắt nó đi cho yên chuyện. Năm ba ngày ngồi dậy cắp rổ đi chợ .
Mụ già thú thực :
- Thầy nói gì thì nói chớ tôi cứ mỗi lần bước chân tới cửa bệnh viện, nghe cái mùi cồn, thấy mấy người mặc áo trắng cầm kim thì hồn vía tôi lên mây.
Mụ già này quê mùa và nhác quá, cần phải nói láo nhiều hơn nữa:
- Bên Tây người ta đi bệnh viện như đi chợ. Có người ở riết trong bệnh viên đâm ghiền không muốn về nhà. Họ leo lên bàn mổ như đàn ông ngồi lên ghế cho thợ cạo cắt tóc, váy tai, như mấy chị tới tiệm úp cái lồng lên đầu làm tóc. Vua chúa nước họ mổ xẻ dài dài , có sao đâu . Đào kép hát bóng cải lương, đứa nào mập tới cho bác sĩ lóc bớt thịt ra. Đứa nào ốm tới cho họ đắp thịt vào. Mổ xẻ hà rầm, hơi sức đâu mà sợ ?
Mụ già:
- Tôi sợ đau lắm
- Đau gì mà đau, bất quá như kiến cắn !
Mụ nghe hắn thuyết một hồi vẫn không chút yên tâm, năn nỉ:
- Thầy nói gì thì nói, tôi sợ lắm, tôi không đi bệnh viện đâu . Tôi không leo lên cái bàn bằng sắt lạnh ngắt cho họ cầm dao mổ như người ta làm thịt heo. Tôi đã thấy thằng cha đồ tể vật con heo xuống, cầm con dao phay chọc tiết, máu phun có vòi, sôi sùng sục, lấy cái gáo tra cán dài múc nước sôi xối, xối tới đâu cạo tới đó. Một lúc sau con heo nái nằm trên bàn trắng bóc như mụ đàn bà, rồi hắn lấy con dao nhọn, chích một chỗ nơi cổ rọc xuống, da tách ra, gan ruột màu xám xanh đổ ra ngòai...!
Hắn dọa :
- Nhưng không mổ thì chết .
- Chết thì chết, tôi nhất định không tới bệnh viện. Tôi tin ở thầy, Tôi chỉ tin ở thầy...Thầy cứu tôi. Hay thầy chê tôi nghèo. Tôi về treo bảng bán cái nhà lo tiền thuốc ...
Mụ già òa lên khóc. Mụ sụp xuống lạy hắn. Hắn quýnh quáng đỡ dậy. La:" Đừng làm thế tôi tổn thọ!". Giờ hắn mới thấy những lời dối trá huyênh hoang thật tai hại. Nó đẹp đẽ rực rỡ như đóa hoa thuốc phiện, quyến rũ xúi giục người ta vào chốn mê lầm tới chết . Ôi những lời dối trá đã ném ra không làm sao thu lại được. Thôi hãy can đảm, chỉ còn một cách này ...
Hắn làm mặt lạ nạt lớn :
- Bà già !
- Thưa thầy ?...
- Bà nói bà tin tôi phải không ?
- Bạch thầy tôi chỉ tin thầy .
Hắn làm bộ giận dữ, nói :
- Giã sử lúc này, lúc bà đang đau ốm mà có kẻ nó lợi dụng, nó lừa bịp, bà có giận nó không ?
- Có chớ. Nhưng kẻ nào tán tận lương tâm như thế ?
- Thế mà có...
- Ai ?
- Tôi đây !!!
Nói xong câu khó khăn ấy, hắn tưởng mụ già, người đã từng tôn sùng hắn như thánh thần sẽ nổi trận lôi đình thét lên chửi bới thậm tệ. Nhưng không, Mụ há hốc mồm kinh ngạc. Lúc đầu mụ tưởng hắn nói đùa. Sau thấy bộ mặt tội nghiệp đầy sự ăn năn của hắn, mụ biết hắn nói thực. Mụ lắc đầu buồn bã. Nét mặt thể hiện một sự thất vọng chua cay. Mụ nói :" Cậu tàn nhẫn lắm . Cậu nói ra sự thực ấy làm gì ? Tại sao không cứ giấu nó mãi mãi cho tôi được sống trong hy vọng . Thứ nước ấy cậu múc đâu mặc kệ, nhưng với niềm tin, nó đã hóa ra nước của sự sống. Nhờ nó mà tôi có được những ngày cuối cùng an lành...Thôi cậu đã can đảm nhận tất cả lỗi lầm về mình thì tôi cũng liều . Tôi sẽ đi bệnh viện cho người ta mổ xẻ để cậu yên lòng ..."
Ðám đông chứng kiến từ đầu đến đuôi tấn bi hài kịch, phẩn nộ la lên :" Nện cho hắn một trận nhừ tử đi !" Bà già bỏ đi, hắn đứng ngóng theo cái bóng xiu vẹo của bà ta, hắn la lớn :" Đi vô bệnh viện ..." Hắn còn đang cố sức hét to cho bà già nghe thì có kẻ nào đó tống vào mồm hắn một quả đấm thực mạnh, hắn lảo đảo, máu miệng trào ra. Hắn loạng choạng sắp ngã, gượng lại được, nghĩ, ôi may quá, còn đứng chưa ngã. Đám đông la lên :
" Ném đá cho hắn chết đi !" Gạch đá từ khắp nơi ném vào hắn như mưa. Hắn ngồi xuống dùng hai bàn tay, hai cánh tay ôm đầu né tránh và tự nhủ: Cốt sao đừng có hòn nào trúng đầu. Đám đông la lên :" Lôi hắn tới công an!" Có người đi tới thộp cổ áo hắn, tính lôi đi. Nhưng người ấy lười, sợ đến công an phải làm chứng, mất thì giờ, nên không dẫn nó đi, chỉ dúi hắn ngã ngửa. Có người ở trong đám đông kêu lớn :" Không bắt hắn đi tù thì buộc hắn uống hết mấy chai "nước thánh" của hắn đi ! " Một kẻ đến cầm chai nước nạt lớn:" Há miệng ra !". Hắn cắn răng, ngậm miệng. Kẻ ấy không đổ được, cầm chai nước dốc lên đầu hắn. Hắn nghĩ : Cũng chẳng đến nỗi nào, suốt ngày nắng nung bụi bặm, được người ta cho tắm mát sung sướng quá. Lại có tiếng la to :" Đừng tắm cho hắn. Bắt hắn uống đi !" Lần này hắn mở nút chai đưa lên miệng, nghe thoang thỏang mùi dầu hỏa, nghĩ, mình bậy thực, cái chai đựng dầu hỏa rửa không sạch . Hắn uống từ từ, nghĩ, đang khát khô cổ, được uống nước, thú vị biết bao! Có người giục :" Uống nhanh lên ! " , hắn uống nhanh, sặc sụa, bọn trẻ con ôm bụng cười . Người lớn xem chán bỏ đi , còn lại mấy đứa trẻ, hô đồng lọat :" Lang băm ! Lang băm!..."
Hắn ôm thùng đồ nghề bỏ đi đã xa, vẫn còn nghe cái điệp khúc dai dẳng "lang băm", càng xa càng rõ. Hắn đi về hướng lên dốc, trên cao trời xanh ngắt, gió thổi những đám mây trắng như bọt xà phòng nổi trôi trên làn nước xanh . Đi được một quãng xa,lòng hắn dịu lại chợt ngạc nhiên, tự hỏi, mình mới vừa bị mọi người phỉ nhổ hành hạ đó tại sao giờ đây trong tâm hồn lại có sự dễ chịu bình an thế này ? Mình đã mất hết nhân tính và chai sạn rồi sao ? Hắn đi thêm một đọan nữa bỗng tìm ra chân lý : Mình vừa phải trả giá cho cái việc làm xấu xa, mình đã đền tội rồi. Giờ đây mình đã được thanh tẩy sạch sẽ, hết cả tội lỗi, giống như con chiên vừa xưng tội, giống như người ở chùa vừa tụng pho kinh Thủy Sám, những lỗi lầm đã được xóa sạch, tan biến. Gây nên tội lỗi mà không chịu sự trừng trị, cứ phải ăn năn mãi mới khổ. Chỉ có khi đền tội mới thấy nhẹ nhõm. Được đền tội cũng một nhu cầu... Hắn bước đi khoan khóai, nhẹ nhàng, nhẹ đến nỗi thấy như mình có thể quạt tay bay lên được . Nắng tan trong gió mai .
Hắn nhớ lại khúc đường này, mỗi lần đi xin việc ngang qua căn nhà với cái cổng đầy hoa giấy màu tím, có nuôi con chó dữ xông ra sủa, cắn xé. Hình như nó là con chó đầu đàn của cả xóm, nó sủa, mọi con chó trong xóm đều sủa theo, thực là hỗ thẹn và bực. Nhưng hôm nay con chó dữ thấy hắn vẫn cứ nằm yên, lại còn ngoắc đuôi tỏ vẻ thân thiện. Lạ thực tại sao lại có hiện tượng này ? Hắn đi thêm một đọan nữa chợt sáng ra mọi lẽ. Trong buổi sáng hôm nay hắn đã trả hết mọi món nợ đời, nợ trần gian. Giờ đây người hắn không còn bốc ra cái "mùi bất lương "nữa . Hắn là một người lương thiện. Ôi được làm người lương thiện , ra đường chó không chạy theo sủa, sung sướng biết bao !!
Quý Thể
***
Nam Và Nữ
Ai Dê Hơn Ai
Các nhà sinh vật học thường hay nghiên cứu, đối chiếu và so sánh sinh hoạt đời sống của thú vật với con người. Các cụ Việt Nam ta, không biết tự một ngày đẹp trời nào, cũng làm công việc quan sát này và đặc biệt chiếu cố tới đời sống tình dục của loài dê. Rồi trong một lúc đắc ý, từ ngữ "dê" tình cờ ra đời, góp chữ làm giàu cho kho tàng văn học dân gian lưu truyền từ đời này qua đời khác. Ấy cũng bởi cái khả năng sinh sản và giao phối mạnh mẽ, dê đã bị người đời gán cho những hình tượng xấu xa, dâm ô, đầy những thành kiến.
Từ "dê" được dùng, lúc như động từ, lúc như danh từ. Ngữ nghĩa, khi nhẹ, khi nặng. Khi nhẹ nó được nghĩ như "tán tỉnh, ve vãn", ám chỉ những người có tính ham muốn và ưa chinh phục người khác (giới). Khi nặng, như dâm dục, thú tính, súc vật, ám chỉ những người mà lý trí không còn kiểm soát được sự ham muốn quá độ, nên hành động sai trái, đi tới xâm phạm, chiếm đoạt, hay có những cử chỉ, hành động quấy rối, sàm sỡ, quá đáng với người khác.
"Dê" còn được thêm thắt với nhiều nghĩa phụ để thành những từ kép và được sử dụng một cách rộng rãi như: máu dê, râu dê, dê xồm, dê già, dê cụ, dê gái.
Giữa nam và nữ, ai bị người đời gán cho danh hiệu có "máu dê" hay "35" nhiều hơn? Và tại sao?
Nếu bạn đọc để ý sẽ nhận ra một điều, từ lâu phái nam đã vang danh trong lãnh vực "dê" đặc biệt này. Những câu truyền khẩu trên cửa miệng các bà mẹ khi dặn dò con gái thường là "Cẩn thận nghe con, đàn ông nào cũng có máu dê trong người". Hoặc câu nói "Không dê sao gọi là đàn ông?" được các đấng mày râu phân bua, đính chính hay tự giải thích về hành động "tứ chi qườ quạng, vô tổ chức" của mình. Thậm chí, có người còn làm vè:
"Không dê sao gọi là đàn ông
Không dê liệu có làm chồng được không
Đàn ông là phải biết dê
Đàn ông phải biết chết mê đàn bà."
Có người am tường hơn thì bảo "Đàn ông ai cũng có máu "35" trong người, không nhiều thì ít". Quan sát kỹ hơn, người ta thường thấy phái nam chiêm ngưỡng phái nữ theo nhiều cách, kín đáo, tế nhị, hay lộ liễu, lố bịch, sàm sỡ. Họ thường nhìn ngắm. Có người nhìn lén, người lại nhìn chăm chăm như muốn ăn tươi nuốt sống đối phương. Người lại ưa hành động cụ thể hơn bằng lời nói, cử chỉ. Do đó những từ như "dê đại trà", "dê đạo lộ", hay "bạ đâu, dê đấy" ra đời.
Phụ nữ thì sao? Họ có dê không?
Nếu hiểu theo nghĩa ve vãn, tán tỉnh thì phụ nữ cũng biết và rất thích tán tỉnh phái nam. Họ thể hiện nó bằng nét mặt, ánh mắt, nụ cười và những cử chỉ kín đáo thường là gián tiếp hơn trực tiếp. Có những phụ nữ tự tạo cho mình các nét quyến rũ riêng như một cái bẫy để nhử con mồi và quý ông cứ lao vào mà lầm tưởng rằng chính mình chủ động. Cách họ lắc đầu, vẫy mái tóc để lộ khuôn mặt, kiểu liếc khoé mắt có đuôi, kéo vai áo lộ một chút vai trần hay bờ ngực vun, uốn lượn cặp mông cong, khơi mở một câu chuyện... Tất cả những mời gọi có tính cách nửa hở, nửa kín ấy đều là những dấu hiệu ngầm của sự ve vãn. Có người chọn lối ăn mặc lộ liễu, hở hang. Người lợi dụng tài ăn nói lanh lẹ, uyên bác. Có cô hay liếm môi, thoa son ướt, hay đặt ngón tay lên môi xoa đi xoa lại như một gợi tình. Đôi môi phụ nữ là một công cụ ve vãn rất hiệu quả. Họ thích phái nam chú ý đển họ, phần lớn để thoả mãn và xoa dịu cái tự ái ít nhất họ còn có được sự quyến rũ.
Nếu bảo rằng phụ nữ không thích phái mạnh "dê", theo nghĩa để ý, tán tỉnh mình, là sai. Họ rất thích sự ve vãn của đàn ông nhưng mỗi người thích một lối riêng. Có người yêu kiểu nhẹ nhàng, kín đáo, người ưa lối tấn công mạnh bạo, trực tiếp.
Có "chàng" đã tâm sự khi bị than phiền về lối dê sỗ sàng hay "dê đạo lộ" của họ.
"Hỡi ơi, phụ nữ làm sao hiểu được, những hành động có vẻ mang chút hơi hướm "quấy rối" đó đã làm cho đàn ông vui và hào hứng một cách đặc biệt, nhất là khi đã có chút rượu bia. "Dê" vốn là một đặc điểm nhận dạng không thể thiếu của phái mạnh từ xưa tới nay, kia mà."
Có người tự thú, tuy được gọi là phái mạnh nhưng thật ra đàn ông là một sinh vật rất yếu đuối(lòng) và dễ động lòng. Chỉ cần một nụ cười duyên hay xởi lởi, một mái tóc đang cột tự dưng được gỡ bung ra, chẳng hạn. Ai cấm họ tự hiểu, đó là một thông điệp ngầm đầy khuyến khích của phái đẹp. Họ xem những lối ăn mặc hở hang, thừa da thịt, thiếu vải che, là những hành động "khiêu khích" gián tiếp hay trực tiếp mở đường cho con "dê" lòng họ xổng chuồng chạy bậy. Từ ý nghĩ đi tới giai đoạn hành động, giơ tay, động chân, tùy theo cá nhân. Không phải bất kỳ người nào cũng ủng hộ tác phong lợi dụng, quờ quạng đó. Phái nam thường xem đó là nỗi xấu hổ, làm mất mặt các đấng nam nhi. Nhưng đa phần quý ông khi rượu bia, chén chú chén anh vào, đều đồng ý rằng, đó là hành động vì mất tự chủ nên thông cảm được. Do đó, có người đã khuyên phụ nữ nếu không muốn bị "dê" hay xúc phạm nên tránh xa họ khi thấy họ có chút rượu bia hay bắt đầu say.
Vấn đề đôi khi được đặt ra tuỳ thuộc vào sự khêu gợi ở người phụ nữ, vì không có lửa sao có khói? Một người phụ nữ được trùm kín từ đầu đến chân chỉ chừa đôi mắt, làm sao khiến người đàn ông phạm tội? Tuy nhiên không phải vì sợ bị dê mà tất cả phụ nữ trên thế giới phải phục sức như phụ nữ Hồi. Chọn lưạ cách phục sức khêu gợi hay tự nhân dáng có sự khêu gợi, còn tuỳ thuộc vào quan niệm sống, phong tục và thời trang của phái nữ qua từng thời đại. Trong một cuộc phỏng vấn của một đài truyền hình, các thiếu nữ được hỏi "Các cô nghĩ gì về phái nam và các cô có ước muốn chinh phục họ không?" . Phần lớn đều trả lời "Bây giờ phái nam rất thích phụ nữ có ngực to nên chúng tôi ước có một thân hình đẹp với bộ ngực to và nếu có thể, có tiền để đi sửa ngực cho to".
Nếu hiểu theo nghĩa "dê" là sự ham muốn hay khát khao dục tình thì phái nam có ham muốn "sex" nhiều hơn phái nữ không? Theo những khảo cứu khoa học gần đây nhất, quả thật phái nam có nghĩ và khao khát điều này nhiều hơn phái nữ. Qua một báo cáo của Edward O. Laumann, giáo sư bác sĩ, khoa xã hội học của University of Chicago, phần lớn quý ông dưới tuổi 60 nghĩ đến "sex" ít nhất là 1 lần trong ngày. Chỉ có một phần tư phụ nữ tiết lộ đã nghĩ đến nó thường xuyên. Nếu so sánh giữa nam và nữ khi có tuổi, khát vọng dục tình của nam cao hơn gấp đôi. Roy Baumeister, một tâm lý gia xã hội học của Florida State University, trong một nghiên cứu thăm dò, đã tìm ra quý ông thường xuyên bị dục vọng khuấy động một cách tự phát và hay tưởng tượng đến chúng.
Con ong, cái kiến, khát khao chuyện ái ân, loài vật có mùa động tình, con người cũng vậy. Phụ nữ chẳng khác, nhưng thường thì họ chỉ hưng phấn khi nến thơm được thắp lên và toả hương đúng lúc và dĩ nhiên người bạn tình là người đầu tiên phải gieo rắc mùi hương. Nhờ nhiều nghiên cứu khoa học mà người ta khám phá ra phái nam không những có ước vọng tình dục cao mà còn có tính khẩn thiết nữa. Phụ nữ như các con sóng ngầm trong khi đàn ông là những cơn bão dữ. Tuy nhiên phụ nữ thường đặt nặng giá trị cảm xúc và mối liên hệ lên trên hơn là khát vọng dục tình. Hơn nữa họ bị ảnh hưởng nặng nề bởi thành kiến đạo đức xã hội nên họ tự kếm chế mọi dục vọng. Vì thế cho dù họ rất ham muốn hay hứng khởi họ vẫn muốn phái nam khởi động và dẫn dắt, họ rất sợ phải mang tiếng là người chủ động.
Vả lại từ xưa, ngay trong truyền thuyết họ được quan niệm là một cái dẻ xương phụ thuộc nên họ tự động phải sống, hành động, sinh hoạt và tuân thủ theo nguyên một cơ thể con người của người đàn ông. Giáo điều, quan niệm và thành kiến xã hội đã đặt để, bắt buộc họ đứng về vị trí của một dẻ xương, một kẻ phụ thuộc, kể cả chuyện dục vọng sinh lý.
Đến đây chắc bạn đọc đã có chút khái niệm trong sự so sánh, nam và nữ, ai "dê" hơn ai rồi. Tuy nhiên trong tương lai, thời thế và quan niệm thay đổi, biết đâu chúng ta sẽ có một câu trả lời khác đi, phải không các bạn?.
Trịnh Thanh Thủy
****
Thủy Quái
Léviathan là một loại thủy quái trong thần thoại phê-ni-xi, thời Trung cổ cũng như trong Thánh kinh. Không rõ hình thù vì là hỗn hợp của rồng, rắn, cá sấu..., nó tiêu biểu cho sự tàn phá khủng khiếp có thể đảo lộn trật tự địa lý, thay đổi hành tinh, thậm chí hủy diệt cả thế giới. Người ta cho rằng đặt tên phim là Léviathan, nhà làm phim Nga Andreï Zviaguintsev đã dụng ý tác phẩm cùng tên của triết gia Thomas Hobbes viết năm 1651 với một nghĩa hoàn toàn chính trị: Léviathan là Nhà nước tương đương với con thủy quái này. Theo ngữ nghĩa Việt Nam, hai "quái" đó có điểm chung là từ... "nước".
Truyện phim là chuyện đời thường hay hoàn toàn hư cấu còn tùy bối cảnh văn hóa xã hội mỗi nơi: một cặp vợ chồng cùng với đứa con trai riêng của chồng, sống ở vùng biển phía bắc nước Nga. Vợ làm việc trong xưởng cá, chồng có ga ra sửa xe sát nhà, trên ngọn đồi rộng từ mồ hôi nước mắt bao nhiêu đời tích cóp. Ông Thị trưởng thành phố muốn mua tất cả cơ ngơi đó với giá 600 nghìn thay vì 3 triệu rưỡi rúp. Dĩ nhiên chủ đất từ chối, không những chỉ vì tài sản và đất đai, vì kỷ niệm gia đình, mà còn vì vẻ đẹp thiên nhiên nơi đây đã quấn quýt anh từ tấm bé. Vậy là bi kịch bắt đầu.
Cuộc đọ sức không tương xứng giữa kẻ quyền thế bất lương dưới trướng có cả một băng đảng sẵn sàng tiêu diệt bất kỳ ai trái ý, và một gia đình lương thiện cô thân chỉ biết trông cậy vào người bạn luật sư đến từ Moscou. Và từ đây một bi kịch khác nảy sinh. Những tưởng trí thông minh của luật sư vượt thắng sự thô bạo của Thị trưởng, nhưng mọi việc lại chệch đi từ một đam mê: sự vụng trộm giữa cô vợ trẻ và người bạn hào hoa.
Hầu hết các nhà phê bình đều điểm bộ phim dưới "ý đồ" chính trị: tố cáo tệ đoan xã hội bắt nguồn từ quyền lực nhà nước, ở một đất Nga chẳng khác gì thời Liên Xô trước kia, nhất là khi đây không phải là phim đầu tiên có thái độ dấn thân của Andreï Zviaguintsev. Nhưng bên cạnh, các tình tiết khai triển trong phim cũng tinh tế, lôi cuốn không kém: sự trái nghịch giữa chung thủy-ngoại tình, hối lộ-ý thức bổn phận, hy vọng-thất vọng, thiên nhiên-xã hội, nghi ngờ-tin tưởng... Nằm trong tổng thể là vùng biển hoang sơ, đẹp, u tịch, nơi chơ vơ bộ xương cá voi và mấy xác tàu đánh cá rỉ sét mục nát, bọt sóng tha hồ đùa nghịch. Hết sức cô độc, lãng mạn và buồn. Cảm tưởng như mình ở tận cùng thế giới, xa cách tất cả, và bình yên. Con đường độc đạo bụi mịt mù mỗi lần xe chạy, không một thân cây to hay nhỏ, các vồng đất nhấp nhô dẫn đến bờ vực dốc đứng, sóng va đập vào ra bọt tung trắng xóa trên các tảng đá chất chồng đen bóng rong rêu. Nơi đây, một sáng đi làm như thường lệ, cô vợ trẻ trầm mình khi mối tình vụng trộm bị phát hiện, đứa con trai phẫn nộ hét với cha: "Tôi chán các người lắm! Tôi ghét bà ấy lắm! Bỏ bà ấy đi!".
Chờ vợ mãi không thấy về, người chồng tưởng bạn đòi được ở Thị trưởng 3 triệu rưỡi rúp đã ôm về Moscou, và vợ mình theo tình nhân tới đó. Anh không biết là bạn đã âm thầm bỏ đi vì bị tên Thị trưởng lừa gặp để đưa tiền, dẫn đến nơi hoang vắng cho đám lâu la hè nhau một trận hội đồng . Nên anh phôn bạn không bắt máy. Số của vợ thì không có tín hiệu. Đến khi xác cô được tìm thấy, đơn độc tận cùng, anh khốn khổ gào lên "Tại sao, tại sao, Chúa ơi!". Nhưng Chúa không trả lời. Chẳng ai trả lời. Có chăng là tiếng gầm gừ dưới kia của con thủy quái. Anh tu Vodka liên tục. Hết. Đi mua. Gặp vị cố đạo ở tiệm tạp hóa, anh hỏi "Chúa nhân từ của các người ở đâu?" Đáp "Chúa của tôi thì ở với tôi đây, còn Chúa của anh ở đâu thì tôi không biết". Cha bảo anh có bao giờ đi nhà thờ đâu, có bao giờ cầu nguyện đâu. (Lạ chưa, chẳng phải Chúa ở khắp mọi nơi sao, đâu phải chỉ tới nhà thờ mới gặp? Vậy phải chăng ông Thị trưởng gặp Chúa thường xuyên, vì ông đi nhà thờ và đóng góp rất nhiều?). Sau một hồi nghe thuyết giáo, anh vác hộ cha cố bao bánh mì về nhà - hình ảnh của một người bắt đầu có suy nghĩ mới.
Nhưng bản án nhanh chóng thành hình: người ta kết tội chồng giết vợ vì ghen, rằng gáy cô có dấu đập của vật cứng, đúng như chiếc búa tìm thấy ở nhà anh, rằng cô bị chết rồi mới thả xuống biển... Mười lăm năm của anh không trôi nổi như nàng Kiều, anh chỉ đứng bất động sau chấn song, mắt vô hồn nhìn sững một nơi và câm nín như một nấm mồ. Thị trưởng được ai đó báo tin khi đang dùng bữa ở tiệm ăn. Ông hỏi "Mười lăm năm hả? Được". Thản nhiên, không một ánh mắt hài lòng hay bất mãn. Ông gọi thêm bình Vodka. Mông và bụng ông trào ra khỏi bề sâu của ghế.
