1- Nỗi Niềm Xa Quê..................................................Trầm Thiên Thu
2 - Rằm Tháng Giêng...............................................GS Hoàng Như Mai
3 - Lời Nói Một Buổi Chiều...................................Vũ Hồi Nguyên
4 - Làm Sao Cắt Nghĩa............................................Hồ Thị Mỹ Hạnh
5 - Xuân Sương............................................. ...........Mai Liên Kiều
6 - Rưng Rưng Cảm Xúc.......................................Lê Lành
7 - Những Chiếc Nón Cối ....................................Phi Ngọc Hùng
8 -Thời Đại Quạt Mo.............................................Trần Hạ Tháp
9 - Lòng Người.......................................................Minh Hương
10 - Ốc Mượn Hồn...............................................Phi Ngọc Hùng
11 - Phận Nghèo ...................................................Minh Hương
12 - Mội Thầy Thơ................................................Nguyễn Thanh Bạch
13 -Chiếc Đồng Hồ Vàng..........................Vũ Thanh Hoa
14 - Chuyện Giáng Sinh......................................Trẩm Thiên Thu
15 - Chuyện Ông Già Noel................................Trầm Thiên Thu
16 - Những Khuôn Mặt Súc Sắc......................Trần Hạ Tháp
17 - Người Vô Tội................................................An Tiêm, Mai Lý Cang PARIS
18 - Tôi Với Mùa Xuân......................................Hồ Thị Mỹ Hạnh
19 - Linh Tử.........................................................Vũ Thanh Hoa
20 - Cỏ May...........................................................Trầm Thiên Thu
21 - Chuyện Nợ Nần Thế Kỷ..........................Xuân Sương
22 - Đường Quê Ra Tỉnh.........................Nguyễn Thanh Bạch
23 - Mưa Biển.......................................................Vũ Thanh Hoa
24 - Cây Tre Trăm Đốt.......................................Lê Lành
25 -Người Đàn Bà Trong Bóng Tối...............Vũ Thanh Hoa
26 - Thế Giới Và Anh..........................................Vũ Thanh Hoa
27 - Ngồi Lê Đôi Mách......................................Phạm Đức Thân
28 - Cái Chân Chống Xe...................................Hoàng Thị Như Huy
29 - Ngõ hẻm Tận Cùng....................................Vũ Thanh Hoa
30 - Nắng Ngọt....................................................Bùi Thị Như Lan
31 - Bông Hồng Phồ Cổ....................................Bùi Kim Chi
32 - Tuổi Thơ........................................................Tôn Nữ Thu Nga
33 - Tết Đói...........................................................Xuân Sương
34 - Hoa Bay.........................................................Bùi Thị Như Lan
35 - Con trâu Và Người Dân Quê...............Đào Tiến Thi
36
***
35
Con trâu và
người dân quê Việt Nam
(Tùy bút)
Đào Tiến Thi
"Ai bảo chăn trâu là khổ"?
"Ai bảo chăn trâu là khổ? Không, chăn trâu sướng lắm chứ..." (Quốc văn giáo khoa thư)
Với trẻ em thôn quê, có con vật nào gần gũi, thân thiết hơn con trâu? Trước hết vì cái thú cưỡi trâu. Bức tranh dân gian Chăn trâu thổi sáo với chú bé vắt vẻo ngồi trên lưng trâu là hình ảnh đẹp của thời thơ ấu, của làng quê thanh bình, yên vui.
Cưỡi trâu là một cái thú. Có thể đi qua bụi gai. ruộng lầy, thậm chí qua sông. Nhưng chủ yếu vì được chỉ huy một con vật to lớn gấp mình hàng chục lần. Trẻ con đôi khi cũng cưỡi bò, nếu nhà không nuôi trâu. Nhưng cưỡi bò không thú vị bằng, vì bò lưng nhỏ lại trơn, dễ ngã, và nhất là bò hôi hám do không tắm. Ngoài ra trâu còn hiền lành, "sáng dạ" hơn bò. (Người ta nói Ngu như bò chứ có nói Ngu như trâu đâu). Nếu cậu chủ bé quá, không leo được thẳng từ sườn trâu lên lưng thì trèo từ phía đầu, có thể đứng lên cả hai sừng, trâu sẽ nghển cổ để cậu dễ dàng tuồi người về phía lưng. Trâu rất nhớ đường. Ði trong đêm tối, nếu người không thuộc đường, cứ việc dong trâu đi trước. Trâu dong bò dắt mà.
Nhưng sung sướng nhất là những ngày chăn trâu tập trung. Bây giờ những bãi chăn thả có thể tập trung vài chục trâu bò gần như không còn nữa, chứ cách đây khoảng ba chục năm về trước, có rất nhiều bãi chăn tự nhiên: những đồi hoang đủ loại lau cỏ, những cánh đồng rạ sau khi gặt còn bỏ không hàng tháng, những triền đê cao rộng mượt cỏ về mùa xuân,... Buổi trưa, tan học về, trẻ con ăn cơm vội vàng rồi í ới gọi nhau "đi trâu". Những con trâu đói meo đánh sừng lạch cạch vào văng chuồng, hễ thấy bóng người là thò đầu ra, mắt như giục giã van lơn nhanh nhanh cho chúng đi thôi. Vì đói quá, hay vì sung sướng được tháo cũi sổ lồng mà nhiều con vừa ra khỏi chuồng đã tế lên phía trước, làm cho nhiều đứa trẻ phải lốc thốc chạy theo, hò hét khản cả giọng.
Dù thả đồng hay thả đồi, lũ trẻ cứ việc "ngoã" trâu lại (quấn thừng vào cổ hoặc sừng), bỏ đấy cho chúng tự do kiếm ăn. Trâu quen nhau, ăn theo đàn, chỉ cần nhìn thấy một con là yên tâm. Lũ mục đồng tha hồ bày đặt các trò vui: đi tắm, đi "ăn sim", "ăn ong", ăn trộm hoa quả, chơi đánh trận giả (Ðinh Bộ Lĩnh trước khi trở thành Ðinh Tiên Hoàng Đế đã từng là một ông vua mục đồng trong trò chơi đánh trận giả này). Mùa hè thú nhất là tắm - sông, suối, hồ, ao, ngòi, kênh, mương - bất cứ chỗ nào có nước sâu cũng thành "bãi tắm" được. Còn mùa đông thú nhất là đốt lửa, vừa sưởi vừa nướng sắn, đôi khi cá tôm nữa. Mấy câu thơ của Ðồng Ðức Bốn diễn tả thật sinh động cái cảnh ấy:
Chăn trâu đốt lửa trên đồng
Rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều
Mải mê đuổi một con diều
Củ khoai nướng để cả chiều thành tro.
Tuy vậy chăn trâu cũng nhiều khi thật khốn khổ. Ấy là chẳng may khi trâu lạc, cả nhà bổ đi tìm. Lại có khi trâu phá lúa, rau màu, bị người ta bắt giữ, phải về gọi bố mẹ đến xin rồi xơi một trận mắng hay một trận đòn lằn mông. Rồi những ngày đông mưa phùn rét thấu xương, củi lửa đâu mà đốt, áo thì chỉ một hai manh, đứa nào đứa ấy run cầm cập, môi tím thâm. Lũ trâu thì vừa đói vừa rét, vì đồi núi, ruộng đồng trơ một màu xỉn đất, một đám cỏ cằn cũng khó kiếm. Chúng lang thang cả ngày mà bụng vẫn lép kẹp. Có năm rét quá, trâu bị sưng chân, quỵ giữa đồng, phải đem rơm đến sưởi, may thì khỏi, nếu không thì phải thịt tại chỗ, cả nhà ngậm ngùi.
"Con trâu là đầu cơ nghiệp"
Khoảng năm nghìn năm trước, nhờ thuần hoá trâu rừng làm sức kéo, cha ông ta đã bước từ đời sống hái lượm bấp bênh sang đời sống nông nghiệp ổn định mà nghề chính là trồng lúa nước. Con trâu được coi là "đầu cơ nghiệp", bởi vì "Đường cày bằng ngày cuốc", sức trâu làm đất bằng hàng chục lần sức người. Bò cũng dùng để cày bừa nhưng kém trâu nhiều, bởi vì bò không quen dầm nước và sức lại yếu hơn trâu: Yếu trâu hơn khoẻ bò, Trâu năm sáu tuổi còn nhanh, Bò năm sáu tuổi đã tranh về già; Trâu he cũng khoẻ bằng bò; Trâu ho bằng bò rống; Trâu gầy cũng tầy bò bò khoẻ....
Một gia đình được coi là sung túc phải có "ruộng sâu trâu nái". Mua trâu là một việc lớn trong ba việc lớn của đời người, do đó, người ta không gọi là "mua" nữa, mà gọi là "tậu": Tậu trâu, cưới vợ làm nhà/ Trong ba việc ấy thật là khó khăn. Tậu trâu đúng là một việc khó khăn, vì ngoài việc phải có một "nố" tiền lớn, người mua phải thông thạo xem tướng trâu, hiểu giá cả để khỏi bị lừa, bị hớ. Bởi những tay buôn trâu thường là những tay lừa đảo ghê gớm. Thật thà cũng thể lái trâu mà. Trong nghề buôn xưa, có lẽ chỉ buôn trâu được "tôn xưng" là "lái" (buôn chè, buôn vải, chứ không có lái chè, lái vải,… và ngày nay có thêm từ lái súng nhưng ít dùng).
Có ít nhất hai tiểu thuyết nổi tiếng về con trâu, và cũng là về nông dân, nông thôn. Hồi trước Cách mạng, nhà văn Trần Tiêu viết tiểu thuyết Con trâu, kể về nỗi khao khát có một con trâu cái của bác nông dân tên là Chính. Bác Chính đi làm thuê, làm mướn, lao tâm lao lực với một động cơ mãnh liệt là có đủ tiền tậu một con trâu cái. Có một con trâu cái để sinh lợi là có tất cả: tậu ruộng, mua nhà, để thoát khỏi đói nghèo; mua "xã", mua "hương", để thoát khỏi thân phận "bạch đinh", vì ở chốn quê đầy sự phân biệt ngôi thứ, đẳng cấp. Bác lao vào làm thuê với tất cả niềm say mê cho mục đích "lớn lao" đó, đến nỗi kiệt sức, phải kết thúc bằng cái chết thảm thương.
Trong kháng Pháp lại có tiểu thuyết Con trâu của Nguyễn Văn Bổng. Ta thấy cách giặc phá ta thật thâm hiểm: sát hại trâu bò để phá hoại sản xuất, làm cho cả quân dân đều đói thì không thể kháng chiến dài lâu. Người nông dân khu V hồi ấy có lúc phải "kéo bừa thay trâu" vô cùng vất vả. Cho nên vấn đề "con trâu" trở thành mối quan tâm hàng đầu của tổ chức Ðảng và lực lượng vũ trang địa phương. Người ta không chỉ đào hầm cho người mà còn đào hầm cho cả trâu nữa.
Hồn quê Việt Nam
Con trâu không chỉ là công cụ, là tài sản mà còn là người bạn đồng hành của người nông dân. Trâu bầu bạn với dân cày, khi tươi vui cũng như khi lầm than cực nhọc: Trên đồng cạn, dưới đồng sâu/ Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa; Lao xao gà gáy rạng ngày/ Vai vác cái cày, tay dắt con trâu (ca dao). Con trâu do đó có khi được dùng để chỉ luôn nghề nông: Dù ai buôn bán trăm nghề/ Không bằng đi về theo đít con trâu. Người với trâu thân thiết đến mức thề ước sống chết có nhau: Cấy cày vốn nghiệp nông gia/ Ta đây trâu đấy ai mà quản công/ Bao giờ cây lúa còn bông/ Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn. Với những đức tính và hạn chế có gì giống đó với người nông dân, cho nên trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao, con vật này thường dùng làm ẩn dụ cho người nông dân xưa: khoẻ mạnh, cần mẫn, hiền lành nhưng cũng cam chịu: Khoẻ như trâu, Làm như trâu, Thân trâu ngựa, Trâu cày ngựa cưỡi. Ngoài ra, trâu được dùng làm "văn liệu" để thể hiện những quan niệm nhân sinh, những quan hệ xã hội khác nhau: Trâu chết để da, người ta chết để tiếng, Trâu chậm uống nước đục, Trâu đồng nào ăn cỏ đồng ấy, Trâu ta ăn cỏ đồng ta Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã (Trâu bạn với trâu, ngựa bạn với ngựa), Trâu kén cỏ trâu gầy, trò kén thầy trò dốt, Trâu lành không ai mừng cả, trâu ngã lắm kẻ cầm dao, Trâu buộc ghét trâu ăn, Trâu khát chẳng phải đè sừng, Trâu mộng húc nhau nát đồng cỏ cằn, Trâu không có, bắt chó đi cày, Trâu trao chạc, bạc trao tay,…
Còn nhớ khi chuẩn bị cho Đại hội Thể thao Ðông Nam Á (Sea Games) thứ 22 - Ðại hội lần đầu tiên tổ chức tại Việt Nam, giới học thuật tranh luận mãi về việc chọn biểu tượng nào: con rồng? chú tễu? con trâu,.. cuối cùng thì con trâu đã "thắng". Con trâu vừa biểu tượng cho Việt Nam, vừa vẫn rất gần gũi với khu vực Đông Nam Á - quê hương của cây lúa nước, cũng là khu vực trồng lúa nước lớn nhất hành tinh hiện nay.
Ở một số nơi trên đất nước ta có tục chọi trâu. Trâu là hình ảnh của sức mạnh, của tinh thần thượng võ. Những con trâu chọi, người ta kiêng gọi là "con trâu" mà gọi trân trọng là "ông trâu" hoặc "trâu". Ví dụ nói "dự giải năm nay có 32 trâu", giống như nói "32 người" vậy. Sự tôn trọng loài trâu đã biến đổi cả quy tắc ngữ pháp!
Máy móc thay dần sức trâu, sức người. Ðó là một điều đáng mừng. Nhưng bên cạnh cái được vẫn có cái mất. Bãi chăn thả hết dần, bờ ruộng bé teo, có khi chẳng đủ bàn chân người đi, nói gì có cỏ cho trâu. Trâu được nuôi tại chuồng bằng cỏ voi, bằng cám tổng hợp, sung sướng hay nhàm chán tù túng, cô đơn? Người viết bài này đã từng một thuở chăn trâu, nay nghĩ đến người bạn ruộng đồng năm xưa thật không khỏi ngậm ngùi.
Đào Tiến Thi
***
34
Hoa Bay
Bùi Thị Như Lan
Sáng. Sương mù quấn quyện, ôm tụi mưa bụi trôi từ đỉnh núi Phja Ieng xuống rừng rậm, rừng thưa, choàng áo tinh khôi lên vòm lá dày, nhẹ nhàng sà xuống các lối mòn bám vào vách núi, len lỏi chơi trò đuổi bắt trên mấy chục mái nhà sàn trong bản Nà Pèng. Sương ken sươn sướt quanh những gốc đào cổ thụ, gảy đàn trên muôn vàn cánh hoa... Thế là cái rét tái tê, se sắt với những cơn gió bấc hoang hoải, réo ù ù đã trôi về sau núi, để đất trời vùng cao quê Miên rẽ lối sang xuân.
Mặc cho bụi phấn hoa thỏa thuê chơi trò tung hứng, la đà phủ dày mái tóc óng ả, nhí nhảnh lả lướt đọng vào gò má đỏ hồng, Miên vẫn ngồi tựa vào thân chó đá cõng cây đào, thả ánh nhìn ngơ ngác về phía cuối con đường. Chị bồi hồi mong bước chân xa lắc trở về. Những bước chân mạnh mẽ của thằng Khán con chị. Miên ngẩn người ra trong giây lát. Từ ngày thằng Khán đi học hay, học tốt ở đại học, thì sự mong ngóng, trông chờ về anh Sáng đã nhường chỗ cho thằng con. Trong cái đầu lùng bùng của chị vân vi, nghĩ mãi mà không thoáng ra được tí nào. Chị mơ hồ lo lắng về một ngày nào đó, thằng Khán ở lì dưới phố xá ngờm ngợp người xe kia mà quên lối về... Nơi ấy, trong một ngôi nhà nào đó, có người đàn ông đã đi qua đời chị. Và liệu rằng người đàn ông một thời của chị có còn giữ con chó đá địu cây đào trên lưng, giống hệt như chó đá trước cổng nhà chị không?
Ừ, chuyện tưởng như mới hôm qua thôi mà đã chạy xa gần hai mươi mùa đào ra hoa, kết trái. Lá xanh, lá vàng, lá rụng xuống gốc để những đọt non nảy mầm, vươn cao hứng gió, đón nắng mà người đàn ông của chị chưa trở lại. Có phải chị quá dại khờ, cả tin? Nếp nghĩ lôi chị đếm ngược thời gian.
...Sáng hai mươi bảy tết. Bản Nà Pèng nồng đượm hương thơm của những nồi bánh chưng trên bếp đỏ lửa. Tiếng lợn kêu eng éc, tiếng giã bánh dày thậm thịch...tạo nên thanh âm sống động gọi người bản rộn ràng đón xuân sang.
Anh dắt con ngựa nâu xuống núi, trên lưng nó là con chó đá địu cây đào đang chúm chím hé nụ hồng. Miên muốn anh mang cây đào về dưới phố để nối hai nhà gần nhau. Hình như ánh nhìn của chó đá không vui như mọi hôm. Lá trên hai cây đào chợt khép lại. Đôi cây đào cùng chó đá buồn vì phải xa bạn. Chị khe khẽ thủ thỉ với tụi nó: "Dù chúng mày xa nhau, nhưng cái tình luôn ở bên nhau, sao phải buồn. Rồi hai nhà sẽ là một mà...".
Trong gió lạnh se se, anh khẽ khàng ôm chị. Mắt chị ngấn ngấn nước. Tiếng anh nhẹ êm. Anh bảo, tết này về dưới nhà sẽ thưa chuyện với bố mẹ, sang xuân anh cùng chị làm đám cưới giản dị mà ấm cúng. Đám cưới của thầy giáo cắm bản với cô gái bản địa. Cô gái ấy là đứa bé mồ côi vượt lên trên số phận.
Chị nhìn theo dáng anh trôi vào sương, như thể anh bước vào miền tinh khiết và chị òa khóc tức tưởi. Chị không dám nói với anh, đã hơn tuần nay chị thấy người khác lạ. Chị sợ hương cơm chín, thèm ăn quả mác théc. Thứ quả chua chát, có vị hăng hăng, nồng nồng, cay xè. Chị lo lắng giật mình. Lẽ nào cái hôm hai đứa đi suối nước nóng về làm chị thay đổi trong người?
Anh nói xuống phố rồi sẽ trở lại, nhưng anh lại đi biền biệt...Chị không thể tin nổi, một người như anh mà nỡ sai lời ư? Mắt chị cay xè, ướt dượt.
Từ nhà chị xuống dưới phố nhà anh chị không biết đường. Mà có biết thì chị cũng không tìm anh. Ai tin đứa bé trong bụng chị là con anh?
Nhớ sao những ngày tháng nhọc nhằn nuôi thằng Khán. Không phải khổ vì đứa bé, mà khổ vì lời nói của người bản. Ra đường không dám ngẩng mặt nhìn người ta. Ngày hội thì tránh xa. Ngày chợ đi bán con gà hay mấy chai mật ong thì phải đi từ lúc nhọ mặt người, chưa ai ra đường, xuống chợ bán nhanh chóng còn về sớm, không phải chạm mặt nhiều người bản. Thế mà cái tai vẫn lọt lời cay nghiệt. Nào là, không có bố mẹ nên không ai dạy. Nào là gái hư đốn nên tự khắc mang bụng, nuôi con một mình, mặt trơ không biết xấu hổ...Lúc ấy, chị thổn thức, ôm diết thằng con.
Chị nuôi con mát tay, thằng Khán cứ thế phổng phao. Mà sao cái thằng giống cha nó như đúc khuôn đến thế? Giống từ hình hài đến tính cách. Trí óc nó cũng giống anh, học giỏi. Những năm học trường xã không nói, từ ngày nó học trường nội trú, bây giờ đi đại học, nó vừa học, vừa tranh thủ kiếm tiền trang trải sinh hoạt. Chị ở nhà nuôi đàn lợn, chăn mấy con bò hỗ trợ thêm tiền cho nó lấy chữ vào người. Mới đấy mà đã gần hai mươi mùa đào thả hoa. Thời gian kéo con người nhanh thế? Chị thở dài, nhướng mắt mãi xuống cuối con đường tràn căng mây mong thằng Khán về...
2.
Đêm cuối năm, trời vằng vặc sao. Trên vòm tím sẫm, ngàn ngàn những ngôi sao kết thành dòng sông lấp lánh, huyền ảo. Dòng sông sao vợi xa gắn chặt với quá khứ và hiện tại của anh. Sao trời là hồi ức tuổi thơ, là những khát vọng khôn cùng khi anh bước sang tuổi trưởng thành. Bầu trời chùng chình sao giăng có lúc mơ hồ, lúc thực, khi mơ giữa miền cao hoang dã, nhiều đêm chứng kiến ánh mắt say nồng anh giành cho Miên...