Ngay ngày hôm sau, xe "cẩu" hung hăng kiểu Thủy quái, dương cánh tay khổng lồ tàn nhẫn, phần đầu là bàn tay sắt thô bạo đập mạnh vào căn nhà trắng chơ vơ cạnh biển. Các bức tường đổ xuống, mái nhà đổ xuống, vật dụng trong nhà đổ xuống. Mọi thứ đổ xuống. Tiếng vỡ chát chúa của cửa kính, của ly tách, của vật dụng át hẳn tiếng máy nổ xe cẩu, át hẳn âm thanh lao xao của biển muôn đời đã nhìn bao thế hệ một gia đình. Không còn cảnh qua cửa sổ kính thấy biển ở ngoài kia xa ngút mắt. Không còn qua cửa kính, mảnh vườn phơi ra trơ trẽn, chẳng một mầm xanh cây lá. Mấy chậu hoa ở bệ cửa sổ nát lẫn trong đống kính bể và linh tinh thứ vụn. Thằng con trai đã được gia đình bạn đem về nuôi, không cần treo áo khoác lên cây móc đã gãy nghiến dưới bàn tay sắt...
Nhận giải nhất của Đại hội điện ảnh Cannes 2014 về truyện phim, Zviaguintsev được đánh giá là một trong những nhà làm phim có khả năng đưa nghệ thuật thứ bảy lên cao. Ông tố cáo một nước Nga rượu chè và tham nhũng, một nước Nga bệnh hoạn, rất bệnh hoạn - như một số nước khác trên hành tinh. Bối cảnh là nước Nga, nhưng cũng có thể là bất cứ ở đâu. Đề tài có vẻ phổ biến nhưng vẫn gây lạnh ở sống lưng, hay càng phổ biến càng gây lạnh, vì càng đi sâu vào phim càng thấy chẳng còn chút hy vọng nào có thể. Xuyên qua câu chuyện của gia đình này, Thủy Quái gợi ý rất nhiều về tình trạng hiện thời của nước Nga. Andreï Zviaguintsev đưa ra một kiểu ngụ ngôn thời đại, đầy mỉa mai và thất vọng.
Phim dài 2g30 phút, bầu không khí trầm tịnh, u uẩn buồn. Khán giả im phắc theo dõi. Không tiếng di động reo, không lời rì rầm trò chuyện. Chỉ có hai chỗ cười, một là tưởng sẽ lấy được 3 triệu rưỡi, hai cha con và anh bạn luật sư cười ha hả khiến khán giả cũng thấy vui lây. Nhưng chỗ duy nhất cả rạp đồng lọat bật cười sảng khóai, là bữa picnic ngoài trời. Bị trách vì một lúc bắn hết dãy chai rỗng làm đích, một anh bạn bảo đừng lo, còn nhiều "đích" khác. Và anh lôi ra cả đống hình các lãnh tụ Đảng và Nhà nước Liên Xô, từ sau cuộc Cách mạng tháng mười đến Gorbatchev, được phóng lớn và lộng kiếng hẳn hoi, với lời bình "Ở nhà còn có Eltsine nữa, nhưng chưa đủ trình độ"...
Mặc dù đề tài thật sự khó khăn tế nhị, bộ phim đã đạt được thành công về cách dàn dựng, lời thoại, diễn viên xuất sắc, chuyển tải thông điệp.
Một lòng tham, ba cuộc đời tan nát. Nhưng đây chỉ là một hạt cát thấy được trong biển Nga mênh mông. Truyện phim là chuyện đời thường hay hoàn toàn hư cấu còn tùy bối cảnh văn hóa xã hội mỗi nơi...
Xuân Sương
Paris, tháng 10-2014
&&&
Chuyện Thời Con Nít
Sáng nay trời Sài gòn mưa lất phất, mặc dù mưa không lớn nhưng cũng đủ thấm ướt tân hồn người đa cảm như tui, nay gần bảy chục mùa xuân trôi qua gặp nhưng cơn mưa buồn như sáng nay nó khiến tui bồi hồi nhớ lại bao chuyện thời con nít của mình, nên mặc dù sức yếu mắt mờ, chân tay run rẩy tui cũng ráng chiếu chậm lại cuộn phim thời dại khờ con nít con nôi của tui ngày xưa nhe các bạn.
*
Tui được sinh ra và lớn lên nơi vùng đất có cái địa danh là Gò Vấp, hồi nhỏ nghe mấy đứa trong xóm nói với nhau tại sao là Gò Vấp, có phải nơi có cái gò cao ai tới cũng bị vấp té nên có tên gọi như vậy cho đến tận ngày nay, có đứa còn cắt cớ :
- Sao không kêu bằng Gò té cho nó gọn.
Có thằng cự lại thằng nọ liền:
- Xàm quá mầy ơi, nó có cái gì đó thì người ta mới đặt tên là Gò vấp, chứ kêu bằng Gò té thì quê một cục quá luôn.
Những chuyện tranh luận như vậy hồi đó khi kết thúc thì bất phân thắng bại, vì đâu có ai đứng ra giải thích cho tụi tui biết đâu, phải chi thời đó có ông bà "Gú gồ"(google) thì tụi tui đâu phải cãi cọ nhau chi cho mệt.
Rồi một hôm nọ, cũng cái tật tài khôn và cái miệng bép xép nên mém chút xíu đám xây lố cố tụi tui bị bà Năm hàng xóm quất.cho mấy roi vì cái tội...
Anh Út Một con của bà Năm trong xóm tui, nhà ảnh kế bên nhà thằng Trí xe Lô ( nó có biệt danh này là vì nhà nó có chiếc xe Lô chạy Sài Gòn Biên Hòa nên chết tên luôn), bữa nọ anh đang đi học về , anh ta mặc bộ đồ đồng phục quần short xanh nước biển với áo sơ mi trắng học trò, năm đó anh học lớp nhất trường Chánh trên đầu chợ Gò vấp, còn đám tụi tui thì mới lớp năm lớp tư nên học trái buỗi học với anh, anh Út Một có gương mặt khá vui và dễ gần gũi, có điều anh có cặp chân mày đậm đen, cũng vì cặp chân mày này nên nó là đề tài tụi tui chọc ghẹo ổng.
Núp trong hàng rào Dâm bụt của nhà ông Tư "Ðờ mi", anh Út Một đang xách cặp đi học về ngang cả đám đồng thanh la lớn lên :
- Ăn mày, ăn mày tới tụi bây ơi .
Trong đám bạn có thằng Vinh, thằng Hiễn là la lớn nhất. Nghe đám đàn em trong xóm kêu mình bằng "Ăn mày" , tui thấy ảnh giận dữ lắm rồi bằng cữ chỉ muốn đánh tụi tui, ảnh chỉ tay vô đám tụi tụi anh hô lớn:
- Ai cho bây kêu tao bằng ăn mày, tao có xin xỏ ai cái gì đâu mà ăn mày, thằng Phương cầm đầu phải không, tao dọng cho một cái gãy răng ráng chịu nghe chưa.
Nói hăm he vậy thôi chứ tui biết chắc mẽm anh không dám ăn thua đủ với tụi tui, vì gom lại đám giặc cỏ tui tui đông hơn anh nhiều, mình anh thì sao đấu lại, vì ông bà mình có câu : " Hai đánh một không chột cũng què", mà đàng này đám tui có gần chục đứa nên nói xong anh ngần ngừ rồi vội rão bước đi tiếp, biết anh ngán càng tụi tui nên vài đứa hùa tiếp:
-Ăn mày, ăn mày.
Nghe đám nhỏ còn nhây, anh giận quá bèn lượm mấy viên sõi nhỏ trước hàng rào nhà ông Tư, anh liệng vô nơi tụi tui đang núp, có lẽ anh không cố ý nên không đứa nào "Dính chưởng", đang khoái chí vì chọc giận được anh Út Một, bổng đâu tiếng bà Năm má anh Út lên tiếng:
-Mấy thằng quỷ nhỏ này, bây ghẹo thằng Út gì đó.
Nói xong bà bẽ cành cây Dâm bụt như trang bị sẳn vũ khí để tự vệ, nghe anh Út Một méc lại câu chuyện nóng hổi khi nãy, bà Năm xông vô túm lấy lưng áo kéo tui ra ngoài, rồi bằng giọng giận dữ bà chất vấn tui":
-Thằng Phương nè, tại sao bây kêu thằng Út là ăn mày, nói cho lẹ không thôi tao quánh chi tét đít nha con.
Bà Năm má anh Út vốn là người ăn nói rỗn rãng, qua vụ này khiến giọng nói bà dữ tợn hơn, tui tình thiệt nói với bà:
-Bà Năm ơi! Tụi con thấy cặp chân mày anh Út ngộ quá tui con ghẹo thôi chú có làm gì đâu.
Bà Năm chặn họng liền:
- Chân mày nó đậm chút, mắc mớ gì bây kêu nó ăn mày, ăn mày là đi xin ăn đó biết chưa?
Nghe bà Năm giải thích mấy đứa tui muốn "Té ngữa", vậy đó do không hiểu nghĩa ăn mày là gì mà thấy chân mày anh Út đậm đen mà A thần phù kêu là ăn mày.
Bà Năm không đánh ai roi nào hết, bà cắt nghĩa cho tụi tui biết làm vậy là sĩ nhục anh Út Một, thấy tụi tui thiếu hiểu biết vô tình làm anh Út buồn và nhất là tui đã thể hiện ăn năn chuyện mình đã gây ra nên bà Năm vui lòng tha cho cả đám, tưởng vậy coi như vãng tuồng, nhưng chưa đâu.
***
Ðúng lúc đó có xe cà rem cây của chú Hai ba Tàu vừa trờ tới, bà Năm ngoắc vô mua cho mỗi đứa một cây ăn ngon thấu trời.
Vậy đó, chuyện con nít ngày xưa tuy hơn nủa thế kỷ, bà Năm, anh Út Một từ lâu không còn trú ngụ trong xóm tui nữa, họ trôi dạt về đâu không ai biết, và họa chăng chỉ còn mình tui thằng Phương ròm ngày xưa còn nhớ đến bà Năm và anh Út Một "ăn mày" mà thôi.
SG một sáng âm u --- 2.7.2023
Hai Hùng SG
&&&
Ngào Ngạt Hương Đời
Trong số mấy người bạn của Hoa có chị Nguyệt là sành chuyện ăn diện son phấn hơn cả. Hoa là gái mới lớn còn Nguyệt đã già dặn chuyện đời, Hoa chỉ đáng mặt học trò, em út của chị Nguyệt. Hoa có thể ngồi yên hàng giờ lắng tai nghe Nguyệt thuyết giảng về nghệ thuật trang điểm, để, theo chị nói một cách không úp mở rằng:" Làm bọn đàn ông, con trai chết mê chết mệt! " Chị Nguyệt có khoa ăn nói, chị nói chuyện rất hấp dẫn và đề tài hay hơn cả là việc dùng mùi hương quyến rũ kẻ khác phái, cụ thể là việc sử dụng nước hoa. Theo chị, phụ nữ không thể thiếu nước hoa. Chị nói : " Ngòai nhan sắc ra, còn cần phải thơm tho. Khi ngọn đèn ngủ tắt, ấy là lúc khứu giác làm việc. Mùi hương góp phần lớn trong hạnh phúc lứa đôi... " Nguyệt là người chuộng thực tế, chị không tin chuyện sách vở xưa nói, người đàn bà quí tướng thân thể tự phát ra mùi hương thiên phú. Dù có đi nữa, hạng nữ lưu này cũng chỉ muôn người có một. Nguyệt cũng không là người lãng mạn, chị nghi ngờ cái gọi là "mùi thơm da thịt trinh nữ " mà các nhà văn, nhà thơ tô vẽ, bày đặt ra, chuyện hão huyền, không thực tế. Phụ nữ bình thường ba ngày không tắm là có "vấn đề" ngay ! Ngày nay khoa học làm được nhiều điều kì diệu, hàng trăm, hàng ngàn mùi thơm, bắt chước thiên nhiên hay nhân tạo, tại sao không dùng nước hoa ?
Trước tiên Nguyệt dạy cách chọn, mua và dùng nước hoa, dùng sao cho quyến rũ và có "cá tính". Chị ta có khoa sư phạm, nói và làm đi đôi. Chị tới bàn phấn lấy lọ nước hoa hiệu Chanel N'5, một hiệu nước hoa nổi tiếng và rất đắt tiền. Nguyệt bắt đầu chỉ cách thử:
- Cùng một lọai nước hoa nhưng mỗi người dùng nó tóat lên một mùi thơm khác ấy, bởi nước hoa còn phản ứng với da người dùng. Vì thế phải chọn lọai nào thích hợp với da thịt, nhan sắc, vóc dáng, tuổi tác mình.
Nguyệt chấm một giọt lên lưng bàn tay mình, nói :
- Phải đợi vài phút cho chất cồn bay hết và nước hoa kịp phản ứng với da mình, sau đó mới ngửi.
Nguyệt đưa lên mũi mình rồi đưa cho Hoa ngửi, nói :
- Để hơi xa một tí, phảng phất thôi, đó, nghe chưa? Em ghi nhớ mùi hương ấy đi.
Rồi chị cũng làm như thế nhưng lần này với bàn tay Hoa. Xong rồi hỏi :
- Em có thấy cùng một lọai mà tay chị và tay em có hai mùi khác nhau không ?
Hoa chẳng thấy khác gì cả nhưng cũng nói cho chị ta vui lòng:
- Vâng, khác hẳn !
Nguyệt sung sướng:
- Đó mới là "Cá tính "!
Nguyệt tiếp:
- Còn một điều này nữa, tối ư quan trọng. Người dùng nước hoa giống bọn sì ke ma túy, nghĩa là ngày càng phải tăng "đô" việc này ít người biết, thế nên rất nguy hiểm. Mũi mình quen nhưng người khác đâu quen. Nếu dùng nhiều đến mức mình nhận ra thì "Chết" cái lỗ mũi thiên hạ ! Nhất là mùa nắng, trong phòng chật chội, đông người. Bởi thế trước sau phải giữ nguyên một mức, mùi thơm phải thoang thỏang , "sắc sắc không không" mới tuyệt !
Chị Nguyệt bày cho cô gái mới lớn cách mở lọ nước hoa để trong tủ áo quần. Đến khi lấy ra dùng, mỗi bước đi quyến theo làn hương trong tà áo, thực là "Ấn tượng" !
Nguyệt khoe có lần ra phố, một người đàn ông đã vượt qua còn quay lại sững sờ cảm phục. Chắc lão ta nghĩ mình vừa được cái diễm phúc động chạm vào làn hương có thực mà như hư ảo giữa chốn trần ai đầy bụi bặm này !
Càng nói Nguyệt càng say sưa. Nhìn cảnh thuyết giảng này người ta dễ liên tưởng đến một vị trưởng lão, võ công cái thế đang truyền lại bí kíp cho đệ tử mới nhập môn.
***
Nguyệt nằm ngửa trên giường, cổ kê gối, dưới có lót tấm nhựa không thấm nước, tóc chảy dài gần chấm đất. Dưới là một thau nước đầy, bốc khói, màu nâu nhạt hương bồ kết, có mấy cái vỏ chanh nổi lềnh bềnh. Con Sáu, người giúp việc, tay cầm gáo, tay kia luồn trong chân tóc chủ. Nó múc nước xối nhè nhẹ, cào da đầu cho chủ. Nguyệt nằm yên, mắt lim dim khoan khóai, nói:
- Mở ngăn kéo lấy chai Zest cho cô, chai Sunsilk nhạt lắm.
Con Sáu đi lấy dầu gội tóc, Nguyệt nằm lơ mơ nghĩ chuyện huê hụi. Sáu trở lại mở chai dầu, Nguyệt dặn :
- Tay chân làm cá xong phải rửa cho kĩ, dùng xà phòng bột, rửa đi rửa lại hai ba lần, lấy vỏ chanh bóp ra mà chà. Ngày trước làm gì có nhiều chất tẩy rửa như bây giờ . Mỗi lần làm cá xong cô phải dùng tro bếp rửa tay, nhất là cá sông, cá dìa, rửa bao nhiêu nước cũng còn tanh. Mình là dàn bà con gái phải thơm tho, bọn con trai mới thích.
Sáu nghe cô chủ nói, nó chỉ ừ hử cho qua chuyện. Lúc trưa làm cá xong nó đã rửa tay rồi, rửa bằng xà phòng cục. Nó chẳng hơi sức đâu rửa kỹ như cô nói, nó còn trăm công ngàn việc. Cô thì sạch sẽ quá mức, áo quần thay ra giặt ngay, chăn mền mỗi tuần mỗi giặt, nhà quét ngày ba lần. Được cái cô chủ thân thích gần gũi với nó. Có nhiều buổi trưa Nguyệt mất ngủ, không biết phải làm gì, hai cô cháu kéo nhau ra hiên ngồi bắt chí cho nhau. Đầu cô sạch lắm, da trắng bong không một chút gàu, tóc không một cái trứng chí. Hàng tuần cô đi tiệm uốn tóc, đội cái lồng sấy to tướng nóng hổi trên đầu cả tiếng đồng hồ, chí làm sao sống nổi ? Cô chưa có một sợi tóc bạc, nhưng cô lại muốn có bàn tay người khác mân mê da đầu. Tới phiên cô bắt chí cho con Sáu. Buổi chiều, ngòai hiên, gần cây khế ngọt, gió hiu hiu, hoa khế màu tím li ti rụng tơi bời. Sáu buồn ngủ lắm, nó chỉ muốn chui tọt vô bếp đánh một giấc. Nó phải ngồi yên, cúi đầu xỏa tóc cho cô bắt chí. Nó mơ màng nghe cô chủ dạy :
- Phải siêng gội đầu. Tóc mầy chua quá. Lấy chùm kết cô mua hồi tết nấu lên mà gội. Mùa hè ba ngày không gội, ai chịu nổi ? Đàn ông họ thích hôn hít mái tóc mình. Bọn nhà thơ gọi lá suối tóc, làn mây... Tóc mày như thế này, thằng nào dám động vào ?
Sáu ừ hử cho qua chuyện, Đến khi cô vào nhà, nó đứng lên, cổ mỏi nhừ. Nó vô nhà bếp ngủ một giấc, đến bốn giờ chiều cô thức nó dậy mua bún sứa chả tôm. Có đêm thầy đi đánh bạc khuya không về, cô sợ ma bảo con Sáu lên nằm chung. Nằm được một lúc Sáu nghe tiếng đồng hồ đỗ mười hai tiếng, Sáu làm lụng cả ngày mệt lắm, ngả lưng xuống là ngáy. Cô lay nó dậy, nói :
- Làm con gái phải cho "sảy" ngủ. Người khác động đến chân giường thì biết. Ngủ say như mầy chúng nó tới "mò" cũng không hay. Với lại tao nghe người mầy đầy mùi hành tiêu ớt tỏi. Phải siêng tắm rửa để cái mùi nước mắm hành tỏi dao thớt bay đi . Hôi hám như thế này thằng nào dám xáp lại gần? Lỡ ôm mầy hít phải cái "mùi nhà bếp" chúng nó chạy xa. Tao có lọ nước hoa cũ, tắm rửa sạch sẽ, tao cho.
Sáu không dám đụng đến nước hoa. Có lần nó về thăm quê, cô cho mượn cái áo cánh màu hoa cà, áo để mấy năm trong tủ không động đến vẫn ngát thơm. Mấy bà già dưới quê nói :" Mới lên thành phố mấy tháng đã học cái thỏi đĩ thỏa !"
Nguyệt không con, trong nhà có kẻ ăn người làm nên rỗi nhiều lắm. Chồng Nguyệt cũng ít có bạn bè tới lui thăm viếng. Chị ở nhà lay hoay mấy việc gội đầu, tắm rửa, làm móng tay, uốn tóc, son phấn, ra vào. Nguyệt nghĩ ra cho mình nhiều trò chơi, trong đó có trò trang điểm cô dâu. Nguyệt kêu con Sáu lên, bắt nó ngồi trước bàn phấn, trang điểm cho nó. Hôm nay chị biến nó thành cô dâu. Sáu mắc cỡ không dám nhìn bóng mình trong gương. Đang lúc đó chồng Nguyệt đi làm về. Nguyệt giữ chồng lại , hỏi :
- Trông có đẹp không ?
- Đẹp lắm
- Em mở tiệm uốn tóc trang điểm cô dâu được không ?
- Được !
Chồng Ngụyệt tính bỏ đi, Nguyệt giữ lại, nói :
- Đứng lại đã, mới trang điểm làm tóc chớ chưa mặc xoa-rê.
Rồi Nguyệt tự nhiên cởi áo con Sáu ra, bên trong thấy cái nịt vú màu hồng nho nhỏ Nguyệt cho nó. Con Sáu mới dậy vú, mà ngực đã to, cái nịt vú của cô thì nhỏ không ôm trọn bộ ngực đứa con gái nhà quê. Sáu xấu hổ lắm cựa quậy. Nguyệt gắt : "Ngồi yên ! rục rịch cái gì ?" Khi Nguyệt đứng lên mở tủ lấy áo thì con Sáu còn lúng túng hơn, nó thấy thầy đứng sau lưng nhìn chầm chầm hình nó trong gương.
***
Về sau Nguyệt mới biết trò chơi của mình là vô cùng tai hại. Có lần nửa khuya Nguyệt khát nước thức dậy, không thấy anh chồng nằm cạnh. Nguyệt kêu con Sáu rót nước, nó không lên. Nguyệt xuống bếp mở đèn, không thấy con Sáu nằm trên giường. Nhưng dưới chân giường còn lại hai đôi dép. Của con Sáu và của chồng. Nguyệt lên nhà cố dỗ giấc ngủ nhưng không làm sao ngủ lại được. Nguyệt không ghen tuông gì cả, cô chỉ tức bọn đàn ông, thực là một lũ ngốc. Bao nhiêu hiệu nước hoa thơm lừng không ưa, lại chui xuống bếp hít cái mùi nước mắm hành, tỏi, ớt, tiêu, gọi chung là "mùi nhà bếp". Sau cùng nàng tự nhủ:" Mặc kệ cái lũ ngốc ! Hơi đâu mà tức ... " Nhờ nghĩ thế nàng ngủ lại được. Ngủ một giấc ngon lành !!!
Quý Thể
&&&
Xuân Về Bóc Lịch , Sống Lâu
Bố tôi dù đã định cư ở nước ngoài hơn 30 năm vẫn còn giữ phong tục thích bóc lịch mỗi ngày. Theo thông lệ, người sai tôi đi mua lịch bóc ngày như mọi năm. Mỗi lần bóc lịch người lại đếm thầm, thêm một ngày trường thọ. Nhưng mấy hôm nay, mỗi lần bóc lịch người cứ nói hoài một câu "Sống lâu, khổ quá". Đó là câu nói mà ông lảm nhảm mãi từ lúc ông ở bệnh viện về. Trong một buổi sáng ngồi tắm làn nắng ấm dịu nhẹ của mùa đông Ca li trước hiên nhà, bố tôi bỗng dưng bất tỉnh và gục xuống, lay mãi không dậy. Sức nặng của tuổi tác, bề dày của thời gian, áp lực của bệnh tật, đè sâu xuống bờ vai gầy người đàn ông 89 tuổi như một thách đố của thượng đế dành cho ông. Thêm vào cơn áp suất mắt Cườm Uớt(Glaucoma) lên cao, ông vừa mất đi toàn thể ánh sáng cuộc đời cách đây ba tháng. Được đưa vào bệnh viện, ông tỉnh lại và rất khổ sở khi xem những thử nghiệm để truy tìm căn nguyên cơn hôn mê như một hình phạt gớm ghiếc của y học. Ông nói với bác sĩ rằng, nếu không được cho về nhà, ông sẽ cắn lưỡi tự tử. Cuối cùng, ông được về sau một tuần. Câu ông dặn người nhà lúc bước ra khỏi bệnh viện là, từ rày về sau cứ để ông chết ở nhà, dù ông có việc gì.
Câu than thở của ông "Sống lâu, khổ quá", thấm vào óc tôi, ám ảnh dai dẳng, ngân nga như một tiếng chuông nghịch lý. Từ thưở bé, mỗi khi đứng xếp hàng mừng tuổi ông bà cha mẹ, ông thường dạy tôi "Nhớ chúc ông bà sống lâu trăm tuổi nhé". Tôi chắc chắn nhiều gia đình Vn cũng dạy con cháu mình truyền thống này. "Sống lâu" hay "Trường thọ" đã trở thành một ước muốn bất biến của con người từ Đông qua Tây, từ cổ chí kim. Biết bao ông vua, các nhà độc tài nắm quyền bính trong tay, các khoa học gia, nhà nghiên cứu đã nhọc công đi tìm phương thuốc được sống lâu và sống mãi. Thành Cát Tư Hãn, người hung hăng tay kiếm, tung mình trên chiến mã chinh phục năm châu cũng thèm khát được sống lâu, được trường sinh, bất tử. Người Tiều, Trung Quốc, mỗi lần mừng tiệc sinh nhật ai, phải có món mì xào "long life" với sợi mì rất dài và dai đặc biệt để chúc con người sống dài và dai như sợi mì.
Tuy nhiên, vấn đề then chốt ở trong việc sống lâu không phải là kéo dài tuổi thọ mà chính là sống khoẻ. Hơn nữa, cái nghịch lý của sống lâu lại là sống khổ.
Phương Tây thường có câu "Live long, live healthy". Ngày nay ngoài ước vọng sống lâu con người còn đòi hỏi sự khoẻ khắn làm mục đích tối hậu của tuổi già. Sự tiến bộ của khoa học, cộng thêm kỹ nghệ điện toán phát triển nhanh khiến ngành y khoa tân tiến hơn, đã kéo dài đời sống con người. Đối với những căn bệnh nan y, bây giờ con người có thể được chữa lành hoặc có khả năng làm chậm lại sự phát triển và kéo dài thêm sự sống.
Chúng ta có thể thấy rõ con người sau thế kỷ 20, có đời sống dài hơn các thế hệ cha ông, từ 50 tới 75 tuổi trở lên. Sự gia tăng này là kết quả của nhiều yếu tố gom lại, nhờ thuốc men, dinh dưỡng, và sự phát triển của sức khoẻ cộng đồng. Trong các nước tiên tiến, nguồn thực phẩm được cung cấp và vệ sinh cũng đóng những vai trò quan trọng. Thuốc chủng ngừa và kháng sinh làm giảm số tử vong của trẻ em.
Sự giáo dục và ý thức được lợi ích của đời sống lành mạnh, thể dục, cùng sự ngăn cấm hút thuốc được áp dụng nơi công cộng đã giảm được tỷ lệ của người hút thuốc. Con số thấy được rất đáng khích lệ ở các quốc gia đã phát triển là tuổi thọ trung bình lên tới tuổi 80. Theo mức thống kê của UN, trong giai đoạn từ năm 2005 tới 2010, tuổi thọ trung bình của thế giới là 67.2 tuổi. Riêng ở Nhật tuổi thọ trung bình lên đến cao nhất là 82.6, Hồng Kông 82.2, Ái Nhĩ Lan 81.8 và Anh Quốc 79.7.
Đi ngược lại thời cổ sơ, lúc còn Đế Quốc La Mã, con người trung bình chỉ sống khoảng từ 22 tới 25 năm. Vào năm 1900, chỉ tới 30 tuổi và 1985, con người bỗng sống dài lâu hơn tới 62 tuổi.
Tôi nhớ VN chúng ta có bài hát "60 năm cuộc đời". Nhạc sĩ Y vân đã sáng tác bài này trước năm 1975, khi ấy tuổi thọ con người trung bình khoảng 60 tuổi. Bố tôi ngày ấy hay nói, đời bố chỉ mong sống được tới 60 là đủ rồi. Người đã sống đến 89 tuổi và 29 năm sống thêm là tặng vật của thượng đế.
Nhưng tại sao người không cảm thấy mang ơn món quà hy hữu này? Cuộc sống bố tôi, từ bé đến già phải nói là lành mạnh, ông không rượu, trà, hút thuốc. Thời trai tráng có học võ và từng làm võ sư. Răng ông tốt đến nỗi nha sĩ phải ngạc nhiên khi đến tuổi 89 ông không có cái răng sâu(cavity) nào. Tuy nhiên, 20 năm trước ông bắt đầu bị ung thư ruột già. Vì được phát giác sớm, bác sĩ cắt bỏ khúc ung thư và may mắn bệnh ung thư đã tuyệt căn đến bây giờ. Chỉ có một nỗi khổ đeo đẳng ông suốt những năm tháng dài sống thêm là đời sống ông lúc nào cũng quanh quẩn bên cái cầu tiêu. Mỗi 15 hay 20 phút ông phải vào nhà cầu một lần vì khúc ruột già còn lại của ông không còn đủ sức để giữ những cặn bã thừa của cơ thể. Tôi không hiểu thời trẻ ông luyện võ ra sao, nhưng lúc về già ông là một người chịu đau kém, lúc nào ông cũng than thở sống khổ và đòi chết. Giữa ranh giới của ước vọng muốn chết vì bệnh tật và ý chí sinh tồn, tôi thấy bố vẫn can đảm sống hơn là buông xuôi.
Việc làm hàng ngày của tôi có liên quan tới việc tiếp xúc với những người già trên 65 tuổi. Tôi nhận ra họ có rất nhiều bệnh lặt vặt. Không cao máu, cao mỡ, thống phong (gout), thì phong thấp, tiểu đường. Mắt không cườm nước, cườm khô(Cataract) thì cũng kém nhãn lực. Ai cũng biết sau 60 cơ thể con người suy yếu từ từ, ngày một tàn rụi dù sự tân tiến của y khoa, thuốc men, có giúp ích rất nhiều trong việc trợ giúp sự duy trì và giảm đau. Sau tuổi 80, hầu như người nào cũng chịu sự thoái hoá của não và phần lớn đi vào sự lú lẫn, mất trí nhớ, bố tôi không là ngoại lệ.
Bệnh Alzheimer (lú lẫn, mất trí nhớ) đã cướp đi trí nhớ của con người, mang đến những bi kịch cho người mang bệnh cũng như gia đình người bệnh. Ai đã từng có người thân bị bệnh này, ắt hiểu sự phiền nhiễu và khổ tâm của nó mang đến to lớn đến dường nào. Sự sa sút trí tuệ (dementia) làm bệnh nhân mất khả năng về trí lực và giao tiếp xã hội gây nên nhiều khó khăn cho cuộc sống hàng ngày. Ngoài ra tính hay quên tăng dần làm con người mất khả năng phán đoán và suy xét khiến bệnh nhân thành người có tính khí bất thường. Họ cố chấp, nghi ngờ tất cả mọi điều, mọi người quanh mình và cách ly với xã hội. Mẹ người bạn tôi cũng vậy, bà không cho ai lại gần, kể cả con cái mình. Bà không nhận ra hai đứa con gái và không cho họ vào nhà để chăm sóc bà, trừ người con trai là người bà tín cẩn và trao hết quyền tư hữu cũng như tài sản cho người đó. Bố một người bạn khác thì nghi ngờ người con chăm sóc cho ông ăn cắp tiền bạc của ông đã cất dấu vì ông không nhớ cất tiền ở đâu. Một bệnh nhân khác bị bệnh này kiêm tiểu đường, tối ngày cứ tìm khắp nhà nơi nào có đường thì lấy ra ăn hết hũ này tới hũ khác hoặc có khi ăn cơm mà không biết no. Còn một cụ ông đã qua tuổi 94 nhưng vẫn còn khoẻ mạnh, tập thể dục đều đặn, không bệnh tật nhiều nhưng không con cháu nào chịu ông nổi vì ông rất ngoan cố, không chịu ăn với con cái, đòi nấu lấy một mình. Mỗi lần nấu ăn xong, ông bày đầy ra nhà, rồi quên tắt lửa, con cái đi làm không có nhà, ai cũng hoảng vía vì ông suýt làm cháy nhà. Ông không chịu vào viện dưỡng lão, sống share phòng với ai chịu cho ông share, nhưng ở vài ngày rồi họ lại đuổi ông ra. Rõ khổ!!!
Khổ nhất là phối ngẫu của người bệnh đã trở thành nạn nhân của sự nghi ngờ. Bố tôi bỗng nhiên trở nên một người ghen tuông vô kể, chỉ vắng mẹ tôi vài phút là ông nghi ngờ mẹ tôi bỏ ông, theo người khác dù mẹ tôi là bà lão đã mù một mắt. Lúc bố còn sáng mắt, có lần khi đi dạo bộ một mình (mẹ tôi đang ở nhà làm thức ăn sáng), ông nhìn thấy hai ông bà hàng xóm đi bộ ngang qua, mà người phụ nữ có chiếc áo na ná giống áo mẹ tôi. Thế là ông chạy về nhà nói mẹ tôi ngoại tình đi với ông nào đó và đòi xách súng qua nhà hàng xóm bắn người đàn ông. Chúng tôi phải tìm cách tịch thu cây súng của ông. Ông trở thành một người khác hẳn với người cha hiền từ, thương vợ con, bạn bè và rất thương người của ngày xưa.
Theo thống kê thì phụ nữ bị bệnh này nhiều hơn nam giới vì phụ nữ sống lâu hơn. Tôi không biết đây là một điều may, điều đáng buồn, hay bất hạnh. Khi đi thăm một viện dưỡng lão ở quận Cam, Cali tôi thấy có nhiều phụ nữ ở viện hơn. Trong các nước kỹ nghệ tân tiến, đàn bà sống lâu hơn đàn ông từ 5 cho đến 10 tuổi. Gần 85% người sống trên 100 tuổi là phụ nữ. Lý do của sự khác biệt này tùy thuộc rất nhiều vào các yếu tố sinh lý và xã hội. Gần đây trong một báo cáo của tờ Gender Medicine, họ đã nghiên cứu sâu hơn về cái khoảng cách kỳ lạ này. Họ tìm ra quý ông chết sớm hơn quý bà, một phần do DNA và tế bào của các chất kích thích tố dễ bị thương hại khi bị nhiều áp lực. Nghĩa là các ông không chịu đựng giỏi bằng các bà nếu các ông bị nhiều áp lực.
Điều rõ ràng là đàn bà có 2 nhiễm sắc thể X còn đàn ông chỉ có 1X. Hơn thế nữa các ông dùng thể lực nhiều, khiêng vác nặng nên dễ bị chấn thương hơn các bà. Họ còn ăn uống không cẩn thận, hút thuốc, uống rượu, liều lĩnh, mạo hiểm, bị rủi ro hơn và gánh vác nhiều vai trò hơn phụ nữ ngoài xã hội. Điển hình là bố tôi, khi ông bệnh ông chịu đau không nổi. Tôi biết một người từng làm MC ở quận Cam, ông vừa qua đời vào tuổi 61 vì không chịu kéo dài cuộc sống. Ông bị bệnh sau hai năm nằm liệt giường, từ chối lọc thận(Dialysis) do không chịu nổi phản ứng phụ của việc này là ói mửa, không ăn được, ông để mặc cho độc tố trong người phát ra và bằng lòng ra đi để không chịu đời sống đau đớn nữa. Bố tôi cũng thế, ông cảm thấy ông đã sống đủ và chịu mọi thăng trầm của cuộc sống. Chúng tôi, ông và bác sĩ vừa ký giấy The Contract for Compassionate Care, một giấy cam kết hợp pháp giúp cho ông ra đi bình thản khi ông có triệu chứng sắp chết và được chết ở nhà. Giấy này từ chối mọi sự trợ giúp y khoa như thuốc kháng sinh, ống truyền thức ăn hay các phương tiện kéo dài sự sống không tự nhiên.
Chúng ta ai cũng thấy rõ những tiêu cực của tuổi già, thể chất kém, trí tuệ suy, vậy thì làm sao mà "Sống lâu, sống khoẻ" được. Do đó chỉ còn cách là sửa soạn tập luyện cả hai mặt trí tuệ và thể lực trước khi tất cả suy sụp. Rèn luyện thể lực bằng nhiều cách, thể dục, ăn kiêng, buông bỏ những thứ có hại cho sức khoẻ. Mặt tinh thần còn quan trọng hơn nữa. Tìm về tôn giáo là nơi nuôi dưỡng, đào tạo sự bình an tinh thần của con người lúc sắp ra đi hữu hiệu nhất. Kiếm cho mình những thú tiêu khiển lành mạnh giúp mình bận rộn và rèn luyện não tiếp tục làm việc. Tỷ như đọc sách, chơi âm nhạc, hội hoạ, máy tính, thơ văn, thưởng cảnh, chơi cá, chơi hoa v..v...
Cuối cùng có một điều tôi thấy có lẽ giúp cho việc "Sống lâu, sống khoẻ" là tập chịu đựng để có một khả năng kiên cường chống lại sự "Sống lâu, sống khổ". Được như thế chúng ta mới tiếp tục sống và chịu được trái đắng hơn là hoa quả ngọt ngào của thượng đế trao cho chúng ta lúc cuối đời như câu ví von của Robert Louis Stevenson
"Sự khác biệt giữa một bữa ăn tối ngon miệng và đời sống trường thọ là món tráng miệng ngọt ngào được đem ra sau cùng, trong khi càng sống lâu thì càng thấy khổ"
Trịnh Thanh Thủy
&&&
Phận Nghèo
Minh Hương
Hồng Minh sinh ra trong gia đình có hoàn cảnh thật éo le. Ba là cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954 và có thời gian dài sống ở Nông trường chè Chí Linh, Hải Dương. Như rất nhiều cán bộ miền Nam tập kết, ông phải xa vợ con sống đơn thân nơi đất Bắc, lòng không nguôi nhớ về quê hương. Nỗi nhớ thương càng day dứt khi ông hay tin đứa con gái duy nhất của ông đã mất khi mới lên 3 tuổi. Sau 18 năm khắc khoải chờ mong, dù đã kiên tâm đợi ngày trở về đoàn viên, nhưng chiến tranh dai dẳng, buộc ông phải phụ tình với người vợ hiền đang chung thủy chờ chồng ở quê nhà, chỉ với một niềm mong ước để có con nối dõi tông đường. Vào một ngày mùa đông năm 1973, Hồng Minh đứa con trai mong ước của ông đã cất tiếng khóc chào đời, (tại thôn Tiền Định, xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) và chỉ 2 năm sau đó thì đất nước thống nhất. Rồi Hồng Tâm ra đời, ông đành lỗi hẹn với quê hương, ở lại mảnh đất Chí Linh sinh sống với vợ con.
Cuộc sống không mỉm cười với gia đình Hồng Minh. Đất nước đã hòa bình, nhưng cả cha mẹ đều đau ốm, nhất là mẹ lại thêm chứng bệnh thần kinh không bình thường, lúc tỉnh lúc ngơ. Năm 1982, biết mình không còn có thể sống bao năm nữa, cha của Hồng Minh đành gửi lại người vợ bệnh tật nhờ mẹ vợ chăm sóc, quyết định đưa hai anh em Hồng Minh trở về quê hương Duy Nghĩa, Duy Xuyên, Quảng Nam để các con biết quê Cha đất Tổ. Về quê sau gần 30 năm xa cách, với lưng vốn gần như tay trắng cùng 2 đứa con trai Hồng Minh và Hông Tâm mà ông coi đó là hai "cục vàng", tài sản duy nhất mình có được trong cuộc đời. Ông tạ lỗi với người vợ già vẫn một hình một bóng suốt bao năm trời, nhờ bà chăm sóc nuôi dưỡng hai con trai...
Cái khoảng thời gian ấy, sau chiến tranh, đất nước khó khăn cùng cực. Ở cái đất chỉ có cát và nắng mà dòng tộc Lê Tăng của ông đã sinh sống bao đời, với bốn người, hai già yếu, hai con trẻ chưa đủ lớn thì cuộc sống quả là khốn khổ. Họ đã gắn kết, nương tựa vào nhau để sống trong cái nghèo truyền kiếp. Vì nhà quá nghèo, hai anh em Hồng Minh không được học hành tử tế. Rồi cha bệnh triền miên và qua đời năm 1989. Lúc này Hồng Minh 16 tuổi, Hồng tâm 14 tuổi phải phụ Má kiếm sống qua ngày...
Từ nhỏ anh em Hồng Minh đã được Ba dạy dỗ rất kỹ về nhân cách, đạo đức, nhân nghĩa ở đời. Những đêm trăng sáng, ông thường trải chiếu trước sân nhà kể chuyện cổ tich, chuyện ngụ ngôn và đọc thơ cho các con nghe. Khi Ba mất đi, tuy nhỏ tuổi nhưng Hồng Minh đã biết mình phải thay Ba chăm sóc em trai, chăm sóc Má. Dù với cuộc sống nhọc nhằn, đã rất ít học (đang học lớp 6 thì phải bỏ), lại không có điều kiện để bút nghiên, thơ phú, nhưng có lẽ là duyên nợ, anh rất ham đọc sách báo và viết nhiều thơ tự sự với chính mình, với những người thương yêu của mình, với cuộc sống xung quanh mình. Anh có thể viết lời cho những điệu dân ca quê nhà, khi làng xóm có hội hè, là anh lại hát để góp vui. Mỗi lúc buồn đau, anh lại có những dòng tâm sự rất cảm động. Có thể thấy rất rõ điều này qua một số bài thơ, chẳng hạn khi nói về cái khó của gia đình mình anh có bài TỰ TRÀO:
Mẹ cha trồng mãi lúa khoai
Sinh con ra cứ ươm hoài thơ văn
Vần hay, ý lạ, tứ khan
Rồi ra thiếu cả cái ăn... giật mình!
Hồng Minh hiểu Ba là người rất khí khái. Bởi vậy, cuộc đời ông có nhiều uẩn khúc. Ông dạy con dù nghèo cũng phải sạch, dù khó cũng phải hiên ngang, ngẩng đầu mà sống... Tuổi cao sức yếu, hoàn cảnh éo le, Ba anh đã không thực hiện được ý nguyện của mình là cho các con được ăn học đến nơi đến chốn...
Sau khi Ba mất, anh em Hồng Minh được Má tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng. Nhưng cuộc sống vẫn cứ khó khăn, Má cũng ngày một gìa yếu, anh em Hồng Minh thì không biết làm nghề gì. Một ngày kia hai anh em dắt díu nhau lên Đắc Lắc kiếm kế sinh nhai. Năm 1995, hai anh em mới dành dụm được chút tiền về thăm quê ngoại, thăm Mẹ sau nhiều năm ly biệt. Nhưng đau lòng lắm, vì mẹ vẫn cứ dửng dưng như vậy, cứ lặng lẽ nhìn hai con với sự hờ hững của người vô cảm. Trong khi đó các cậu, các dì và người thân thì mừng khôn xiết. Ngậm ngùi, tủi phận, anh viết bốn câu tứ tuyệt
Trở lại quê hương, ước cánh diều...
Nhà nghiêng bóng mẹ nắng liêu xiêu
Khóc đoàn viên tản, con hờn gió
Sương đọng hoàng hôn đổ ngược chiều.
(VÔ ĐỀ)
Biết trách hờn ai đây trước cảnh gặp lại gia đình, gặp lại mẹ già cắt lòng như vậy? chỉ biết hờn với gió, khóc trong chiều hoàn hôn mà nước mắt nào có tuôn rơi! Giá mà nước mắt cứ trào ra ngoài được thì có thể nhẹ đi, vơi đi một phần nỗi cay cực trong lòng chăng? Nhưng nghiệt ngã lắm, Hồng Minh khóc thương mình, thương mẹ mà nước mắt chỉ đọng thành những giọt sương chiều, đổ ngược vào lòng. Phải thấm đến tận cùng nỗi đau đớn, xót xa trong tâm can mình thì mới có thể viết được như vậy.
Qua thời gian dài vất vả, kiếm sống ở Đắc lắc, mới tạm ổn định việc làm, hy vọng có cuộc sống đỡ phần vất vả thì anh hay tin Má ở quê bị bệnh nặng. Anh đành bỏ lại tất cả để về phụng dưỡng. Với anh, Má tuy không sinh thành nhưng đã nặng công dưỡng dục anh nên người. Sau 3 năm được anh tận tâm nâng giấc, tuổi già sức yếu, Má anh đã mãi mãi đi xa. Xót thương cuộc đời cay đắng và kính nể sự hy sinh thủy chung, nhân hậu của Bà, anh đã viết tặng Má bài thơ SẮT SON (Bài thơ này đã được anh thuê đánh máy vi tính và treo bên bàn thờ Má):
Non nước đâu còn cảnh chiến tranh
Mà tơ duyên đứt nối không thành!?
Dòng sông ai đặt mùa thương nhớ
Để suốt đời nghe gió tiễn canh.
Bông lúa vàng so lời hẹn ước
Thủy chung lòng sánh bóng trăng xanh.
Nồi Rang* một sớm thuyền lơi bến
Cửa Đại* ngàn năm sóng bủa gành.
(*: Nồi Rang, Cửa Đại là những địa danh)
Rồi em trai Hồng Minh bị bệnh, không phải bệnh ngơ ngơ ngẩn, trầm uất như mẹ, mà bệnh lúc nhớ, lúc quên, lúc thao thao bất tuyệt. Bao nhiêu tiền bạc hai anh em dành dụm được lại lo cho việc chữa bệnh cho em. Em đỡ bệnh rồi thì lo cho em học nghề... Và khi bà mẹ thân sinh mất ở Chí Linh (2008), do làm ăn lưu lạc không kịp hay tin, rồi hoàn cảnh khó khăn hai anh em không thể làm sao về được. Mãi đến 49 ngày sau, Hồng Minh về thăm mộ mẹ ở Chí Linh. Nhớ lại nguồn cơn, anh lại viết CON VỀ THAêM MẸ vừa là để tạ lỗi với Mẹ, mà cũng vừa như là kiểm lại lòng mình vậy:
Xa cách đôi trời thương nhớ quanh
Con về thăm mẹ giữa đồng xanh
Thờ ơ têm khổ tâm Dì, Cậu
Hờ hững càng đau dạ Chị, Anh.
Xứ Quảng đã đền ơn dưỡng dục.
Hải Dương cam phụ nghĩa sinh thành.
Mẹ ơi! Lượng thứ cho con trẻ
Nam Bắc hồn thơ lệ thất thanh.
Đứng trước thềm tuổi bốn mươi, trải qua bao gian truân vất vả, giờ đây Hồng Minh cùng vợ và con gái 3 tuổi sống rất đạm bạc trong căn nhà Tình nghĩa trên dưới hai mươi mét vuông do quỹ Đền ơn đáp nghĩa của xã xây cho. Nền nhà tráng xi măng, mái lợp tôn xi măng, không có trần. Một chiếc tủ đứng nhỏ bằng gỗ đã đã bạc thếch được kê giữa gian trước để làm tủ thờ Ba Má. Chiếc giường mộc một mét hai làm chỗ ngủ cho cả 3 người được kê ở gian dưới. Quần áo mới, cũ đều mắc tất cả trên dây. Bước ra ngoài thềm trươc là sân toàn cát trắng, bước ra sau vườn cũng toàn cát trắng... Vợ chồng anh vừa làm ruộng, vừa nuôi heo. Anh còn là thợ cắt tóc, nếu có ai kêu thì chạy xe ôm phụ thêm tiền cho sinh hoạt gia đình. Hồng Minh biết rất rõ hoàn cảnh khó khăn của mình. Ba anh là Trưởng tộc, anh là con trai đích tôn nhưng lại ít tuổi hơn anh em dòng họ rất nhiều (ba sinh anh lúc đã hơn 45 tuổi). Hàng năm vợ chồng anh phải lo bao nhiêu đám giỗ của họ tộc, lại còn bệnh tình của em trai lâu lâu lại tái phát.... Phận nghèo thiếu trước, hụt sau, nhưng anh không bi quan, sống khép mình như Ba anh trước đây. Anh tham gia vào các hoạt động xã hội ở thôn xóm, mừng với sự đổi thay từng bước của quê hương và hy vọng rồi dần cuộc sống của gia đình anh sẽ đỡ chật vật hơn. Anh Viết:
Duy Nghĩa hôm nay sáng điện đường
Ngời gương anh dũng đẹp quyê hương
Ruộng đồng xao xuyến bao công xưởng
Làng xóm bâng khuâng những phố phường.
Cửa Đại cầu xây tình xứ sở
Thu Bồn lụa dệt nghĩa yêu thương
Đời dân hạnh phúc vui no ấm
Quê cát giờ đây ngập ánh dương.
(SANG TRANG)
Và mới đây nhất, như là một tiếng reo vui, tươi sáng trong tâm hồn được thốt lên vào một sớm mai, trên chuyến đò qua sông Thu Bồn, Hồng Minh đã viết:
Gió dậy Thu Giang sóng Thuận Tình
Con đò vẫn cập bến hư vinh.
Ô kìa! Ai đã sang bờ giác
Vui cõi chân không vẫy gọi mình!
(QUÁ GIANG)
Mong sao, đời không phụ lòng người. Cầu chúc cho Hồng Minh sẽ gặp được nhiều may mắn và niềm vui trong cuộc sống.
Nha Trang - 16/9/2011
&&&
Nhà Thơ Và Tướng Cướp
Quý Thể
Trong căn nhà nhỏ tồi tàn ven đô, mái lợp giấy dầu, chung quanh dừng phên tre, rách nát tả tơi, đầy tiếng muỗi vo ve, người vợ dịu dàng nói với chồng : "Thôi đi , đi...Coi thử có kiếm được cái gì không ?..." Chồng thì thầm : "Để hôm khác. Bữa nay ngày xấu lắm, lại không hợp với tuổi tôi " Vợ hỏi : "Chưa đi, chưa làm, sao biết ngày xấu, không hợp tuổi ?" Chồng nói :
- Lịch Tam Tông Miếu nói hôm nay là ngày kỉ dậu, hành Thổ, sao Lâu, Trực nguy, kị tuổi At mẹo của tui . Mỗi tháng mới có một ngày Trực Nguy, ai lại xuất hành ngày này ? Lịch căn dặn ngày hôm nay chỉ nên ở nhà, cúng tế, làm phước ...
Vợ :
- Thì ra bàn thiên thắp vài cây hương khấn vái. Cũng là cúng tế. Còn làm phước thì ra ảng nước vớt mấy con kiến sắp chết trôi lên cũng là làm phước .
Chồng :
- Lịch còn nói cử xuất hành, mở cửa hàng, làm ăn...
Mụ vợ nổi khùng, không còn dịu ngọt nữa, thét :
- Người ta xuất hành có công chuyện, mở cửa hàng, buôn bán, làm ăn, đám ma đám hỏi đám cưới... mới mở lịch coi ngày tốt xấu , còn ông đi...
Mụ ta hạ giọng thì thầm: "Đi ăn cướp" rồi lại to giọng như cũ:
- Mà coi lịch làm gì ? Thời đại văn minh này mà còn mê tín dị đoan, không tiến bộ gì cả, đầu óc cổ hủ lạc hậu quá !
Chồng cố cãi :
- Đi làm việc này cũng là đi công chuyện , nghề này cực nhọc khổ sở, may rủi còn hơn người đi buôn, đi đánh bạc, đi thi, mất mạng như chơi! Còn không thì tù tội, ăn đòn. Với lại muốn đi cũng phải có đồ nghề. Tui có mua cái súng giả bằng nhựa bà cũng đem cho con nít chơi rồi. Lấy gì đi làm nghề ?
Chị vợ :
- Không có súng thì lấy con dao.
- Dao nào ?
- Lấy đỡ con dao làm cá.
Tên cướp :
- Con dao cũ mèm đầy gỉ sét, sút cán, mũi gãy ấy sao ? Làm ăn đâu được, đem nó ra dọa, ai sợ ?
Hắn còn muốn nói nữa nhưng chị vợ chận lại :
- Tốt xấu gì cũng đi .Từ hồi sáng sớm, lúc ngồi ăn cơm tới bây giờ, cái bụng cứ đau nheo nhéo, không chừng khuya nay đẻ, trong nhà không có một đồng xu, một lon gạo .