Mới xa Miên ba ngày mà anh nhớ cồn cào. Nhớ ánh mắt trong veo, hơi thở nhẹ ấm, nụ cười tỏa nắng. Nhớ giọng nói nhỏ nhẹ, dịu dàng. Không biết giờ này Miên làm gì? Có lẽ nàng dâng bánh dày, bánh khảo lên ban thờ để chuẩn bị thắp nhang mời tổ tiên xa, gần về vui tết...
Anh tưởng tượng và miên man nghĩ. Dòng suy tư của anh chợt cắt ngang bởi tiếng mẹ: "Ba mươi tết trời không tối thì sang năm khó làm ăn lắm đây". Anh lắc nhẹ mái tóc, bật cười : "Bố mẹ làm công chức, đến tháng lĩnh lương, có buôn bán, làm ăn gì đâu mà lo". Bố anh đang vớt bánh chưng ra khỏi nồi, hắng giọng: "Cái thằng này, là các cụ đúc kết thế thì mẹ mày nói vậy. Nhà mình nói làm gì, đây là nhìn chung cả thiên hạ thôi. Mà bao giờ thì anh mới đưa đứa gái về nhà làm vợ thế? Có nhớn chả có lo..."
Lời cằn nhằn của bố bị phạt ngang bởi tiếng nổ cùng khói khét đậm đặc. Những tiếng la hét, thất thanh dội đến: "Cháy...cháy...cứu...cứu"... "Bà con ơi, cháy nhà...c..h...áy...nhà...". Trời! Ba mươi tết hàng xóm gần nhà anh bị hỏa hoạn. Ngọn lửa dữ dội bùng bùng. Trời hanh khô khiến lửa cháy ngùn ngụt. Tiếng khóc thét của trẻ con vang trong ào ạt tiếng la ó, hỗn loạn...
Anh chạy như bay về phía quầng lửa màu da cam mỗi lúc một bốc lên cao. Từ giữa ngôi nhà rừng rực cháy, thảng thốt những tiếng khóc thét kêu cứu nghẹn ngào, bất lực... Anh choàng vội tấm chăn ướt, lao vào đám lửa tiềm ẩn đầy nguy hiểm, lần lượt cứu được bốn thành viên trong gia đình bị hoạn nạn. Bất chợt, có tiếng nấc thều thào của cụ bà: "Còn thằng Quí...thằng cháu đâu rồi....ơi...ời... Quí ơi...các ông các bà ơi, cứu cháu tôi...". Bà cụ chới với bất lực muốn lao vào nấm lửa khổng lồ rồi đau đớn, ngất lịm. Anh vội nhảy vào vòng lửa trước những ánh mắt sững sờ của đoàn người chữa cháy.
...Anh cố vẫy vùng thoát ra khỏi nấm lửa khổng lồ đặc quánh. Hàng trăm, hàng ngàn... ngọn lửa vàng ệch bỗng chuyển màu đỏ như máu, cháy bùng bùng, dữ dội. Núi lửa khổng lồ bủa vây, quây tròn anh. Anh chạy, lửa chạy theo. Anh đứng, lửa dựng thành cây cột khổng lồ leo lên tít vòm trời vằng vặc sao đêm. Lửa giơ những ngón tay hung thần, bứt từng chùm sao rơi lả tả giữa những đụn khói đặc quánh... Anh gào thét. Tro bụi đen đặc làm anh sặc sụa, ngạt thở. Khô khát. Đắng ngắt. Rát bỏng...anh mê miên bất tỉnh trong muôn vàn thanh âm vá víu.
Trong cõi mê man, từ vời vợi xa Miên đã đến bên anh...chập chờn...ảo ảnh...
Anh cùng Miên len lỏi qua mấy cánh rừng thưa, vài ba quả núi lớn nhỏ. Bước chân hai đứa đi trên thảm lá mục êm ái. Khi đôi chân thấy thấm mỏi thì òa mở trước mắt anh và Miên khoảng rừng bạt ngàn cây trái cùng dòng nước trong trẻo, thanh tao chảy ra từ lòng núi, phả hơi ấm áp, ngân nga cất tiếng rì rầm thủ thỉ... Không gian tựa như trong những câu chuyện cổ tích làm hai đứa ngỡ ngàng. Miên thầm thì hỏi anh: "Sao giữa núi rừng kỳ vĩ lại có con suối nước ấm đến diệu kỳ như thế?". Anh ôm Miên trong vòng tay rắn chắc, khẽ giải thích: "Những lần anh ngược núi khám phá, anh đã phát hiện ra sự thú vị này". Anh quả quyết với Miên, dòng suối này ấm về mùa đông, còn mùa hè thì mát rượi. Ô! Anh nói thế thì Miên nghe thế chứ Miên vẫn còn hoài nghi... Đã là suối nước nóng rồi thì cứ nóng mãi thôi, sao có thể chuyển mùa mà thay đổi?Miên mỉm cười, nói với anh thế. Anh nhìn thật lâu vào đôi mắt đen tròn, trong veo của Miên. Ánh mắt hồn hậu tràn nắng của anh hút Miên vào gần anh mãi, gần đến nỗi khi môi anh chạm vào môi Miên thì người Miên như dính nhựa vào anh. Hai đứa quấn lấy nhau nồng nàn, da diết... mặc kệ những chiếc lá khô vương vít vào tóc, vào người. Và không biết từ khi nào, anh cùng Miên dập dềnh trôi giữa dòng suối ấm áp, trong tiếng chim ríu rít, lảnh lót...
Có cái gì đó mềm mại lướt trên khuôn mặt anh, kéo từ má lên mắt, xuống cổ. Mềm ấm, khẽ khàng. Chậm chạp. Hai mí mắt anh nặng trịch. Những cơn đau vật vã, dữ dội như xé nát da thịt anh không còn nữa. Anh trôi vào cõi mê không biết bao lâu rồi. Xung quanh anh vắng lặng, nồng đượm mùi thuốc. Thì ra anh đang ở trong bệnh viện.
Sững sờ, thảng thốt, chậm chạp mở mắt. Anh bàng hoàng không muốn tin dù đó là sự thật. Hai đầu gối của anh nhằng nhịt sẹo vá. Cả mảng da đùi cũng vá víu. Đôi chân của anh đã không còn... Anh nhìn gương mặt mình qua tấm cửa kính và giật mình. Mặt ai thế kia? Nhập nhòa, loang lổ một vết sẹo dài...Anh chùng người đau đớn.
Ai đó đã nói thời gian sẽ chữa lành vết thương. Ừ, có thể chữa lành được sao? Nỗi đau về thể xác thật nhỏ so với cái đau âm ỉ tích tụ trong tim anh. Hằng đêm anh trôi trong khắc khoải, khe khẽ thầm thì hướng mắt về phía núi ngợp xa, cầu mong Miên có cuộc sống hạnh phúc, tròn đầy. Anh không thể mang hình hài xấu xí và tàn tật quay lên bản Nà Pèng với Miên. Không thể là gánh nặng cho người anh yêu...
Hơn hai mươi năm rồi, tình cảm của anh giành cho Miên vẫn y nguyên như hồi anh là thầy giáo cắm bản. Nhớ Miên, anh ve vuốt chó đá và cây đào. Anh cũng không biết vì sao cây đào không chịu cao lên. Gốc nó to chừng bắp tay, nhưng chỉ xòe tán đủ che cho chú chó đá mát mẻ. Đây là giống đào quí hiếm. Đào tứ mùa. Quanh năm cây đào khoe sắc hồng rạng rỡ. Nhìn cây, anh vơi đi phần nào nỗi nhớ Miên cồn quặn trong lòng. Nhiều đại gia chơi cây cảnh từ khắp mọi miền, khi đến vườn sinh vật cảnh nhà anh, ánh mắt họ thảng thốt trước dáng vẻ độc đáo, lạ lùng của cây đào tứ thời trổ hoa hồng rực. Nhiều người gạ anh bằng tiền tỷ. Anh nói với họ, cây đào là người anh yêu. Họ bật cười tưởng như anh nói đùa. Nhưng không phải. Họ đâu có hiểu anh? Cây đào là linh hồn, tình yêu, cuộc sống của anh. Từng chiếc lá bị sâu làm anh đau. Cánh hoa không tươi sắc thì anh biết cây buồn... Và chú chó đá mang màu trắng ngà, đôi mắt long lanh như cười nữa. Vào những ngày tết thì thân mình chó tỏa ánh sáng lấp lánh, rực rỡ...
Vườn nhà anh trồng bạt ngàn cây cảnh và hoa hồng. Có những cây cảnh hai trăm tuổi, gốc hoa hồng cổ hơn trăm năm tuổi. Bonsai, cây cảnh nhà anh nổi tiếng gần xa. Cũng từ chăm sóc hoa cảnh mà cuộc sống của anh muôn phần thi vị. Anh bằng lòng với chính mình.
Lại một cái tết đến rồi. Thời điểm này khách đến nhà anh mua cây cảnh, hoa tấp nập, đông vui. Người đi ô tô, người đi xe máy, người thuê xe ôm... ai cũng mong mình có chậu cảnh ưng ý chơi xuân.
Không biết vì sao hôm nay anh thấy bụng cồn cào tựa có chảo mỡ sôi. Sao thế? Có điều gì chăng?
Mới sớm nay thôi, anh thấy có sự lạ. Trong sương sớm, chó đá chợt cựa mình, tỏa muôn vàn bụi sáng tung tẩy, quấn quyện từng cánh hoa đào, bừng thức màu hồng quyến rũ. Màu hồng ấy theo gió nhẹ nhàng chuyển động, tung hứng bay lên vòm mây cao tít, rồi chợt òa ập vào anh, lôi anh vào miền mê đắm diệu xa... Khổ nỗi, anh chỉ có thể đi bằng đôi tay chậm chạp. Nhưng lạ lùng quá đi, khối sáng màu hồng kỳ vĩ bỗng đẩy anh nhẹ bẫng, bay bổng, phiêu du, lắc lư vũ điệu hồng hoang...
3.
Trời tung mưa bụi trắng đường, nhòe ướt phố xá. Mặc ông trời vung vẩy bụi nước mờ mịt, trên đường người xe vẫn ken dày, hối hả. Dưới hàng cây bàng bên đường, có một vài chiếc lá màu đỏ đẫm nước nằng nặng nằm sát gốc. Hình như chúng bình thản và an phận. Bởi vì tiết trời sắp vào xuân. Biết thế nhưng nhìn tụi lá trơ vơ, trong bụng Khán xa xót và chợt cất tiếng thở dài. Khán nhớ nhà, nhớ mé quá, nhớ cây rừng, nhưng Khán phải cố kiếm thêm tiền vào dịp cuối năm. Việc sẵn thế này, làm để ra giêng nếu ít việc thì vẫn rủng rỉnh đóng tiền nhà trọ. Gần tết, dưới phố người ta đi mua sắm nhiều, thế nên nghề "xe ôm sinh viên" nhiều việc.
Đường thấm nước, trơn truội. Khán nhấn ga lên dốc. Gớm, cái nhà này sao lại cao thế không biết. Con đường bê tông rộng khoảng bốn mét khang trang quá đi. Nhà này Khán chưa đến lần nào. Ông khách ngồi sau xe Khán, ôm chặt, cẩn thận nhắc: "Ngày tết, đường đông cháu chạy từ từ thôi. Cháu đưa ông đến nhà chú Sáng ngắm hoa, cây cảnh". Khán chưa kịp trả lời, ông đã vui vẻ, hồ hởi: "Nếu ông chọn được gốc cảnh đẹp thì mày chở về nhà cho ông, rồi quay lại đón nhá". Khán nhanh nhảu: "Vâng ạ" rồi bật cười thật tươi.
Mấy ngày nữa sang năm mới rồi, mặc dù biết mé ở nhà mong ngóng, thế nhưng sáng hai mươi chín tết Khán mới về. Chắc là mắt mé lại đỏ mọng thôi...Mải mê nghĩ, Khán vù xe qua ngõ, đưa ông khách vào giữa sân. Úi chao! Căn nhà một tầng xây kiểu mái thái khang trang, rộng rãi giữa khu vườn cây cảnh tràn ngập tiếng chim chào mào, chim sẻ ri thật mê ly. Giữa thành phố có một ngôi nhà thế này hiếm vô cùng. Nhìn không gian thì biết chủ nhà có mắt thẩm mỹ và yêu thiên nhiên. Những dáng thế của cây cảnh xung quanh nhà, cùng các loại hoa lạ đang khoe sắc, tỏa hương quyến rũ, làm Khán như lạc vào cõi chiêm bao.
Kìa! Giữa vườn hồng đài các, rực rỡ sắc màu trong làn mưa nhẹ bay, có gốc đào đang bung hoa hồng phấn. Lạ quá đi! Cây đào ngồi trên lưng con chó đá, giống hệt gốc đào ở cổng nhà Khán. Sao lại giống nhau như vậy? Khán chợt giật mình. Phải chăng, câu chuyện cổ tích hằng đêm mé Khán kể về đôi chó đá và hai cây đào là có thực?
Mắt Khán như bị hút vào đôi mắt ấm áp, mê miên của người của người đàn ông tật nguyền ngồi dựa lưng vào chó đá. Mặt người ấy chợt tái đi, rồi thoắt đỏ, rồi lại tái đi... Khóe miệng ông giật giật nửa cười, nửa lại như muốn nói điều gì đó mà không thốt ra lời. Cậu bé kia là hiện thân của ông hồi trẻ. Đúng hình hài của ông mà. Chợt như có làn mây mỏng nhẹ bay ngang và che phủ đôi mắt ánh ướt ấy. Che phủ vùng ký ức nhớ nhung vón lại trong mắt. Từ đôi mắt chắt ra giọt nước nóng hổi nhòa theo nước mưa, làm nhòe đi làn sương để vùng sáng ký ức bùng lên...
Ông đăm đắm nhìn Khán, vẫy Khán lại gần, tay ông run run rút từ trong túi áo ngực ra ảnh người phụ nữ trẻ với mái tóc dài e thẹn. Khán ngỡ ngàng. Hình của mé Khán hồi trẻ. Trên nhà sàn của Khán cũng treo hình giống hệt thế này ở cây cột giữa nhà. Người Khán run lên như bị trúng gió. Mắt Khán rưng rưng, thảng thốt, nổ hoa cà, hoa cải nhìn vòm trời lăng giăng mưa bụi, ăm ắp mây ẩn hiện khuôn mặt đôn hậu cùng nụ cười ấm áp của mé...
Ô kìa! Những cánh hoa đào bỗng rung rinh vấn vít, tung bụi phấn hồng theo gió nhảy nhót, khi thì chụm lại, lúc tản ra...chúng kết thành đóa hoa lộng lẫy loay xoay, bồng bềnh cùng mây trời bay ngược chiều gió thổi, về phía núi xa trong tiếng chim hánh hót rộn vang.
Thái Nguyên – Tháng 1/ 2018
B. T.N.L
***
33
Tết Đói
Thầy tôi tánh nghiêm ít nói, gần Tết lại thêm nhăn nhăn thường trực, hay càm ràm Tết nhứt làm chi mà khổ dữ vầy. Bởi cả tháng trời ngày nào mẹ tôi cũng cặm cụi hết món nọ tới món kia. Nào bánh nào mứt, đủ thứ đủ màu. Mà phải chút đỉnh cho cam, cái thùng thiếc thời đó mà mỗi thứ vài thùng chất lên như kho hàng nho nhỏ. Bị nhăn, mẹ chép miệng phân bua Kệ mà ông, cực chút xíu mà trẻ nhỏ còn dẫn bạn bè, bước vô bước ra có cái bốc cho vui. Dĩ nhiên đám cháu nội ngoại cùng bạn bè có cái để bốc lia thì vui thiệt, nhưng tội mẹ quá chừng. Mà bây giờ nghĩ lại, dám mẹ có bỏ... thuốc độc vào các món chăng, chớ vì sao chẳng bao giờ mẹ nhón thử cái gì, chỉ gò lưng in in dập dập như nhà xuất bản (ờ, thì đây cũng là một kiểu xuất bản). Và sao thời đó chẳng bao giờ nghe các cụ than đau lưng mỏi cổ, cũng là xương thịt cả mà, chắc khác ở cái lòng và ý chí. Nghĩ tới mới thấm thía cái chịu thương chịu khó của các cụ quả là bao la Thái Bình. Thời nay dường như phần lớn gia đình không "ăn Tết" nữa, có tiền thì đi du lịch chẳng cúng kiến gì vì ông bà cõi kia chắc cũng vi hành đây đó, cũng chẳng cần tới lui thù tiếp chúc tụng nhau nữa. Khoẻ re, mà nhạt.
Rồi xa quê, Tết Paris quận 13 nhìn thiên hạ rộn ràng sắm sửa cũng vui vui, cành đào chắc là thiệt, gắn hoa vải ny lông, suốt năm vẫn hồng hào quyết chí không tàn không rụng. Mai thì dùng Forsythia là hoa trời Tây nở giữa mùa băng giá, đúng lúc trời Đông nhằm mùa chúc tụng, nho nhỏ nhiều cánh màu vàng. Chẳng cái nào đúng cái nào nhưng có thứ na ná đánh lừa ông bà cũng được, tiềm tiệm thôi chớ vòi cho chính hiệu không có, và ai cũng hoan hỉ rinh về, với trí tưởng tượng phong phú thì nhìn gà cũng hoá ra cáo. Lại còn chọn cây phát tài, cây nào đã chọn tức đoán là phát nhất rồi, vậy mà nhìn trên tay bà bên cạnh, sao thấy cây của họ vẫn có vẻ "phát" hơn, lại thả cây mình xuống, chọn tiếp, cả buổi trợn mắt chọn cho xong vài ba nhành toàn lá và lá xanh mướt hy vọng, nhưng quanh năm bắt ghế ngồi rình ngay cửa cũng chẳng thấy tài nào phát cả, trừ phát mệt. Chỉ một cây phát tài đó đủ phân vân, về Việt Nam nghe nào cây May mắn, cây Hạnh phúc, cây Thần kỳ, cây gì gì... phát khùng luôn. Ngoài khu 13, người Việt sống một ngày như mọi ngày, sáng xách ô đi tối xách về, vì Tết ta không được vào danh sách những ngày được nghỉ. Mình dị đoan: nếu đi làm, chẳng lẽ suốt năm phải... đi làm hoài sao, thành ra nằm khoèo nhâm nhi trà mứt cho được may mắn nhàn nhã quanh năm, và chờ Thần Tài ghé thăm chúc tụng.
Mấy năm trước, nhiều người không còn thân nhân ở Việt Nam nữa, hí hửng khăn gói về "ăn Tết" quê nhà cho biết, nghe nói vui lắm, không khí tràn lan trong nhà ngoài ngõ. Mấy ngày cuối năm hân hoan thiệt, chợ búa chen chân, đường phố rộn ràng, hàng hoá linh tinh triệu thứ, màu sắc lộng lẫy khắp nơi đường to hẻm nhỏ, đủ mọi thứ âm thanh trên trời dưới đất tưng bừng náo nhiệt. Người người tất bật tới lui sắm sửa chưng chòng nhà cửa, nào mai nào cúc nào đào, nói theo ngôn ngữ bây giờ cái gì cũng siêu, là "siêu thiệt", không pha chế. Cảnh này ở nước ngoài làm gì thấy, có rộn ràng cách gì mình cũng lẫn lộn với dân bản xứ và nhiều sắc dân khác, đâu có "thuần giống" như tại quê nhà. Cùng xóm còn giữ tục lệ hay ho là quà cáp cho nhau như bên kia vào dịp Giáng Sinh, khác cái quà Tết thực tế hơn, chủ yếu phục vụ bao tử. Được mời tới nhà giàu ăn tất niên, nhìn mâm ngũ quả mà lé. Bây giờ đại gia thì nhiều, phú lên rồi phải làm cho quý, nên mâm linh tinh quả chớ không dừng ở ngũ, ông bà dám sợ không ăn, vì chỉ thấy con rồng con phụng vẫy đuôi uốn lượn, lỡ bốc trái nào tức là gỡ vảy nó, nó bị nhột quất cho một trận thì chết tươi lần nữa. Vài năm sau này hành hạ cây cối còn sành điệu hơn, là chỉ cần một cây mà ghép làm sao bắt nó sinh những năm loại quả, ông bà càng thấy lạ lùng đố can đảm dám sờ.
Đấy là giai đoạn chuẩn bị, dợm cho ba ngày chính. Giao thừa vừa xong thì dân từ xa về mới bổ ngửa là Tết chẳng có gì để "ăn" cả, mới công nhận chữ "đói" trong từ điển là không bịa. Cửa hàng im ỉm, tiệm ăn cửa đóng then cài, ai ai cũng về quê hoặc nghỉ ngơi ba ngày dưỡng sức sau một năm cật lực vật lộn giữa chợ búa, bếp núc và khách hàng. Thôi thì trong va ly còn chút đỉnh bánh trái gì cứ tạm an ủi cái bao tử, sớm nhất là mồng bốn mới có cái "siêu thực". Saigon mà âm thanh chỉ phong phanh, đâu được nghe tiếng pháo đi đùng, đâu nghe tiếng quà rao vặt, xe cộ thi thoảng mới xẹt ngang, khu chợ Bến Thành vắng vẻ đếm người qua lại được. Trông rất "ấn tượng", nó gợi lại hình ảnh Saigon trước bảy lăm, lúc Saigon còn xứng danh Hòn ngọc Viễn đông thanh lịch, êm đềm với trai thanh gái tú, với bầu không khí nhẹ nhàng ít bụi bặm và không đinh tai nhức óc, bầu trời trở nên trong trẻo mềm dịu hơn, âu yếm con người hơn. Nếu chạy xuống Nguyễn Huệ xem đường hoa hãy còn đó, trai gái dập dìu, cha mẹ dẫn con tha thẩn chụp hình, tiếc cái hoa thì không ăn được. Đấy là hồi nẵm, vài năm sau này nhiều tiệm ăn mở luôn, giá cả gấp hai ba vì cũng phải trả cho nhân viên như vậy. Du khách không lo đói nữa.