Chồng :
- Tính thử đã tới ngày sinh chưa ?
Vợ :
- Ai mà biết, vợ chồng ăn ngủ với nhau lu bu , có sổ sách chi đâu mà theo dõi ngày tháng. Thấy bụng to quá rồi, xuống chân đã một tháng, không nay thì cũng mai mốt thôi. Phải tôi khỏe mạnh đi phụ hồ thì cũng chẳng để ông vào chỗ nguy hiểm, đi làm chuyện thất đức.
Nghe vợ nói thế hắn đi ra nhà sau với tay lên giàn bếp lấy con dao. Hắn mới đụng tới, con dao đã rơi cán ra. Hắn tra cán vào, dộng nơi cái cối đá mấy cái cho chắc, nhưng nó vẫn lỏng lẻo, chỉ chực sút. Con dao gỉ sét nhiều quá, hắn đem ra giếng mài , chỉ cốt mài cho bớt sét, sáng lên một tí trông cho oai, không cốt bén nhọn vì hắn biết chỉ dùng để dọa, chẳng đâm chém ai . Xong hắn xô cánh cửa lao ra ngòai . Một lúc sau mụ vợ nghe tiếng xe cứu hỏa, xe cứu thương, hay xe cảnh sát rú còi ở xa nghe rất khẩn trương ghê rợn.
***
Vào đúng giờ đó nhà thơ Phan Ngang trở về nhà. Hôm nay ông mang năm mươi tập thơ " Huyền thọai " đi bán . Ông xếp năm mưới tập thơ mới tinh còn thơm lừng mùi mực trong cái cặp da cũng mới tinh. Chiếc cặp da bò này, láng lẩy sang trọng, và nhờ mấy chục tập thơ làm cho bụng nó căng phồng, giống như cặp đựng tiền của các tay tỉ phú .
Sau khi in thơ xong ông có cái thú là lấy cây bút dạ màu tím nguệch ngọac viết tặng các nhà thơ lớn. Ông thấy mình như Thánh Gióng vụt cao to lên ngang bằng với những cây đại thụ làng thơ. Ông không biết làm sao tiêu thụ cho bớt số thơ đã in ra để chật nhà, ông tặngbạn bè, người yêu thơ, tặng người chẳng yêu thơ, người quen và cả người không quen, thế nhưng vẫn còn hơn trăm tập. Ông muốn đưa nó đến tay bạn đọc, gọi là góp mặt với đời. Hôm nay ông tính đem đến quày sách báo bán được tập nào thì bán, còn không gởi người ta bán hộ. Ông nghĩ, thơ mình hay, nói một cách chân thành, không cần khiêm tốn, thì rất hay, tuyệt vời và trên cả tuyệt vời ! Lo gì không có "đầu ra", chắc sẽ đắt như tôm tươi ! Mà dù họ không biết thưởng thức, không biết giá trị thì gởi, nhờ bán hộ. Thế nhưng đi suốt ngày không nơi nào chịu mua hay cho gởi .
Nhà thơ ngồi lại bên đường, ngẫm nghĩ tới lời vợ nói lúc ông ra đi. Vợ ông nói hôm nay ngày xấu lắm, lịch Tam Tông miếu nói ngày kỉ dậu, hành Thổ, sao Lâu, trực nguy, kị tuổi kỉ Mẹo là tuổi ông, làm việc gì cũng hỏng. Vợ bàn thế nhưng ông vốn không phải người duy tâm, ngang ngạnh, vẫn đi . Ông nghĩ thơ mình hay tuyệt vời , thiên hạ đang khát thơ như kẻ ở sa mạc khát nước, không đem đến cho những tâm hồn hâm mộ kì vọng tội nghiệp đó còn đợi lúc nào ? Thế nhưng đem thơ đi suốt ngày, đạp xe rã chân không bán được một tập, gởi không nơi nào nhận, có kẻ còn miệt thị : "Cho cũng không lấy " , ông mới hoang mang, nghĩ thơ của mình chắc chắn là hay, thế sao không nơi nào chịu mua? Lạ thật, có khi mê tín cũng có cơ sở của nó . Đúng hôm nay là một ngày đại xấu. Thơ mình tặng, ai cũng khen hay, sao bán chẳng chịu mua ? Nhà thơ ngồi nghỉ chân trong bóng tối , Ông sợ ánh sáng đèn đường, ông sợ có người quen trông thấy mình trong cái lúc thiểu não này.
Vừa lúc ấy có tiếng thét. Gọi là tiếng thét nhưng nó chỉ là tiếng la yếu ớt, giọng eo éo như đàn bà gây lộn. Thét xong tên cướp ngỡ ngàng, ủa, sao hôm nay tiếng kêu của mình yếu ớt vô duyên như thế này ? Đến con nít cũng chẳng sợ. Thét xong tim hắn đập thình thịch, hắn rút dao ra, rất cẩn thận chỉ sợ cán dao sút , nói :
- Ngồi yên, rục rịch là chết !
Nhà thơ tưởng có kẻ đùa, hỏi :
- Sao ? Cái gì ?
Tên cướp :
- Tháo cái cặp ra đưa đây !
Nhà thơ mừng rỡ, hỏi :
- Sao ? Cần thơ hả ? Muốn mua thơ hả ?
Thằng cướp biết gặp phải lão khùng, chẳng cần nói với lão làm gì, hắn giật cái cặp, chiếc xe ngã xuống. Hắn hơi ân hận, nghĩ, đúng lí ra mình đừng vũ phu, đừng làm ngã xe, xe ngã rồi phải dựng lên cho lão. Thế nhưng hắn vẫn nhớ lời vợ, đi cướp giật không cần phải lịch sự . Nhà thơ vẫn còn ngơ ngác, cho đến giây phút ấy ông chưa hiểu gì, ông tưởng đây là trò đùa của anh chàng thi sĩ nào đó, vì ở trong tối ông chưa nhận ra. Đến khi hắn ôm cặp chạy đi ông mới hòan hồn kịp la lên : "Cướp ! Cướp !" Tiếng kêu của nhà thơ lạc vào tiếng gầm rú của xe cộ qua lại , không ai nghe , không ai chạy đến, thậm chí chẳng có ai quay nhìn. Ông cũng thấy hổ thẹn cho cái thứ tiếng kêu cứu yếu đuối lạc lõng ấy, Ông không la nữa, chạy theo mấy bước, nhưng thấy chẳng làm gì được nên dừng lại, thối lui dựng xe lên đạp về, ngẫm nghĩ : Hắn ăn cướp mấy tập thơ này làm gì nhỉ ? Không lẽ hắn hâm mộ thơ ta đến nỗi phải ăn cướp về đọc ? Hay đem bán lấy tiền. Nếu hắn bán được năm mươi tập thơ đó thì quả là tay có tài thương mại, hay quá, không bắt tội hắn mà con tưởng thưởng, vì mục đích của ta suốt ngày hôm nay lang thang đầu đường xó chợ không phải để bán thơ mà để đưa thơ đến tay độc giả .
Nhớ lại cảnh tượng vừa mới xảy ra nhà thơ thấy có nhiều điều bất thường. Hình như hắn không phải là kẻ chuyên nghiệp, hắn rất vụng về luống cuống, có lúc trông như hổ thẹn. Và hình như hắn còn là một tên cướp nghèo . Hắn có mang hung khí , không phải là súng ống hay vật dụng gì ghê gớm mà là một con dao, thứ dao làm cá, nhà ông cũng có, mà con dao nhà ông trông còn khá hơn dao nó. Và ông kết luận hắn là một thằng ăn cướp nghiệp dư, theo dõi ông lâu nay và hắn có lẽ là một thằng ăn cướp rất hâm mộ thơ . Đời này kiếm được người hâm mộ thơ như kẻ cướp này thực là khó !
***
Tên cướp đến nhà, kêu cửa , vợ mở cửa ra thấy hắn khệ nệ ôm cái cặp to. Vợ mừng lắm, khoe tài :
- Đó, tôi nói đúng phải không ? Ngày nào chẳng là ngày, làm chi có ngày tốt ngày xấu. Tôi chắc trong cặp có tiền đô, không nhiều thì ít .
Hắn khoe:
- Còn chiếc xe nữa nhưng tui để cho lão ta, tội nghiệp lão già khùng !
- Đi ăn cướp mà còn làm sang với nhân đạo, thứ gì không bán được tiền, cái xe đạp trành giá chót cũng vài trăm .
Mụ ta nhìn vào cái cặp da no tròn, hối chồng : "Thôi khui nó ra lấy một ít ra tiệm vàng Sáu Xuyến chỗ thường mua bán đô-la bán một ít tiêu tạm, còn bao nhiêu bỏ vô cái chai đậy nút lại đào lỗ chôn, tiền đô không bao giờ mất giá. Hắn trút cặp ra .
Cả hai tròn xoe mắt nhìn . Vợ hỏi : "Ủa ,cái gì đây ?" Chồng :
- Không biết, sách vở, chắc là ...
Hắn nhặt lấy một tập xem qua, nói :
- Chắc là thơ . Tuyệt quá !
Vợ :
- Tuyệt cái con khỉ . Mở tìm kĩ đi, chắc còn cái ngăn bí mật nào ...
Hai vợ chồng lục tung, mở từng tập ra, không có gì . Chị vợ thất vọng, chán, hóa tức giận, bỏ đi xuống nhà sau, vừa đi vừa lằm bằm : "Đi ăn cướp mà ..."
Chồng :
- Mà gì ? Nói tiếp đi ?
- Mà ngu chớ mà gì !
- Tại sao chửi tui ngu ?
- Không ngu cướp đồ này về làm chi ?
- Ai mà biết, thấy cái cặp to tròn, tưởng bở ...
Vợ :
- lần sau rút kinh nghiệm. Coi tướng tá "đối tượng", mặt mày có phương phi đẹp đẽ thông minh không ? Ăn mặc có sang trọng không ? Đi xe có xịn không ? Tướng người giàu sang khác hẳn tướng mấy lão làm thơ ...
Chồng :
- Đi ăn cướp chớ phải đi làm thầy tướng số đâu mà coi tướng cho kĩ .
Vợ thấy cãi lộn theo kiểu này chẳng đi tới đâu , nói : "Thôi lỡ rồi, lần sau biết mà chừa mấy người làm thơ ra, đừng động chạm, dây vào họ. Thôi để tui kêu con mụ ve chai vô cân giấy lộn .
Mụ ve chai tới, chê bai đủ thứ để hạ giá : "Giấy xấu quá " Hắn cãi : "Giấy in thơ sao xấu, thường người ta in trên giấy tốt " Mụ ve chai chê : "Khổ giấy nhỏ quá, gói hàng sao được ?" Mụ mua ve chai chê nhưng vẫn mua. Cân xong còn sót lại vài tập, mụ xin luôn . Chị vợ không chịu, nói : "Cân đã già còn đòi thêm bớt chi nữa ?" Bây giờ hắn mới có dịp cầm lên một quyển xem, tự nhiên hắn ngâm nga. Vợ hối : "Không lo đi làm vụ khác còn ở đó mà ngâm thơ.". Lần đó hắn cầm con dao làm cá và một tập thơ lên đường .
***
Nhà thơ về nhà nằm vật ra thở, không buồn vì bị cướp chỉ buồn thiên hạ chẳng ai hiểu thơ mình. Vợ nói : "Sao ? Bán hết rồi hả ?" Nhà thơ trả lời lấp lửng : "Không ..."
Vợ hỏi : "Sao không đem về. Còn cái cạc-táp đâu ?" Nhà thơ không nói , đợi vợ hỏi mấy lần mới chịu khai thực : "Bị cướp mất rồi !"
Nghe thế chị vợ không giận dỗi, không hỏi gì thêm chỉ ôm bụng cười, người đàn bà to béo đầy thịt cười rung cả giường, nhà thơ rất khó chịu cho thái độ của vợ, hỏi:
- Cười cái gì ?
Chị vợ còn cười, không trả lời được. Nhà thơ lại hỏi :
- Cười gì ? Rồi ông tiếp :
- Tôi thấy chẳng có chuyện gì hay ho, chuyện gì vui để cười .
Đợi một lúc bớt cười , người đàn bà vừa thở vừa nói :
- Ông không thấy cái hài, cái chất hài văn học trong câu chuyện thật như đùa này sao? Tôi cố mà vẫn không nhịn được cười . Tui cười cho thằng ăn cướp ...
Chồng bực mình gắt
- Chuyện gì cười thằng ăn cướp ?
- Không cười sao được ? Thế nào đêm nay thằng cướp cũng bị vợ chửi là đồ ngu, có khi không cho ăn ," cấm vận" chẳng cho lên giường. Gặp con vợ dữ nó còn nện cho nhừ tử nữa ...
- Sao bà biết ?
- Biết chớ. Nó vớ phải thơ ông là hết thời rồi, khôn hồn nó đem bán ve chai...
Chồng :
- Thơ của tui mà đem bán ve chai hả ?
Vợ :
- Ông là tác giả mà bán không ai mua nữa là hắn, một thằng giựt dọc, cướp cạn ? Hắn bán hết cho ve chai là may cho vợ con . Chớ hắn mà để đó ngâm nga rồi mê thơ bắt chước làm thơ nữa thì chết cả lũ .
Chị vợ ôm bụng cười sặc sụa, nhà thơ rất bực mình .
***
Một năm sau, những điều tiên liệu của vợ nhà thơ đều đúng. Hôm nọ còn lại mấy tập thơ, tên cướp ngâm nga thấy thích . Hắn nghĩ, làm thơ như thế này mình cũng làm được. Làm thơ dễ hơn làm ăn cướp, mình mà làm thơ thế nào cũng thành nhà thơ , làm nhà thơ không sướng, không oai hơn thằng cướp giật sao ? Thằng ăn cướp bắt đầu làm thơ. Từ đó hắn bỏ nghề cướp giật , xã hội đỡ một mối lo. Nhưng làm thơ làm sao đủ tiền nuôi vợ con? Một hôm bị vợ hối thúc quá hắn phải đi làm chuyến chót . Lần ấy cu cậu bị công an "vịn "(bắt), cho đeo đồng hồ ô-mê-ga (còng số 8) mời về nuôi cơm một năm, cũng chỉ vì cái tội hôm đó, cu cậu rình rập nhà khổ chủ, trước khi ra tay, hắn "tranh thủ" lấy giấy bút ra phóng bút làm một bài tứ tuyệt , nên mất cảnh giác, bị tóm! Ra tù, hắn cho in ngay tập thơ " Tro bụi phù du ... " !!!
Quý Thể
&&&
Tên Trộm Đêm Trừ Tịch
Hai Hùng SG
Những tia nắng yếu ớt vàng vọt của buổi chiều ba mươi tết còn sót lại trên khoảnh sân nhà ông Ba Thành , không gian của cái xóm nhỏ bé này thật yên ắng , hàng dừa xanh biếc đứng nghiêng mình soi bóng bên con rạch chạy ngoằn ngoèo quanh làng , mọi người dân nơi đây đang tất bật lo toan cho xong những công việc của ngày giáp tết .
Ông Ba Thành đang đứng tần ngần thật lâu bên bộ lư đồng sáng loáng được chưng trên bàn thờ gia tiên , ông xăm soi từng chút một như cố tìm cho ra một sơ sót nào đó , thật chẳng bỏ công vì ông và Bé Hai đứa con Gái rượu đã hì hụt dùng trái Chanh , Khế , Tro bếp để đánh bóng cho cái bộ lư có được cái diện mạo như hôm nay , trong bụng ông lẩm mhẩm nói với bộ lư đồng :
- Tết nhứt cái gì cũng phải mới hết , nên tao cho tụi mầy cũng phải có áo mới với người ta nữa chứ .
Ngắm nghía hồi lâu dường như ông cũng chưa hài lòng cho lắm , bởi ông và Bé Hai phải cật lực dùng đôi tay để đánh bóng bộ lư , hai cha con mồ hôi nhuễ nhại vậy mà cái độ sáng của bộ lư nhà ông nó không bằng bộ lư của chú Sáu xị kế bên nhà , do thằng Tám Lít con của chú Sáu xị đã đem ra chợ ngoài phố quận nhờ người ta đánh bóng bằng máy mô tưa nên sáng bóng hơn nhiều , tuy nhiên bù lại ông Ba Thành rất hài lòng vì cặp dưa Hấu thật to mà ông đang chưng trên bàn thờ do ai đó có tấm lòng thơm thảo biếu cho gia đình ông , mà cách biếu cặp dưa hấu này của họ thật lạ lẫm đến tận lúc này ông chưa thể biết tác giả là ai , nó cứ làm ông thắc mắc mãi trong đầu .
Chuyện là mới đêm hôm qua thôi , đêm hai muơi chín tết , Hai cha con ông Ba Thành lui cui ngoài sân để nấu nồi bánh Tét , gần nửa đêm ông lom khom gò lưng , phùng mang trợn má cố gắng lấy hơi thổi phù phù vào cái ống thổi lửa , do con bé Hai đút vào lò những cành cây quá lớn làm cho lửa trong lò tắt ngúm khói mù mịt bay sau vài lần thổi của ông , khói sà vào mặt khiến ông Ba ho sặc sụa với đôi mắt cay sè , sau nhiều lần cố gắng thổi rồi thì ngọn lửa lại bập bùng cháy , ánh sáng lập loè trong đêm làm cho không gian ấm cúm hẳn lên , ông đứng dậy bỏ cái ống thổi lửa xuống đất lấy tay che miệng ngáp một cái thật dài rồi vươn vai thở phào nhẹ nhõm như vừa trút được gánh nặng trên vai .
Nhìn quanh quất không thấy bóng dáng bé Hai , ông lên tiếng gọi :
- Bé Hai đâu con ? Con đổ đầy ấm nước nấu cho sôi lên , để chút nữa tía châm thêm cho nồi bánh , chứ châm nuớc lạnh là nếp sẽ bị nín liền , thì... thì cái nồi bánh này coi như bỏ đi đó nghe con .
- Dạ con nghe rồi tía !
Con Bé Hai xách cái ấm nước bằng nhôm to đùng , nó đi về phía hàng lu sành bên hiên nhà , hơn chục cái lu đựng đầy nước mưa , nhờ đó mà nhà ông Ba không lâm vào cảnh thiếu nước sinh hoạt trong mùa khô hàng năm , ở cái vùng đất Tân Phú này nhà nào có dàn lu như thế , họ che đậy kỹ lưỡng như giử gìn của gia bảo vì mùa khô sông rạch nơi đây nước thường hay bị nhiễm mặn không thể dùng để ăn uống được , những người phương xa có dịp đến nơi đây họ ví những lu nước mưa nơi này như vị cứu tinh cho dân chúng , suy cho cùng câu ví trên thật không ngoa chút nào .
Bé Hai dở cái nắp lu gần nhất , thò tay vào định lấy cái ca nhựa múc nước , bổng đâu bàn tay nó đụng phải vật gì tròn tròn trơn láng đang nổi phập phều trong làn nước mát lạnh kia , ý nghĩ thoáng qua trong đầu làm Bé Hai sợ sệt khiến nó nổi da Gà , nó liên tưởng đến con Ma Da mà mấy đứa trong ấp hay hù dọa khi chúng nó xúm nhau tắm mát trong những buổi trưa hè dưới con rạch trước nhà . Nó còn nhớ như in , hôm ấy mấy đứa con trai hay truyền tai nhau như cố ý cho đám con gái nghe được :
- Tụi bây biết không , ông Cả Bốn là cố Nội của thằng Hai Nghĩa trong ấp mình đã từng đánh nhau với lũ Ma Da ngoài ngã ba sông cái đó nghe , ổng nói Ma Da mình mẩy nó trơn lùi , thường sống dưới sông , dưới rạch , nó thường hay bắt giò những ai cả gan ngâm mình dưới nước khi mặt trời đứng bóng , vì giờ đó trở đi là giờ âm , mà giờ âm thì tụi bây biết rồi đó ...
Một đứa nhóc trong đám con trai có thân hình ốm nhách cũng ra vẻ sành sõi về ma quái , nó đế thêm vô :
- Thằng Cẩu nó nói như vậy đúng lắm đó , từ giờ Ngọ trở đi là ma quái hoạt động dữ lắm , không phải dưới sông rạch mới có ma , ở trên cây cao bóng mát cũng có đầy ma có điều mình là người phàm mắt thịt nên hổng thấy thôi , giờ đó mà leo trèo lên cây thì bị quở liền , nhẹ thì khùng khùng nói nhảm , còn như nặng thì có khi mất mạng như không .
Bé Hai nghe cái thằng Cu Ròm nói như vậy , trong bụng nó nữa tin nữa ngờ , nó bèn chống chế lại sự hù dọa kia , quay về phía thằng Cu Ròm bé Hai nói :
- Mầy hay quá há , mầy gặp ma lần nào chưa mà tài lanh quá vậy ? Rồi ma da nữa làm gì có , tụi bây chưa thấy tận mặt con ma thì đừng có hù dọa , nói như vậy làm cho buổi tắm hôm nay mất vui rồi . Thôi tao về trước đây .
Nói là nói như vậy chứ Bé Hai cũng ngán trong bụng , nó nói thầm :
- Cha... Cha ... bửa nào tắm sông tắm rạch mà quá buổi trưa , lỡ dưới làn nước đầy phù sa đùn đục kia có ma Da ở dưới thiệt thì phải làm sao đây ta ???
Mấy đứa con trai nắm được yếu điểm sợ ma của Bé Hai , có đứa cố nói vọng theo khi Bé Hai bắt đầu trở gót quay về :
- í ... lêu lêu mắc cỡ , sắp có chồng rồi mà sợ ma ... Lêu lêu đi tụi bây ơi !!!
Cả đám nhóc nghe nói vậy đồng thanh cười ồ lên khiến gương mặt Bé Hai đỏ bừng như người đang say rượu .
Nghe câu chọc quê mình như thế , Bé Hai quay lại khom người bẻ mấy trái bần chua trên cây đang mọc ven bờ con rạch , nó vung tay chọi thật mạnh vào cái đứa bày đầu ra chuyện trêu chọc nó , quá bất ngờ thằng nhóc kia lãnh đủ một trái Bần vô đầu miệng la chí choé khiến cả bọn sợ hãi cùng nhau nhảy ùm xuống nưóc lặn mất tăm , riêng bé Hai thì tủm tỉm cười và nói :
- Cho bỏ cái tật hà hiếp người hiền lành nha ! Hí hí !!!! .
Vậy mà đêm ấy bé Hai đang gặp tình trạng dở khóc dở cười , cái gì đang ở trong lu nước nhà nó , lúc này nó chợt nhớ lại toàn bộ câu chuyện ma Da hôm trước , khẽ rùng mình nó la toáng lên :
- Ma ! tía ơi ! Có ma tía ơi , cứu...cứu ..con .
Kêu lên được như thế Bé Hai té ngất xỉu bên cạnh cái lu , mặt mày nó trắng bệt vì quá sợ .
Nghe tiếng đứa con gái thân yêu la làng thất thanh như thế , nhanh như con sóc đang chuyền cành trên các tán cây , ông Thành bỏ mặc cái nồi bánh Tét đang bốc mùi thơm lừng do sắp chín tới , ông chạy nhanh đến và bế sốc Bé Hai đem vào bộ ván gõ lên nước bóng loáng ở phía nhà trên , đặt bé Hai nằm xuống ông kêu vọng vào nhà sau :
- Bà nó ơi ! Lấy chai dầu song thập trong tủ thuốc rồi pha cho Bé Hai ly nước chanh nóng luôn , con nó đang mệt .
Bà Ba lật đật làm theo lời dặn , săn sóc hồi lâu bé Hai dần dần hồi tỉnh lại , đợi bấy nhiêu thôi ông Ba liền gặng hỏi nguồn cơn thì bé Hai vừa run lặp cặp vừa nói với cái giọng yếu xìu :
- Có ma.. Ma thiệt đó tía ơi , lúc nảy tía kêu múc nước , con đụng phải con ma Da nó trơn lùi trong lu , nó còn ở trỏng đó con sợ lắm .
Nói xong Bé Hai quơ vội cái mền len đắp qua khỏi mặt như để chạy trốn con ma da quái ác kia. Nghe đứa con gái thân yêu kể lể sự tình , ông Ba Thành vội trấn an Bé Hai :
- Thôi đi cô ơi , có ma cỏ gì đâu , con sao nhát khích hà , để tía ra đó xem sao .
Rồi quay sang bà Ba ông nói :
- Bà ở đây với con đi , để tui bắt con ma Da này luộc lên mời chú Sáu xị qua nhậu chơi . À bà nhớ mời vợ chồng Sáu Lân ở xóm trên ghé nhà mình nhậu luôn nghe bà .
Ông ba Thành cố pha trò cho con bé Hai nghe nhằm giúp cho nó trấn tỉnh lại , dù gì đi nữa có ông bên cạnh thì không có việc gì phải sợ .
Bước lên nhà Trên , ông lục lọi trong ngăn tủ thờ lôi ra cây đèn pile cũ kỹ , lắp pile vào ông bật thử công tắc may mà đèn vẩn còn cháy sáng , rồi ông đến bên cửa cái , lôi ra cây gỗ Dầu vuông dùng để gài của dưới miền quê, thay vì dùng các loại ổ khoá như ở thành thị .
Đến bên lu nước ông Ba rọi thẳng đèn pile vào bên trong , ông thấy vật gì to tròn , đen đen , xanh xanh , ông lấy cây gỗ Dầu khều nhẹ rồi chăm chú quan sát ..
Thở khì một cái thật mạnh , khi ông Ba xác định con ma Da của bé Hai là hai trái dưa Hấu đang lơ lửng trong lu , ông thầm nghĩ :
- Nếu không có đèn pile mà dùng tay mò vào lu nước có khi mình cũng xỉu như con nhỏ hổng chừng ...
Gương mặt dãn ra bao nhiêu căng thẳng ban nãy tan biến đâu mất , ông nói lớn cho hai mẹ con bên trong nghe :.