Riêng "Nha Trang văn minh thân thiện" đã cho mình nếm "Tết đói" hai lần. Trước đó thì được ăn mệt nghỉ, nhà nào cũng cúng tất niên, hoặc tiệc công ty. Được kinh qua món dê luộc cuốn lá mơ tuyệt vời, kiến thức mở mang thêm chữ "hộp số" là "bộ đồ nghề" của anh dê đực, để riêng, kính cẩn hầm thuốc bắc. Một anh bạn Saigon ra chơi, được mời luôn, than thở Trời ơi tui ra đây nghỉ ngơi muốn ăn nhè nhẹ mà cứ ăn uống nặng nề như vầy tui thấy mệt quá. Nhưng nếu anh nấn ná thêm vài ngày Tết thì sẽ "nhẹ tênh" vì chẳng ai đoái hoài nữa. Lần này lại nghe nhà hàng bên kia đường hứa hẹn mở luôn một hơi không nghỉ, yên chí rồi làm sao đói được, thì bương bả chen chân chợ búa nấu nướng làm chi cho mệt, bởi mấy ngày này kinh quá, thiên hạ tất tưởi lên đồng, hớt hơ hớt hải mua mua sắm sắm. Nhưng trưa mồng một khăn gói ra đường "Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày", mới tá hoả thấy tiệm nào cũng đề mở cửa mồng bốn. Đoảng vị thật. Đầu năm bị hớ rồi, theo tục lệ ông bà là dám quanh năm hớ mãi. Bánh tét của khách sạn Yasaka thì mồng hai mới nấu. Tiệm phở khu du khách cũng đóng vì nhân viên phàn nàn không được về quê ăn Tết, và phải trả lương gấp hai ba nên số thu không đủ cho chi. Buồn tình, ngồi mơ màng nhìn ra biển, gió vẫn liu hiu nô đùa với hàng dừa lêu khêu, dửng dưng như trêu mình, ai bảo có bao tử làm chi. Nước vấp vào cát mời gọi. Nha Trang ngoài biển ra thì có cái gì nếu không tiệm ăn quán nhậu, và dù là nước biển Nha Trang đi nữa, cũng có nghe ai nói thay được thực phẩm bao giờ. Lúc đó mới thấm thía câu "Miếng ăn là miếng tồi tàn", nhưng người áp huyết thấp cần cái tồi tàn ấy biết bao nhiêu.
Kinh nghiệm. Đúng là "Hãy tự giúp mình" trước đã!
Xuân Sương
***
32
Tuổi Thơ
Tôn Nữ Thu Nga
Đời sống của ông nội tôi lúc tuổi già thật là an bình, khi ông chết, ông cũng giã từ cõi thế một cách êm ái. Mỗi buổi chiều, ông hay thẩn thơ ngoài vườn nhổ cỏ dại, bắt ốc sên, săn sóc mấy bụi hoa trang, hoa tỷ muội. Hôm ấy, ông làm vườn xong, trở về phòng, lọc một cốc cà phê, uống xong, ông đặt lưng trên tấm phản gụ, nhắm mắt nghỉ ngơi và sau đó ông không bao giờ thức dậy nữa.
Năm ấy, tôi mới mười hai tuổi, cư ngụ tại Nha Trang, "da đen như mọi". Cô tôi chê cháu vì ham tắm biển. Buổi trưa đi học mới về, nghe tin ông mất, trái tim tôi trĩu nặng. Thế là hết những lần ông vào Nha Trang thăm cháu, đến tận trường học đón tôi về, kiên nhẫn chờ cho cháu xong việc quét lớp. Biết tánh tôi láu cá, nhanh mồm miệng đỡ chân tay, lúc nào cũng chỉ ra các chỗ dơ cho bạn quét, ông cưng tôi lắm nên thường khen cháu: Con ni giỏi tài chỉ huy, thay vì chê tôi biếng nhác không chịu làm việc. Hết rồi những chiều hai ông cháu ngồi bên cửa sổ nhâm nhi cà phê, hóng gió biển, đàm luận truyện Tàu, không còn nắm tay hai chị em tôi đi dạo trên biển, mua đậu phọng luộc hoặc cà rem cho cháu. Trưa hôm ấy sau khi nghe tin ông mất, tôi bỏ học trèo lên cành cây chùm ruột chót vót tận trên cao, ngồi yên không cho ai thấy mình, chỗ trốn tránh quen thuộc của tôi mỗi khi tâm than bất ổn.
Tối hôm ấy, anh tài xế vừa tu chỉnh xong chiếc xe Dauphine màu hồ thủy của ba. Chúng tôi chồng chất lên xe bắt đầu cuộc hành trình vội vã. Trong sự đau buồn, mặt ba thật là nghiêm nghị nên đứa nào cũng im thin thít, kể cả Lương. Chú ta vừa mới bị té vỡ đầu chảy máu hôm qua vì sự nghịch ngợm của tôi, dù đau hắn cũng không dám nhỏng nhẻo nhè khóc nữa. Đầu Lương bị quấn một khúc vải trắng như khăn tang làm hôm nay mấy cụ hàng xóm lắm miệng xuýt xoa cho đó là điềm gở.
Bốn đứa con chua mùi mồ hôi, tóc khét nắng biển ngồi băng ghế sau, nép sát vào mẹ như một bay heo con. Mẹ tôi gầy như cây liễu, dang vòng tay ôm các con lẳng lặng nghe từng hơi thở khi chiếc xe ru bầy con vào giấc ngủ.
Trong đêm tối có khi xe bị chận xét giấy bởi mấy người "phe bên kia", sau này mẹ cho tôi biết, lúc ấy tôi chỉ nhớ những gương mặt đen sạm, xương xẩu, súng kẹp bên mình, ánh mắt tò mò ngó nhìn bầy trẻ trong xe và những bàn tay lật mấy mảnh giấy tờ hộ thân của đám người lớn. Ba hôm sau qua bao nhiêu gian khổ chúng tôi mới về đến Huế.
Chuyến về lại Nha Trang, ba sợ bị " phe bên kia" bắt vì tình hình trở nên biến động, ba cho chú tài đem xe về trước, cả nhà về bằng máy bay. Đó là chuyến hành trình cuối cùng về Huế của gia đình tôi.
Xe vừa qua khỏi chợ Cống, mấy người làng đã nhận ra ba tôi, gật đầu chào và tò mò nhìn chúng tôi chăm chú qua cửa xe hơi. Xe chạy chậm trên con đường gồ ghề, tránh trẻ con và các cô bán hàng mặc áo dài, gánh hàng hóa thoăn thoắt len lỏi trong những đường kiệt. Bọn trẻ con thật là tinh nghịch, có đứa trèo lên cảng xe đánh đu tòn ten làm anh tài xế phải thò đầu ra khỏi cửa và la lối ỏm tỏi. Có người hàng xóm đạp xe đạp bấm chuông lanh canh, nhanh nhẩu chạy trước mũi xe, hân hoan thông báo lớn tiếng cho những khuôn mặt tò mò:
-Ông Quận về thọ tang...
Người trong làng quen gọi ba tôi là ông quận vì có một thời gian ba tôi được bổ đi làm Quận Trưởng trên vùng cao nguyên và chúng tôi đã sống và tiếp xúc thật gần gũi với dân Ra Đê. Đối với người dan chân thật và mộc mạc, những công việc ba tôi làm có một tầm vóc lớn và đáng chiêm ngưỡng. Vì vậy ba tôi trở thành một ông quận bất diệt trong lòng thiên hạ. Anh ta lặp đi lặp lại câu nói này cho tất cả các người làng chúng tôi thấy trên con đường dẫn về nhà nội.
Theo lời mẹ dạy, khi đến nơi, chúng tôi vòng tay chào hỏi cả mấy chục người bà con chú bác, kẻ xoa đầu, người bẹo má làm tôi rất là khó chịu, lại phải vòng tay trả lời bao nhiêu là câu hỏi lăng nhăng... Cô tôi chê:
-Bọn ni noái tiếng trọ trẹ!
Lũ trẻ con hàng xóm bu ngoài cửa tò mò ngắm nghía bọn trẻ vừa đến từ Nha Trang, như những kẻ mới đến từ một hành tinh khác. Bác Ben, tuy được chúng tôi gọi bằng bác nhưng chỉ lớn hơn tôi vài tuổi, rủ rê:
-Đi hái ổi không?
Không chờ mẹ cho phép, tôi chạy theo bác, trốn ra vườn. Ổi nhà nội năm nay sai trái, mơn mởn treo trên những nhánh vừa tầm tay với, tôi ham hố bẻ trái nhét đầy hai túi. So sánh với khoảnh vườn nhỏ bé của ba tôi ở Nha Trang, vườn nhà nội như một thiên đàng hạ giới. Tôi quanh quẩn nhìn ngắm những cây thanh trà, cây mít lủng lẳng quả, sờ buồng chuối dài ngoằn chi chít trái. Tôi rong ruổi vẩn vơ trong thiên đường xanh của mình, thẫn toĩ ngồi dưới gốc cây nhãn, nhìn lũ kiến đỏ cần cù làm việc, bên tai tôi văng vẳng tiếng đàn sáo ai oán não nề. Nghe tiếng nhạc, tôi lững thững trở ra san trước. Mấy người nhạc công mặc bộ áo lương đen, đầu đội khăn đóng, còng lưng cù cưa kéo nhạc trên chiếc chiếu cạp điều. Trước quan tài ông nội, mấy người đàn bà lạ mặt vật vã than khóc inh ỏi. Thấy tôi, cô Khánh vẫy tay:
-Nì, mi tới kêu mấy mụ nớ xuống bếp ăn cơm trưa.
Tôi nhíu mày nhìn cô:
-Họ đang khóc than như rứa làm răng mà kêu đi ăn được chớ?
-Không răng mô, mi cứ kêu mấy mụ xuống ăn cho có sức mà khóc tiếp.
Tôi dùng dằng không muốn làm theo ý cô. Cô giậm chân:
-Con ni lì quá, răng tau sai mà mi không làm? Tau khỏ một cái chết!
Tôi nhăn nhó :
-Con kêu họ bằng chi?
Tôi muốn biết cách xưng hô cho đàng hoàng lịch sự để không làm mất lòng họ khi tôi cả gan cắt đứt nỗi thương tâm của họ đối với người quá cố.
-Con ni nhiều chuyện, hỏi chi lắm rứa, mấy mụ nớ trong làng, thấy nhà có đám ma, tới khóc lóc rứa cho có tình nghĩa chòm xóm, rồi để được mời ăn uống và ba mi cho tiền đó mà... Hiểu lời cô, tôi chạy lên hiên, khều nhẹ người đàn bà đang bù lu bù loa kể lể:
-Thím ơi, cô con mời xuống bếp ăn cơm.
Người đàn bà lấy cái khăn loang lổ sặc mùi dầu khuynh diệp, lau mặt, khều khều hai người bạn đồng nghiệp. Cả ba người nhanh nhẩu đứng lên, chợt họ lom khom xá lia lịa trước quan tài khi thấy ba tôi bước ra từ phía sau tấm trướng. Ba tôi cũng chắp hai tay xá lại mấy cái trả lễ.
Họ lui ra mép chiếu, quơ chân tìm guốc xỏ vô, le te băng qua sân đi vào bếp. Giờ này các nhạc công cũng đã ngưng chơi nhạc để xuống bếp ăn trưa. Tôi len lén đến bên chỗ họ gác nhạc khí, tò mò nhìn mấy cái đàn bầu, đàn nguyệt. Tôi khe khẽ lấy ngón tay lảy nhẹ trên sợi dây mong manh, lắng tai nghe tiếng nhạc cô độc rung lên, lòng bất chợt nghẹn ngào. Trong ánh sáng âm u của gian phòng chính, chiếc quan tài ông nội im lìm, những ngọn nến leo lét cháy, sáp chảy hai bên như những giọt lệ. Mùi sáp, mùi hương trầm thoang thoảng trong không gian, tôi hình dung gương mặt ông mơ màng sau làn khói thuốc, tiếng ông ngâm thơ nho nhỏ bên cạnh tôi ngày nào không xa lắm ...cánh hạc bay lên vút tận trời...trời đất từ đây xa cách mãi... ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi...Lấy tay quẹt những giọt nước mắt lả tả trên má, lần đau trong cuộc đời nhỏ bé của mình, tôi cảm thấy nỗi mất mát, nhìn xuống ngón tay mình trên sợi dây đàn, nghe âm thanh chìm trong tiếng ve ve mùa hạ. Tôi tiếc nuối cánh hạc vàng đã bay đi, nếm những giọt nước mắt mằn mặn trên môi và hiểu rằng từ nay, ông và tôi sẽ cách xa mãi mãi.
Bà nội tôi chết từ lâu, ông nội có thêm một bà hầu khác mà chúng tôi gọi là bà Dì. Bà Dì trẻ hơn ông nội nhiều tuổi, thích se sua chưng diện. Trong dòng họ ai cũng chịu đựng bà vì biết rằng ông nội vui lòng khi có bà bên cạnh. Bà như một cái bóng, không âm thầm lắm vì tôi hay nghe các cô, các bà trong họ nói hành nói xách bà Dì trong những ngày giỗ chạp. Những dịp này, họ tha hồ hội họp, bép xép trò chuyện những gì xảy ra trong dòng họ. Tôi thích lân la bên cạnh mẹ, bà vú già và các cô xem nấu nướng, làm bánh ít, bánh bột lọc, bánh nậm và bánh hoa hồng. Các bà vừa nấu ăn vừa chuyện trò rối rít. Tôi thường được giao nhiệm vụ hơ lá và bẻ hộp cho bánh su sê. Hơ lá có nghĩa là cầm tấm lá chuối tươi xé sẵn đúng khuôn khổ, hơ trên lửa tan âm ấm. Miếng lá chuối trở màu, mềm dịu để gói bánh cho khỏi rách. Cô Khánh dạy cho tôi cách làm hộp lá dừa cho bánh su sê.Tôi thích việc này vì hợp với tính tỉ mỉ và khéo tay của mình, hơn nữa, tôi hay được các cô xuýt xoa khen ngợi, mẹ tôi rất hãnh diện, bà thường mỉm cười nhìn tôi với ánh mắt thật đầm ấm. Bà Dì không có tài năng chi cả vì là con gái nhà quê, không được trau giồi nữ công như các mệ hoàng phái. Bà có tài đi chợ vì biết trả treo, mà cả với bạn hàng rất giỏi, không ngượng miệng. Thế mà miệng đời ác độc hay gièm pha rằng bà ăn bớt tiền chợ và giấu tiền bạc của ông nội để đem về Nam Phổ cho gia đình. Cô tôi chọc ghẹo : Con gái Nam Phổ ở lỗ trèo cau... dĩ nhiên là khi không có bà dì lảng vảng gần bên.
Cách đây sáu năm, tôi mới học xong mẫu giáo, về Huế nghỉ hè từ miền thượng du đất đỏ. Hàng ngày tôi lẽo đẽo theo bà Dì đi chợ, có khi hai bà cháu xuống Vân Dương để bà đi đòi nợ. Năm lần bảy lượt chưa chắc đã đòi được nợ nhưng bà vẫn cứ đi. Trên con đường đê nhỏ, tôi chạy nhảy tung tăng, lâu lâu trật chân té xuống ruộng giẫm bùn be bét, bà kéo tôi lên xem xét vỗ về. Tôi nắm tay bà hát nghêu ngao... Con gái Nam Phổ ở lỗ trèo cau... Bà giựt tay ra, giận dữ:
– Đứa mô dạy mi câu nớ ?
Ánh mắt bà quắt sáng long lanh, cặp chân mày nhỏ như sợi chỉ cau lại, mặt bà đỏ bừng rồi tái mét. Tôi sợ rúm cả người, biết bà giận nhưng không hiểu vì sao. Bà ray rức, căn vặn tôi làm tôi mếu máo khóc. Sợ tôi mách ông nội, bà thôi không hỏi nữa lặng im lủi thủi đi trong bóng hoàng hôn nhập nhòa, tôi nối gót bà, lếch thếch chạy theo. Lòng tôi hồi hộp sợ hãi, trên những con đường làng nho nhỏ, bóng tối bắt đầu lấn áp vạn vật, những thân tre xao xác, vươn cánh tay dài ngoằn trong gió. Bầy chim sáo về trong đám lá xôn xao rục rịch kêu lên những âm thanh thật buồn.
Từ đó, tôi không bao giờ nghêu ngao câu " Con gái Nam Phổ" nữa. Tuy nhiên tôi không bao giờ nghĩ rằng mình có lỗi gì với bà cả. Chung quanh tôi, bọn trẻ con trong xóm cởi truồng tồng ngồng, chúng nhảy xuống sông bơi như con nhái chẳng có gì là xấu hổ.
Sau bảy ngày tang lễ, linh cữu ông nội được đem chôn trên núi Ngự Bình, trong một miếng đất của dòng họ, bên cạnh ông cố và bà cố.
Đám tang ông nội rất vui, theo ý kiến non dại của tôi thuở ấy. Một đoàn người đông đảo cờ quạt, trướng liễn, vòng hoa cườm. Các cô tôi rải vàng bạc đầy đường, vừa rải vừa khóc mếu máo. Ba tôi là trưởng nam, mặc áo tang trắng te tua, cầm gậy đi ngược trước linh cữu, bọn tôi đứa nào cũng mặc áo mới ố các ông thợ may gọi như vậy khi chúng tôi vừa đến ố đeo khăn tang trắng. Ba mẹ và các cô, chú đội thêm một cái mũ đơn sơ may bằng vải thô sùm sụp. Các chắt chút chít gì đó thì đội mũ vàng. Đám rước có ca nhạc trống chiên inh ỏi, ba bà hôm nọ cũng đi theo, vật vã khóc than thê thiết, có vẻ hiếu thảo với ông nội hơn cả ba mẹ và cô chú tôi.
Trong dịp này, điều tôi nhớ hơn cả, là gánh bún bò của chị Ẩm. Tôi không thấy chị trong lúc đưa ma nhưng sau khi hạ huyệt thì tôi thấy chị ngồi múc bún cho khách ngay giữa những nấm mộ. Chị ngồi trên cái đòn gánh, bên phải chị là nồi nước bún đỏ rực ớt màu. Quanh nồi úp san sát những cái bát sành, nắm đũa, muỗng. Bên trái chị là một rổ bún trắng tươi, thêm một rổ rau răm, rau thơm và hành ngò thái nhỏ. Chị múc thoăn thoắt miệng hỏi lia: -Bác ăn chi cháu múc?
Người thì nói:
-Chị cho tui một bát không giò, nhiều thịt hỉ !
Kẻ đòi hỏi:
-Cho tui hai cái giò móng hỉ ?
-Bát tui không cay nghe.
-Răng chị ni cho ít bún rứa?
-Cho tui miếng chanh nghe!
-Chao ơi, trái ớt ni cay vô hậu!
Bây giờ tiếng sụt sùi, xuýt xoa, và những giọt lệ ứa trên mi không phải cho người quá cố nữa mà vì những tô bún bò nồng nàn của chị Ẩm. Trên nấm mộ mới, những người phu đắp mộ dùng những cái đầm đất dện ình ình cho đất nện cứng trên quan tài, vừa nện đất họ vừa hát những bài vè có vần có điệu. Trên thành mộ bà cố, ba tôi ngồi trầm ngâm, nét mặt không vui, không buồn. Tay ông cầm xấp tiền dày cộm chắc để phân phát cho các nhạc công, ba bà khóc mướn, và mấy anh phu hòm. Thấy tôi tần ngần đứng bên, ba hỏi:
-Con có đói không, tới ăn bún đi.
Bác Ben cười hì hì:
-Anh biết không, hắn ăn một bát như người lớn lại đòi hai cái giò.
Tôi trề môi:
-Đâu có sao, lần trước ông nội vô Nha Trang, ông dẫn cháu đi bún bò Bưu Điện, cho cháu ăn như rứa. Ông nói rằng cháu muốn ăn hai tô cũng được.
Nói xong, đột nhiên tôi òa lên khóc, có lẽ tôi chợt nhận thức rằng trong đời, không còn ai nuông chiều yêu thương tôi bằng ông nội cả. Ba tôi dang tay ôm tôi vào lòng vỗ về, tôi gục đầu thổn thức trong cánh tay ba, cảm thấy những giọt nước mắt nóng của ba cũng đang rơi trên tóc mình.