- Ha..Ha.. tía chộp được hai con ma Da rồi bé Hai ơi ! Kêu má bây ra đây coi cho biết với người ta , mỗi con gần chục kí lô chứ chẳng chơi , à cái vụ này ngộ lắm nha , hai trái dưa bự tổ bà chảng ai cho nhà mình vậy cà ? có cho quà tết thì cứ đường đường chính chính chứ như cái kiểu này dễ bị đau tim lắm nghe .
Rồi ông cố tình nói lớn thêm hình như muốn cho chủ nhân 2 con ma da còn quanh quẩn đâu đây được nghe :
- Nhà ba Thành cảm ơn ai đó nha , dưa này chắc ngon lắm đây , à còn cho gì nữa gởi luôn đi chứ qua tết tui hổng có nhận đâu .. Hí hí ....
Như đã nói ở phần trên , mãi đến giờ này ông không thể biết được tác giả của cách biếu quà tết không đụng hàng kia là ai nhưng với bé Hai thì khác , khi biết 2 con ma Da kia là cặp dưa hấu loại to đùng kia , nó hiểu lờ mờ trong đầu và miệng lẩm nhẩm :
- Chết rồi , cặp dưa này là của Ảnh chứ ai trồng khoai đất này ???.
Tiếng ông Ba vang lên bất chợt làm tắt ngúm cái suy nghĩ về người bạn trai của bé Hai , hai đứa quen nhau đã Lâu , Thằng Vinh người yêu của nó nhà ở bên kia sông Cái , bé Hai vẫn còn dấu kín chuyện tình cảm của hai đứa , chưa dám thổ lộ cùng song thân , nó định Tết này sẽ đưa thằng Vinh đến nhà chơi rồi hẳn thưa chuyện cùng tía má cũng chưa muộn
- Con xuống bếp vô cái Gạc Măng Grê lấy cho Tía hai cái dĩa , để tía chưng cặp dưa này cúng ông bà coi con .
Chợt nhớ ra điều quan trọng ông Ba tiếp lời dặn bé Hai luôn :
- Ừ quên nữa , sẳn đây con xẹt qua nhà cô Năm Trầu xin cho tía hai miếng giấy đỏ để Tía dán lên cặp dưa cho đủ bộ , chưng dưa hấu mà không dán giấy đỏ lên giống như ăn hủ tíu mà thiếu nước lèo vậy đó ..
Cơn gió xuân thổi nhẹ từ ngoài sân mang theo vào nhà cái mùi hương là lạ mà lại quen quen , làm ông Ba Thành giật bắn người , cắm đầu chay nhanh ra sân miệng hét to :
- Chết.. Cha.. nồi bánh khét rồi bây ơi .
Bởi mải chăm chú lo vụ hai trái dưa hấu nên ông quên bẳng đi cái nồi bánh tét , may mà còn cứu chửa kịp thời do ông châm thêm nước và bỏ ít hòn than ủ lại khi ông vớt bánh ra , mùi khét của bánh cũng vơi đi phần nào đáng kể .
Lại nói về bé Hai , nghe tía dặn sang nhà Cô Năm Trầu xin tờ giấy đỏ về dán cặp dưa chưng tết , mặc dù trời khá khuya nhưng nó dẹp nỗi sợ hãi cố hữu của mình , nó rủ con Bảy Châu đứa con gái của chú Sáu xị cùng đi theo cho có chị có em , trên đường đi hai đứa huyên thuyên tâm sự , đến chộ đoạn có chuyện nào tâm đầu ý hợp thì hai đứa cùng cười vang phá tan màn đêm u tịch nơi miền thôn dã , khiến lũ chó trong xóm sủa lên inh õi làm náo động cả xóm làng , mãi mê nói chuyện hai đứa đến ngõ nhà cô Năm Trầu tự hồi nào chẳng hay .
Đang nằm đong đưa trên chiếc vỏng , tay thì phe phẩy cái quạt mo cau , miệng nhóp nhép nhai trầu , qua ánh sáng ngọn đèn néon từ hàng ba chiếu ánh sáng ra tận ngõ , thấy bé Hai và Bảy Châu lấp ló ngoài sân , bà Năm Trầu ngồi bật dậy và cất tiếng hỏi :
- Bé Hai với Bảy Châu phải không bây ? chèn mẹc ơi ! đêm hôm khuya khoắc đi đâu vậy bây , gặp cô Năm có gì không , vô nhà chơi đi con .
Nghe bà Năm Trầu nhắc đêm hôm khuya khoắc làm cho bé Hai liên tưởng nhớ lại cũng cái đêm hôm khuya khoắc dạo nào quay trở lại trong trí nhớ của nó , cái đêm nó cùng thằng Vinh thật sự gần nhau thân thiết .
Hôm ấy trên đường ra chợ Quận Châu Thành để mua sắm một số vật dụng cần thiết và nhu yếu phẩm cho gia đình , đến gần giữa trưa bé Hai Tình cờ gặp Thằng Vinh bạn học rất thân thiết từ dạo nào , mừng vui khôn xiết Vinh mời bé Hai vào quán nước ven đường , hai đứa có dịp ôn lại cái thuở cấp sách đến trường , những trò chơi thời thơ ấu , những mộng mơ nhẹ nhàng mà hai đứa dành cho nhau thuở ấy , và lần gặp lại thật tình cờ sau bao tháng ngày xa cách hai đứa nhất quyết nối lại tình xưa .
Chiếc xe ngựa mang hai tấm bảng quảng cáo to tướng được gắn chắc chắn bên hông xe , người xà ích một tay cầm dây cương , tay kia cầm điếu thuốc lá đang cháy dang dở , ông điều khiễn chiếc xe ngựa để quảng cáo cho đoàn cải lương Hương Mùa Thu từ Sài gòn về xã Tân Phú giúp vui cho bà con trong mùa khô , mùa này người nông dân đã thu hoạch gặt hái xong , lúa thóc được mang về nhà chất đầy bồ , lúc thời gian này người nông dân một nắng hai sương mới được rảnh rang để thưởng thức món ăn tinh thần hiếm hoi này . Ngồi phía sau chiếc xe ngựa một người đàn ông luống tuổi khác, ông ta mặc trên người bộ pijama màu cháo lòng cũ sì , ông thả từng tờ giấy chương trình xuống đất cho đám con nít nơi phố quận cùng nhau giành giật cãi nhau chí chóe , ông còn nói vô cái ( ô bặc lưa ) tiếng loa rè rè vang lên lời giới thiệu làm cho không khí nơi phố vắng thêm phần sôi động .
Lâu lắm rồi mới có cái đoàn hát về vùng xâu vùng xa này , nơi họ làm sân khấu là những mảnh ruộng khô khốc nứt nẻ , chủ đoàn hát chỉ cần tặng cho chủ ruộng vài cặp vé mời thì khỏi phải tốn ngân khoản thuê mướn , họ cho giăng màn , nối dây điện từ những căn nhà gần đó nên đoàn hát cũng được sáng đèn hàng đêm như diễn ở những nơi khác .
Nghe tiếng quảng cáo ra rả của chiếc xe ngựa , họ cho biết đêm nay sẽ diễn vở MÙA THU TRÊN BẠCH MÃ SƠN , một tuồng cải lương mà Bé Hai nó đã nghe đi nghe lại hàng trăm lần trên chiếc máy cassett hiệu sony model TC 110 A mà tía tặng cho trong lần nó thi đậu vào lớp đệ thất , bé Hai nói nhỏ bên tai thằng Vinh :
- Tuồng này hay lắm anh Vinh ơi , có chàng Tráng sĩ Vương Hồ Dũ rất oai phong dũng mãnh , Tối nay mình đi xem được không ?
Không để Bé Hai phải đợi lâu , thằng Vinh đáp lời tức thì :
- Ờ vậy đi , dễ gì có dịp đoàn hát danh tiếng chịu về quê mình . Anh thấy không có dịp nào thuận tiện như hôm nay , vậy thì tối nay anh chờ bé Hai chổ ngã ba vườn cam của ông Hai Mập rồi mình cùng đi há .
Bé Hai dạ lí nhí trong miệng đồng thời con tim nó cũng đang rộn ràng nhịp đập , đêm ấy hai đứa sống trong cái không khí mật ngọt yêu thương , khi vãng hát hai đứa lưu luyến chia tay thằng Vinh còn hẹn hò :
- Tạm biệt em nhé , tết này nhất định anh sẽ đến thăm hai bác và bé Hai nữa chứ .
Đến cái ngã ba nơi hẹn nhau lúc ban chiều , vài cơn gió thoảng qua xua đi cái không khí oi bức , đơị cho đoàn người cùng xem hát trên đường trở về nhà vừa khuất sau rạng Tre , thằng Vinh nắm chặt bàn tay bé Hai và bất chợt nó đặt một nụ hôn thật nồng nàn lên đôi môi của cô Bé , quá bất ngờ bé Hai thẹn thùng nói :
- Có xin phép ai chưa mà làm càn vậy ông , tui méc tía tui bây giờ .
Không nao núng trước lời hăm he của bé Hai thằng Vinh đáp trả :
- Xin phép lâu rồi không nhớ hả cô nương , ừ thì méc đi anh không sợ đâu .
- Cha .. Gan quá há .
Bé Hai giơ tay đấm thình thịch vào lưng thằng vinh , rồi cất tiếng cười , thằng Vinh quá đỗi hạnh phúc cũng cười theo thỏa thích ...
- Sao , cô hỏi tụi con qua nhà Năm mần chi mà bây hổng nói .
Tiếng bà Năm Trầu vang lên cắt ngang tâm trạng bay bổng của Bé Hai làm cho nó quay trở về thực tại bé hai vồn vã nói :
- Thưa cô Năm , hồi ban chiều có người tặng hai trái dưa bự lắm , tía nói qua cô Năm xin tờ giấy dán để chưng bàn thờ cho đẹp , cô Năm có không cho con xin .
- Ới ... Tưởng gì chứ giấy đỏ cô còn nhiều , để cô lấy cho , à sẵn đây cho cô biếu tía bây 2 thước pháo nè , con Tám nhà cô nó mua ở tận xóm mới Gò Vấp đó , loại này nó nổ tan xác toàn màu hồng không nghe bây , đem về chắc tía bây nó mê lắm á .
Bé Hai chưa kịp cảm ơn , bà Năm Trầu nói tiếp :
- Cô cho Tía bây nhánh mai vàng nữa kià , cây mai nhà cô năm nay không biết thằng Tuấn con của cô nó bón cái giống gì hổng biết mà đầy nhóc nụ trên cành , con đem về cho tía bây cúng giao thừa luôn .
Bé Hai mừng rỡ đáp :
- Con cám ơn cô Năm nhiều lắm nha cô Năm , cây mai nhà con năm nay chỉ lèo tèo vài nụ , con tính sáng mai qua nhà Bảy Châu xin một nhánh , giờ thì cô Năm đã cho rồi vậy thì sướng quá còn gì hơn nữa ?.
Chợt nhớ ra , bà năm dặn con bé Hai :
- Nói tía bây mùng 2 tết cô năm qua thăm và chúc tết , nhớ chừa cô cái đùi gà mái tơ với xị rượu nha .
Vừa dứt lời bà năm thò tay lấy cái ống nhổ bà phun vội miếng trầu dường như đã nhạt đối với bà , tay kia lòn vô cái giỏ lấy miếng trầu khác được têm sẳn đưa vội vào miệng nhóp nhép nhai , có người ví von cho việc ăn trầu liên tục của bà bằng câu :
- Bà năm này bả ăn trầu kiểu gì mà miếng chưa hạ rọng miếng đã động quan rồi .
Cũng vì cái tật ăn trầu như vậy nên cái tục danh cô Năm Trầu cũng được mọi người trong ấp đặt cho bà Năm từ đó , mà phải công nhận bà ghiền cái món trầu kia lắm rồi , có hôm đang nhai trầu mà trong giỏ đã hết thuốc xỉa , bà Năm cằn nhằn đứa con trai :
- Cái thằng Tuấn này , đã dặn rồi mua cho má cây thuốc xỉa mà hẹn hoài , giờ tui phải làm sao đây ?
Báo hại mặc dù đang ban đêm ban hôm , do chịu không nổi cái sự cằn nhằn nhức xương , nhức óc của bà Năm , Tuấn đành phải chống xuồng qua bên kia sông đến nhà bà Bảy Cao , một người cùng hội cùng thuyền ăn trầu xỉa thuốc như bà Năm để xin chia lại một ít thuốc xỉa cho bà , khi có cục thuốc xỉa trên tay bao nhiêu giận hờn lúc ban chiều nó âm ỉ trong lòng bà Năm mãi đến lúc này nó đã tự tan biến lúc nào chẳng hay .
- Rồi chưa bé Hai ơi , lo về đi con để tía bây trông tội nghiệp nó .
Nghe bà Năm Trầu thúc hối , bé Hai dạ rân một tiếng thật lớn rồi nhanh tay gom góp hết những món quà của bà Năm tốt bụng trao cho , hai đứa chào từ biệt bà Năm rồi hối hả quay về nhà .
Còn vài tiếng đồng hồ nữa là nàng Xuân trở về trên quê hương một mùa xuân yên bình nơi đất mẹ , ông Ba Thành bày biện chưng dọn bàn thờ ngoài sân để chuẩn bị đón giao thừa , hai trái dưa hấu nằm cạnh mấy đòn bánh tét , trà , mứt , nhang đèn hoa quả đầy đủ , nhưng cái món mà ông cố tìm cho được để cúng giao thừa là những trái Chà Là ngọt lịm nghe đâu loại này được những nhà xuất nhập cảng đem về từ các nước Trung Đông , lũ trẻ con trong cái ấp này năm nào cũng vậy chúng nó thường tụ họp đến nhà ông để được thưởng thức món ăn khoái khẩu lạ miệng này , ăn riết rồi đâm ghiền bởi vậy tết năm nào nhà ông Ba cũng rộn ràng tiếng trẻ con , hàng xóm thấy vậy có người vui miệng cho rằng :
- Nhà anh ba Thành này đúng là nơi lúa thóc đến đâu bồ câu đến đó , vậy cũng vui quá đi chứ . Sang năm tui mà mần ăn khấm khá tui sẽ mua chục ký chà là dụ mấy đứa nhỏ để cạnh tranh với anh Ba mới được .
- Bé Hai ơi , con đem nhành mai và dây pháo ra đây cho tía , nhớ đem luôn mấy xấp giấy cúng giao thừa cho tía nữa nha .
Chưng dọn bàn thờ và bàn cúng giao thừa ngoài sân , chuẩn bị đâu đó xong xuôi , chừng như mọi việc đã đúng như ý mình , ông ngước lên nhìn bầu trời đen như mực , hít mạnh một hơi căng đầy không khí trong lành vào buồng phổi , với tâm trạng khoan khoái trong lòng , ông cất tiếng dặn con bé Hai :
- Bé Hai nè con ở đây canh chừng cái bàn thờ , tía vô nhà rồi gần giao thừa tía ra đốt nhang đèn để đón giao thừa , nhớ canh cho kỹ để cái tụi nhóc nó phá phách là xui cả năm đó nhe con .
- Dạ tía yên chí để con canh chừng cho , chừng nào gần giao thừa con kêu tía má nha .
Miệng thì nói vậy nhưng mắt nó lại hướng ra trước ngõ nhà , trong bụng bồn chồn khi nghe tiếng thằng Vinh rao hàng vang lên nghe rỏ mồn một :
- Ai mua nước tương nóng hổi k.h.ô.n.g ?
Vừa dọm bước vào nhà chợt nghe tiếng rao hàng lạ lẫm kia , ông Ba Thành buột miệng :
- Trời ...trời cha nội nào điên hết biết , chắc là mới trốn nhà thương điên Biên Hòa về hay sao đó , giao thừa tới nơi mà còn bán nước tương ... Mà nước tương này do ba cái Chành , cái Hảng của cái đám ba Tầu ở chợ lớn vô chai từ hồi nào mà dám rao nước tương nóng hổi nữa chứ ...
Chợt thấy Bé Hai đang có thái độ nhấp nha nhấp nhỏm , ông liền hỏi :
- Bộ con đang có chuyện gì hay sao mà tía thấy con lạ lắm nha .
- Có gì đâu Tía ,tía lo công chuyện đi để còn cúng kiếng nữa chứ .
Đợi tía vừa khuất vào nhà trong , bé Hai liền cất tiếng càm ràm :
- Cái ông Vinh này , đã nói rồi mùng 2 gặp nhau cũng được vậy , giờ này lọ mọ ngoài đó không khéo Tía biết được là tiêu luôn ... Giờ phải làm sao đây .???
Lúc buổi sáng nay bé Hai truy vấn thằng Vinh về 2 trái dưa hấu , Vinh thú thật do nó định đem vào nhà giao tận tay Bé Hai , do khi đến nhà bé Hai thì bên ngoài ngõ nó nhìn vào thấy ông Ba Thành cứ quanh quẩn mãi trước sân nhà , nó không dám vào gặp ông nên nó tạm lánh vào mấy bụi tre gai trước ngõ bên đường , trời gần chạng vạng tối tranh thủ lúc ông Ba vừa bước vào bên trong nhà , nó lật đật mang hai trái dưa đặt ở hàng ba trước hiên nhà rồi ra về , bước được vài bước trong đầu thằng Vinh sợ để cặp dưa chổ đó có khi người khác lấy mất thì công lao nó coi như đổ sông đổ biển , nó đành quay lại lấy hai trái dưa bỏ vào lu nước bên hông nhà là chắc ăn như bắp không còn sợ mất mát lôi thôi nữa . Nó không ngờ sự việc xảy ra làm bé Hai một phen thất kinh hồn vía khiến nó bối rối vô cùng , như muốn chuộc lại lỗi lầm kia thằng Vinh hẹn đêm giao thừa mang thêm ít quà tết biếu thêm gia đình bé Hai cho vui ...
Đến ngõ nhà Bé Hai nó cố ý cất tiếng rao hàng ngộ nghĩnh như trên nhằm cho bé Hai nhận biết , chờ mãi mà không thấy động tịnh gì thằng Vinh dựng chiếc xe đạp vào bụi tre bên đường rồi đứng đó cố ý chờ gặp người yêu dấu , người yêu dấu thì chưa được gặp nhưng thằng Vinh được gặp lũ muỗi đói tấn công nó một cách mãnh liệt khiến nó phải than thầm :
- Thôi tụi bây làm ơn tha cho tao đi , tự nãy giờ tao hiến máu nhân đạo cho tụi bây nhiều lắm rồi đó .
Không gian đêm trừ tịch thật vắng lặng ,đang phàn nàn đám muỗi đói bỗng thằng Vinh nghe tiếng la thất thanh từ nơi xa vọng đến :
- Bớ người ta trộm ... Ăn trộm ... Bắt nó ...
Rồi thì tiếng chân người vang lên dồn dập trên đường , ánh sáng đèn pile lóe sáng , thằng Vinh chột dạ nói :
- Ăn trộm không coi ngày , nhè hôm nay mình đang ở đây mới chết chứ , không khéo họ cho mình là trộm cũng không chừng .
Tiếng một ai đó nói vang gần bên tai thằng Vinh :
- Tui mới thấy nó xẹt vô đây nè , cô Tám rọi đèn qua hướng này đó đi , tui chắc mẽm thằng ăn trộm nó lủi vô hàng tre gai bên đó chứ không trốn ở đâu hết .
Một người trong đám đông hỏi thăm khổ chủ :
- Chị Ba ơi , tụi nó lấy cái gì của nhà chị vậy , tết nhứt tới nơi mà mần ăn cái kiểu bất nhân như vầy thì suốt đời tụi nó cũng không khá nổi đâu .
Nghe giọng nguyền rủa tên trộm hơi ác ý , bà Ba liền cất tiếng phân bua với đám đông đang vây quanh :
- Tui mới dọn cái bàn thiêng , vừa đặt mâm ngũ quả mới quay lưng vô nhà thì đứa nào nó " Thỉnh " mất , cái điệu này năm nay chắc nhà tui xui cả năm luôn quá .
Ánh đèn pile loé sáng rọi ngay vào nơi thằng Vinh đang đứng , lấy tay che mắt cho đỡ chói , nó chưa kịp lên tiếng giải thích sự hiện diện của mình nơi đây , thì ông Chín Sa Bô Chê người nhân dân tự vệ tham gia vào cuộc truy đuổi tên trộm đã chỉa mũi khẩu súng Carbine vào thằng Vinh và lớn giọng :
-Giơ tay lên đầu cho tao thằng kia , mầy gan quá há mậy , tết nhứt mà mầy không tha cho người ta nữa .
Lúc này nhiều người quanh đó nói chen vào :
- Đánh cho thằng quỷ này một trận cho nó chừa đi , xong rồi giải nó lên bót nhốt nó qua tết tính sau.
- Đánh đi .. Đánh đi .
Ông Chín Sa bô Chê giơ tay ra ngăn cản và khuyên bà con trong ấp đừng manh động có khi lại xảy ra án mạng .
Thừa dịp này thằng Vinh vội lên tiếng phân bua :
- Chú ơi nhà con ở bên kia sông , tình cờ đi ngang đây chứ con có trộm cắp gì của ai đâu .
Một giọng nói lè nhè nồng nặc mùi rượu góp tiếng vào :
- Đi ăn trộm còn bày đặt xạo ke nữa hả mậy , bên kia sông qua đây chi giờ này , cái giỏ trên xe đạp là đồ mầy ăn cắp ở đâu khai thiệt đi , nếu nói thiệt thì tao xin anh Chín tha cho mầy về nhà ăn tết , còn như cố tình xạo là chết nghe con .
- Dạ con là con của ông Tám Hoánh ở xóm bên kia sông , con quen với bé Hai nhà Bác Ba Thành , con định mang quà tết biếu Nhà bác Ba , không ngờ gặp chuyện không may như đêm nay .
Nãy giờ nghe lùm xùm vụ trộm , ông ba Thành cũng cầm gậy gộc chạy ra tiếp ứng với bà con , sau khi nghe đầu đuôi câu chuyện của thằng Vinh ông Ba bèn lên tiếng nói đỡ cho nó :
- Đúng rồi anh Chín ơi , thằng này bạn con Bé Hai nhà tui , nãy giờ tối tăm quá tui nhìn hổng ra, thôi anh tha cho nó nha .
Nói được bao nhiêu đó ông Ba Thành quay sang thằng Vinh làm bộ trách móc :
- Bác đã dặn con rồi , quà cáp cho bao nhiêu đó được rồi , bây bày đặt đem qua chi nữa đường sá tối tăm , may là gặp bác nếu không là bây mệt với bà con rồi còn gì .
Biết rõ tên trộm đêm trừ tịch không phải là thằng Vinh , bà con ai nấy tự giải tán , riêng ông Chín Sa Bô chê còn nấn ná :
- Cái thằng này mày làm tụi tao hố một cái quá mạng luôn vậy đó , may là tao can ngăn bà con kịp thời , chứ không thì giờ này mầy bị dần mềm như chuối đó nghe con . Thôi theo anh Ba vô nhà đi .
Bé Hai nãy giờ trong sân nhà nó lóng ngóng nghe tin tức bên ngoài , trong lòng nó như có lửa thiêu đốt , giờ thấy thằng Vinh dắt xe lững thững theo tía vô nhà nó liền nở một nụ cười tủm tỉm và nói một mình :
- Một kết thúc có hậu . May mà ... Nếu không thì không biết chuyện gì xảy ra ..
Vừa vào đến nhà cũng là lúc tiếng pháo giao thừa vang lên khắp xóm làng , ông Ba lật đật thắp nhang khấn vái , bé Hai và thằng Vinh tự tay đốt dây pháo của Bà Năm trầu biếu đêm qua , tiếng pháo nhà bé Hai dường như nổ dòn hơn mọi năm , tâm trạng cả nhà ông Ba Thành hân hoan đón mừng chúa xuân đang quay về trên đất mẹ .
Sau một lúc hỏi han về gia cảnh và tình cảm của hai đứa , ông ba Thành đồng ý cho thằng Vinh nhờ mai mối và song thân nó được kết tình sui gia , khỏi phải nói tâm trạng bé Hai và thằng Vinh vui mừng biết dường nào .
Qua đến gần tết năm sau kể từ khi thiếu chút nữa thằnh Vinh bị ăn đòn oan mạng do tên trộm đêm trừ tịch mang đến cho nó , giờ đây trong ngày cưới của hai đứa với vẻ mặt hân hoan rạng rỡ đan tay trong tay đi cùng vợ chồng ông Ba Thành chào mừng quan khách ở các dãy bàn , cái bàn đầu tiên hai vợ chồng thằng Vinh diện kiến gồm những nhân vật chánh trong câu chuyện bắt trộm đêm giao thừa năm ngoái , ông chín Sa bô Chê đón ly rượu đế từ tay ông Ba thành , tay kia ông trao một xấp phong bì mừng cưới của bà con trong bàn cử ông làm đại diện mừng cho hai trẻ , ông nói thật to :
- Bà con ơi , mình dzô trăm phần trăm mừng cho hai cháu nha . 1...2...3 dzô .. K..h...à..
Dốc cạn trăm phần trăm ly ba xi đế nếp mới do chính nhà ông ba Thành nấu để đãi khách , ông Chín Sa Bô Chê khà lên một tiếng cho vơi bớt cái cay nồng của ly rượu ông nói tiếp :
- (Dợ) chồng bây ráng mần ăn nha , nay bây nên vợ nên chồng là cũng nhờ chị Ba mất trộm ngồi bên đây nè , bả bị mất cái mâm ngũ quả nhưng hai đứa con cũng nhờ cái thằng ăn trộm năm đó , phải chi biết là đứa nào là tác giả có khi (dợ) chồng bây phải đem rượu thịt để cám ơn nó cũng không chừng , tui nói dzậy phải hông bà con .
Ông Chín vừa dứt lời bà con trong buổi tiệc cưới cười rần lên và vỗ tay không ngớt , lúc này thì ngoài ngõ ai đó đốt thêm hai dây pháo , tiếng pháo hòa vào tiếng vỗ tay khiến cho vang vọng cả một góc trời quê hương .
Tía vợ thằng Vinh thấy không khí vui quá bèn nói nhỏ vào tai hai vợ chồng nó :
- Như vầy là năm nay hết đi bán nước tương nóng hổi rồi nghe con , và bé Hai hết gặp 2 con ma da thiệt bự nữa rồi phải không bây .
Cả ba cha con cùng phá lên cười sau câu nói của ông Ba Thành làm cho các bàn tiệc chung quanh không biết mô tê cũng cười hùn theo khiến cho " Tên Trộm đêm trừ Tịch " quá đổi hạnh phúc , bất giác hai giọt lệ lăn dài trên gương mặt của Thằng Vinh , rồi nó đặt một nụ hôn thật nồng nàn trên môi con bé Hai , ngoài trời Nắng gió vẫn reo vui cùng những áng mây lững lờ trôi , xa xa nơi cuối trời thấp thoáng hai cánh chim nhỏ bé đang cùng nhau bay về tổ ấm trước khi màn đêm buông xuống trên quê hương yêu dấu ngàn đời .
Viết xong ngày 10/11/2011
Hai Hùng SG
&&&
Sự Trả Thù Của Tiềm Thứ
Thực là những giấc mơ kỳ lạ, kỳ lạ hơn nữa là nó cứ lập đi lập lại mãi. Chưa bao giờ Quyền gặp trường hợp đặc biệt như thế này. Ban đêm Quyền vẫn thường nằm mơ, mỗi giấc mơ mỗi khác, sáng ra thì trừ những sự việc, hình ảnh đặc biệt, hầu hết đều không nhớ lại được. Lần này thì khác nó lập đi lập lại mãi một tình tiết khó chịu .
Có khi Quyên thấy mình đang ở trong rạp hát. Khi đèn đuốc còn sáng trưng và ngưòi ta rất đông bỗng nhiên Quyên phát hiện ra một điều không thể tưởng tượng nổi là chàng áo mão chỉnh tề nhưng bên dưới lại không mặc quần ! Cũng may chưa có ai hay. Thực là khó xử, biết làm sao chuồn khỏi chỗ này ? Và thế là Quyên vùng thức dậy, lúc đã thức, cảm nghĩ đầu tiên là mừng vì sự việc chỉ có trong mơ, song sự xấu hổ vẫn còn vương vấn không chịu tan . Hoàn cảnh giấc mơ đổi mới luôn luôn có khi Quyên cảm thấy đang tham dự buổi hội nghị quan trọng, lúc thì đang ở giữa chốn bạn bè, lại có lúc đang đi giữa chốn phố phường đông ngưòi . Tóm lại là tình huống có thay đổi song nội dung chính vẫn là cái cảnh ở truồng chỉ có một mình mình biết.
Sau giấc mơ Quyền nằm mãi, trằn trọc, cố giỗ giấc ngủ nhưng không được. Cuối cùng phải ngồi dậy, uống nước, hút thuốc, chờ sáng. Quyên suy nghĩ rất nhiều nhưng không làm sao cắt nghĩa được hiện tượng này . Quyên nghĩ, hay là hai chân bị lạnh, trống trải nó tạo ra giấc mơ này ? Tới lúc leo lên giường Quyên mặc hai quần dài. Cũng chẳng kết quả, giấc mơ vẫn cứ hiện ra. Thất bại này làm Quyên đâm ra nghi ngờ những suy luận dựa trên cơ sở khoa học. Quyên ngã sang hướng mê tín. Việc đầu tiên Quyền cố tìm mua mấy quyển sách đoán điềm giải mộng thử xem giấc mộng báo hiệu điềm may rủi, hung cát thế nào. Chàng đi lục tìm trong mấy nơi bán sách cũ được một số mà các tác giả viết ra nó thường tự xưng là chiêm tinh gia nổi tiếng, các giáo sư tốt nghiệp khoa bói toán hiện là thành viên của các hiệp hội chiêm tinh quốc tế (!). Đọc những lưòi tán dương đó Quyên thây rất yên tâm tin tưởng. Trước tiên có sách viết:"Mơ thấy mình thân thể loã lồ là do huyết mạch chẳng lưu thông tốt". Quyên nghĩ : Nếu chỉ vì máu huyết không lưu thông tốt tại sao không thấy ác mộng, thấy ma quỉ mà chỉ thấy rặt một thứ mơ mộng lạ lùng đó ? Lại còn sách bàn :"Nằm mơ thấy mình trần truồng là điềm báo hiệu công việc làm ăn sắp gặp khó khăn, thua lỗ trắng tay...". Đọc xong Quyên càng phân vân. Cái thân làm viên chức nhà nước, lương ba cọc ba đồng, công ty có thua lỗ cũng mặc kệ nó, đã có bao cấp, ăn thua gì đến mình . Lời giải kiểu này cũng chẳng đáng tin . Có sách nhất quyết cho rằng:"Nằm mơ thấy mình y phục không tề chỉnh xuất hiện chốn đông người là điềm báo hiệu sẽ mang tai tiếng, có khi mất hết cả danh dự. Coi chừng bị kiện tung ". Lời giải đáp này nghe có vẻ hữu lý, Song Quyền nghĩ mình chỉ là anh công chức quèn, cái ghế , chẳng có ma nào tranh giành, ngoài đồng lương chết đói chẳng có bổng lộc gì, có muốn tham ô tham nhũng tí ti cũng chẳng được . Đời sống của một thanh niên độc thân không tốt, không xấu làng nhàng như chàng thì tiếng ở đâu ra ? Kiện tụng chuyện gì với ai ? Vả lại xưa nay Quyền vốn là người dĩ hoà vi quý.
Vậy là tóm lại mặc dù sách vở đã tự xưng là đúc kết kinh nghiệm đông tây kim cổ chẳng đáng tin. Trong thời gian đó những giấc mơ kỳ quặc khó chịu vẫn liên tục xuất hiện. Quyền tìm đến bạn bè hỏi thăm, lại một người một ý. Có người nói mộng và thực thường đối nghịch nhau. Ví nằm mơ thấy được của thì coi chừng hao tài. Trường hợp này họ nói : "Thôi mừng rồi, trong mơ thấy trần trụi thì ngoài đời nay mai áo mão xênh xang, lên lương lên chức, cuộc đời lên hương !". Nghe thì mừng nhưng chẳng có cơ sở để tin. Quyền có dự tính kinh doanh, có mộng ước tiến thân vào đâu mà chờ đợi thành công ? Hoạ may là trúng số, ngán nổi chẳng bao giờ Quyền mua vé số. Có người luận bàn :"Oi trần truồng thì nghĩa lý gì. Con người sinh ra tay không, chết đi tay không. Trần truồng trong mơ lại chẳng đáng ngại, có ai nhìn thấy đâu? Cứ yên trí đi, sống hồn nhiên . vui vẻ ăn chơi..."
Nói tới ăn chơi thì Quyền đã vui chơi từ lâu rồi. Thời gian gần đây Quyền có quen một cô gái tên là Hợp. Hợp đẹp và biết yêu lắm. Hai người đang có những ngày vui. Tuy thế có lần Quyên nghi Hợp phản bội chàng , chung đụng với người khác vì trong mái tóc rối đầy nghệ thuật của nàng Quyên ngửi thấy phản phất cái mùi rất lạ, gọi tắt là mùi đàn ông. Nó là tổng hợp của mùi thuốc lá, xà phòng cạo râu và mồ hôi. Quyền còn đang ôm hôn vội buông ra :
- Có người nào vừa ôm em phải không ?
Hợp chối dài :
- Anh điên à ?
- Không điên đâu, tôi tinh lắm .
- Căn cứ vào đâu mà anh cho rằng tôi đi lại với người khác ?
- Người cô đầy mùi thuốc lá, mùi đàn ông !
- Thính mũi nhỉ, nhưng dễ hiểu thôi. Chỗ em làm việc đầy đàn ông, chàng nào cũng hút thuốc giống như ống khói tàu hoả. Hôm nay trời rét, người ta không dám mở quạt lại đóng kín cửa kính, khói không thoát ra được, khói thuốc quyện lấy chất dầu trên mái tóc của em. Anh là nhà khoa học anh không biết chất béo là thứ bắt mùi rất nhanh hay sao ?
Lời giải thích của nàng nghe rất có lý. Nhưng đã có lần Quyền trông thấy nàng mang nhẫn cưới. Quyền hỏi, Hợp nói :
- Em có chiếc nhẫn vàng tây năm phân, không biết cất ở đâu, phải mang, chỉ có ngón áp út trên bàn tay trái là vừa, mới lại ngón nào mà chẳng được .
Lại có lần Quyền thấy trong phòng có có cái núm vú cao su gắn với vòng nhựa màu đỏ. Thấy Quyền nhìn vào cái vật dụng cho trẻ con. Hợp giải thích :"Chị Diệu mới bế con qua chơi, thằng bé đánh rơi". Tuy thế Quyền vẫn cảm thấy cô gái này có điều gì rất quan trọng , rất bí mật muốn giấu mình. Nhất là mỗi khi Quyền cầu hôn, Hợp đều hẹn một thời gian sau nữa khi thì với lý do này, lúc lý do khác. Hợp không cho Quyền tới nhà khi chưa có hẹn trước. Nàng nói :"Em thường đi công chuyện vắng nhà nên rất khó gặp, mới lại coi chừng an ninh khóm họ để y". Cũng có khi Hợp vắng nhà ba bốn ngày, lúc trở về nàng nói : " Về quê thăm gia đình ". Tất cả những lời giải thích này nghe tương đối hợp lý. Quyền tạm tin như thế. Đến đây thì cái tính bữa bãi và cuộc sống buông thả khiến Quyền nghĩ liều : Thôi thì có người yêu, có con, thậm chí có chồng cũng chẳng sao miễn nàng dâng hiến cho mình trọn vẹn thân xác và tâm hồn là đủ. Riêng về chuyện ái ân thì người phụ nữ này rất tuyệt vời . Chung chạ với nàng còn hơn đi chốn lầu xanh vừa tốn tiền lại lo bệnh hoạn. Quyền tự trấn an mình bằng lối nghĩ đơn giản như thế. Từ khi nghe mấy người bạn khuyên nên vui sống và ăn chơi, Quyền lại lao vào cuộc truy hoan dữ dội hơn nữa. Thời kỳ này cũng là lúc những giấc mơ hổ thẹn xuất hiện nhiều hơn cả .
***
Sách vở bạn bè đều chưa giải đáp được giấc mơ lạ. Quyền nghĩ thời buổi này là thời của những tiến bộ khoa học kỹ thuật. Có nhiều tiến bộ kể cả lĩnh vực đào bới tâm linh. Vậy thì tại sao không đi gặp các nhà chuyên môn? Những bác sĩ tâm thần học? Họ sẽ soi rọi giấc mơ bằng ánh sáng khoa học để tìm thử xem trong chốn tâm linh thăm thẳm mịt mù huyền bí đó có cái gì đẻ ra giấc mơ kỳ cục này chăng ?
Quyền đến gặp một ông bác sĩ. Có lẽ nhờ ông ta là bạc sĩ không nổi tiếng, ít khách hàng nên ông ta dành cho Quyền suốt cả một buổi chiều. Ông có một ưu điểm lớn là chịu khó ngồi yên nghe Quyền khai bệnh một cách dông dài tỉ mỉ . Ông không hề ngắt lời , cũng chẳng hỏi han, xong, ông làm nhiệm vụ của mình. Trước tiên ông nghe tim phổi , gõ vùng bụng, khám răng họng lưỡi, vạch mi mắt ra xem, soi hai lỗ tai, thử phản xạ đầu gối ... Quyền không hiểu tim phổi răng đầu gối có liên quan gì tới giấc mơ? Cuối cùng Quyền nhận được toa thuốc rồi chào ông bác sĩ ra về. Từ đầu tới cuối ông ta không mở miệng nói một lời nào. Quyền tự nhủ: Rủi cho mình gặp phải bác sĩ câm. Tội nghiệp làm ăn ế ẩm như ông ta làm sao đủ nuôivợ con. Cầm toa thuốc trên tay Quyền khấp khởi mừng thầm . Uống thuốc vào, đêm đầu tiên chàng ngủ li bì. Giấc ngủ kéo theo bao nhiêu là mộng mị khó chịu. Đêm sau Quyền không dám uống thuốc nữa. Thà thức trắng còn hơn bị kẹt giữa những giấc mơ trần truồng hổ thẹn như mắc vào rừng gai không lối ra.
Có người bày Quyền tìm đến bác sĩ chuyên khoa tâm bệnh. Trước khi đặt chân Quyền tưởng tượng sẽ được đối diện với một nhà bác học với rất nhiều máy móc y cụ tối tân. Nhưng sự thực hoàn toàn khác hẳn. Phòng khám bệnh trống trơn còn ông bác sỉ trông như diễn viên hài kịch. Thực là một cuộc khám và chữa bệnh rất vui . Không cần hỏi han gì cả, ông bác sĩ rủ chàng chơi một trò phân tâm học. Ông ta lấy một tờ giấy trắng nhỏ vào đó nhiều giọt mưc khác màu rồi gấp tờ giấy làm đôi. Những giọt mực chưa khô hoà trộn với nháu thành ra những hình ảnh quái dị đối xứng nhau. Xong ông đưa cho Quyền xem, ông bảo :
- Hãy xem cho kỹ, thấy hình ảnh gì không ?
Quỳnh chăm chú nhìn xem bức tranh loang lỗ và hoàn toàn do sự ngẫu nhiên mà hình thành . Quyền quan sát thật kỹ vẫn chẳng nhìn thấy hình ảnh gì rõ rệt. Cuối cùng chàng nói bừa "Tôi trông thấy một con bướm đậu trên bông hoa". Ông bác sĩ "à" lên một tiếng thực to giống như đã nắm được căn nguyên sinh bệnh .Ông kết luận một cách chắc nịch :
- Đầu óc anh đang chịu một sự ẩn ức sinh lý cực mạnh. Cần phải giải toả gấp vì sắp nổ tung! Nếu không điên loạn , nguy hiểm đến tính mệnh!
Mặc dù quyền không hiểu "ẩn ức sinh lý " là gì nhưng nghe nguy hiểm đến tính mệnh Quyền hết hồn, hỏi :
- Thưa bác sĩ "ẩn ức sinh lý" là gì ?
- Là sự đòi hỏi về sinh lý mà không được giải toả .
- Giải toả bằng cách gì ?
- Cưới vợ gấp, nếu không thì cũng phải tìm tới mấy cái động mà trút!
Quyền thầm nghĩ cái trò phân tâm của ông chắc có điểm nào trục trặc rồi, cuộc trắc nghiệm đưa ra kết quả chàng bị ẩn ức sinh lý là sai bét. Phải nói rằng từ ngày dan díu vơi nàng Hợp thì không những không bị ẩn ức , mà còn lạm phát sinh lý tới mức mấy thầy lang bắt mạch cho chàng đều lắc đầu than : suy thận, dương kiệt, hết thuốc chữa! Nhưng dù sao cũng phải cám ơn ông bác sĩ với trò chơi thú vị nầy, Quyền nói :
- Cảm ơn bác sĩ đã chỉ dẫn, tôi dù chưa vợ nhưng hiện tại cái vụ đó tôi đang bị khủng hoảng thừa chứ không phải thiếu. Tôi và người yêu tôi tuy không được ai nhắc nhở đôn đốc nhưng từ ngày đầu mới quen nhau, chúng tôi đã siêng năng, tận tuỵ làm vịêc triệt để !
***
Quyền đem chuyện giấc mơ kể cho Hợp nghe. Những người khác mỗi khi nghe thường tỏ ra thích thú vì tính chất kỳ dị của nó và hỏi han thêm nhiều chi tiết đồng thời bắt Quyền kể đi kể lại nhiều lần. Chỉ riêng có Hợp là người duy nhất nghe xong câu chuyện chẳng tỏ ra ngạc nhiên. Nàng nói :
- Một thời gian ngắn nữa anh chẳng còn mơ .
- Sao em biết ?
- Em đoán thế !
Quyền tưởng Hợp nói để an ủi mình. Chàng cũng không hỏi lại cặn kẽ. Bẵng đi một thời gian dài Quyền và Hợp không gặp nhau. Khi gặp lại Hợp nói thời gian qua vắng mặt để giải quyết công việc riêng. Một hôm Hợp tới thăm thấy Quyền ngồi ủ rũ sau nhiều đêm mất ngủ. Hợp vui vẻ nói :
- Xong rồi, tối thứ hai này anh sẽ ngủ rất ngon .
Hợp nói có vẻ chắc chắn. Quyền nghĩ cũng chỉ là lời an ủi. Thế rồi cái tối thứ hai mà Hợp nói đã đến. Quyền lên giường nằm cố gắng không nhắm mắt để chống lại giấc ngủ nhưng giấc ngủ cứ ập đến. Một điều không thể tưởng tượng nổi, thực là một đêm an lạc! Giấc ngủ ngon lành tuyệt vời chẳng có chút mộng mị nào quấy phá . Giấc mơ trốn biệt một cách bất ngờ cũng như khi nó đến.
Bỗng Quyền giật thót người. Tại sao Hợp nói đúng như thế. Nàng còn giỏi hơn cả sách vở, bác sĩ. Vậy giấc mơ tai ác thế nào cũng có liên quan tới cô gái này. Quyền tìm đến Hợp để hỏi cho ra lẽ. Vào nhà Hợp lần này Quyền trông thấy quang cảnh hoàn toàn khác trước. Trong nhà có đông người. Hợp thấy Quyền đến giống như đang chờ chàng để tiết lộ đoạn kết của vở kịch. Nàng giới thiệu :
- Con em, nàng chỉ vào đứa bé cỡ một năm rưỡi. Còn đây là luật sư của em, nàng chỉ vào một người đàn ông ăn mặc sang trọng, tay ôm tập hồ sơ. Và kia là người chồng cũ của em. Chúng em vừa ly dị ở toà án sáng thứ hai vừa qua. Quyền thấy một người đàn ông thoạt trông có vẻ hiền lành cục mịch và rất đáng thương.
Quyền đưa tay bắt tay người chồng cũ của Hợp. Anh này có bàn tay chai như đá, bẽn lẽn ngượng ngùng, chắc đây là lần đầu tiên anh bắt tay . Bây giờ thì Quyền đã hiểu tất cả .
Chính vào sáng thứ hai, khi ông chánh án nhân danh nhà nước đọc bản án cho hai người ly dị, nghĩa là tới giây phút đó pháp luật, đạo đức, xã hội cất cho nàng cái gánh nặng làm vợ, trong đó có nghĩa vụ lớn nhất là chung thuỷ không được ăn nằm với bất cứ người đàn ông nào, đồng thời cũng cất cho Quyền cái tội tòng phạm, thì giấc mơ kia cũng không thể tới hành hạ chàng nữa . Bởi thế tối thứ hai vừa qua Quyền đã có một đêm an lành .
Té ra lâu nay chàng đi lại ân ái, làm đủ trò với một người đàn bà có chồng, có con được pháp luật, đạo đức và xã hội công nhận. Thực sự ra trong thời gian đi lại này Quyền không biết hay cố tình không biết cái việc làm tệ hại của mình, song trong thâm tâm cái phần vô thức, hay tiềm thức hay cái gì "thức" nữa mà các nhà triết học thường nói nó biết rất rõ hành động xấu xa đó cho nên nó sinh ra cái giấc mơ quái ác hành hạ Quyền cho bỏ ghét cái tính muốn chối bỏ sự thực .
Nhưng sự việc lại không dừng lại. Con người thường đi quá đà. Nó như quả lắc đồng hồ dao động từ cực này sang cực kia. Giấc mơ cũng di chuyển từ cực tả sang cực hữu. Từ chỗ mơ thấy mình tràn truồng như nhộng thì giờ đây nó chuyển sang hình thức khác .
Đêm sau Quyền nằm mơ thấy mình đi tắm biển Nha Trang. Quyền thấy chung quanh mọi người đều mặc áo tắm hở hang, Quyền thấy rất chướng và hỗ thẹn thay cho họ. Trong mơ chàng thầm trách: Thực là những kẻ đồi truỵ sống trong một xã hội buông thả! Quyền giờ đây là một kẻ ăn mặc kín đáo nhất thế gian . Đầu chàng đội mũ phớt, mình mặc trong may dô ngoài sơ mi dài tay cài măng sét, cà vạt to bản, ngoài nữa là chiếc veston màu đen, thứ người ta đi dự đám ma, khúc dưới trong xì líp ngoài quần đùi, ngoài nữa là quần tây dài như mo. Quyền thấy thế vẫn chưa đủ, hai bàn chân vẫn còn trống trải nhột nhạt khó chịu, chàng phải mang tất kéo cao lên tới gối diện giày cuya đánh bóng .
Quyền đạo mạo và trịnh trọng bước từng bước từ từ xuống nước. Trong mơ cái "vía" của chàng nó nói :"Con người đường hoàng phải ăn mặc chỉnh tề như thế này mới đi tắm được ".
Quý Thể
&&&
Rất Tiếc...
Paris, ngày 10 tháng 8...
Từ chỗ này mẹ không thể thấy là tôi đang nhìn mẹ lục lọi đồ đạc trong ngăn kéo bàn viết. Được khuyến khích nên từ hai hôm nay mẹ chỉ làm mỗi việc ấy. Hẳn rồi phòng tôi sẽ ngăn nắp gọn gàng. Coi kìa, mới sơ sơ mà chồng sách đã nằm trên kệ sau khi mẹ xem qua từng quyển và chẳng tìm thấy gì đặc biệt. Trước kia thỉnh thoảng mẹ dọn dẹp là tôi mất phương hướng, muốn tìm gì phải hỏi mẹ cất ở đâu. Nhưng lần này hy vọng không thế nữa, tôi sẽ tìm ra dù mẹ sắp xếp cách nào. Mỗi lần điện thoại reng mẹ giật thót như kẻ trộm bị bắt quả tang. Chỉ là những cú điện thoại thăm hỏi. Tôi ghét những cú reng ấy mà chẳng làm gì được. Con người ưa thăm hỏi nhiều khi không đúng lúc mà cứ tự cho là chia sẻ. Tôi cố rút dây điện thoại mà không ra, hai cánh tay vẫn còn rời rã, tôi cố hất nó chệch một chút để người bên kia nghe máy bận, mẹ đặt nó lại vào vị trí. Tôi phải nhảy tưng tưng đảo mắt lắc đầu tay khoát lia ra dấu bảo đừng mà mẹ cứ trả lời, nghèn nghẹn rồi nấc. Tôi cố sức giật ống nghe khỏi tay mẹ mà thua, mẹ có cách nắm điện thoại rất chặt, thói quen thời trẻ giành với bố để kể tội bố cho bạn nghe rồi cười hả hê thích thú. Giờ thì mắt lúc nào cũng ươn ướt, đỏ hoe. Tôi thường canh mở cửa cho bà con bạn bè, dù vô ích vẫn dặn họ khuyên nhủ mẹ. Ai cũng thăm chốc lát rồi đi. Riêng dì Sáu luôn túc trực, ép mẹ uống sữa, ăn cháo, bảo chị mà không chịu ăn uống rồi bịnh nằm xuống một cái thì làm sao. Thì làm sao. Tao chỉ muốn chết cho rồi.
Paris 12 tháng 8...
Mọi việc rồi cũng xong. Đâu phải chuyện xảy ra mỗi ngày nên giấy tờ cũng linh tinh, cái nào mẹ cũng ký cũng gật. May là dì Sáu nhất định chọn phương án nào ít tốn kém đơn giản nhất như ý tôi muốn. Mẹ đâu giàu có gì mà phải mua cho tôi căn phòng đầy đủ tiện nghi theo người ta rao bán. Tội nghiệp nó Sáu à, chị chỉ có mình nó, cho nó được thảnh thơi, nhưng tôi nháy mắt với dì, lắc đầu, và ban đêm tôi hăng say thì thầm bàn bạc hoặc phấn khởi vạch "chương trình" với dì. Nói vậy nghe cho có vẻ sang trọng, nghiêm chỉnh. Và dì hiểu. Hai mươi không phải tuổi cần một cơ ngơi. Bà làm văn phòng địa ốc vừa hỏi vừa nhìn dì Sáu khinh khỉnh Bà nghĩ một cô gái tuổi đó không thích điểm trang, quần áo, xe cộ và nhà đẹp sao. Dì Sáu chỉ cười Nó là cháu tôi hai chục năm nay, chắc là tôi hiểu nó hơn bà, nhất là bà cũng chẳng biết nó là ai. Bà kia khựng, hơi đỏ mặt. Tôi nháy mắt vỗ tay cười khoái chí. Dì Sáu học luật, từ nhỏ đã có tiếng lý sự. Cuối cùng mẹ chịu. Tôi có căn phòng vừa đủ túi tiền mẹ, tiện nghi vừa đủ tôi cần.
Hôm đến thăm nhà mới, nơi tôi sẽ ở xa mẹ và tự lo mọi thứ một mình, bà con bạn bè cùng đến xem. Trông chẳng ai vui, như thể ra riêng là quyết định sai lầm. Tôi cố trêu chọc bằng những chuyện tiếu lâm thường gây cười mà có vẻ chẳng ai lưu ý. Con Thúy trách sao tôi bỏ học giữa chừng. Tôi chống chế không bỏ, chỉ là đi thực tập ngân hàng, và chắc tôi sẽ ở luôn nơi ấy bởi cảm giác mình chẳng thể tiến xa hơn nữa. Vả chăng đó cũng là điều mẹ muốn. Nó nguýt, xoay lưng.