Tôn Nữ Thu Nga
***
31
Bông Hồng Phố Cổ
Bùi Kim Chi
Chút hương chiều bảng lảng. Xôn xao lá me gọi hồn con gái. Mây vội vàng đuổi nắng. Bàng bạc sắc lam pha hồng. Trời nhẹ tênh đưa mây xuống thấp. Đẹp. Một thoáng mà như có cả trời thu - thu phương nam. Con đường dễ thương của Sài Gòn đang níu bước chân tôi. Ngắn. Nhỏ. San sát vài ngôi nhà cổ. Mùi thơm gỗ quí như bừng dậy. Giật mình. Tôi bỗng nhớ...nhớ lắm. Nhớ Huế của ngày xưa với phố cổ Gia Hội, ở đó có những ngôi nhà rường nhỏ nhắn, thanh thoát đến lạ. Mỗi ngôi nhà mang một vẻ đẹp "thầm kín" riêng mà với tôi, đó là "hồn" của nhà cổ. Người Huế chính thống không ai là không biết con đường Gia Hội (sau được đổi thành Chi Lăng). Con đường chạy dài từ cầu Gia Hội về chợ Dinh, ngày xưa có các dinh thự, phủ phòng của các ông Hoàng, bà Chúa dòng dõi Hoàng tộc nhà Nguyễn. Ngoài ra còn có nhà của các quan lại , công chức , thương gia...Nói chung, đây là con đường cổ kính, đẹp của các gia đình "quí phái" một thời và đặc biệt, con đường có nhiều người đẹp mang dáng vẻ đằm thắm, dịu dàng, đài các, sang trọng của con gái phố cổ một thời - hồn của nhà cổ.
Ngày ấy, tôi là một "thiếu nhi" thích làm "thiếu nữ". Mười hai, mười ba, làm điệu. Mười bốn, mười lăm biết tìm ngắm người đẹp mà ngắm say sưa mới ghê. Tôi thích đạp xe lang thang qua các con đường có dấu ấn của người đẹp để biết " nơi chốn đi về" của họ. Con đường phố cổ Gia Hội, dập dìu tài tử, giai nhân là con đường tôi mê. Tôi đã từng ngẩn ngơ khi được ngắm một người đẹp phố Gia Hội vào buổi bình minh dưới sắc trời trắng bạc trong tà áo dài lụa trắng ngần. Chiếc nón lá đội lệch với quai nón nhung đen, yểu điệu ban trưa che nghiêng khoảng trời nhỏ khoác chiếc áo màu hỗ hoàng sang trọng. Người đẹp của tôi diệu kỳ làm sao. . Hoàng hôn, trời chiều man mác người đẹp Gia Hội lại lung linh, mờ mờ, ảo ảo gọi hồn. Tôi cứ mơ mơ màng màng như thế từ thời con nít. Bạn bè tôi rủa. Con nít ranh. Mà ranh thiệt. Nhìn, ngắm rồi tự mình nhận xét, bình luận với vài câu thơ ghi lại sau khi về nhà và sau tất cả là sự "ngưỡng mộ" vì phố Gia Hội có nhiều con gái đẹp quá. Đến tận bây giờ khi đã trở thành "thiếu nữ lớn tuổi" của Huế thì may mắn thay, hình ảnh đẹp của ngôi nhà rường, những gương mặt đẹp cùng dáng vẻ đài các, cao sang, thùy mị, e ấp của con gái phố cổ một thời vẫn còn nguyên vẹn trong tôi, thu hút cảm xúc của tôi. Ai đó, ở độ tuổi như tôi, 70 hoặc hơn thế nữa, 75, 80 và cũng có thể là 90 sẽ khó quên được những người đẹp ở giai đoạn của mình tại phố Gia Hội ngày xưa (90 không hiểu ai đó có còn nhớ đến một người đẹp phố cổ nào không hè !)...
Đây, phố Gia Hội. Con đường cổ kính có nhiều con gái đẹp ngày xưa. Trên con đường này có hai rạp xi nê nổi tiếng là Châu Tinh và Li Đô, một thời thu hút giới trẻ Huế với những loạt phim tình cảm lãng mạn Pháp. Sở thích của trai, gái Huế thời ấy là đi xem xi nê. Con gái thích đi ăn chè (chè ông Thân ở múi cầu Đông Ba), chè Cồn ( ở Vỹ Dạ đi về). Con trai thích đi uống cà phê (cà phê ở bến xe bus Đông Ba), cà phê Phấn, cà phê Lạc Sơn (phố Trần Hưng Đạo), cà phê Tôn, cà phê cô Dung (trong Thành Nội)... Đây là một sở thích rất dễ thương của thanh niên, thiếu nữ Huế ngày xưa. Bún bò mụ Rớt là tiệm bún có tiếng cũng nằm trên con đường này. Với tôi, đẹp nhất vẫn là những ngôi nhà rường còn lại của phố mà ngày nay không còn và người đẹp thì đi về đâu, nơi đâu theo dấu chân thời gian...
... Sông Đông Ba thấp thoáng những con đò nhỏ neo bến đậu làm cho cầu Gia Hội trở nên xinh và duyên hơn. Qua khỏi cầu nhìn sang bên trái ở góc đường Bạch Đằng - Chi Lăng (ngày xưa thật xưa , đường Chi Lăng tên là Hàng Đường), có tiệm Đồng Quí chuyên bán đồ Đồng. Trong ngôi nhà xưa này có người con gái đẹp. Da trắng, mắt đen, mũi thanh, miệng cười chúm chím, ăn nói từ tốn, nhỏ nhẹ. Gương mặt chị đẹp, tóc thề mượt đen để dài ngang lưng (có đôi lúc tóc của chị được tết thành hai con rít thả trước ngực) cùng dáng người nhỏ nhắn, xinh xinh của chị đã làm đắm say bao chàng trai Huế. Biệt danh "Trâm hàng Đồng" đã theo chị Trâm suốt thời con gái và cả đến bây giờ, khi nhắc đến chị mọi người đều gọi "Trâm hàng Đồng"... Đối diện với tiệm Đồng Quí là cây xăng của nhà bác Chỉnh. Con trai ghé bác đổ xăng cũng có mà ghé bác để nhìn trộm con gái của bác cũng có. Bởi chị Luân con gái bác Chỉnh đẹp . Gương mặt trái soan. Mắt đẹp, sáng long lanh như mắt nai. Tóc uốn lọn, dài, một nữa mái buông hờ trước ngực trông lạ và xinh tôn vẻ đẹp sắc sảo của chị Luân. Học sinh, sinh viên ở hội Quảng Tri bên kia bờ sông Đông Ba đường Hàng Bè (nay là Huỳnh Thúc Kháng) cứ thế mà chiêm ngưỡng vẻ đẹp của hai chị...
Chiều chiều, con đường phố cổ lại nhộn nhịp bước chân người, người buôn , kẻ bán, người dạo chơi nườm nượp. Đó đây, xuất hiện nhiều người đẹp qua lại trên đường. Xe đạp có, đi bộ có. Tất cả đều mang vẻ đẹp riêng của phố. Trong tà áo trắng, cổ kiềng, eo thon, chị Cẩm Thạch lặng lẽ xuất hiện bên cô em gái Cẩm Hoa. Chị Thạch đẹp, duyên dáng, dễ thương. Nét đẹp của chị mang vẻ thuần khiết, mềm mại với mái tóc uốn nhẹ qua vai. Thân hình cân đối, mảnh mai. Nhìn chị Cẩm Thạch thanh thoát quá. Bên kia đường nhiều anh đang ngắm chị. Hiền lành, đằm thắm, ẩn một chút kiêu sa của của con gái phố cổ thuở mới lớn. Con gái phố Gia Hội "sang" ghê. Ai nhìn mặc ai. "Giữa phố đông người. Lặng lẽ tôi". Chị Cẩm Thạch dưới mắt tôi thuở ấy là thế... Sáng sáng , khi sương mai còn đọng đầy trên những mái ngói rêu phong của phố cổ, con đường Gia hội như bừng dậy với những tà áo trắng tung bay - thiếu nữ phố cổ lao xao trên đường đi học. Gió sông Hương len qua những con hẻm nhỏ thổi hồn nước lên phố nhẹ nhàng, mênh mang. Nổi bật trong nhóm thiếu nữ này là nàng Lâm - Lâm thị Kim Cúc. Mình hạc, xương mai . Lâm Cúc đẹp với đôi mắt đen, da ngăm, miệng cười duyên thật duyên. Kim Cúc cao, thân hình cân đối, gương mặt ưa nhìn. Tóc đen tuyền, dài ngang eo - nét đẹp rất riêng của Kim Cúc. Phố Gia Hội đã làm cho vẻ đẹp của Cúc mặn mà hơn, duyên dáng hơn. Trước ngôi nhà 123, nhiều anh thấp thoáng ngắm để rồi phải hồi hộp thả thư bay, qua tay người khác để giúp mình "tỏ tình". "... Tôi mơ một nhân dáng, tôi khát một vòng tay... nhưng... mọi sự đều chạy trốn". Lãng mạn vô cùng. Trai Huế mà. Có điều trai Huế "nhát gái" so với con trai các miền khác ( nhận xét của riêng tôi ). Trên chiếc xe đạp đầm, guidon hình chữ U, tà áo trắng của nàng Cúc lượn bay mờ mờ trong gió chiều "Em ngang qua, gỗ đá cũng ngẩn ngơ - nhìn" . Ngày ấy, Lâm Kim Cúc có rất nhiều anh theo nhưng "em hiền thật hiền" vì "ba mạ em khó quá" (Con gái ra đường không được nói chuyện với con trai). Có hôm đi học, xe đạp bị hư, Cúc phải đi bộ .Thế là trên đường đi học về , có một anh đã âm thầm gửi xe của mình ở đâu đó, rồi thả bộ theo sau nàng đến tận nhà. Vừa đi vừa chiêm ngưỡng dáng hạc. Rồi bóng hồng "lặng lẽ vào nhà" và chàng "ngẩn ngơ rời gót".Đường về nhà em ngắn quá! . Kim Cúc là em gái của thầy Lâm Tài, người thầy khả kính của nhiều thế hệ học trò Huế...
"Biển xanh như người tình. Ta nằm cùng bãi cát. Thư em không gửi được. Đành xếp giấy làm thuyền". Đây là lời tự sự rất dễ thương của một anh con trai xứ Quảng ra trọ học ở Huế dành riêng cho một người đẹp phố Gia Hội. Xúc cảm. Tôi nghĩ, đoạn thơ hay trên của nhà thơ Phan Như đã nói hộ tâm trạng khắc khoải của anh ấy. Không quen làm sao mà gửi thư được hè, hơn nữa nàng là một người đẹp "kín cổng cao tường", nết na, đoan trang, thùy mị của ngôi nhà số 83, một gia đình công chức có tiếng nề nếp, gia phong. Thừa hưởng nét đẹp quí phái của mẹ, gương mặt và vóc dáng của chị đẹp. Mặt bầu bĩnh, da trắng hồng, mắt tròn, nhấp nhánh đôi hàng mi cong. Dịu dàng, hiền lành, e ấp, kín đáo sau chiếc nón bài thơ che nghiêng. Phan thị Tịnh đúng là mẫu gái Huế của phố cổ Gia Hội. Tịnh ít nói, đoan trang, thùy mị. Nhìn lành lạnh nhưng thật ra Tịnh khiêm tốn, dễ thương và đáng yêu. Bản tính nhút nhát thêm chút e lệ của Phan Thị , con trai cùng phố cũng như con trai Huế ít ai dám biểu lộ tình cảm với Tịnh, chỉ đứng xa xa - nhìn , không mở cửa được trái tim của Tịnh... Tuy là phố cổ nhưng mai Tết không nhiều và vườn nhà nào ở phố có mai là cả một khung trời "dát ngọc vàng mai". Mai đương thì con gái, mai lão vẫn là mai. Đẹp và quí. Thấp thoáng sau lão mai là một nàng Tôn Nữ đẹp xuất hồn, dáng quí phái, nền nả. Đôi mắt to, đen, ươn ướt như hai hạt nhãn với hàng mi cong, đôi mày như vẽ. Người đẹp Phương Hạnh đã làm cho một anh cùng phố và cả những anh khác phố của Huế phải bâng khuâng, chiều 30 Tết cứ lãng vãng trước ngõ.
Con trai Huế thích chị nhưng chỉ dám đi ngang nhà chị, đạp xe qua, đạp xe lại và bồi hồi " nhìn ". Trời cho chị gương mặt đẹp, nhất là đôi mắt hút hồn người. Đôi mắt biết nói, biết cười và chính đôi mắt này đã thay chị nói lên tất cả những buồn , vui con gái. Đài các trong chiếc áo dài Tết truyền thống Huế màu ngọc bích, chị Phương Hạnh là một Tôn Nữ khuê các trong khu vườn cổ Gia Hội và là một hoa khôi của Huế ngày xưa ấy. Đẹp nhất với tôi thuở ấy là hình ảnh của chị với chiếc áo lụa vàng mơ và chiếc nón quai nhung đội lệch vành. " Gió chiều vương áo nàng Tôn Nữ, quai lọng nghiêng vành chiếc nón thơ ". Xin mượn lời của thi sĩ Đông Hồ để tặng riêng chị Tôn Nữ Phương Hạnh, một thời con trai Huế " mê như điếu đỗ "... Nắng. Nóng. Hạ đã về trên phố. Phố Gia Hội không có cây xanh làm dáng ven đường tỏa cành lá che nắng che mưa cho con gái của phố, không có trăng xôn xao chen nhau qua kẻ lá xuống phố dạo chơi ; thế nhưng phố vẫn có nét duyên riêng làm nền cho người đẹp Gia Hội qua về trên đường dịu dàng gõ vào tim ai đó. Qua khỏi bến đò Cồn một đoạn, có ngôi nhà đẹp, trang nhã. Sáng mùa Hạ, hoa lá làm dáng nhảy múa quanh vườn. Bên vườn Hồng, chị Cao Thanh Tâm xinh thật xinh, thơ ngây trong chiếc áo đầm trắng tinh khôi dù chị đã vào tuổi 18. Gương mặt sáng, da trắng hồng, nụ cười hiền rạng rỡ trên đôi môi đỏ thắm, chị Tâm đang gọi gió Hạ về trong khu vườn nhỏ. Ngày ấy, từ ngôi nhà đối diện, tôi chỉ mượn dừng chân để được - ngắm chị. Nét đẹp vừa thanh , vừa duyên của chị đã thu hút tái tim của trai Huế một thời. Chị Thanh Tâm là con gái của thầy Cao Xuân Duẫn, người thầy hiền lành, có tâm, có đức được nhiều thế hệ học trò ĐK-QH trân quí. Các anh QH vẫn thường kháo nhau : " Con gái của thầy Duẫn đẹp ". Đẹp nhưng các anh không biết làm sao để tiếp cận con gái của thầy. Thư cũng không gửi được. Làm quen cũng chẳng dám. Có lẽ, chỉ có con trai không là học trò của thầy mới dám làm quen. Thế là, các anh Q.H chỉ biết âm thầm, lặng lẽ " nghễ con gái của thầy "...
Tôi như đang đứng ở đây với mùa Thu Huế đến muộn. Mây lang thang tỏa khói hương bay, nhả hương thu xuống ngôi nhà cổ số 3 đường Chi Lăng ngày xưa. Nơi đây, một thuở là ngôi nhà rường đẹp, cấu trúc hài hòa, trang nhã, đẹp mắt và nhất là... có người con gái đẹp. Đẹp lắm. Giữa hương thu, hương thơm của gỗ quí bàng bạc khắp gian nhà như phảng phất đâu đây ; hình ảnh thiếu nữ trong tà áo dài màu tím than nền nã của Lương Thúy Anh đang trở về với tôi, mời gọi tôi. Lương Thúy Anh một thời đã quyến rũ tôi, theo tôi cho đến tận bây giờ. Gương mặt trái soan, mắt đen tròn, trong veo, mũi dọc dừa, môi đỏ như tô son nổi bật trên làn da trắng nõn, mịn màng. Thúy Anh đẹp như thiên thần. Nét đẹp vừa thơ ngây, vừa mong manh của nàng thơ phố cổ đã thu hút con trai lẫn con gái Huế. Thuở mười bốn, mười lăm, gương mặt Thúy Anh đã hiện rõ nét thanh tú từ mắt, mũi, miệng với đầu tóc uốn ngắn. Thúy Anh nũng nịu như búp bê. Mười bảy, mười tám Lương Thúy Anh đầy đặn nét hoa với gương mặt, vóc dáng cùng mái tóc thề đen dài. Đẹp. Đằm thắm. Gợi cảm.
Trong lòng phố cổ, Thúy Anh là nàng thơ " để trần thế ngước mắt chiêm ngưỡng " và với riêng tôi, con gái Thành Nội, một thời rất ngưỡng mộ con gái phố cổ : " Nàng thơ ơi, em vẫn là em - hồn thiêng phố cổ "... Cuối thu, Huế cuộn hồn người với sương mai lãng đãng gợi không gian buồn. Rồi những giọt nắng yếu bất chợt xuất hiện đầu đông, phố Gia Hội có dịp khoe áo mới - vàng mơ pha lam. Đó đây, mùi thuốc Bắc thơm thơm dễ chịu thả hồn trong gió gọi người xưa trở về. Tiệm thuốc Bắc Thuận Thái Đường , nhà số 60 như đang ở trước mắt tôi. Duyên dáng, quyến rũ với hai lúm đồng tiền nho nhỏ rất duyên ở hai bên khóe miệng, Hồ thị Hảo con gái của bác chủ tiệm thuốc Bắc xinh quá. Tên là Hảo nhưng tôi vẫn thích gọi là người đẹp Hồ thị. Da trắng, má hồng, miệng cười rất tươi của gái Huế đương thì xuân sắc. Ngày hai buổi qua về trên phố, nàng để lại trên đường vô số mắt nhìn. Hảo xinh và rất duyên. Tôi mê nụ cười cùng dáng vẻ đằm thắm của Hảo trên chiếc xe P.C màu tím. Áo trắng, tóc dài tung bay điệu đàng chở gió muôn phương. Trai Huế, nhiều anh phải "long đong " theo nàng... Huế của tôi và của những người con Huế đi xa hay thương và nhớ về chốn cũ ; nơi xưa cũ đó có những người thân yêu, có ngôi vườn cũ, căn nhà xưa và có những người đẹp thoáng qua đời mình. Tôi nhớ phố Gia Hội , ở đó có cô bạn thân của tôi , cũng là một trong những người đẹp của phố. Phố còn nhiều người đẹp, trước tôi, thời của tôi và cả sau tôi nữa nhưng tiếc quá, tôi chưa từng được chiêm ngưỡng.
... Giật mình. Tiếng còi xe nhắc nhở. Tôi đang ở đây. Sài Gòn không phải Huế. Không là phố cổ Gia Hội ngày xưa. Ngập ngừng, bẽn lẽn tôi nhìn xuống đất. Bàng hoàng. Một thoáng... tàn giấc mơ hoa. Cậu em Sài Gòn tròn mắt nhìn với một khoảng lặng cảm thông người đàn bà đang lãng du trong chiếc bình gốm cổ.
Phố xưa ơi, một thời in bóng giai nhân...
Bùi Kim Chi
***
30
Nắng Ngọt
Trời đã sang chiều. Nắng thu vàng rực chiếu nghiêng vạt rừng sau nhà. Nắng nằm dài trên những vòm lá đan xen, ken dày. Nắng tung tăng, nhảy nhót trên từng chiếc lá tạo thành những đốm sáng muôn hình, vạn dạng buông lơi, rơi xuống mặt đất. Nắng mê mải trải rộng trên những vạt cỏ xanh, anh ánh sắc vàng quyến rũ. Nắng rủ hoa rừng tỏa hương thơm nồng nàn… tôi từ thành phố bụi bặm, bon chen, đông đúc về quê, được đằm mình vào cái nắng mùa thu vàng đến độ trong trẻo ấy, khẽ hé nhẹ miệng ra, để từng giọt nắng ngọt ngào ùa vào, bỗng dưng tâm hồn thư thái đến lạ lùng. Bao nhiêu mỏi mệt, ưu phiền tan biến đi.
Tôi yêu cái nắng mùa thu. Điều này thì mé tôi biết rõ lắm. Mé không tỏ ra vui, nhưng cũng không buồn. Có lần thấy tôi miên man thả ánh mắt vô định nhìn vào nơi nào đó trong nắng, chăm chú đến nỗi mé gọi mãi mới nghe tiếng… thấy thế, mé thở dài nhè nhẹ khẽ khàng bảo tôi:
- Con gái à, mày mơ mộng vừa thôi, không thì cũng không tốt đâu.
Tôi nhỏn nhẻn cười: - Mé à, có gì đâu, ai cũng có cái để mình yêu thích, đam mê mà.
Mé hiền hậu nhìn tôi, dịu dàng nhắc nhở: - Đừng có thích nhiều, yêu nhiều mà khổ. Phải biết điểm dừng những điều mình thích, những cái mình mê, con à. Cứ như cha mày thì…
Mé nói thế rồi chợt thở dài, tiếng thở dài đến nỗi như muốn lôi người ta trôi trượt vào khoảng không vô tận. Tiếng thở của mé, tôi nghe quen tai từ hồi còn là đứa bé ngồi lê la chơi đánh cọng cỏ gà, chơi lày cỏ…
Đã lâu lắm rồi, mé mới nhắc đến cha. Sự hiện diện của cha ở ngôi nhà này chỉ là cái hồn, cái bóng qua lời bà ngoại và mé thôi. Với tôi thì hình ảnh cha mỏng giống sương sớm, mờ như khói lam chiều. Mỗi lần nghe bà với mé nhắc tới cha là một lần tôi tăng thêm giận hờn vô cớ. Tôi âm thầm trách cha đã bỏ mé con tôi. Cha giống như con chim, bỏ tổ cũ rồi mải miết bay đi tới cánh rừng khác làm tổ mới…Nghĩ đến đấy thì cái bụng tôi nóng bỏng lên giống như có chảo mỡ đang sôi đổ vào. Tôi thầm ao ước, giá như pa Thái không phải là cha nuôi thì tốt biết mấy. Biết tôi nghĩ thế, bà và mé tôi buồn nhiều, vui ít.
Không biết từ bao giờ, trong nếp nghĩ của người dân Khuổi Lò, gia đình tôi chỉ có bà và hai mé con. Mà cũng không biết từ khi nào, những cái lưỡi mang ớt cay của người bản hay ngồi lê, đôi mách lại bỏ vào tai nhau nhiều lời có gai đến thế, họ thầm thì to nhỏ gọi ngôi nhà nhỏ nhoi mà ấm áp của tôi là "miếu ba cô". Họ không dám nói cho bà tôi biết vì có nhiều lý do lắm, chủ yếu là họ sợ và nể bà. Thế nhưng, với mé con tôi thì khác, họ nói thẳng nhà tôi là "ba đời đàn bà sống với nhau"... Tuy mé nhẫn nhịn không tỏ thái độ, nhưng tôi biết mé rất buồn, người ta nói cho sướng cái miệng để mé tôi đau.
Còn tôi, ấn tượng không hay về những lời nói độc ấy ngấm dần, ngấm dần vào từng mạch máu, thớ thịt, chạy rần rật trong người tôi, tạo nên nỗi sợ phải sống mãi ở nơi quê núi, sợ miệng lưỡi người bản. Nỗi sợ ấy ngấm ngầm vón cục, sưng tấy, đau nhức nhối... Vì thế, từ lúc còn thơ dại, tôi âm thầm nuôi ý nghĩ, sau này lớn lên, phải đi thật xa để không ai biết gia cảnh nhà tôi, để họ không mỉa mai, tọc mạch, nếu có thể thì tôi sẽ đưa mé rời xa nơi tôi sinh ra, lớn lên, mé và tôi sẽ sống thanh thản, nhẹ nhàng, không phải ngày này qua tháng khác, miệng cười mà mắt lại rơi nước mắt…
Tôi mang nếp nghĩ ấy nói với pa Thái. Pa hiền từ, nhè nhẹ lắc đầu nói với tôi, miệng lưỡi người đời hay nói thích khẩu, con bỏ qua cho họ đi, rồi sau này họ khắc hiểu mình thôi.
Khi tôi là đứa bé nhận biết những lời hay, lẽ phải của bà, của mé, được cắp sách đến lớp học chữ, thì cũng là thời điểm tôi nhận ra gia đình mình không có cha. Thế nhưng, nhiều khi tôi giật mình khi nhìn thấy chiếc nỏ cũ kỹ, vàng sậm bị bẻ gãy làm đôi, cùng với chiếc ống trạm trổ cầu kỳ hình chim muông, con thú đựng những mũi tên nhọn hoắt, treo trên chiếc cột chính ở gian giữa. Với người dân trong bản tôi, thì chiếc nỏ là tượng trưng cho sức mạnh của người đàn ông. Nhà nào có đàn ông thì mới có nỏ. Thế mà không hiểu đã bao lâu rồi, chiếc nỏ gãy làm hai nửa kia hiện diện ở nhà tôi như trêu chọc, thách thức. Tôi không thích chiếc nỏ ấy, và cũng không biết từ bao giờ, trong cái đầu tôi dày lên nếp nghĩ, tại chiếc nỏ không lành lặn kia nên cả đời mé âm thầm nuốt nước mắt ngược vào trong. Mà hình như cũng tại cái nỏ có hai cánh cong, hai nửa ấy, mà bà hay cằn nhằn, bực bội vô cớ với mé con tôi. Bà đối xử với mé có lúc cay nghiệt như là mẹ chồng khó tính, gia trưởng, đối với cô con dâu nhút nhát… Từ trong nhà tôi thấy thế, và người bản cũng nhìn thấy điều ấy. Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra và vì sao bà lại như vậy…
*
* *
Năm nào cũng thế, khi cái nắng bớt đi độ nóng, trong nắng có mùi ngòn ngọt của những quả hồng chín, có hương thơm hăng nồng của hạt dẻ đang tách cuống rụng xuống gốc cây, có vị thơm thảo của ổi rừng chín rộ… là mé lại kể chuyện cái ngày tôi được làm người.
Mỗi năm có một mùa thu, có một ngày mé kể chuyện thôi, ngày ấy là ngày đặc biệt của mé, của tôi. Câu chuyện của mé bao giờ cũng mở đầu bằng tiếng cười hiếm hoi, rồi mé nhẩn nha kể… giọng mé nhẹ nhàng như gió thoảng. Chuyện của mé có năm cũng bị phá vỡ bằng tiếng gọi giật giọng của bà ngoại, hay bất chợt có ai đó đến chơi, nhưng mỗi lần như thế, đứa trẻ con là tôi học được sự kiên nhẫn, chờ đợi…
…Mùa thu năm ấy, mé trở dạ sinh tôi.
Bà ngoại nóng ruột chạy ra, chạy vào, lên lên, xuống xuống cầu thang không biết bao nhiêu lần theo tiếng kêu rên của mé. Nồi nước lá thơm đặt trên bếp sôi xình xịch tỏa hương ngào ngạt. Lá thơm hái từ trong rừng, cho vào đun bảy loại lá thôi, còn hai loại lá nữa bà không cho vào. Nếu là con trai thì không phải cho thêm, con gái thì thả vào vẫn chưa muộn.
Theo tục truyền, trẻ con ở bản sinh ra phải được tắm lá rừng, mỗi loại lá tượng trưng cho một vía, để đứa trẻ lớn lên được thần rừng phù hộ, sáng cái đầu, mạnh cái chân, khỏe cái tay, bước đi vững chãi trên đá, cái mắt tinh, lưng thẳng… Trước khi cho vào nồi đun, chủ nhà phải dâng lá lên trên ban thờ để thổ thần, thổ địa, ông bà gia tiên chứng dám, nhận vía đứa trẻ.
Mé đau bụng từ lúc bầy gà gáy gọi sáng, đến giữa trưa, mặt trời tỏa nắng vàng rộm như mật ong thì tôi cất tiếng khóc làm người.
Bà đỡ cười rổn rảng, nói vọng từ trong "bưng" ra là con gái. Bà ngoại vội vàng cho thêm hai lá vía vào nồi, rồi từ tốn múc nước thơm vào cái thau đồng sáng choang để lau mặt cho tôi. Bà ngoại không vui khi nhìn thấy sinh linh bé bỏng là con gái, bà thở dài lẩm bẩm: "Cháu gái à, cháu nào cũng tốt thôi, nhưng lẽ ra phải là con trai mới đúng…"
Lời nói bà chưa dứt thì trời bỗng đột ngột tối sầm, mang theo cơn giông vần vũ, rồi mưa như trút nước xuống, gió ào ào, giật quả hồng chín rơi xuống gốc cây lộp độp…
Mưa trắng trời, trắng đất một hồi rồi ngưng dần. Mặt trời nấp ở đâu đó giờ chạy ra tỏa nắng. Nắng lúc này không vàng nữa mà mang màu hồng phớt nhẹ nhàng, dọi vào tán cây, chiếu xuống mặt đất những sắc hồng lấp lánh giống như tấm gương phản chiếu lung linh. Mé từ trong bưng nhìn xuống, nghĩ ra cái tên hợp với cảnh người, mé đặt tôi là Son.
Tôi không được như những đứa trẻ con của các gia đình trong bản chào đời phải mang núm nhau, cuống rốn chôn dưới mái gianh nhà cho mát mẻ, dễ nuôi. Bà ngoại khăng khăng, nhất mực cho rằng nếu tôi là con trai mới được chôn núm nhau dưới giọt gianh, còn tôi là con gái phải chôn ra ngoài vườn… Bà ngoại nói thế thì mé tôi phải nghe theo. Bà ngoại không làm theo lệ bản, vì thế mé tôi buồn lo, mé sợ sẽ có chuyện không may xảy ra với tôi, ở bản này không ai như thế…
Mé lo lắng nhưng không biết làm thế nào, ở cái nhà này, bà tôi là người quyết định từ việc nhỏ đến việc lớn, không được làm trái ý. Cũng vì bà ngoại độc đoán nên mé tôi cực khổ muôn bề, tình yêu của mé không trọn vẹn, mé phải lấy cha tôi theo sự chọn lựa của bà…
*
* *
Nắng thu từ mùa này vắt dài sang mùa khác. Chuyện của mé tôi dày lên theo gió thổi, sương giăng.
…Còn hai tuần nữa là mé tôi kết thúc bốn năm học Khoa Kinh tế, Trường đại học Nông – Lâm. Mé muốn níu thời gian chậm lại mà không thể, ngày chia tay pa Thái chỉ còn đếm bằng giờ nữa thôi.
Trời vằng vặc ánh sao đêm. Những ngôi sao bé tí teo treo lơ lửng từ trên cao nhìn xuống vườn cây rợn ngợp, rộng thênh. Sao chi chít, vô số như mời mọc, như vẫy gọi. Mé tựa vào bờ vai rắn rỏi của người yêu, cố nén nhịp thở dài… trong không gian yên tĩnh, tiếng thở của mé không dấu nổi người đàn ông tinh tế. Người ấy nhẹ vuốt mái tóc bồng bềnh của mé:
- Bời ơi, anh về quê em công tác.
Mé tưởng như ngàn vạn những ngôi sao đang mỉm cười… xoay ngang người, mé nhỏ nhẹ:
- Anh à, nhiều nơi nhận anh vào làm việc, chặng đường phía trước dài đấy, anh đừng bỏ đường rộng mà đi vào ngõ hẹp ! – Bỗng nhiên mé lúng búng: - Em…em không muốn tại em…
- Có gì đâu em, ở đâu cũng là làm việc mà, trên quê núi cần những người như chúng mình. Chỉ cần có tình yêu và nhiệt huyết đúng không em? – Tiếng cười rộn ràng bỗng lan xa…
Tai mé bỗng ù đi, miệng mé mấp máy, không cất nổi thành lời. Trong bụng mé vui nhiều, nhiều lắm, nhưng nếu pa Thái quyết chí về vùng cao công tác thì… mé biết nói sao đây? người ta học giỏi… lúc ấy, môi mé hé ra mà không cất nổi thành lời.
Người đàn ông thông minh, nhạy cảm ấy, mạnh mẽ nhấc bổng mé lên xoay mấy vòng…nhẹ nhàng ôm xiết lấy tấm lưng ong mềm mại, đôi môi mềm mạnh mẽ mơn man, bồng bềnh… ngàn vạn những vì sao chập chờn, chao đảo xoay tròn, xoay mãi trong thinh không, tạo thành cánh buồm chở hai người vào miền sao mai hoan ca…
Chuyện tình cảm ấy mé không nói nhiều, mé kể thế nào thì tôi biết đến thế. Tôi không dám hỏi vì tôi không muốn cứa cắt thêm vào vết thương vẫn rỉ máu của mé. Song, chắp vá những mẩu chuyện không đầu, không cuối ấy, tôi biết mé phải chọn lựa giữa chữ tình và chữ hiếu, để làm vợ cha tôi theo ý bà ngoại…
Bản Bung của cha ở mãi bên kia núi Phja Dén, ông bà nội có chín người con, cha là con trai thứ sáu nhưng sáng dạ, vì thế ông nội đã truyền nghề làm thuốc cho cha. Cha không những giỏi nghề bốc thuốc, mà còn thích bắn nỏ.
Đối với đàn ông ở trên núi, những người biết giương cung, bắn nỏ là người hoàn hảo, là cây cao vững chãi để tỏa bóng râm cho người đàn bà núp bóng. Sức khỏe của họ được đo bằng chiếc nỏ to hay bé, nặng hay nhẹ…
Từ lúc là người trai mới lớn, cha đã biết lấy gỗ vàng tâm làm nỏ. Cái nỏ gãy hai nửa treo trên cột kia là của cha. Cánh nỏ được làm từ gốc tre đực cho dai, cho chắc. Dây nỏ xoắn bằng ruột mèo rừng, còn nẫy nỏ thì bằng sừng con trâu đen bóng… Tiếng tăm về cha giỏi săn bắn, hay nghề thuốc lan khắp gần xa...
Năm ấy, bà ngoại tôi không may bị cảm hàn. Mé tôi đi học vắng nhà. Người bản mời cha tôi về chữa bệnh cho bà. Cha tôi lăn lóc bên bà gần chục ngày, hái đủ loại lá thuốc trên rừng đun để bà uống, nấu cháo, chăm sóc bà. Cho đến ngày bà khỏi bệnh, cũng là lúc bà ưng cha tôi lắm. Bà hứa gả cô con gái có mái tóc dài chấm gót, đôi mắt đen như hạt mần tang già, cái má lúc nào cũng giống hai quả táo chín đỏ… làm vợ cha. Với cha như thế là mãn nguyện, Cha đã lấy được người con gái tốt nết, đẹp người nhất vùng núi Phja Dén. Khi mé về huyện nhận công tác, thì cũng là lúc bà ngoại nhờ bà mối sang nhà trai đánh tiếng xin cưới rể.
Cha tôi không phải là con rể bình thường, mà là "rể đứt", nghĩa là cha lấy mé tôi thì phải bán họ cho tổ tông nhà vợ. Những đứa con của cha, mé sinh ra sẽ mang họ của mé.
Mấy đêm liền mé quì gối, khóc như mưa, như gió, xin bà buông tha cho mé, để mé được tự chọn người mé nương tựa suốt đời. Pa Thái cũng không ngại ngần nói với bà rằng, mé với pa đã tìm hiểu, gắn bó, yêu thương bốn năm trời, xin bà với tấm lòng bao dung, độ lượng cho phép pa về làm con rể trong nhà…
Bà ngoại không mảy may động lòng, mà còn thề độc trước bàn thờ:
"Hỡi ông, bà linh thiêng về đây chứng dám, con xin vái ba vái, con xin lạy ba lạy. Con không gả đứa con gái về làm vợ người trai không phải dòng tộc trên núi. Nếu nó theo nhau, con không có đứa con gái này, ngày nó bước chân đi là ngày con theo ông bà xuống dưới suối vàng hầu hạ để chuộc nỗi lầm của đứa con bất hiếu…"
Mé vốn là đứa con hiền thục, suốt đời nhất nhất nghe theo sự sắp đặt của bà ngoại. Bà nói thế mé sợ lắm. Mé nuốt nước mắt, cắn răng nhẫn nhục…
Ngày cưới mé, bà ngoại lấy rể về nhà nên làm cỗ to lắm. Bà thịt một bò, ba lợn mời cả bản đến chia vui, ăn cỗ hai ngày ba đêm. Mọi người cười, nói hả hê, ăn uống tưng bừng. Họ không biết cô dâu tấm tức khóc trong rừng vầu cùng người yêu, cô không về mời nước, mời trầu người già trong bản…Đám cưới ấy không có dâu, chỉ có một mình chú rể thôi.
Đêm hun hút, sâu thẳm. Trong "bưng" mé tôi ngồi bó gối tựa vào vách gỗ. Mé nói với cha là đã có người yêu rồi, cha buông tha cho mé đi, mé xin cha đừng động đến người mé nữa… Mé nói từ chập tối, đến lúc gà rừng gáy gọi sáng, cổ họng khản đặc không thành tiếng. Lúc ấy, cha mới cất tiếng nói khô khốc:
- Mé con cô lừa tôi!
Mé nói trong nước mắt, hụt hẫng: - Anh Kình à, suốt đời này tôi làm trâu, làm ngựa phục vụ cho anh, nhưng tôi không lừa anh, tôi đã nói với anh, tôi có người trai để mắt mà anh không nghe…
Cha vùng dậy, chạy sầm sập ra chiếc phản gỗ giữa nhà, chỗ bà ngoại vừa nhổm dậy, bực tức vớ lấy cái nỏ, hằm hằm dùng sức vóc của người đàn ông cơ bắp, bẻ gãy làm đôi, vứt xuống trước mặt bà ngoại, trợn mắt, bực bội:
- Bà ích kỷ lo mất con gái, không muốn mất của. Bà phải gánh chịu. Tôi đi!
Bà ngoại thất thần, chạy vào trong "bưng" quấn mớ tóc dài đang xõa xượi của mé vào tay, lôi mé ra xềnh xệch, tru tréo: - Mày làm gì? làm gì để thằng rể quí nó bỏ đi, mày chạy theo lôi nó về, lôi nó về đây…
Mé tôi đứng chôn chân trước cầu thang, môi mím chặt, bợt bạt.
*
* *
Đêm cuối thu. Bóng tối bưng kín mắt, rờn rợn lạnh. Tiếng sương tụ lại thành giọt, rơi vào tán lá lộp độp, lặp đi, lặp lại, giống như có ai đó nhúng tay vào chậu nước, rồi nhỏ từng giọt rơi xuống để cho thời gian chạy đi.
Tôi giật mình tỉnh giấc, kéo chăn trùm kín cổ. Ô! Từ chỗ bếp vuông đang đỏ lửa, tiếng bà với mé lúc khoan nhặt, khi gay gắt, lẫn trong đó là tiếng nấc nghèn nghẹn… Tôi nằm im thít, mắt căng tròn, tai giỏng lên hóng xem bà với mé đang nói chuyện gì mà khuya thế này vẫn chưa muốn rời cái bếp để đi ngủ…
- Bời à, tao biết nhiều năm qua rồi, cái đầu mày, bụng mày vẫn nhớ thương thằng Thái, có cái miệng chưa nói đã cười, từ trường đại học theo mày lên trên núi. Mày trách mé nhiều mà!- Tiếng bà hỏi trì triết như người ta miết tay vào đá.
Im lặng và trống trải. Câu nói của bà ngoại rơi vào khoảng không tĩnh lặng.
Tiếng nấc vẫn không ngừng thổn thức. Trời lạnh mà tôi thấy ngộp thở nhưng phải cố nằm im thít, không dám cựa quậy. Tôi biết, nếu bây giờ dại dột gây ra tiếng động thì tôi phá tan khoảnh khắc quí giá, tôi sẽ không biết được những điều bí mật của bà, của mé dấu kín trong bụng gần hai mươi năm nay.
Dường như bà không muốn cho mé được yên, bà nói nhanh, gióng giả: - Sao thế? Tao nói không đúng à? Có gì oan ức thì mày cứ nói ra, giữ mãi trong bụng thì giống như cái ung nhọt thôi, mày tự làm khổ mày. Đàn bà cắm sào sâu khó nhổ…
Tiếng mé tôi nghẹn lại, ấm ức: - Không có gì đâu mé, chuyện đã qua thì cho qua đi, con không muốn nhắc đến, con xin mé để cho con yên. Mé đừng làm con khổ thêm nữa…Dù sao con Son cũng có pa nó lo…
Bà tôi bỗng đứng bật dậy, nghiến răng trèo trẹo:
- Á, à, con này giỏi nhỉ, tao nuôi mày có ăn, có học hơn người, chẳng gì thì bây giờ mày cũng có chức sắc rồi đấy, ở cái xã này có được đứa nào sướng như mày không? Thế tao hỏi, mày khổ ở cái nỗi gì, khổ là tao không cho mày lấy cái thằng người kinh xấu xa phải không?- Bà túm lấy vai mé giật mạnh, tru tréo: - Mày nói đi, mày nói đi… có phải mày dại dột nghe nó xui xấu, hay muốn làm đẹp mặt cái thằng ấy mà bắt cháu tao gọi nó bằng pa?
Mé tôi phản ứng: - Anh ấy không xấu, anh ấy là người tốt, nếu không tốt thì bây giờ anh ấy không làm chủ tịch huyện. Còn chuyện bao nhiêu năm nay anh ấy chăm nom, săn sóc con Son có gì là không tốt? Anh ấy có quyền làm thế.
- Con này mê muội quá rồi, chả trách thằng Kình nó bỏ mày đi với đứa khác. Ôi trời! Đàn bà con gái dại thì lắm nước mắt, thằng đàn ông, con trai nó giống như con hổ ấy, quệt vào chiếc lá rồi quên ngay. Nó ăn no, nó bỏ tro, bỏ trấu vào đầy mà không biết xấu hổ. Ay dá! Tao không cho con Son gọi thằng ấy là pa. Tao cấm, tao cấm!
Lúc này, mé tôi đứng bật dậy, bỏ chiếc áo len đang đan giở xuống, hai tay ôm mặt, nức nở:
- Mé! Mé muốn nói con thế nào cũng được, nhưng mé để cho con gái con yên thân… nó không có tội! Mé không có quyền cấm nó, anh ấy là…là…pa nó.