Hôm nay trời đẹp quá. Buổi sáng lý tưởng Paris mà cô bạn ở Việt Nam cứ bảo tả cho nghe. Không văn chương, tôi chỉ giản dị nói là mùa hè Paris trời rất trong, nắng mỏng manh cười khúc khích dịu dàng và lôi kéo mọi người ra ngoài cho nó sưởi. Nó ve vuốt da mình bằng những chiếc hôn phớt thơm ngọt sau mùa đông ẩn mình và mùa xuân e ấp. Nó rực rỡ mà đằm, lẳng lơ mà ngoan, kênh kiệu nhưng nhu nhã, lung linh trêu ghẹo. Một lần anh bạn từ Việt Nam sang, ngạc nhiên sao mọi người lại ngồi ngoài nắng, sao băng ghế trong mát không ngồi, sao dân Paris khùng quá vậy. Công viên giờ này đã bắt đầu đông người, tôi ngước nhìn bầu trời, vài cụm mây trắng mỏng như tơ làm nổi bật màu xanh dịu dàng thăm thẳm. Thảm cỏ non ngút mắt có lối đi viền hoa trắng khiến tôi nghĩ ở đây giống thiên đường. Nếu được lên thiên đường, được sống ở thiên đường, chắc sẽ thú vị. Thỉnh thoảng có dịp đọc bài viết của những người đã cận kề cái chết, họ tả cảnh thiên đường mà ham. Cái gì cũng sáng trưng, rực rỡ, an lành và cực kỳ đẹp đẽ. Tôi nghĩ thiên đường cũng lộng lẫy cỡ sáng nay thôi.
T
Tôi về nhà. Bây giờ mẹ đang tần ngần trước quyển lịch giở từng ngày trên bàn làm việc mà vì hết ngõ ngách nào để lục, mẹ mới lưu ý đến những thứ vụn vặt linh tinh bày trước mắt. Bút bi, bút màu, bút chì, gôm..., lộn xộn trong rổ hoa khô từ hôm tôi đổ ống đựng viết tìm chiếc chìa khóa xe rồi vội chạy đi. Mẹ âu yếm sắp chúng vào chiếc ống tre vẽ cành lá trúc, bình đựng viết cổ điển lần đầu về Việt Nam cô bạn mua cho. Rồi mẹ lật từng trang từ đầu năm, nhẩn nha đọc hay cố đoán mò những dòng ghi tắt. Hơn nửa năm qua, nhiều ghi chép sơ sài tôi cũng quên béng là gì. Mẹ nhẩn nha đóan, hiểu ra thì có chỗ cũng rứt được cái mỉm cười, héo queo nhưng vẫn là mỉm cười, chẳng hạn trang Mong ngày mai SNCF làm reo, hệ thống xe lửa làm reo thì mình có lý do chính đáng nằm nhà một bữa. Gần cả giờ sau mẹ mới tới trang ngày 8 tháng 8, giản dị : Gyné, 11h. Mẹ tần ngần trước những ghi chép khác, nhưng cái hẹn với bác sĩ phụ khoa là hệ trọng đây. Mẹ như giật mình, vẻ suy nghĩ. Mẹ không thể hiểu con gái cũng phải thỉnh thoảng đi khám phụ khoa, tưởng tượng đủ thứ, kiểu dám tôi đã "bị gì" rồi. Ở tuổi này tôi vẫn nghe mẹ lên lớp, răn đe bóng gió thường xuyên những điều nhận từ bà ngoại hơn năm mươi năm về trước. Mẹ tìm số điện thoại bà bác sĩ và nhìn các con số như phù thủy xui khiến chúng sẽ rớt ra trong cuộc xổ. Lý do gì một đứa con gái đôi mươi bình thường phải khám phụ khoa? Mẹ bâng khuâng thở dài. Tiếng thở dài kèm theo âm thanh ư ư nghe tham thảm, rất đặc biệt. Mấy bữa nay lại càng thảm, tiếng ư ư càng dài hệt vai chính trong vở nhạc kịch Mẫu Đơn Đình diễn nỗi tương tư. Mẹ đang tương tư.
Nắng soãi lên bàn, cành trúc bình đựng viết lao chao nhảy múa, vết mực Tàu đen muốn rứt lá rụng ra như thể tất cả mọi thứ đều mang một màu tang tóc ấy. Búi tóc sổ xuống khiến mẹ có vẻ tiều tụy. Hơn tuần nay mẹ xuống sắc thấy rõ, đau đớn, ngơ ngác. Chiếc nốt ruồi nâu đậm trên má trái có vẻ to ra, vồng lên. Đôi môi rõ nét là người "ăn nói khôn ngoan" thì nhàu nhèo, trễ xuống. Còn mắt thì khỏi bàn, bỗng dưng lông mi trụi lũi chỉ còn hai mí sưng sưng mọng nước. Chiếc áo xanh da trời lửng tay tôi không bận nữa thì mẹ bận, như bao áo khác, bảo trẻ quá nhưng hãy còn tốt, mẹ bận ở nhà, bỏ uổng. Từ nhỏ tôi đã quen tiếng "bỏ uổng", mẹ gom hết áo quần các anh chị con cô dì chú bác không vừa nữa, đem về cho tôi bất kể kiểu gái trai, an ủi Kệ con, cũ người mới ta, đỡ tốn tiền, con lớn nhanh mà, trong khi tôi chỉ muốn "cũ ta mới người". Té ra mãi đến giờ mới toại nguyện, mà lại... với mẹ. Chiếc quần thể thao xăn gấu hai lần, không cắt, vì để khi nào con đổi ý muốn bận lại vẫn được, và hiện giờ một bên sổ xuống ống cao ống thấp.
Chưa bao giờ tôi quan sát mẹ kỹ như vậy, thấy là lạ, tự nhiên muốn hỏi thực là mẹ mình đấy à? Người đàn bà tiều tụy ngơ ngác mắt dán vào tờ lịch ghi cái hẹn với bác sĩ phụ khoa?
Paris ngày 14 tháng 8...
Mẹ hầu như đã nhặt được hết những gì có tính cách riêng tư mang "dấu ấn" của tôi. Ngay cả bản vẽ ngoằn ngoèo, vài ghi chép vụn vặt chẳng đầu đuôi mà đọc lại tôi cũng chẳng hiểu mô tê. Nhưng mẹ như người mua phế liệu và tôi cứ khua tay bĩu môi nói vất hết đi mẹ ơi, đã dọn thì dọn cho sạch, có gì đâu mà tiếc, con có dùng nữa đâu. Chẳng hiểu mẹ sẽ làm gì với những thứ ấy, nếu tôi là người nổi tiếng hẳn đấu giá được bộn bạc với quyển ghi chú những gì xảy ra ở ngân hàng, nơi tôi đã thực tập sáu tháng và đâm kinh hoàng nếu không nói thực lòng là ghê tởm môi trường ấy. Mẹ thì chỉ muốn tôi ở đó, chăm chỉ rồi sẽ được tuyển, công việc bảo đảm, lương khá so với thời buổi kinh tế thị trường đang khủng hoảng...
Paris, 15 tháng 8...
Hôm nay mẹ soạn tủ áo quần. Mẹ xếp ngăn nắp riêng rẻ mới cũ và ôm từng chiếc khăn quàng dùng mùa đông lạnh ngắt vừa qua đưa lên mũi, mắt dại đi. Mẹ hít mùi của tôi, mẹ tìm mùi của tôi, mẹ muốn giữ mùi của tôi. Mùa hè, da tôi tỏa hương thơm cực kỳ đặc biệt với xà phòng Fa, mẹ bảo mồ hôi tôi hạp với xà phòng ấy và thường hít cánh tay tôi như hiện tại đang hít mấy chiếc khăn quàng ấp hơi hướm mùa đông. Tôi chậc chậc thôi mẹ ơi, gớm quá, nhiều cái chưa giặt mà mẹ. Nhưng chưa diễm phúc có con, làm sao tôi hiểu nổi mọi thứ của con đều thơm tho sạch sẽ đáng yêu. Tôi cười khi mẹ lại lựa những cái xấu đẹp để riêng, "cũ con mới mẹ". Rồi mẹ thừ người nghĩ ngợi, lâu ly. Tôi đi quanh chiếc giường trinh nữ của mình, nhìn vết lõm hãy còn dấu ngủ đêm qua, vài giọt cà phê rơi trên tấm ra mấy lần máy không tẩy sạch. Và chiếc gối trơ trọi lẻ loi. Vài sợi tóc vướng víu cuộc đời. Cùng lúc mẹ cũng nhìn lên đó, và như con gì chích, mẹ mở ngăn kéo lấy số điện thoại bà bác sĩ...
- Chào bác sĩ. Tôi là bà Nguyễn đây.
- A chào bà. Bà khoẻ chứ?
- Cám ơn bác sĩ, tôi khoẻ. Ơ... Con gái tôi có hẹn với bà mấy hôm trước...
- Đúng rồi, xem nào, à mười một giờ ngày tám, nhưng không đến. Cô ấy khoẻ chứ bà?
- Nó khoẻ. Xin lỗi bác sĩ, bịnh nó... đó có nặng không?
- Không, bà an tâm. Cùng vấn đề như lúc bà dẫn cô ấy đến lần đầu. Tôi còn phải xem phim chụp cổ tử cung, nó có dạng hơi bất thường nên làm cô ấy bị đau.
Mẹ ngập ngừng dò:
- Nó sinh nở chắc sẽ khó khăn...
- May là chưa chồng con, đợi gì sinh, cứ hành kinh là đau, như bà biết đó.
Nhưng mẹ không biết. Khỏi làm mẹ bứt rứt không thể đau giùm mình được, mỗi lần có kinh tôi cắn răng chịu đựng. Mẹ thở phào. Phải chi bà bác sĩ nói tôi đang có bầu và cổ tử cung như vậy sẽ khó sinh thì hẳn mẹ xỉu rồi.
- Vậy bà có muốn lấy hẹn cho cô ấy ngày khác hay...
- Không. Nó... không bao giờ hẹn với bà nữa đâu.
- A vậy hả...
Giọng bà bác sĩ hơi ngỡ ngàng. Mẹ nói nho nhỏ:
- Nó chết rồi.
- Xin lỗi, tôi nghe... không rõ?
Mẹ hét to, phẫn nộ với chính mình:
- Nó chết rồi, chết ngày năm tháng tám, ba ngày trước cái hẹn với bà.
- Ô... Tôi rất tiếc...
Giọng bà bác sĩ càng ngỡ ngàng bối rối hơn. Mẹ nấc nghẹn, cúp máy.
Tôi đến ôm vai mẹ, Mẹ ơi con cũng rất tiếc. Lẽ ra con không được bỏ mẹ mà đi, phải luôn ở cạnh chuyện trò, săn sóc và để mẹ săn sóc. Lẽ ra con phải có cuộc đời dài hơn, lấy chồng và sinh cho mẹ vài đứa cháu. Lẽ ra con không nên ngu xuẩn bước xuống khỏi xe bên trái, huống chi trên xa lộ. Lẽ ra khi vào bịnh viện, con phải tranh đấu với các vết thương, với thần chết mãnh liệt hơn để hy vọng được còn ở thêm với mẹ. Nhưng khi nghe cô y tá lắc đầu chép miệng nói một mình Lại một đời thực vật nữa rồi với các vết thương gớm ghiếc khắp người và mặt mũi, một trong hai chân phải cắt bỏ đi, thì con xuôi tay vốn đang nát ngướu vì tai nạn, con cố ý bỏ đi khi còn đứng trên hai chân dù không vững, một lần và mãi mãi, dù biết là gây đau đớn cho mẹ. Con đã thấy cảnh này rồi, đứa con gái nhỏ nằm hơn mười năm, cuối cùng mẹ nó thở phào khi đời thực vật của nó phải trồng vào đất. Con muốn mẹ đau thắt một lần hơn là khổ cực nhiều năm tháng. Đời thực vật thì chẳng nên nằm trên nệm. Chẳng hay ho gì mỗi ngày mẹ vào bịnh viện nhìn con bất động, mẹ ạ. Nhớ xác con nằm trong quan tài nhìn lên nắp xuyên qua lớp gỗ phủ đầy hoa, những cành lys nuột nà với phấn nhụy nâu mà mẹ thường dặn coi chừng, dính vào áo là không cách nào tẩy được. Con đã co ro vì rất lạnh, tím tái nằm chờ cả tuần mới được vào lửa. Dì Sáu đã bôi phấn hồng cho con, có vẻ hơi nhiều nhưng vẫn không che hết vẻ băng giá của xác ướp. Con đã nằm ở đó, thẳng tắp ngay ngắn trong hộc tủ kéo ra đẩy vào mỗi lần ai đến viếng, hai tay đặt trước ngực với vòng chuỗi mang tượng Đức Mẹ nhỏ màu xanh ngày mẹ con ta viếng Lourdes. Con không chịu nổi nét đau đớn trên mặt mẹ hay vẻ bối rối của bạn bè, nhiều khi hộc tủ kéo ra con trì níu lại nhưng không được, nó phơi bày con ra đấy, dưới ánh sáng trần truồng bệch bạc của căn nhà xác lúc nào cũng lạnh giá âm u, con cố kéo xác mình giấu đi nhưng không thể, đành cố thản nhiên nhắm mắt để không nhìn thấy ai nhưng vẫn nghe quanh đây có tiếng sụt sùi.
Hôm đó lúc còn nằm phòng ngoài để gia đình bạn bè đến tiễn, sau khi Thúy đọc diễn từ cho con là người "biết lắng nghe và kín miệng", con đi rảo ôm vai từng người nói lời từ biệt. Ai cũng thút thít lặng thinh. Lời cuối cùng của người chết chẳng hiệu nghiệm gì. Mẹ có nhớ lần ngồi ở phi trường Tân Sơn Nhất chờ máy bay về Paris, một ông phôn hết người nọ đến người kia vì "cạc còn tiền", để dạy đời bà con "ráng làm ăn", như thể ông không khuyên trước khi đi thì chả ai làm gì cả. Lúc đó mười một giờ đêm, hẳn ông đã đánh thức nhiều người và cũng gây phiền cho khách chờ vì giọng oang oang nhức óc. Con đã rất cáu.
Đức Dalai Lama nói Cái chết không đợi cho ta sắp xếp ổn thoả cuộc đời mình. Ngay cả muốn diễn tả lời từ biệt thế nào để chuyến ra đi chưa phải là đoạn tuyệt con cũng chưa kịp sắp xếp thì người lo việc nhà tang nói đã đến giờ. Tay chắp trước ngực, mọi người đứng lên, ngược chiều nước mắt. Và cánh cửa lò thiêu mở ra, vuông vức như ngày con bắt đầu môn hình học, vừa vặn cho cổ áo quan chạy vào. Mẹ trừng mắt hớt hãi chồm tới như thể muốn níu lại, như thể kéo con ra khỏi đó. Và con bật lên, cố nắm tay mẹ mà không tới, cố nói con thương mẹ vô cùng mà mẹ không nghe, con nấc to nhìn mẹ lao chao ngã xuống, muốn thoát ra nhưng làm gì được nữa ... Và trong khi người ta xôn xao đỡ mẹ lên thì con đã vào căn phòng rực lửa địa ngục. Mới cảm thấy âm ấm thì cái nóng kinh hoàng đã ập xuống. Con nhắm mắt cảm nhận chiếc quan tài bén lửa với tiếng kêu lách tách gỗ bong ra, rồi đến áo quần, bộ quần áo tinh tươm ngày đi trình diện tập sự ngân hàng. Con chợt hiểu thế nào là "nóng như thiêu". Con bó tay thua cuộc nên nằm im cố tĩnh tâm, nghĩ về mẹ bên ngoài khung vuông cửa đã hấp tấp đóng sầm...
Rồi buồn buồn, chẳng cần vận nội công ngoại khí gì, con bay thẳng lên trần nhìn xuống thân thể mình phút chốc sẽ chỉ là nắm bột xám trộn lẫn tro gỗ chiếc quan tài. Họ sẽ hốt từ đó, lộn xộn linh tinh mọi thứ, bỏ vào cái hũ màu xanh ngọc mẹ đã chọn không ngần ngừ giá cả vì đó là màu con thích. Họ sẽ khằn kín trao cho mẹ mang về nhà, đặt lên chiếc tủ bố từng ngồi trên ấy một tuần trước khi gửi vào nhà thờ cạnh bố và các Thánh, rồi mỗi sáng mỗi chiều mẹ sẽ thêm một chút trầm hương... Mùi thịt khét lợm giọng, con bịt mũi bước ra khỏi căn phòng ngột ngạt tử thi ấy, đuổi kịp theo mẹ vừa lên xe dì Sáu chở về. Trong căn nhà ba người giờ chỉ một, mẹ sẽ cô quạnh ngồi chỗ nào dõi mắt hướng công viên? Mẹ chỉ ngồi nơi bàn làm việc của bố, nhìn ra hành lang hai chậu tùng xanh mướt quanh năm. Giờ nếu ngồi phòng con mẹ sẽ nhìn ra đám lan phải chăm chút kỹ mà đời hoa dài lắm chỉ vài ba tháng. Tùng và lan bỏ mẹ lại, một mình...
Mẹ trân trân nhìn cái điện thoại như cái gì lạ lẫm lắm, bên kia đầu giây hẳn bà bác sĩ cũng bồi hồi.
Rồi như con rối bị sợi giây giật mạnh, mẹ đứng bật lên dứt khoát bước ra như đi tìm con gái, dập mạnh cửa. Cánh cửa ngẩn ngơ trên số phận một người...
Miêng
Paris-NT, mars 2013
&&&
Khẩu Súng Lạ
Bên Giòng Sông Lại Giang
Hai Hùng SG
Suốt mấy năm trường trong đời quân ngũ rày đây mai đó, chưa có nơi nào đơn vị tui "Mọc rễ" bằng vùng đất Tam Quan & Bồng Sơn của xứ Nẫu Bình Ðịnh, vì nhiệm vụ là lực lượng tổng trư bị của quân đội nên khi vùng đất nào bình yên rồi thì không còn bóng dáng của tụi tui, bởi phải rày đây mai đó vì vậy tui còn giữ được giọng nói của Sài gòn, bằng không thì ít nhiều tui cũng sẽ nói chuyện với chút ít âm sắc của người Bình Ðịnh kia rồi.
Tạm biệt sân bay Ðệ Ðức , một sân bay dã chiến nằm ở Quận Hoài Nhơn nơi BCH Liên đoàn tụi tui trấn giữ, đoàn quân xa đưa tụi tui lên đèo Phù cũ cách cầu Bồng sơn vài cây số về phía nam, đang ở gần phố chợ Bồng sơn đông vui người qua lại, đùng một cái phải lên đèo trấn giữ nơi khá vắng vẻ thử hỏi mấy ai không buồn.
Ngọn đèo này trước đây do một trung đoàn của sư đoàn 22 bộ binh trấn giữ, nay giao lại cho đám Thần Hổ tụi tui canh chừng, thú thiệt trong bụng tui không khoái chút nào, trên cao độ tròm trèm ba trăm mét nhìn xuống quốc lộ một vòng vèo bên dưới, tui thấy những chiếc xe đò nhỏ như những món đồ chơi của trẻ em, còn những người di chuyển bằng xe gắn máy giống y như con kiến bò trên miệng ve.
Hạ trại xong, cả đơn vị chỉnh đốn lại giao thông hào và các lô cốt, nhằm để bảo đãm sinh mạng cho mọi người khi bị pháo kích.
Tui cũng vừa đào xong hố cá nhân của mình bên cạnh hầm truyền tin, bổng anh Võ Thành Quế cùng anh Dương văn Lập thuộc ban quân xa đến kêu tui:
-Hùng ơi! Hố cá nhân đào vậy là ngon lành rồi, trăm lẻ bảy li có nổ sát bên cũng chẳng ăn thua gì đâu, thôi tới câu lạc bộ uống nước nghỉ tay đi.
Nói câu lạc bộ cho oai, chứ thật ra căn hầm dã chiến làm bằng những tấm ván thông từ thùng đạn pháo binh, bên trên lót lớp vĩ sắt PSP, phía trên nữa được dằn mấy lớp bao cát, câu lạc bộ do hạ sỹ Ðắc làm chủ, món ăn VIP thời bấy giờ là Mỳ gói hiệu con tôm, anh ta còn bán thêm cà phê, nước ngọt, một ít Lave , bánh kẹo nữa. Câu lạc Bộ của anh Ðắc bán rất đắc hàng, nhất là buổi sáng nhiều người đến nhâm nhi cà phê, ăn sáng để đấu láo cho vui, buôn bán vậy đó mà tui thấy anh ta chẳng thu tiền ai bao giờ, lúc đầu tui không biết nhưng về sau tui biết anh em ăn uống xong liền lòn vô quầy nơi anh Ðắc ngồi thu ngân, họ lấy tay ra hiệu, anh Ðắc đầu thì gật, tay thì lấy cuốn sổ dầy cộm để " Gô sỹ" tiền ăn uống của mấy trự kia, cuối tháng khi ban quân lương từ Sài gòn ra thì Hạ sỹ Ðắc đem cuốn sổ "Nam tào" ra để trừ lương tại chỗ.
Ăn sáng uống cà phê xong, anh Quế nói nhỏ cho tui với anh Lập nghe:
-Tui mới o bế ông Thượng sỹ Kiệm ban Tư, ổng cho cây súng M16 chiến lợi phẩm lưu kho lâu rồi, tụi mình chế lại thành khẩu M18 xài chơi.
Anh Lập là tay thợ máy giỏi của đơn vị, nghe anh Quế bày mưu như vậy anh cũng hào hứng nói:
- Anh Quế tính vậy được đó, thôi về ban Quân xa mình tính tiếp..
Thuở đó các đơn vị được trang bị súng M16 cho lính tác chiến , còn loại súng M18 chỉ có các đơn vị thám báo nhảy toán, hoặc các đơn vị của lực lượng đồng minh họ mới có loại súng này, tui tui mỗi khi thấy tay nào mang cây M18 là thèm lắm, chỉ có nằm mơ thôi chứ dễ gì có được khẩu súng nọ.
Lôi từ thùng đồ nghề ra gồm đủ loại chìa khóa miệng từ nhỏ tới lớn, rồi mỏ lết , cưa sắt , khoan điện , dũa, dùi V.v..., anh Lập nói :
-,Anh Quế đem cây súng ra đi, tụi mình ráng làm xong hôm nay đem xuống chợ Bồng sơn lấy le chơi.
Anh Quế tháo rời từng bộ phận cây súng ra, anh lập lấy ê tô kẹp bá súng rồi đo vẽ theo tính toán, xong xuôi anh lấy cưa sắt ra cưa, anh cũng gọt đế cao su dưới đế súng cho vừa,chỗ mới cưa, cắt bớt cái lò xo hoàn lực trong bá súng, kể cả ống dẫn lò xo, khi các cơ phận được hoàn chỉnh anh Quế ráp cái bá súng lại,
Anh Lập tháo cái loa che lửa nòng súng ra , cắt ngắn bớt nòng súng áng chừng bằng chiều dài cây M18, anh giao cái nòng súng mới cắt cùng cái loa che lửa cho Hạ sỹ Nghé đem xuống tiệm tiện ở Bồng sơn để zen răng lại cho khớp với răng của loa che lửa.
Phần hốc búa nhất của việc làm phần miếng che tay nơi nòng súng. Vì hai miếng nhựa gỗ che tay của khẩu súng khi tháo ra rồi không thể cắt ngắn để ráp vô theo kích thước ngắn lại được, chợt nhớ có cái vỏ đạn đại bác 57 ly trong căn hầm ban quân xa, anh Quế lôi ra ngắm nghía, anh Lập cũng châu đầu vô để tìm cách chế tạo.
Hai ông xúm lại cưa cái vỏ đạn ra,làm hai mảnh theo chiều dọc, rồi đi chiều dài nơi dự định gắn vào bên ngoài nòng súng, sau một thời gian mài, gò , uốn, gỏ thì hai anh cũng hoàn thành công việc rất phức tạp này, sở dĩ xài cái vỏ đạn năm mươi bảy ly vì nó có những cái lổ nhỏ để thoát hơi nóng từ nòng súng khi bắn , nhìn cái miếng che tay bằng vỏ đạn đại bác gắn vô cây M18 "lai căng" coi bộ rất ngầu, phải nói tụi tui mừng vô cùng khi thấy cây súng M18 lạ của hai "kỹ sư" ban Quân xa làm ra, để tự thưởng công mình hai anh mua lại Thượng sỹ Nghiệp Hỏa đầu vụ của đơn vị một con gà mái dầu để đãi cả nhóm.
Sáng nọ, tụi tui canh me sếp lớn của đơn vị đi họp ở bộ tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh, khi xe của ổng vừa đổ đèo do tài xế Hổ cầm lái, anh Quế vác cây M18 của mình ra đứng sát bờ giao thông hào giáp với đỉnh đồi phía sau, anh Quế trong bộ quần áo màu Hoa rừng , đang đứng dang chân tay cầm khẩu M18 để anh Lập bấm máy chụp hình, ai cũng có phần bởi những tấm hình chụp với cây M18 kia.
Giờ phút hồi hộp bắt đầu, để xem khẩu M18 của mình hoạt động ra sao, anh Quế lắp băng đạn 20 viên vô để bắn thử.
Khi bắn với chế độ ( Bặc cú) bắn từng viên thì súng nổ ngon lành, nhưng khi chuyển sang chế độ bắn ( Ra phan) thì lò xo hoàn lực tống văng cái đế cao su chặn dưới bá súng mất tiêu, may mà không gây ra tai nạn gì.
Ông Thượng sỹ Còn ( Thường vụ của Liên đoàn) thấy cảnh nọ ông cười rồi chọc quê mấy thằng tui:
- M18 gì kỳ cục vậy mấy cha, tụi Mỹ thấy mấy ông chế tạo kiểu này chắc họ khóc thét luôn quá.
Anh Lập quê cơ quá nhưng cũng ráng vớt:
-Tại làm miếng chận lò xo hoàn lực trong bá súng hơi ẩu thượng sỹ ơi , để tui mần khẩu khác không ngon không ăn tiền cho ông coi.
Từ hôm thất bại với cây M18 "Cải tiến" của đám mình, buồn quá anh Quế rủ rê cả đám đi đào củ Hà thủ ô về làm thuốc, phải công nhận trên đèo này địa chất gồm đất sét sỏi pha cát rất thích hợp cho Hà Thủ ô sinh sống, mới đi đào chừng vài giờ tụi tui gom cả đống đem về rửa sạch, phơi khô, sắc mỏng sao thủy thổ đê dành ngâm rượu uống rất tốt cho sức khỏe, lá Hà Thủ ô phơi khô sao thủy thổ làm trà uống thơm ngon không kém các loại danh trà ở vùng hành quân, có lẽ nhờ uống củ này mà tui còn mạnh giỏi đến giờ này chăng.