Bà ngoại dậm chân xuống sàn nhà bành bạch, bà chỉ thẳng tay vào mặt mé, rít lên: - Ây dá! Con kia, bây giờ mày dám cả gan bảo thằng Thái là pa nó hả? Thằng Kình nó còn sống sờ sờ ra đấy, rồi nó sẽ đưa vợ, con nó về gặp tao đấy. Nó không phải là "rể đứt" nữa, nó là con trai tao! – Bà ngừng lại như để lấy hơi, rồi nghiến răng, bảo: - Thì ra, mày vẫn tơ tưởng đến thằng trai ấy. Tao còn sống thì nó đừng có bước chân vào nhà tao, nghe chưa?
Bà ngoại vẫn không ngừng kể lể hết chuyện nọ, đến chuyện kia, tiếng bà sắc lạnh như có bột sắt rắc vào, như là tiếng đá lăn, nước chảy ào ào, xối xiết…
Những cơn gió hun hút luồn sâu vào trong nhà mang theo cái lạnh. Ngọn lửa trong bếp chợt bùng lên, nghiêng ngả liếm chân kiềng. Tự nhiên mắt tôi cay xè, chảy nước. Trong bụng tôi dâng lên sự hờn tủi, mặc cảm, chống chếnh, người tôi mềm nhũn, chất chứa nỗi buồn… hai bờ vai chợt rung bần bật, tôi vùi mặt vào gối cố giấu tiếng nấc.
Tôi không biết vì sao bà ngoại lại ghét pa Thái. Đối với tôi thì pa Thái giống như cha đẻ. Những năm còn học trong trường nội trú của huyện, mỗi khi tôi buồn bực hay mỏi mệt, thì pa Thái chính là người an ủi. Những lời pa Thái nói làm mất đi cái buồn, gọi cái vui về với tôi. Ở bên pa Thái, tôi thấy thật ấm áp. Bây giờ, tôi đã đi làm ở dưới thành phố, mỗi khi có chuyện phải nghĩ, có việc không vui, có điều trái ý, tôi lại gọi điện thoại hỏi pa. Chỉ cần nghe tiếng pa thôi là bao nhiêu ưu tư, phiền muộn theo gió bay biến đi.
Mé tôi bỗng thôi khóc. Tự nhiên mé bật cười, tiếng cười gắng gượng được bung ra sau sự dồn nén, uất ức, nhưng mới mẻ, trong vắt, giòn tan…
Mé nhìn bà ngoại, nói quả quyết:
- Mé à, con biết làm những việc cần phải làm. Dù mé đồng ý hay không thì con vẫn muốn nói, con Son cần phải biết cha đẻ của nó.
Nói thế rồi mé tôi với tay, gỡ chiếc nỏ gãy cùng hộp đựng mũi tên treo trên cột xuống, quày quả bước nhanh, lấy chiếc xe máy dưới gầm cầu thang, nổ máy, từ từ chạy xuôi xuống phố huyện, phá tan màn đêm ăm ắp tiếng côn trùng.
Bà ngoại ngồi lặng, đầu bà cúi xuống, tấm lưng gầy nhô cao. Không gian căng cứng, rồi chùng xuống theo nhịp thở dốc của bà… trong đêm tiếng thở của bà não nề, lẫn trong tiếng kêu: Phạ ới!
*
* *
Trời rạng sáng. Phía sau dãy núi Phja Dén tỏa ra những tia sáng màu hồng hình nan quạt quấn quyện cùng sương sớm mỏng mảnh, la đà, rập rờn chạy theo gió, sà xuống bản, quẩn vào bước chân người…
Mé từ dưới phố huyện về nhà, chiếc xe máy ướt át, người mé cũng ướt dượt sương đêm. Tấm lưng ong thon thả, mềm mại theo nhịp bước. Mái tóc mây búi cao lộ ra chiếc gáy trắng ngần. Đã sang tuổi bốn mươi mà mé còn đẹp lắm. Vẻ đẹp tròn trịa, đằm thắm và quyến rũ của người đàn bà công chức phố huyện. Mé dịu dàng gọi tôi:
- Son à, xuống đây đi con, có chuyện này mé muốn con hiểu.
Bà ngoại nghe tiếng mé gọi tôi, ngước đôi mắt mệt mỏi nhìn mãi về phía mé thở dài. Cái nhìn của bà không lạnh lùng như những ngày trước, nó có hơi ấm của lửa bếp, của nắng sớm.
Tôi luýnh quýnh nhón bước xuống cầu thang. Mé cầm tay tôi, đi trên con đường đá, giữa những triền núi rực rỡ hoa Bjooc miẻn. Kìa! Tôi không tin nổi, mắt tôi vấp phải dáng người đàn ông khoan thai, chững chạc rất quen thuộc, đang đi xuôi mặt trời, hướng về phía tôi và mé… trôi giữa nắng ban mai tinh khiết, đằm đượm hương vị ngọt ngào của núi rừng cuối thu.
Bùi Thị Như Lan
***
29
Ngõ Hẻm Tận Cùng
Có tiếng đổ rầm của vật nặng rồi tiếng rên rỉ. Chị đoán là một con chó. Cái góc cống nằm tận cùng con hẻm bẩn thỉu và lắt léo này thường tiếp đón những con chó ốm hoặc bị đánh vì ăn vụng vào những buổi khuya khoắt. Kệ, chị cố nhắm mắt. Đêm đông Sài Gòn không rét nhưng vẫn đủ giá lạnh cho người đàn bà cô độc đang tuổi hồi xuân. Đôi mắt vẫn mở chong chong vì cơ mắt chẳng co kéo được hàng mi dày đã bị biến dạng hai mươi năm nay. Hai mươi năm, chị chưa một lần dám nhìn lại khuôn mặt mình. Chị nhớ trước đó, chị đẹp lắm, đẹp mê hồn và lãng đãng...Hai mươi năm, chị chỉ bước ra ngoài khi trời xâm xẩm tối, khi đã trùm kín mặt mày .
Tiếng rên to hơn, như khắc khoải cầu xin, chị nhận ra tiếng người...Khiếp quá! Chị co rúm lại trong chiếc chăn dày, lần này thì nghe rõ: "Hừ hừ...đau quá...cứu tôi, đau quá...”. Chị bật dậy hé cửa và giật bắn mình: Một người đàn ông đang quằn quại, máu loang bê bết trên đầu, cổ, ngực...
- Làm sao thế này ? - Chị run rẩy hỏi và toan đóng cửa lại.
- Cô ơi, hãy làm ơn...tôi chết mất...- Người đàn ông lết tới và túm được đầu gối chị. Chị sợ run bần bật. Chung quanh vắng lặng và tối tăm, lâu lắm rồi chả có ai mò vào tận cuối con hẻm nơi có góc cống bẩn thỉu và căn phòng dột nát của người đàn bà ẩn dật. Bàn tay càng bíu chặt, hình như người đàn ông bật khóc. Chị sẵng giọng:
- Buông chân tôi ra!
- Tôi không hại gì cô đâu, tôi sắp chết rồi, mong cô làm phước cứu giúp một con người... - Giọng gã đứt quãng và yếu dần. Chị bối rối. Chưa ai "làm phước" cho chị và chị cũng chưa từng "làm phước" cho ai. Cuộc đời chị đong đầy bội bạc. Nhưng giờ chị có thể mặc gã đấy và đóng cửa ngủ lại được không nhỉ? Chị mở cửa, bảo:
- Thôi được. Vào đi.
Người đàn ông ráng sức gượng dậy nhưng lại ngã vật ra, gã thì thào:
- Cô ơi, tôi...không nhìn thấy gì, tôi... mệt quá...
Chị nhìn gã: Từ hai hốc mắt, máu vẫn đang ri rỉ, khiếp thật! Chị gắng sức giúp hắn bò vào căn phòng của chị. Gã còn cẩn thận quờ tay đóng ngay cánh cửa lại. Chị lấy khăn mặt, vắt nước lạnh rồi chấm qua khuôn mặt loang lổ máu me. Gã rú lên khi khăn chạm vào những vết thương. Ánh đèn soi rõ dần: một người đàn ông khoảng hơn ba mươi tuổi, lực lưỡng, dữ tướng, tóc húi cua, râu ria lởm chởm, xăm trổ khắp người. Chị giã mấy viên thuốc kháng sinh trong cái lọ vẫn để dành dưới gối, rắc lên vết thương của gã. Gã nhét cái khăn vào miệng để dằn những tiếng kêu đau đớn. Chị đặt nồi nước lên bếp, thả nắm gạo vào. Bát tép định để sáng mai ăn, chị đổ vào luôn. Cháo chín. Gã gục đầu vào bát cháo, húp một hơi. Hai bát, ba bát, bốn bát...Nồi cháo cạn. Gã nằm vật ra. Khi chị rửa xong nồi niêu thì thấy gã đã ngáy rung cả góc nhà. Khe khẽ nằm xuống chiếc giường ọp ẹp cạnh cửa, chị trở mình mãi rồi mới thiếp đi...
Những tia nắng chả bao giờ phân biệt biệt thự hay góc cống, nơi nào chúng cũng len vào lúc sớm mai. Chị choàng dậy, nhìn về phía góc nhà. Gã vẫn nằm nguyên. Chị bỗng lo lắng: Gã còn sống chứ? Chị chạy lại chỗ gã. Bất động. Chị đặt tay lên ngực gã: tim vẫn đập.
- Tôi vẫn còn sống cô à nhưng tôi không thấy gì hết.
Chị giật mình nghe giọng nói phát ra từ khuôn mặt đã sưng phù của gã, chị hỏi:
- Thanh toán nhau à?
- Ừm...Tôi ẩu một chút nên thua.
- Người ta thuê hả?
- Chứ tôi có cái mẹ gì để người ta thịt chứ!
- Giờ mà thò đầu ra là kể như xong hẳn!
- Đúng vậy. Cô làm ơn cho chót cô nhé.
Chị quan sát các vết thương của gã, đôi chỗ bắt đầu mưng mủ, hai mắt nề phù. Chị bảo:
- Nhưng vết thương nặng lắm, không đi bệnh viện rồi cũng toi.
Gã chồm lên:
- Không được, không được! Nếu vậy thì thà cô bỏ tôi chết từ hôm qua hoặc bây giờ cho tôi liều thuốc chuột. Tôi không thể ra bệnh viện, không thể!
- Sợ bị tóm hơn chết à?
- Sợ cả hai...
Gã bỗng khóc nấc lên, chị thấy bần thần cả người. Kể cũng tội, nếu mình là gã, có lẽ cũng sợ vậy. Chị lúi húi nhóm bếp chuẩn bị cơm. Khi bưng lên tô cơm và tô canh nóng hổi, chị hoảng hồn thấy gã đang run bần bật, toàn thân nóng rẫy... Chị cuống quýt gọi nhưng gã cứ mê man ú ớ không còn biết gì... Chị vội trùm chiếc khăn quen thuộc, đeo cặp kính đen che kín mặt, lao ra đường. Bây giờ tìm ai đây? Chị bối rối. Chị chưa bao giờ dám vào một phòng mạch tư nhân nào, nơi y tế công cộng thì lại không thể...nhưng bây giờ...gã ấy sắp chết? Làm sao đây? Chị không nghĩ ra gì thêm được nữa thì chợt trông thấy trên một cánh cửa cũ kỹ trong hẻm nhỏ bên đường có treo tấm biển xộc xệch đề "Bác sĩ Thắng". Vừa mừng vừa lo, chị liều đẩy mạnh cánh cửa... Một căn phòng tồi tàn chẳng có gì ngoài cái bàn và tủ thuốc nghèo nàn. Một ông già đang ngủ gật. Chị lên tiếng:
- Bác là bác sĩ Thắng?
- Đúng tôi đây - Ông già vội mở mắt, cười niềm nở - Cô bệnh gì?
- Không phải tôi - Chị lúng túng - Người nhà tôi ốm nặng, mời bác sĩ đến khám giúp...
Ông bác sĩ nhìn chị e dè, có lẽ ông hơi ngạc nhiên bởi bộ dạng trùm kín mít của chị. Chị nói, chưa bao giờ mạch lạc và quả quyết như thế :
- Bác sĩ hãy làm ơn giúp gia đình tôi, khó khăn thế nào tôi cũng xin chịu cả !
Ông bác sĩ ngẩn ra một chút rồi gật đầu, xếp vài dụng cụ cần thiết vào cái túi vải có gắn hình chữ thập rồi dắt xe máy ra cổng, bảo chị ngồi sau chỉ đường.
- Tình hình khá nặng, bệnh nhân này để ở nhà tôi không bảo đảm đâu!
Ông lắc đầu sau khi xem xét vết thương của gã. Chị nói nhỏ :
- Nhưng anh ta không thể đến bệnh viện được.
- Tội phạm à ? - Bác sĩ do dự - Tôi ngại quá, chắc cô tìm người khác vậy nhé...
Chị đứng chặn cửa, hai tay chống nạnh, chị nói nhỏ nhưng giọng đanh lạnh :
- Chúng tôi đã đến bước đường cùng, xin bác sĩ rủ lòng nhân từ cứu giúp. Chúng tôi không còn cách nào nữa...
Bác sĩ nhìn khuôn mặt trùm kín mít và cặp kính đen của người đàn bà, nhìn người đàn ông đang run bần bật dưới sàn nhà với những vết chém và những hình xăm trổ trên vai... Ông gật đầu :
- Được rồi, tôi sẽ gắng hết sức, cô làm theo những điều tôi dặn nhé.
Ông cẩn thận lau rửa vết thương, tiêm thuốc tê và khâu vài chỗ rách toác. Gã đàn ông quằn quại, mê sảng. Sau khi uống liều thuốc ngủ nhẹ, trông sắc mặt hắn có vẻ ổn hơn. Bác sĩ bảo :
- Cô mua toa thuốc này cho anh ta uống trong 10 ngày, cố gắng giữ vệ sinh các vết thương, nhất là cặp mắt. May mà tôi đến kịp, mắt anh ta còn hi vọng, không thì...
- Vâng... vâng, tôi nhớ. Vậy là xong hả bác sĩ ?
- Tôi chữa miễn phí, cô để tôi về là được rồi...
Chị chần chừ. Rồi chị vội mở nắp cái rương gỗ dưới gậm giường, lôi ra một bức tượng nhỏ bằng đồng hình một cô gái khoả thân tuyệt đẹp, chị bảo :
- Đây là bức tượng một đại gia đã thuê đúc trên hình mẫu tôi cách đây 20 năm. Xin bác sĩ nhận coi như chi phí.
Ông bác sĩ ngẩn người ngắm pho tượng , thốt lên : " Trời ! Đẹp quá ! ” Rồi ông lắc đầu lia lịa :
- Ồ, không không, tôi không dám nhận đâu, bức tượng này chắc đắt giá lắm! Tôi là bác sĩ, chữa bệnh từ thiện là việc tôi thường làm mà...
- Bác sĩ ơi...- Chị quỳ xuống - Bác sĩ đã làm một việc không gì trả nổi, xin bác sĩ nhận cho tôi an lòng. Chỉ mong bác sĩ giữ bí mật cho chúng tôi.
- Ôi, kìa, cô đứng lên đi ! Trời ơi, cô làm tôi khó xử quá ! Rồi rồi, tôi nhận vậy. Cô mở cửa cho tôi về nhé, tôi xin hứa sẽ không nói gì cả !
Ông bác sĩ đi như chạy ra khỏi con hẻm ngoằn ngoèo, âm u.
- Sao cô lại làm vậy ?
Chị giật mình khi nghe tiếng hỏi như từ cõi âm của gã. Chị quay lại, gã đã tỉnh lại từ lúc nào. Chị bảo :
- Tôi không biết nhưng tôi không muốn nợ nần ai...Anh đỡ rồi hả ?
- Tôi nợ cô suốt đời.
- À - Chị cười - Mình mắc nợ người này, người khác lại mắc nợ mình, tùm lum ấy mà. Nhớ làm chi cho mệt !
Trời xẩm tối, chị mua toa thuốc về bắt gã uống cẩn thận như lời bác sĩ dặn. Gã đã ngồi dậy được, sau bữa cơm ngon lành, trông gã khá hẳn lên.
- Cô làm tôi nhớ mẹ tôi quá. - Gã bảo.
- Sao ngộ vậy ? Anh có thấy tôi đâu ? - Chị bật cười.
- Chỉ mỗi mẹ tôi là chăm sóc và lo cho tôi như vậy, tôi toàn bị đàn bà " ép phê " từ trước tời giờ.
- Là sao ?
- Tôi xài họ rồi họ xài tôi và tôi trở mặt với họ, họ lại trở mặt với tôi. Sòng phẳng.
- Ủa, chẳng lẽ không gặp ai tốt sao ? - Chị nghi ngờ.
- Có, nhưng cô ấy chết rồi, sốc thuốc.
Giọng gã nghẹn lại. Chị không dám hỏi nữa, chị bảo :
- Bác sĩ nói viên thuốc hồi nãy uống là thuốc ngủ cho đỡ đau đó, ngủ sớm cho mau khỏe nghe.
Gã nín lặng. Chị tắt đèn và đặt mình xuống giường, chị thấy mắc cười vì gã đâm thuê chém mướn giờ nghe lời mình như con nghe lời mẹ, vui thiệt. Rồi giấc ngủ đến với chị thật dễ chịu...Đêm thăm thẳm...
Chị giật mình vì ai đó chạm vào chăn...Vẫn còn đang mơ màng, chị nghe hơi thở gấp gáp và giọng gã thì thầm bên tai :
- Anh đây...
- Ôi, ôi...
Chị chưa kịp nói gì thì nụ hôn mãnh liệt, hun hút sâu đã cuốn lấy chị, vòng tay cường tráng, hừng hực sức mạnh ôm siết chị...Chị như nghe thấy tiếng nhạc du dương bổng trầm quấn đôi chân thon dài của chị trong các bộ váy áo lộng lẫy tha thướt, chị thấy những anh chàng hào hoa đang quây chung quanh chị cố gắng trổ hết tài nghệ mong được người đẹp để mắt đến... ...mùi đàn ông, những sợi râu lởm chởm, những sợi lông mịn màng... phủ ồ ạt lên chị như cơn sóng... Chị buông hết mình vào cơn sóng ấy...Hai mươi năm...chị tưởng mình sẽ không bao giờ còn được đón nhận đợt sóng đam mê tràn trề ấy nữa, không bao giờ...Chị ôm chặt gã, ôm chặt... Chị ngấu nghiến gã, chị cười rồi chị khóc...
- Thân hình em đẹp không thể ngờ...- Gã nằm vật ra, vừa thở vừa nói.
- Trước đây em là vũ nữ, nhìn thấy em khiêu vũ, không người đàn ông nào có thể thờ ơ được...
- Anh may mắn quá, chưa bao giờ anh được chạm vào một cơ thể hoàn hảo thế...
- Anh có nhìn thấy đâu nào, anh chỉ tưởng tượng thôi...
- Không, anh có nhiều kinh nghiệm ngủ với đàn bà rồi.
- Nhưng nếu anh nhìn thấy mặt em, anh sẽ phát khiếp!
- Tại sao?
- Gần hai mươi năm trước, em cặp bồ với một đại gia khét tiếng, vợ ông ấy đã thuê người tạt axít vào mặt em.
Gã lặng đi. Gã muốn khóc. Gã ôm chặt chị. Gã bảo:
- Dù trông em kinh khủng đến đâu thì anh vẫn yêu em.
- Anh đừng nói gì cả. - Chị nói và lấy tay che miệng gã.
- Tại sao? - Gã ngạc nhiên.
- Khi còn là một vũ nữ hơn hai mươi tuổi nổi tiếng xinh đẹp, em nghe không biết bao lời hứa hẹn, thế rồi khi em thành thế này, chẳng một ai đoái hoài...
- Cả tên đại gia khốn kiếp kia sao? - Gã phẫn nộ.
- Hừm...Ông ta trốn chạy trước tiên, căn phòng này lại do chính bà vợ mua cho em.
- Vậy hả?
- Sau khi thuê người tạt axít em, bà ta suốt đời sống trong dày vò. Ông chồng cũng quá khiếp sợ, bỏ đi luôn. Bà ấy mò đến bệnh viện, lén lút thăm nuôi em rồi chuyển cho em số tiền khá lớn, em dùng một ít mua căn phòng này.
Không nghe gã nói gì. Gã đã ngủ ngon lành, chị vuốt ve khắp người gã và gối đầu lên vòm ngực nở nang của gã, chị chìm vào giấc mơ...
Bữa cơm hôm ấy , chị làm một nồi cá kho với ớt xanh thơm lựng, rau lang luộc, tép rang. Gã ăn phăm phăm, chị nhìn gã ăn, vui lắm. Chị bảo:
- Khi nào anh "thua", anh lại về với em nhé.
- Nghề của anh không được phép "thua", không có lần thua thứ hai đâu.
- Nếu hai đối thủ cùng thuê anh thì làm sao?
- Dễ ợt, ai thuê nhiều thì anh theo, có lần vậy rồi.
- Anh có bao giờ do dự khi ra tay không?
Gã có vẻ nhớ rất lung rồi gật:
- Có.
- Khi nào?
- Có lần người ta thuê anh tông xe một ông giám đốc, khi coi kỹ mặt ông ấy, anh thấy giống cha mình quá nên lúc hành sự, thay vì đâm thẳng vào ông ta, anh lại né qua một bên và vụ đó anh suýt mất mạng.
- Sao vậy? Mấy người thuê anh định thịt anh à?