Chờ hoài đến một ngày nọ, anh Quế cũng được một anh lính thiết giáp đóng quân gần bên tặng cho một khẩu M16 khác, tụi tui lại lao vô làm lại khẩu M18 tiếp theo, lần này khẩu súng chắc chắn hơn, đẹp hơn và nhất là bắn liên thanh không bị văng mất lò xo hoàn lực như khẩu trước.
Có khẩu súng kiểng này anh Quế cưng nó lắm, ngày nào cũng lau chùi o bế cho sạch bụi.
Bữa nọ thấy Trung sỹ nhất Bùi Tuyền lái chiếc GMC kéo theo cái rờ mọt để xuống cầu Bồng Sơn lấy nước sông Lại Giang về cho bếp tập thể nấu ăn, cả đám tụi tui quá giang đi theo tắm giặt, cũng không quên mang theo các ống (Sạc) loại đựng thuốc bồi pháo binh xài xong bỏ ra để đựng nước sinh hoạt, Anh Quế và anh Lập lên xe vác theo cây M18 để giật le với mấy ông Lính Ðịa Phương Quân gác cầu.
Mùa này nước kém nên dòng Lại Giang không còn chảy mạnh như mọi lần, những mô cát của đáy sông nhấp nhô như muốn trồi mình khỏi mặt nước, dòng nước trong veo chảy uốn lượn quanh co theo bờ cát, tất cả mọi người ùa xuống tắm giặt thỏa thích, riêng anh Quế ngồi trên bờ cứ mân mê khẩu súng, bổng dưng có vài anh lính gác cầu kéo tới xem, họ hỏi anh Quế súng này súng gì mà lạ quá từ nào tới giờ mới gặp, được dịp anh Quế tui "Vẽ rắn thêm chân" cho vui, anh nói:
-Khẩu này M18 - A1 mới xuất hiện ở Việt Nam, hiếm lắm chỉ có cây duy nhất này thôi, vì là vũ khí sản xuất để thí nghiệm chưa có trang bị cho các nơi đâu.
Mấy cha nội gác cầu nghe vậy tưởng thiệt ai nấy đều tỏ vẻ kinh ngạc và thán phục anh Quế vô cùng, rồi mấy đứa nhỏ chăn bò thấy súng lạ cũng bu lại coi, anh Quế được dịp nở lổ mũi bự như trái cà chua vậy đó...
Khẩu súng M18-A1 của anh quế lần hồi tới tai ông Trưởng ban 3 liên đoàn, bữa nọ ông kêu anh Quế vô hỏi thăm.
-Tui nghe anh có khẩu súng lạ phải không, anh đưa ra cho tui coi coi.
Anh Quế trình khẩu súng cưng của mình ra, dường như hạp nhãn nên ông trưởng ban ba đề nghị anh Quế nhượng lại cho ông để làm vật trang trí cho vui, anh Quế tiếc lắm vì tiền bạc anh cũng đâu cần gì, nhưng với sự tha thiết của ông sỹ quan nọ anh Quế đành chia tay khẩu súng đặc biệt này, anh nghĩ rằng anh với anh Lập sẽ làm vài ba khẩu nữa là chuyện dư sức qua cầu.
***
Lại một lần nữa đơn vị phải từ giã ngọn đèo Phù Cũ này để về quận Ðồng Xuân Phú yên đóng đô , cơ hội làm thêm vài khẩu súng M18-A1 không còn đến với mấy anh nữa, do chiến cuộc ngày càng căng thẳng, ai cũng bận bịu túi bụi với công việc của mình.
Ngày tàn chiến cuộc đã điểm, ước mơ chế tạo vài khẩu súng thật xa vời với hai ông kỹ sư thân yêu của tui, từ đó đến giờ tui không còn tin tức gì hai anh, nếu hai anh thấy được câu chuyện này chắc hai anh sẽ bừng sống lại những ngày anh em mình quân hành gian khổ mà thật thú vị phải không anh Quế anh Lập ơi ./.
Một ngày đầu tháng 3/2023
Hai Hùng SG
&&&
Paris, ngày 10 tháng 8...
Từ chỗ này mẹ không thể thấy là tôi đang nhìn mẹ lục lọi đồ đạc trong ngăn kéo bàn viết. Được khuyến khích nên từ hai hôm nay mẹ chỉ làm mỗi việc ấy. Hẳn rồi phòng tôi sẽ ngăn nắp gọn gàng. Coi kìa, mới sơ sơ mà chồng sách đã nằm trên kệ sau khi mẹ xem qua từng quyển và chẳng tìm thấy gì đặc biệt. Trước kia thỉnh thoảng mẹ dọn dẹp là tôi mất phương hướng, muốn tìm gì phải hỏi mẹ cất ở đâu. Nhưng lần này hy vọng không thế nữa, tôi sẽ tìm ra dù mẹ sắp xếp cách nào. Mỗi lần điện thoại reng mẹ giật thót như kẻ trộm bị bắt quả tang. Chỉ là những cú điện thoại thăm hỏi. Tôi ghét những cú reng ấy mà chẳng làm gì được. Con người ưa thăm hỏi nhiều khi không đúng lúc mà cứ tự cho là chia sẻ. Tôi cố rút dây điện thoại mà không ra, hai cánh tay vẫn còn rời rã, tôi cố hất nó chệch một chút để người bên kia nghe máy bận, mẹ đặt nó lại vào vị trí. Tôi phải nhảy tưng tưng đảo mắt lắc đầu tay khoát lia ra dấu bảo đừng mà mẹ cứ trả lời, nghèn nghẹn rồi nấc. Tôi cố sức giật ống nghe khỏi tay mẹ mà thua, mẹ có cách nắm điện thoại rất chặt, thói quen thời trẻ giành với bố để kể tội bố cho bạn nghe rồi cười hả hê thích thú. Giờ thì mắt lúc nào cũng ươn ướt, đỏ hoe. Tôi thường canh mở cửa cho bà con bạn bè, dù vô ích vẫn dặn họ khuyên nhủ mẹ. Ai cũng thăm chốc lát rồi đi. Riêng dì Sáu luôn túc trực, ép mẹ uống sữa, ăn cháo, bảo chị mà không chịu ăn uống rồi bịnh nằm xuống một cái thì làm sao. Thì làm sao. Tao chỉ muốn chết cho rồi.
Paris 12 tháng 8...
Mọi việc rồi cũng xong. Đâu phải chuyện xảy ra mỗi ngày nên giấy tờ cũng linh tinh, cái nào mẹ cũng ký cũng gật. May là dì Sáu nhất định chọn phương án nào ít tốn kém đơn giản nhất như ý tôi muốn. Mẹ đâu giàu có gì mà phải mua cho tôi căn phòng đầy đủ tiện nghi theo người ta rao bán. Tội nghiệp nó Sáu à, chị chỉ có mình nó, cho nó được thảnh thơi, nhưng tôi nháy mắt với dì, lắc đầu, và ban đêm tôi hăng say thì thầm bàn bạc hoặc phấn khởi vạch "chương trình" với dì. Nói vậy nghe cho có vẻ sang trọng, nghiêm chỉnh. Và dì hiểu. Hai mươi không phải tuổi cần một cơ ngơi. Bà làm văn phòng địa ốc vừa hỏi vừa nhìn dì Sáu khinh khỉnh Bà nghĩ một cô gái tuổi đó không thích điểm trang, quần áo, xe cộ và nhà đẹp sao. Dì Sáu chỉ cười Nó là cháu tôi hai chục năm nay, chắc là tôi hiểu nó hơn bà, nhất là bà cũng chẳng biết nó là ai. Bà kia khựng, hơi đỏ mặt. Tôi nháy mắt vỗ tay cười khoái chí. Dì Sáu học luật, từ nhỏ đã có tiếng lý sự. Cuối cùng mẹ chịu. Tôi có căn phòng vừa đủ túi tiền mẹ, tiện nghi vừa đủ tôi cần.
Hôm đến thăm nhà mới, nơi tôi sẽ ở xa mẹ và tự lo mọi thứ một mình, bà con bạn bè cùng đến xem. Trông chẳng ai vui, như thể ra riêng là quyết định sai lầm. Tôi cố trêu chọc bằng những chuyện tiếu lâm thường gây cười mà có vẻ chẳng ai lưu ý. Con Thúy trách sao tôi bỏ học giữa chừng. Tôi chống chế không bỏ, chỉ là đi thực tập ngân hàng, và chắc tôi sẽ ở luôn nơi ấy bởi cảm giác mình chẳng thể tiến xa hơn nữa. Vả chăng đó cũng là điều mẹ muốn. Nó nguýt, xoay lưng.
Hôm nay trời đẹp quá. Buổi sáng lý tưởng Paris mà cô bạn ở Việt Nam cứ bảo tả cho nghe. Không văn chương, tôi chỉ giản dị nói là mùa hè Paris trời rất trong, nắng mỏng manh cười khúc khích dịu dàng và lôi kéo mọi người ra ngoài cho nó sưởi. Nó ve vuốt da mình bằng những chiếc hôn phớt thơm ngọt sau mùa đông ẩn mình và mùa xuân e ấp. Nó rực rỡ mà đằm, lẳng lơ mà ngoan, kênh kiệu nhưng nhu nhã, lung linh trêu ghẹo. Một lần anh bạn từ Việt Nam sang, ngạc nhiên sao mọi người lại ngồi ngoài nắng, sao băng ghế trong mát không ngồi, sao dân Paris khùng quá vậy. Công viên giờ này đã bắt đầu đông người, tôi ngước nhìn bầu trời, vài cụm mây trắng mỏng như tơ làm nổi bật màu xanh dịu dàng thăm thẳm. Thảm cỏ non ngút mắt có lối đi viền hoa trắng khiến tôi nghĩ ở đây giống thiên đường. Nếu được lên thiên đường, được sống ở thiên đường, chắc sẽ thú vị. Thỉnh thoảng có dịp đọc bài viết của những người đã cận kề cái chết, họ tả cảnh thiên đường mà ham. Cái gì cũng sáng trưng, rực rỡ, an lành và cực kỳ đẹp đẽ. Tôi nghĩ thiên đường cũng lộng lẫy cỡ sáng nay thôi.
T
Tôi về nhà. Bây giờ mẹ đang tần ngần trước quyển lịch giở từng ngày trên bàn làm việc mà vì hết ngõ ngách nào để lục, mẹ mới lưu ý đến những thứ vụn vặt linh tinh bày trước mắt. Bút bi, bút màu, bút chì, gôm..., lộn xộn trong rổ hoa khô từ hôm tôi đổ ống đựng viết tìm chiếc chìa khóa xe rồi vội chạy đi. Mẹ âu yếm sắp chúng vào chiếc ống tre vẽ cành lá trúc, bình đựng viết cổ điển lần đầu về Việt Nam cô bạn mua cho. Rồi mẹ lật từng trang từ đầu năm, nhẩn nha đọc hay cố đoán mò những dòng ghi tắt. Hơn nửa năm qua, nhiều ghi chép sơ sài tôi cũng quên béng là gì. Mẹ nhẩn nha đóan, hiểu ra thì có chỗ cũng rứt được cái mỉm cười, héo queo nhưng vẫn là mỉm cười, chẳng hạn trang Mong ngày mai SNCF làm reo, hệ thống xe lửa làm reo thì mình có lý do chính đáng nằm nhà một bữa. Gần cả giờ sau mẹ mới tới trang ngày 8 tháng 8, giản dị : Gyné, 11h. Mẹ tần ngần trước những ghi chép khác, nhưng cái hẹn với bác sĩ phụ khoa là hệ trọng đây. Mẹ như giật mình, vẻ suy nghĩ. Mẹ không thể hiểu con gái cũng phải thỉnh thoảng đi khám phụ khoa, tưởng tượng đủ thứ, kiểu dám tôi đã "bị gì" rồi. Ở tuổi này tôi vẫn nghe mẹ lên lớp, răn đe bóng gió thường xuyên những điều nhận từ bà ngoại hơn năm mươi năm về trước. Mẹ tìm số điện thoại bà bác sĩ và nhìn các con số như phù thủy xui khiến chúng sẽ rớt ra trong cuộc xổ. Lý do gì một đứa con gái đôi mươi bình thường phải khám phụ khoa? Mẹ bâng khuâng thở dài. Tiếng thở dài kèm theo âm thanh ư ư nghe tham thảm, rất đặc biệt. Mấy bữa nay lại càng thảm, tiếng ư ư càng dài hệt vai chính trong vở nhạc kịch Mẫu Đơn Đình diễn nỗi tương tư. Mẹ đang tương tư.
Nắng soãi lên bàn, cành trúc bình đựng viết lao chao nhảy múa, vết mực Tàu đen muốn rứt lá rụng ra như thể tất cả mọi thứ đều mang một màu tang tóc ấy. Búi tóc sổ xuống khiến mẹ có vẻ tiều tụy. Hơn tuần nay mẹ xuống sắc thấy rõ, đau đớn, ngơ ngác. Chiếc nốt ruồi nâu đậm trên má trái có vẻ to ra, vồng lên. Đôi môi rõ nét là người "ăn nói khôn ngoan" thì nhàu nhèo, trễ xuống. Còn mắt thì khỏi bàn, bỗng dưng lông mi trụi lũi chỉ còn hai mí sưng sưng mọng nước. Chiếc áo xanh da trời lửng tay tôi không bận nữa thì mẹ bận, như bao áo khác, bảo trẻ quá nhưng hãy còn tốt, mẹ bận ở nhà, bỏ uổng. Từ nhỏ tôi đã quen tiếng "bỏ uổng", mẹ gom hết áo quần các anh chị con cô dì chú bác không vừa nữa, đem về cho tôi bất kể kiểu gái trai, an ủi Kệ con, cũ người mới ta, đỡ tốn tiền, con lớn nhanh mà, trong khi tôi chỉ muốn "cũ ta mới người". Té ra mãi đến giờ mới toại nguyện, mà lại... với mẹ. Chiếc quần thể thao xăn gấu hai lần, không cắt, vì để khi nào con đổi ý muốn bận lại vẫn được, và hiện giờ một bên sổ xuống ống cao ống thấp.
Chưa bao giờ tôi quan sát mẹ kỹ như vậy, thấy là lạ, tự nhiên muốn hỏi thực là mẹ mình đấy à? Người đàn bà tiều tụy ngơ ngác mắt dán vào tờ lịch ghi cái hẹn với bác sĩ phụ khoa?
Paris ngày 14 tháng 8...
Mẹ hầu như đã nhặt được hết những gì có tính cách riêng tư mang "dấu ấn" của tôi. Ngay cả bản vẽ ngoằn ngoèo, vài ghi chép vụn vặt chẳng đầu đuôi mà đọc lại tôi cũng chẳng hiểu mô tê. Nhưng mẹ như người mua phế liệu và tôi cứ khua tay bĩu môi nói vất hết đi mẹ ơi, đã dọn thì dọn cho sạch, có gì đâu mà tiếc, con có dùng nữa đâu. Chẳng hiểu mẹ sẽ làm gì với những thứ ấy, nếu tôi là người nổi tiếng hẳn đấu giá được bộn bạc với quyển ghi chú những gì xảy ra ở ngân hàng, nơi tôi đã thực tập sáu tháng và đâm kinh hoàng nếu không nói thực lòng là ghê tởm môi trường ấy. Mẹ thì chỉ muốn tôi ở đó, chăm chỉ rồi sẽ được tuyển, công việc bảo đảm, lương khá so với thời buổi kinh tế thị trường đang khủng hoảng...
Paris, 15 tháng 8...
Hôm nay mẹ soạn tủ áo quần. Mẹ xếp ngăn nắp riêng rẻ mới cũ và ôm từng chiếc khăn quàng dùng mùa đông lạnh ngắt vừa qua đưa lên mũi, mắt dại đi. Mẹ hít mùi của tôi, mẹ tìm mùi của tôi, mẹ muốn giữ mùi của tôi. Mùa hè, da tôi tỏa hương thơm cực kỳ đặc biệt với xà phòng Fa, mẹ bảo mồ hôi tôi hạp với xà phòng ấy và thường hít cánh tay tôi như hiện tại đang hít mấy chiếc khăn quàng ấp hơi hướm mùa đông. Tôi chậc chậc thôi mẹ ơi, gớm quá, nhiều cái chưa giặt mà mẹ. Nhưng chưa diễm phúc có con, làm sao tôi hiểu nổi mọi thứ của con đều thơm tho sạch sẽ đáng yêu. Tôi cười khi mẹ lại lựa những cái xấu đẹp để riêng, "cũ con mới mẹ". Rồi mẹ thừ người nghĩ ngợi, lâu ly. Tôi đi quanh chiếc giường trinh nữ của mình, nhìn vết lõm hãy còn dấu ngủ đêm qua, vài giọt cà phê rơi trên tấm ra mấy lần máy không tẩy sạch. Và chiếc gối trơ trọi lẻ loi. Vài sợi tóc vướng víu cuộc đời. Cùng lúc mẹ cũng nhìn lên đó, và như con gì chích, mẹ mở ngăn kéo lấy số điện thoại bà bác sĩ...
- Chào bác sĩ. Tôi là bà Nguyễn đây.
- A chào bà. Bà khoẻ chứ?
- Cám ơn bác sĩ, tôi khoẻ. Ơ... Con gái tôi có hẹn với bà mấy hôm trước...
- Đúng rồi, xem nào, à mười một giờ ngày tám, nhưng không đến. Cô ấy khoẻ chứ bà?
- Nó khoẻ. Xin lỗi bác sĩ, bịnh nó... đó có nặng không?
- Không, bà an tâm. Cùng vấn đề như lúc bà dẫn cô ấy đến lần đầu. Tôi còn phải xem phim chụp cổ tử cung, nó có dạng hơi bất thường nên làm cô ấy bị đau.
Mẹ ngập ngừng dò:
- Nó sinh nở chắc sẽ khó khăn...
- May là chưa chồng con, đợi gì sinh, cứ hành kinh là đau, như bà biết đó.
Nhưng mẹ không biết. Khỏi làm mẹ bứt rứt không thể đau giùm mình được, mỗi lần có kinh tôi cắn răng chịu đựng. Mẹ thở phào. Phải chi bà bác sĩ nói tôi đang có bầu và cổ tử cung như vậy sẽ khó sinh thì hẳn mẹ xỉu rồi.
- Vậy bà có muốn lấy hẹn cho cô ấy ngày khác hay...
- Không. Nó... không bao giờ hẹn với bà nữa đâu.
- A vậy hả...
Giọng bà bác sĩ hơi ngỡ ngàng. Mẹ nói nho nhỏ:
- Nó chết rồi.
- Xin lỗi, tôi nghe... không rõ?
Mẹ hét to, phẫn nộ với chính mình:
- Nó chết rồi, chết ngày năm tháng tám, ba ngày trước cái hẹn với bà.
- Ô... Tôi rất tiếc...
Giọng bà bác sĩ càng ngỡ ngàng bối rối hơn. Mẹ nấc nghẹn, cúp máy.
Tôi đến ôm vai mẹ, Mẹ ơi con cũng rất tiếc. Lẽ ra con không được bỏ mẹ mà đi, phải luôn ở cạnh chuyện trò, săn sóc và để mẹ săn sóc. Lẽ ra con phải có cuộc đời dài hơn, lấy chồng và sinh cho mẹ vài đứa cháu. Lẽ ra con không nên ngu xuẩn bước xuống khỏi xe bên trái, huống chi trên xa lộ. Lẽ ra khi vào bịnh viện, con phải tranh đấu với các vết thương, với thần chết mãnh liệt hơn để hy vọng được còn ở thêm với mẹ. Nhưng khi nghe cô y tá lắc đầu chép miệng nói một mình Lại một đời thực vật nữa rồi với các vết thương gớm ghiếc khắp người và mặt mũi, một trong hai chân phải cắt bỏ đi, thì con xuôi tay vốn đang nát ngướu vì tai nạn, con cố ý bỏ đi khi còn đứng trên hai chân dù không vững, một lần và mãi mãi, dù biết là gây đau đớn cho mẹ. Con đã thấy cảnh này rồi, đứa con gái nhỏ nằm hơn mười năm, cuối cùng mẹ nó thở phào khi đời thực vật của nó phải trồng vào đất. Con muốn mẹ đau thắt một lần hơn là khổ cực nhiều năm tháng. Đời thực vật thì chẳng nên nằm trên nệm. Chẳng hay ho gì mỗi ngày mẹ vào bịnh viện nhìn con bất động, mẹ ạ. Nhớ xác con nằm trong quan tài nhìn lên nắp xuyên qua lớp gỗ phủ đầy hoa, những cành lys nuột nà với phấn nhụy nâu mà mẹ thường dặn coi chừng, dính vào áo là không cách nào tẩy được. Con đã co ro vì rất lạnh, tím tái nằm chờ cả tuần mới được vào lửa. Dì Sáu đã bôi phấn hồng cho con, có vẻ hơi nhiều nhưng vẫn không che hết vẻ băng giá của xác ướp. Con đã nằm ở đó, thẳng tắp ngay ngắn trong hộc tủ kéo ra đẩy vào mỗi lần ai đến viếng, hai tay đặt trước ngực với vòng chuỗi mang tượng Đức Mẹ nhỏ màu xanh ngày mẹ con ta viếng Lourdes. Con không chịu nổi nét đau đớn trên mặt mẹ hay vẻ bối rối của bạn bè, nhiều khi hộc tủ kéo ra con trì níu lại nhưng không được, nó phơi bày con ra đấy, dưới ánh sáng trần truồng bệch bạc của căn nhà xác lúc nào cũng lạnh giá âm u, con cố kéo xác mình giấu đi nhưng không thể, đành cố thản nhiên nhắm mắt để không nhìn thấy ai nhưng vẫn nghe quanh đây có tiếng sụt sùi.
Hôm đó lúc còn nằm phòng ngoài để gia đình bạn bè đến tiễn, sau khi Thúy đọc diễn từ cho con là người "biết lắng nghe và kín miệng", con đi rảo ôm vai từng người nói lời từ biệt. Ai cũng thút thít lặng thinh. Lời cuối cùng của người chết chẳng hiệu nghiệm gì. Mẹ có nhớ lần ngồi ở phi trường Tân Sơn Nhất chờ máy bay về Paris, một ông phôn hết người nọ đến người kia vì "cạc còn tiền", để dạy đời bà con "ráng làm ăn", như thể ông không khuyên trước khi đi thì chả ai làm gì cả. Lúc đó mười một giờ đêm, hẳn ông đã đánh thức nhiều người và cũng gây phiền cho khách chờ vì giọng oang oang nhức óc. Con đã rất cáu.
Đức Dalai Lama nói Cái chết không đợi cho ta sắp xếp ổn thoả cuộc đời mình. Ngay cả muốn diễn tả lời từ biệt thế nào để chuyến ra đi chưa phải là đoạn tuyệt con cũng chưa kịp sắp xếp thì người lo việc nhà tang nói đã đến giờ. Tay chắp trước ngực, mọi người đứng lên, ngược chiều nước mắt. Và cánh cửa lò thiêu mở ra, vuông vức như ngày con bắt đầu môn hình học, vừa vặn cho cổ áo quan chạy vào. Mẹ trừng mắt hớt hãi chồm tới như thể muốn níu lại, như thể kéo con ra khỏi đó. Và con bật lên, cố nắm tay mẹ mà không tới, cố nói con thương mẹ vô cùng mà mẹ không nghe, con nấc to nhìn mẹ lao chao ngã xuống, muốn thoát ra nhưng làm gì được nữa ... Và trong khi người ta xôn xao đỡ mẹ lên thì con đã vào căn phòng rực lửa địa ngục. Mới cảm thấy âm ấm thì cái nóng kinh hoàng đã ập xuống. Con nhắm mắt cảm nhận chiếc quan tài bén lửa với tiếng kêu lách tách gỗ bong ra, rồi đến áo quần, bộ quần áo tinh tươm ngày đi trình diện tập sự ngân hàng. Con chợt hiểu thế nào là "nóng như thiêu". Con bó tay thua cuộc nên nằm im cố tĩnh tâm, nghĩ về mẹ bên ngoài khung vuông cửa đã hấp tấp đóng sầm...
Rồi buồn buồn, chẳng cần vận nội công ngoại khí gì, con bay thẳng lên trần nhìn xuống thân thể mình phút chốc sẽ chỉ là nắm bột xám trộn lẫn tro gỗ chiếc quan tài. Họ sẽ hốt từ đó, lộn xộn linh tinh mọi thứ, bỏ vào cái hũ màu xanh ngọc mẹ đã chọn không ngần ngừ giá cả vì đó là màu con thích. Họ sẽ khằn kín trao cho mẹ mang về nhà, đặt lên chiếc tủ bố từng ngồi trên ấy một tuần trước khi gửi vào nhà thờ cạnh bố và các Thánh, rồi mỗi sáng mỗi chiều mẹ sẽ thêm một chút trầm hương... Mùi thịt khét lợm giọng, con bịt mũi bước ra khỏi căn phòng ngột ngạt tử thi ấy, đuổi kịp theo mẹ vừa lên xe dì Sáu chở về. Trong căn nhà ba người giờ chỉ một, mẹ sẽ cô quạnh ngồi chỗ nào dõi mắt hướng công viên? Mẹ chỉ ngồi nơi bàn làm việc của bố, nhìn ra hành lang hai chậu tùng xanh mướt quanh năm. Giờ nếu ngồi phòng con mẹ sẽ nhìn ra đám lan phải chăm chút kỹ mà đời hoa dài lắm chỉ vài ba tháng. Tùng và lan bỏ mẹ lại, một mình...
Mẹ trân trân nhìn cái điện thoại như cái gì lạ lẫm lắm, bên kia đầu giây hẳn bà bác sĩ cũng bồi hồi.
Rồi như con rối bị sợi giây giật mạnh, mẹ đứng bật lên dứt khoát bước ra như đi tìm con gái, dập mạnh cửa. Cánh cửa ngẩn ngơ trên số phận một người...
Miêng
Paris-NT, mars 2013