- Không - Gã cười chua chát - Chính tay giám đốc ấy định thịt lại anh chứ! Và anh có bài học: Hắn giống cha mình chứ đâu phải là cha mình. Không có ai giống cha mẹ mình đâu.
Chị mủm mỉm cười khi nhớ đến hôm nọ gã từng nói chị giống mẹ gã. Chị không để bụng nhưng sẽ nhớ mãi, chị thu xếp sớm để mau lên giường với nhau...
Gã bừng tỉnh, cảm giác chói gắt làm gã vội đưa tay lên che mắt...gã thấy cái cửa lờ mờ rồi rõ dần dần màu xanh cũ kỹ, thì ra tia nắng sớm len qua khe cửa đã đánh thức gã...căn phòng dột nát, đồ đạc xiêu vẹo hiện lên rõ nét...Gã quay qua bên cạnh, người đàn bà khoả thân đang quay mặt vào tường ngủ ngon lành, thân hình nàng quả là tuyệt mỹ: sóng eo quyến rũ, bầu ngực căng tròn và cặp đùi thon dài nuột nà... Gã khẽ ngồi dậy, bỗng nàng cựa mình rồi quay hẳn về phía gã...Gã giật bắn mình, toan rú lên nhưng rồi kìm lại được : Một khuôn mặt dúm dó, hai con mắt ngủ nhưng vẫn mở trừng trừng kéo hàng mi méo mó, hốc mũi biến dạng...Chỉ còn đôi môi chúm chím là vẫn nguyên vẹn, đôi môi đẹp và đa tình...Gã hốt hoảng tụt xuống giường. Cửa không chốt, gã chần chừ một chút rồi đẩy cửa...Lâu lắm rồi, không khí quen thuộc của buổi sáng lại ùa vào gã...
Chị nghe thấy gã dậy, chị biết gã đã hồi phục và nhìn thấy tất cả, chị ghé mắt qua khe cửa để nhìn thấy gã lần cuối cùng, chị nghĩ thế.
Chị thấy gã đi rất nhanh rồi bỗng dưng gã quay ngược lại, dừng trước cửa. Gã quỳ xuống, nói: "Anh sẽ quay lại nếu anh còn sống." Nước mắt chị rơi lã chã từ đôi mắt tật nguyền, chị cố lấy tay gạt đi để nhìn rõ hình dáng của gã khuất dần sau những ngoằn ngoèo, dích dắc của con hẻm.
Vũ Thanh Hoa
***
28
Cái Chân Chống Xe
Mặc cơn mưa đang xối xả, Thư phóng nhanh xe ra khỏi cổng tòa án, trốn chạy cơn ác mộng đã đeo đẳng cô năm năm qua. Thế là xong một mối tình. Hay nói cụ thể hơn là chấm dứt một cuộc sống tù chung thân với một kẻ mà cô đã từng nói lời yêu thương ngày cô còn con gái. Cô không vui và cũng chẳng buồn, phóng xe đi trong cơn mưa. Con đường dài hun hút ngập trong màn mưa.Xe chạy, mưa bay...Từng hạt mưa quất mạnh vào mặt tạo một cảm giác như có hàng ngàn vạn chiếc kim bé tí chích vào. Cô thích cảm giác ấy nên hất tung chiếc mũ mưa áo, để mặc đầu trần, phóng lao về phía biển. Đoạn đường này năm xưa là con đường của kỷ niệm. Khi anh và cô còn đi học, họ đã bao lần đi bên nhau.Nhưng giờ này, lòng cô không chạnh nhớ.Cô chỉ muốn con đường dài thêm, dài thêm để cô tận hương thêm cái thú đau thương đang dâng ngập trong lòng.
Năm năm-cuộc sống chung đụng của hai kẻ yêu nhau bổng chẳng hiểu vì đâu biến thành hỏa ngục. Cô nhìn lại mình.Cô đã phạm những lỗi lầm gì? Một đời con gái lớn lên từ một gia đình nền nếp. Mẹ dạy học ăn học nói từ thuở lên ba. Rồi nhà trường, thầy cô, xã hội Huế chung quanh tiếp sức tạo nên một mẫu thiếu nữ được gói tròn trong mấy chữ Công dung ngôn hạnh cho cô đã là một bông hoa có hương sắc mà lắm kẻ ước mong.
Anh cũng thế.Một cuộc sống bình yên trong vòng tay bảo bọc của bố mẹ đã cho anh đủ thứ để bước vào đời: bằng cấp, nhà cửa, địa vị..
Anh và cô đã gặp nhau, nói lời yêu nhau như là một chuyện tự nhiên mà không ai trong điều kiện ấy, hoàn cảnh ấy có thể nói khác được.
Nhưng tình yêu có thể do ảo giác hình thành nên anh và cô đã nhanh chóng tìm thấy những khoảng cách ngay trong tận nơi sâu thẳm của đáy lòng.Một đứa bé ra đời tưởng có thế níu kéo lại.Nhưng thiên thần bé nhỏ cũng lại là nguyên nhân để anh và cô ngày càng xa nhau...
Chuyện bắt đầu từ đêm ấy, nhưng mãi đến mấy năm sau cô mới hiểu rỏ ngọn ngành. Đó là chuyện phòng the mà năm xưa mẹ từng dạy, là chuyện chỉ dấu kín trong lòng. Cô không biết tỏ cùng ai. Cô không hiểu điều ấy là lỗi của mình hay của chính anh?
Đêm tân hôn, đêm mà mẹ đã tạo cho cô trí tưởng tưởng là đêm diệu kỳ của tình yêu, là đêm mà hai vợ chồng sẽ mãi mãi thuộc về nhau...Nhưng Thư đã trải qua một đêm đầu đời con gái chẳng có gì kỳ diệu.Sau đêm ấy, anh cũng có những đổi thay: ít nói lời ngọt ngào, hờ hững trước những vui buồn của cô, có khi anh lại gắt gỏng vì những chuyện vô cớ... Cô nhìn quanh bè bạn...hình như chúng cũng như thế. Có đứa bạo mồm bạo miệng: " Cái ông tướng ấy là của nợ đấy.Tau ghét cay ghét đắng. Biết trước thế tau chẳng lấy chồng". Cô hỏi mẹ, mẹ mắng yêu cô: " Chị muốn nhỏng nhẽo mãi sao? Thời yêu đương đã qua, giờ phải lo chu toàn bổn phận đi!".Thế là cô tạm yên lòng, vùi vào bổn phận làm dâu, làm vợ, rồi chuẩn bị làm mẹ.
Đêm biết mình có thai, cô nắm tay anh đặt trên bụng.Nhưng bàn tay anh không một chút hơi ấm, để yên không nhúc nhích, khiến cô cảm giác có điều gì không ổn. Đi hỏi mẹ, mẹ cô lại bảo: " Nó lo toan làm lụng mệt mỏi nên thế. Sắp có con ông bố nào chẳng thế.Chị cứ xem ông bố chị thì biết.Tôi sinh chị và cả bầy con mà ông ấy nào hay."
Thế ư?
Thế thì buồn qúa!
Đêm ấy, nằm bên anh, cô tủi thân khóc.Anh quay sang hỏi: " Em tiếc nuối sao? Hắn ta là ai?" Một luồng khí lạnh chạy qua người, cô buột miệng: " Hắn ta là người nào? Sao anh lại hỏi em điều lạ lùng ấy? " Nhưng anh đã lạnh lùng nói: " Ngay trong đêm đầu tiên tôi đã biết cô không là của tôi. Tôi thương cái danh giá nhà tôi nên chấp nhận cuộc sống này. Cô liệu mà sống."
Cái đêm đầu tiên là chuyện gì nhỉ?
Cô bàng hoàng trước sự sụp đổ của đất trời.
...Từ đó, khoảng cách giữa anh và cô xa dần.
Đêm đêm cô không ngủ được, trăn trở tìm nguyên cớ từ đâu. Hỏi mẹ thì đã bao lần mẹ dạy chuyện phòng the không được nói cùng ai. Cô đành chôn kín trong lòng chờ có dịp gặp ai đó hỏi cho thỏa những uất ức.
***
Năm năm quả là một khoảng thời gian dài vô tận khi hai kẻ sống bên nhau với sự vô cảm trong hồn. Thư vẫn y lời mẹ dạy lặng lẽ hoàn thành nhiệm vụ. Anh cũng đi đi về về như một ông chồng mẫu mực. Cái danh giá gia đình đã níu họ chung sống bên nhau như hai khúc gỗ trong mỗi đêm về. Cô đã lén tìm mua sách tham khảo, lén đến phòng Tư vấn hôn nhân để hiểu vì sao anh đã thay đổi ngay sau đêm đầu tiên ấy. Cuối cùng cô đã hiểu ra nguyên nhân của câu chuyện nhưng đã quá muộn màng để có thể hàn vết thương lòng. Cô quyết định ly hôn để nuôi con một mình.
***
Cô vừa miên man nghĩ ngợi vừa phóng xe chạy như một con điên. Có bóng một kẻ đi ngược chiều ra dấu hiệu gì đó với cô. Nhưng mặc, cô vẫn phóng xe, không quan tâm bất cứ điều gì nữa. Kẻ đi ngược chiều quay xe lại, phóng theo cô. Khi đến sát bên, cô nghe giọng đàn ông: " Chị ơi gạt cái chân chống lên kẻo bị tai nạn." Cô ngẩng lên kịp nhìn thấy đôi mắt đen của một người đàn ông xa lạ. Ông ta không chờ lời lí nhí cám ơn của chị, quay lại và phóng tiếp tạo khoảng cách xa dần...
Cô nhìn xuống, hóa ra cái chân chống xe chưa gạt. May Thư không bị tai nạn trên đường.
Mắt cô bổng cay.
Cô bùi ngùi hồi tưởng những ngày tháng qua.Giá anh cũng có chút quan tâm đến cô như kẻ xa lạ vừa qua thì chắc sẽ không có sáng hôm nay-ngày mà cô ký tên vào tờ hủy hôn ước-ngày mà bé Tơ bé bỏng không còn sống trong vòng tay của mẹ cha. Cô chạy xe chậm lại, suy nghĩ thật nhiều. Cái chân chống xe của một người xa lạ cũng đủ làm bao kẻ bận tâm khi đang đi trên đường chợt nhìn thấy. Cô cũng đã từng làm như thế. Không mấy ai mong đợi sự đền ơn qua nghĩa cử ấy. Đó là cái tình vốn có trong mỗi trái tim của những con người chung quanh ta. Nhưng sao cái tình ấy ta lại không dành cho kẻ đang sống bên ta trong tình chăn gối?
Thư lại khóc. Cô khóc vì đã đánh mất một thứ rất quí trong cuộc đời này: Niềm tin của những kẻ yêu nhau, mà anh đã không cho cô ngay trong đêm đầu đời mầu nhiệm của tình chồng vợ.Nước mắt và nước mưa quện vào nhau tạo vị mằn mặn. Cô nuốt hết vào lòng và tự hứa sẽ quên hết để lập lại cuộc đời.
***
Chỉ còn thêm một người nữa là đến phiên cô.Thư bồn chồn lo lắng.Bài tham luận tuy đã được chuẩn bị chu đáo nhưng đây là một hội thảo tầm cở, mà cô lại tham dự lần đầu.Tiếng diễn giả trên bục có sức thuyết phục khiến cô quên phắt đề tài của mình, nhìn chăm chăm người nói chuyện.Sao ông ta trông quen quen nhỉ? Cô lật tài liệu trên tay để nhìn xem.Một cái tên xa lạ: Viện nghiên cứu Cây Nhiệt đới- Ts Lý Luân. Đề tài Cây Nhiệt đới và Chiến lược phát triển Du lịch sinh thái của cô có mối quan hệ.Cô lắng nghe, lòng tự hỏi ông ta là ai mà sao đôi mắt quen quá.
Giờ giải lao, ông ta bị bao quanh bởi nhiều nhà khoa học tên tuổi.Cô đứng một góc phòng, uống chầm chậm tách trà nóng để ấm lòng trước khi lên tham luận.
Ông ta tiến đến bên Thư. Cô ngẩng lên, bắt gặp nụ cười. Lại đôi mắt đen thật quen thuộc của ông ta khiến cô cảm nhận một sự ấm áp thân tình dẫu rằng cô chưa hề quen. Ông ta tự giới thiệu: "Tôi đã gặp chị một lần trong cơn mưa.Chị còn nhớ không, hôm cái chân chống chị quên gạt mà lại phóng xe như một tay đua trên đường qua Thôn Vỹ?" Tất cả chợt ùa về trong ký ức Thư.Đúng là đôi mắt đen của kẻ xa lạ trong ngày cô ký giấy ly hôn.Từ đó đến nay đã mấy năm rồi mà sao ông ta vẫn nhận ra được mình nhỉ? Ôi thật xấu hỗ làm sao khi ông ta đã từng nhìn thấy cô trong bộ dạng của một kẻ khùng ướt đẫm dưới cơn mưa!
Thư bối rối chưa biết phải nói gì, may sao chuông báo giờ làm việc, cô chỉ gật chào rồi đi nhanh vào hội trường, tim đập thình thịch.Cô tự nhủ: Thư ơi! Mày bối rối hay lo sợ? Lo sợ cho bài tham luận hay bối rối vì có kẻ đã nhìn thấy dung nhan mày như một con điên?
Một phút xao lòng đã qua, Thư trở lại trạng thái bình thường, bắt đầu với vai diễn của một nghệ sĩ trên sân khấu.Giọng nói nhẹ êm tai, nội dung được chắt lọc súc tích, hình minh họa sinh động...cô lần lượt chinh phục hội nghị. Cô tự tin dần, vừa nói vừa nhìn xuống từng khuôn mặt đang lắng nghe.Cô lại bắt gặp đôi mắt ấy. Ánh mắt đang cười với cô. Mắt cô lại cay. Đây là lần thứ hai mắt cô cay khi gặp mắt người đàn ông xa lạ ấy. Giọt nước mắt lần đầu là sự hờn tủi chồng. Giọt nước mắt bây giờ là gì đây? Cô cũng chẳng biết, chỉ thấy mình bỗng diễn thuyết hay hơn, duyên dáng hơn để khi kết thúc cô đón nhận toàn hoa, hoa và những nụ cười.
Buổi ăn trưa được tổ chức dạng tiệc đứng bên bờ sông.Đoạn này sông vừa chảy qua cầu Trường Tiền, cây cầu gắn bó với biết bao đôi lứa yêu nhau trên đất Huế. Trời chỉ hửng cơn nắng nhẹ của mùa thu, cỏ xanh rì bên mép nước.Có con đò nhỏ đi qua tạo cho dòng sông gợn sóng lăn tăn. Cô đứng nhìn sông mà quên chuyện tự kiếm thức ăn cho mình.Ông ấy lại đến bên cô, trao tay cô đĩa thức ăn và nói: " Tôi ganh tỵ với chị đấy.Bài nói chuyện của chị thật tuyệt vời." Cô lí nhí cám ơn trong bối rối: " Tôi phải cám ơn anh hai lần.Cho hôm nay và cho cả cái chân chống hôm nào."
Rồi Thư lặng im, ăn chầm chậm mà không có cảm nhận dở hay ngon.Một điều kỳ lạ đang lén vào hồn cô. Cô tự xua đi. Đã quá đủ cho một đời người vì nhầm lẫn-nhất là nhầm lẫn chuyện trái tim. Cô sợ hãi bất cứ lời nói nào nghe ngọt lịm như vị mật ong. Cô là con chim đã bị trúng tên nên thấy cành cong thì sợ hãi.Nỗi sợ hãi ấy khiến cô chào ông ta rồi đi nhanh vào phòng ăn đang đông kịt người.
***
Ông vẫn đứng đấy, miên man suy nghĩ về người phụ nữ vừa gặp lại. Hôm ấy trời mưa tầm tả thế mà sao cô lại để đầu trần phóng xe như một con điên? Có điều gì bất ổn chăng? Ông muốn hỏi nhưng không thể hồ đồ với kẻ mới quen. Ông có biết cô ta vì thành phố này quá nhỏ bé, lắm chuyện trong nhà chưa rỏ ngoài ngõ đã hay.Nhưng ông chỉ biết qua những danh tiếng thành đạt trong nghiên cứu khoa học, mà cô đã minh chứng hôm nay.Còn chuyện buồn hay vui, hạnh phúc hay bất hạnh dễ gì ai hiểu được ai?
Ông cũng xua hình ảnh cô đi, ăn vội ba miếng rồi ra đứng hút thuốc một mình bên dòng sông.
Ông không phải là người vùng đất này.Nhưng do phải lòng cô Tôn nữ mà làm rể và ở lại xứ Huế mộng mơ. Nó là xứ của nắng cháy, mưa dầm, tiếng dế mỗi đêm khuya, màn sương mù kỳ ảo mỗi xuân sang và còn của biết bao điều kỳ diệu khác mà ông đã trải nghiệm trong đời mình.
Con sông Hương dùng dằng.. .chảy vào lòng Huế nên con người Huế thật thâm trầm.Thâm trầm đến độ ông không hiểu nổi cô vợ Tôn nữ của ông muốn gì, nghĩ gì, ước mơ gì qua năm tháng sống bên nhau...Nên chi cuối cùng ông đành quay về cuộc sống độc thân, lấy công việc làm tình yêu, lấy những chiều mưa phóng xe một mình làm bạn đồng hành trong cuộc sống.Chính chiều mưa ấy ông đã gặp cô- gặp một người đàn bà xa lạ mà bóng hình tiều tụy theo ám ảnh ông mãi trên đường về...
***
Bây giờ là mùa thu.
Mùa thu đất trời xao xuyến muốn thì thầm lời tỏ tình dịu ngọt.Gió hôn mây cho mây bay dìu dịu. Nắng hôn vòm cây cho lá chuyển sắc vàng.
Mùa thu, con thú hoang dã biết cất lên tiếng hú gọi bạn tình.
Mùa thu trái tim ông cũng bồi hồi bởi một điều gì không tên tuổi.Ông đang yêu mùa thu chăng?
Ông lại đi một mình.Đi đâu bây giờ? À mùa này trái Thanh trà Nguyệt biều đã đủ độ chín đong đưa trong những vườn cây. Sao ta không lên thăm ông bạn Huấn và thăm luôn cả xứ sở Bầu trăng nhỉ?
Yêu cỏ cây từ tấm bé, ông đã rất giỏi môn sinh vật và trở thành nhà nghiên cứu cây Nhiệt đới.Từ cây Đa biết bay nơi đình làng quê, đến cây Nắp bình ăn thịt, những đám rêu trong những khu rừng ẩm ướt...đã làm ông mê say. Ông đã hiến dâng tuổi thanh xuân cho cây cỏ. Đáp lại ông, cỏ cây cũng cho ông cái tình. Đó là hạnh phúc mà cuộc đời làm khoa học ông tìm được.Nhưng tình cây cỏ chưa đủ làm ấm áp trái tim ông mỗi độ thu về.Nên chi hôm nay trái tim ông mách bảo, thúc dục ông phải đi tìm...
Trong vườn Thanh Trà trĩu trái của Ông già Huấn- một nhà nghiên cứu sinh vật tên tuổi của Viện, ông nghe mơ hồ có tiếng nói quen quen lao xao vọng lại từ những vòm cây.Ông bạn giải thích:" Cô trò thằng Tân đang hái Thanh trà lưu trữ để mùa đông này làm tiệc nó cưới vợ đấy." Lần theo tiếng nói, ông tìm đến. Thật bất ngờ ông được gặp lại người phụ nữ mà ông cố không nghĩ đến mỗi đêm về. Cô ấy đang đứng dưới một gốc Thanh trà lão, dang tay lên đón từng quả mà Tân hái trên cành.Nhìn thấy ông, cô cũng quá bất ngờ nên đánh rơi một quả, lăn đến chân ông.Ông cúi xuống nhặt giùm cô để che dấu cơn xúc động trong lòng. Ông đã tìm hiểu lý lịch đời cô sau hội thảo ấy và cũng như ông, cô đang tìm công việc để bù đắp những trống vắng sau cuộc chia ly với chồng mình. Tại sao ông không có quyền đến nắm bàn tay cô để bày tỏ những yêu thương mà bấy lâu đang chất ngập trong lòng ông? Ông sợ hãi thêm một lần bị thương tổn vì sự dối lừa? Hay ông sợ sự chối từ bởi cuộc đời cô cũng đã từng bị tổn thương và quyết khép cửa trái tim?...Tất cả những cảm xúc ấy đã khiến ông im lìm không dám tỏ. Chỉ biết bày tỏ tình yêu mến qua ánh mắt dịu dàng.
Đêm ấy, vợ chồng Huấn mời ông ở lại dùng cơm tối rồi sau đó kéo nhau lên Đồi Vọng Cảnh ngắm trăng thu soi thôn Nguyệt Biều.Ngồi trên đồi cao, chung quanh là đất trời Huế. Có nước lung linh, có ánh trăng huyền ảo...Huế bỗng đẹp như chốn non bồng. Nhìn phía xa xa, thôn Nguyệt Biều quả là một bầu trăng. Bà Huấn rót mời ông nhấp môi chén rượu ướp hoa Quỳnh và nhắm tí Thanh trà trộn mực khô mà Thư đã tự tay chế biến. Ông chỉ biết im lìm không dám buông lời khen ngợi, sợ phá vỡ đi điều kỳ diệu đang choáng ngợp hồn ông. Cô ngồi đối diện, cũng im lìm không nói. Ông thấy như có làn nước ướt đẩm mắt cô.
Khi trăng đã lên cao, họ mới quay về. Ông bà Huấn có nhã ý nhờ ông đưa Thư về tận nhà vì đường khuya. Ông chạy xe chầm chậm bên cô. Cả hai không nói. Họ không nói vì sợ một điều gì đó sẽ đến trong đêm nay...
Cuối cùng, khi đã đến nhà cô, trong bóng tối nơi giàn hoa ở cổng, ông cầm tay cô, nói thì thầm đủ một mình cô nghe: " Em biết tôi đang nghĩ đến điều gì không? Tôi đang thầm cám ơn cái chân chống hôm nào. Chính nó đã khiến tôi tìm thấy em trong cuộc đời này."
Bàn tay Thư để yên trong lòng bàn tay đang truyền cho cô sự ấm áp tưởng đã mất.../.
Hoàng Thị Như Huy
***
27
Ngồi Lê Đôi Mách
Độc giả nào nghĩ đây là chuyện tầm phào của phụ nữ chẳng đáng bàn thì người viết xin chỉ ngay hai sai lầm. Thứ nhất theo khảo sát của các nhà tâm lý, xã hội học, đàn ông cũng thích ngồi lê đôi mách như đàn bà. Thứ hai nó không phải tầm phào mà rất quan trọng, là một bản tính cố hữu của con người được nhiều nhà tư tưởng quan tâm; chưa kể nó có thể gây ảnh hưởng rất lớn làm người ta thân bại danh liệt cũng như chính quyền sụp đổ.
Ngồi lê đôi mách là cụm từ VN rất tượng hình, nói lên điển hình cơ bản chuyện gẫu nhàn tản giữa hai người (ám chỉ là phái nữ). trong khi Anh ngữ có chữ gossip do cổ ngữ god sib nguyên thủy nghĩa là phụ nữ đỡ đầu hoặc bạn hỗ trợ được mời có mặt lúc sinh nở. Đàn ông Anh nghi là nhân đó họ chuyện vãn nói xấu mình, cho nên gossip hàm ý chê bai, giống như cụm từ VN do đàn ông đặt ra cũng ngụ ý tương tự.
Ngồi lê đôi mách cũng gọi là tám chuyện hoặc tém chuyện (do giọng người Quảng đọc trại vì Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay co, là nơi dân rất thích tém truyện) Để tiện gọn, công bằng, và khỏi bị nhóm nữ quyền phản đối, người viết từ đây sẽ dùng "tám chuyện" thay cho "ngồi lê đôi mách."
Người là động vật hợp đoàn. thích gặp nhau để chuyện vãn trao đổi những gì mình tò mò thích thú về sự việc chung quanh, nhất là hành động, khuyết điểm, thói hư tật xấu của người khác...Nhờ vậy thế giới vận hành mới sinh động, chứ không phải tẻ nhạt nếu như chỉ nói chuyện công việc, ăn mặc, thể thao, thời tiết... hoặc làm theo mấy danh ngôn triết lý của các nhà tư tưởng. Thật ra triết gia Lỗ Ma Ni Emil M. Cioran đã nhận xét xác đáng "Chỉ có hai điều thích thú nhất trên đời là siêu hình học và tám chuyện".
Nam nữ đều thích tám chuyện như nhau Nhưng phụ nữ có nhiều dịp tiện lợi hơn để trao đổi chuyện gia đình, chòm xóm, chợ búa, người này người nọ...có khi rất ngắn ngủi, bỏ lửng, rồi sau đó lại tiếp tục. Đàn ông thường bàn chuyện thể thao, chính trị, rồi lan man qua tám chuyện, chứ ít khi gặp gỡ chỉ ví tám chuyện. Thành thử phụ nữ mang tiếng nhiều hơn, nhất là thói hay nói xấu nhau.
Tám chuyện về người vắng mặt bị coi là xấu, vì đề tài thường là mặt tiêu cực của người đó. Cũng là điều dễ hiểu bởi chỉ cái gì khác thường, tội lỗi, xấu xa mới hấp dẫn lôi cuốn mạnh. Như Bertrand Russell đã nhận xét 'Không ai tám chuyện về các đức tính tiềm ẩn của người khác" . Tôn giáo cũng thường lên án tám chuyện. Kinh Thánh liệt tám chuyện vào danh sách tội bao gồm cả các tội ngoại tình, sát nhân Hồi Giáo cho nói xầu người là tương đương với ăn thịt đồng đạo. Đạo Bahai còn nặng hơn, coi tám chuyện là thói xấu nhất, tội lớn nhất, vì sát nhân chỉ làm mất mạng người, nhưng nói xấu lưu lại ô danh mãi mãi về sau dù đã chết.
Thật ra thiết tưởng cần làm rõ một điểm. Giống như nhai kẹo cao su chủ yếu là do thói quen, sau đó mới nhận ra tác dung phụ là làm sạch răng, giảm stress, cũng vậy tám chuyện trước và trên hết là hành động nhàn tản, thư giãn, khoái hoạt, giống như giải trí, chơi game....dễ dãi, nghĩ sao nói vậy, không suy nghĩ đến hậu quả. Dĩ nhiên nó có thể gây phương hại cho người vắng mặt thì đó là tác dụng phụ đén sau. Bởi thế tám chuyện không nhất thiết là xấu
Kẻ tám chuyện thường là rất gần cận mới biết bí mật của người để mà tiết lộ.Chỉ bác sĩ giải phẫu cho Elizabeth Taylor mới biết chuyện bà đem theo các bảo vệ nhằm làm vệ sinh sạch sẽ phòng sau khi mổ, không để một sợi lông nào vương lại vì sợ y tá, nhân công có thể thu nhặt đem rao bán trên eBay. Tám chuyện này là bác sĩ đã phá vỡ cái tín nhiệm mặc nhiên của thân chủ. Có thể bác sĩ không ưa bà. Có thể bác sĩ muốn lấy lòng người nghe. Có thể bác sĩ muốn tỏ cho thấy mình coi người nghe là bạn thân mới hé lộ như vậy. Có thể vì chuyện này đặc biệt quá bác sĩ không thể giữ kín. Chưa hẳn là bác sĩ có ý xấu, muốn hại bà.
Phần người nghe được rỉ tai như vậy tự nhiên bị coi như nhận hàng lậu, trở thành thông đồng với bác sĩ, nhất là còn được dặn dó đừng nói lại với ai. Nhưng khó giữ kín một chuyện lý thú như vậy người nghe có thể tiếp tục rỉ tai người khác. Thế là tám chuyện không được kiểm chứng hư thực (vì bác sĩ có thể dựng chuyện) sẽ trở thành tin đồn, bao hàm nhiều hậu ý hơn. Tin đồn có tính khả tín không phải vì được xác nhận đúng thật, mà vì có người tin là thật. Tám chuyện thường về riêng tư, giới hạn trong nhóm thân mật; còn tin đồn thường về biến cố, phổ quát và phạm vi rộng lớn hơn. Thực tế có cái vòng luẩn quẩn: tin đốn có thể dẫn đến tám chuyện,và tám chuyện có thể củng cố tin đồn.
Tám chuyện giống như tiếu lâm và thường đi dôi với nhau trong chuyện gẫu thân mật, bởi cùng đề tài cấm kỵ không tiện nói công khai, cùng gây ngạc nhiên thích thú. Nhưng tám chuyện chú ý đến nội dung, còn tiếu lâm cần có hình thức diễn chuyện hay (ví dụ punch line - câu kết bất ngờ đắc dụng). Nhân vật tám chuyện là thực, còn trong tiếu lâm là hư cấu, mặc dù cũng có khi dùng tên người thật. Ví dụ tiếu lâm sau:
Clinton buổi sáng mùa đông nọ ra lan can thấy dưới đất có hàng chữ viết lõm trên tuyết " Tổng Thống phải chết". Ông tức giận sai an ninh điều tra thủ phạm. Vài ngày sau nhận được báo cáo cho biết phân tích tuyết thấy đây là nước tiểu phóng từ trên cao xuống, mà thử DNA thì là của Al Gore. Nhưng dạng nét chữ viết lại là của...Hillary!
Martin Heidegger nghĩ tám chuyện là tầm phào, nông cạn, giá trị giả tạo, không lợi ích cho tìm hiểu khía cạnh sâu xa của cuộc sống. Đồng ý, tám chuyện không vể những vấn đề quan trọng, sâu sắc nhưng nó là nguồn phong phú cho nhiều tác giả như Tolstoy, Proust...tạo nên những tác phẩm văn học nổi tiếng, soi rọi ngõ ngách tâm hồn. Nó là kiến thức mọi người chia sẻ, có thể làm sáng tỏ những hiểu lầm, khúc mắc của bàn luận nghiêm túc. Heidegger chắc chẳng bao giờ nghĩ chính mình lại là đề tài đàm tiếu khôi hài, do đã cố tình che dấu chuyện xưa kia thân Đức Quốc Xã và có vợ mà còn quan hệ với cô học trò sinh viên Hannah Arend.
Nhà nhân chủng học Gluckman cho rằng tám chuyện định nghĩa như là quan tâm tổng quát về hành vi, đức tính, thói xấu của người khác, có nhiệm vụ xã hội là duy trì quan hệ tốt đẹp, đoàn kết, thống nhất, đạo lý và giá trị của nhóm. Paine nhấn mạnh đến tầm quan trọng của tám chuyện như là một kiểu thông tin không chính thức, soi sáng vấn đề thống nhất, đạo lý, giá trị của phụ nữ như một nhóm xã hôi và cung cấp mạng lưới hoạt động cho các quan tâm này. Rubin coi tám chuyện là ngôn ngữ thân mật xuất phát từ sự liên đới và đồng căn cước của nhóm gồm những người thường có chung một kinh nghiệm.
Tám chuyện thỏa mãn nhu cầu muốn biết, muốn tham gia tốt hơn vào cuộc sống chung quanh. Tám chuyện giúp hiểu rõ chuyện đang và sắp diễn ra trong chỗ làm, trường học, cơ quan. D.S. Wilson nghĩ tém chuyện là một tương tác đa dụng rất phức tạp, giám sát sửa sai tác phong trong nhóm và xác định tính cách thành viên. Wert và Salovey còn cho rằng không tham gia tám chuyện có hại cho sức khỏe và chứng tỏ bất bình thường.
Theo tiến triển thời đại các nhà xã hội học đã nới rộng định nghỉa nguyên thủy của tám chuyện- là phơi bầy bí mật của người khác. Ngày nay tám chuyện là bất cứ loan truyền tin tức nào liên hệ đến nhân vật, tổ chức, chính quyền...mà không cần kiểm chứng đúng sai, qua truyền khẩu, in ấn, truyền thông hiện đại như mạng internet, email, blog, twitter, facebook....khiến tám chuyện bây giờ có nhiều tên mới như tin rò rỉ (news leak), tin giả (fake news) mặc dù có khi đúng thật. Chưa kể còn cả một website chuyên môn về tám chuyện gọi là WikiLeaks, cũng như phóng sự điều tra của báo chí, xét cho cùng cũng là một dạng tém chuyện.
Từ khi Internet được thông dụng, khó phân biệt đâu là ranh giới giữa tám chuyện công (về người nồi tiếng nhiều người biết) và tám chuyện tư (về người trong nhóm nhỏ), cũng như giữa tin tức và tám chuyện. Chưa kể có nhiều điều không đúng sự thật cũng đưa lên mạng coi như tám chuyện.
Nhà thời trang chưa nổi tiếng mấy Tommy Hilfiger được ghi nhận trên mạng là đã tuyên bố: " Nếu tôi biết dân Mỹ- Phi, dân Sì, dân Á mua quần áo của tôi, thì tôi đã không làm cho họ được đẹp như thế". Rồi lại có đồn là Hilfiger xác nhận nói vậy trên sô Oprah, khiến Oprah nổi giận bảo khán gỉa đừng mua đồ của Hilfiger. Hậu quả là Hilfiger lỗ nặng. Vấn đề là Hilfiger chưa bao giờ tuyên bố như vậy, cũng như chưa hề xuất hiện trên sô Oprah. Vậy mà trên mạng ngụy tạo chuyện này.
Động cơ của tám chuyện thì rất nhiều, hiển lộ cũng như ần khuất, và có thể đồng thời trùng lặp trong một bối cảnh, nhiều khi khó xác định. Ở đây chỉ xin nêu ra vài động cơ thường gặp.
Bị chê trách nhất là tám chuyện vì muốn bôi bẩn, trét bùn đương sự do thù ghét, không ưa, trả thù , có khi còn phóng đại, nói dối, mục đích làm phương hại tối đa. Dịp tranh cử váo Quốc Hội, Nhà Trắng là thời điểm bùng nổ chiến dịch bôi bẩn nhau nhằm làm đối thủ mất phiếu. Hiện phong trào #MeToo cũng đang làm nhiều người đứng ngồi không yên hoặc thân bại danh liệt vì tội sách nhiễu tình dục.
Tổng Thống Nixon năm 1974 phải từ chức vì rò rỉ chuyện nghe lén đảng Dân Chủ ở Watergate, nếu không sẽ bị đàn hạch (impeachment). .Thương Nghị Sĩ John Edwards bị tố ngoại tình và có con trong khi vợ bị ung thư, là ứng viên Phó Tổng Thống 2004, bị thất bại đã phải bỏ luôn chuyện tái ứng cửThương Viên. Bing Crosby già gần chết vừa phải vào tù vì bị tố sách nhiễu tình dục mấy chục năm trước.
Một động cơ ẩn dấu là tính ghen ghét người giầu có quyền thế, thích thấy cái xấu của họ bị phơi bầy, làm trò cười cho thiên hạ, khoái trá kéo họ xuống để chứng tỏ họ cũng xấu xa tội lỗi chẳng hơn gì mình. Đồi tượng là các người nổi tiếng trong địa hạt chính trị, truyền thông, điện ảnh, thể thao....Tám chuyễn là một vũ khí phản kháng của giai cấp thấp nghèo đối với giai cấp ăn trên ngồi trốc. Nhân dân VN không thiếu những tám chuyện mỉa mai đối với giới lãnh đạo ngu mùa lạc hậu, tham nhũng thối nát, hà hiếp bóc lột, hèn với giặc ác với dân.
Động cơ khác là do bản tính của một số đông người ham thích chuyện bậy bạ, scandal, quá hấp dẫn, giật gân không thể không tám chuyện. Đề tài thường về sex, đồng tính, chuyển giới, ngoại tình bị bắt quả tang....và mặt khác, tâm lý người nghe rất khoái chú ý đến những chuyện táo bạo mình muốn mà không dám làm.Thiên hạ biết nhiều về tánh lăng nhăng của John Kennedy với các nữ minh tinh như M. Monroe, A. Dickinson...nhưng còn về bố của Kennedy thì nhờ chuyện sau mới gián tiếp biết chút đỉnh.
Khi Marlene Dietrich đến Wasinhton DC để nhận giải của Hội Cựu Binh Do Thái náng có ghé Nhà Trắng chỉ một giờ thôi nhưng cũng thừa đủ
Xong chuyện, Kennedy thắc mắc:
- Có chuyện tôi muốn biết.
Nàng hỏi chuyện gì, ông đáp:
- Em đã có từng làm với bố tôi?
Nàng đáp không. Ông bảo:
- Vậy thi, đây là một chỗ mà tôi vào trước!
Người tò mò rách chuyện cũng hay tám chuyện để biết càng nhiều càng tốt, dù là chuyện cá nhân riêng tư. Ví dụ anh bạn đang nghĩ đến chuyện ly dị; một đồng nghiệp sắp mất việc; chị kia trầm cảm nặng đến độ phải đi bác sĩ tâm thần. Nghĩ là cần phải biết vậy thôi, không có ý xấu gì cả. Họ cũng hay chĩa vào đời tư của các người nổi tiếng, mặc dù không phải do ghen ghét như đã nói trên kia mà chỉ do tò mò muốn biết hôn nhân B. Pitt và A. Jolie ra sao, W,Oprah đã sụt mấy cân, Cựu Phó Tổng Thống Biden có ra ứng cử tổng thống 2020 không...
Có người thích tìm hiểu đời tư người khác để nghiên cứu, để giúp tìm cách đối phó tình huống. Ví dụ hai người tém chuyện về bạn chung. Tại sao bà ấy không có con, dù đã hai đời chồng? Bà ấy vô sinh hay là chồng có vấn đề? Có nên mách bà ấy biết có bác sĩ chuyên trị vô sinh?
Có khi tám chuyện là cách gián tiếp đề cao mình, một kiểu sang bắt quàng làm họ. Khôi ông cứ hay tám chuyện về kỷ niệm nhỏ nhặt với Mai Thảo, Trịnh Công Sơn...mục đích chính không ngoài cho hé lộ gián tiếp ta cũng quen biết nghệ sĩ danh tiếng. Barbara Cartland cho rằng hôn nhân Charles và Diana không suông sẻ, vì Diana không chịu 69 (đúng sai chưa kiểm chứng). Động cơ có thể do Cartland tức giận vì đã không được mời dự đám cưới hai ngườ, hoặc có thể muốn bêu xấu Charles, hoặc cũng có thể ngầm cho biết mình thân cận vời Diana, tức cũng là một người có danh phận.
Nhật ký, tự truyện nhiều khi là một tám chuyện trá hình của tác giả,trong đó hé lộ cả những điều xấu, khuyết điểm, thú nhận giới tính, thói lạ tính dục... Nói trá hình, vì có thể có mục đích quảng cáo sách, hấp dẫn độc giả (vì sẽ được đọc những cái xấu tự khai), hoặc tự đề cao (vì sẽ nhắc đến vài người nổi tiếng mình quen). Tự khai nhự thế làm dân tám chuyện mất đi một mảng nguồn tư liệu, và còn có thể làm giảm hứng thú các tám chuyện về người khác vì đã có nhiều tự thú rồi. Ví dụ có nhiều người tự thú mình homo rồi, nay phát hiện ông A homo, có đem tiết lộ cũng ít hứng thú, vì homo thành nhàm rồi
Tám chuyện còn là cách kết bạn vì tám chuyện có thể trở thành một thứ hàng trao đổi. Tôi biết nhiều chuyện lý thú, anh cũng có nhiều chuyện. Chúng ta hãy trao đổi kết bạn với nhau. Đồng sở thích thì dễ kết bạn. Cũng giống như tiếu lâm, khôi hài, tám chuyện đòi hỏi có đồng cảm. Tám chuyện về minh tinh màn bạc với một ông già chả xem phim bao giờ thì còn gì hứng thú.
Tám chuyện cũng có thể do muốn tỏ ra mình sành sỏi, biết nhiều, biết hết. Biết bí mật ông A, chuyện kín bà B, gặp ai cũng rỉ tai, chẳng phải có ý đồ xấu đối với họ, mà chỉ muốn tỏ ra biết nhiều.
Động cơ tám chuyện có khi hoàn toàn vì tiền bạc lợi nhuận, không dây dưa đến người bị tiết lộ. Nhà nhiếp ảnh rình mò bãi biển, cố chụp lén được ảnh "nóng" của minh tinh nọ, chẳng phải vì thù ghét nàng, mà vì đem bán tấm hình cho báo lá cải sẽ được trả tiền rất cao. Ký giả lân la trong Nhà Trắng một thời gian, thu thập dữ kiên, rồi viết sách, chẳng vì động cơ nào cả, ngoài biết rằng sách mình sẽ bán rất chạy, lời thật nhiều, vì ai cũng tò mò muốn biết hậu trường.
Chính quyền cũng thường dùng tám chuyện, tung tin rò rỉ, nhằm thăm dò dư luận, trước khi quyết định hay sửa đổi một việc quan trọng, để tùy theo đó mà hành động thích nghi. Ví dụ tung tin sắp mở rộng xa lộ, nếu dân địa phương phản đối mạnh, sẽ xem xét lại viẹc này
Có khi tám chuyện chẳng do động cơ nào mà do lan man tùy hứng, góp vui với bạn bè, giống như đóng góp chuyện cười, tiếu lâm cho thêm phần rôm rả. Tám chuyện coi như kiến thức vô tư, bất vụ lợi mà cuộc sống đam mê háo hức đem đóng góp (mặc dù là nhỏ nhoi) vào đời sống tinh thần. Tám chuyện chuyên chở thông tin nhưng chẳng phải là việc của ai hết, mục đích chính là để thỏa tính tò mò, giải trí, duy trì quan hệ xã hội tốt đẹp, và xuất hiện dưới muôn hình muôn vẻ.
Mặc dù đôi khi có ngụ ý xấu, bị chê bai lên án, nhưng từ rừng rú Phi Châu đến đô thị hiện đại Âu Mỹ không ai là không thích tám chuyện. Không thể nào dứt được tám chuyện trong xã hội loài người.
Phạm Đức Thân
***
26
Thế Giới Và Anh
Hồi đi học mình mê anh vì vẻ lãng tử, ít nói và đặc biệt là ánh mắt nhìn ngang, thờ ơ với đám con gái trong trường. Anh học giỏi, đàn hát hay và trong lúc phấn khích thường đại ngôn rằng: Tớ sẽ lập lại trật tự của thế giới! Nhìn anh tràn trề sức sống và tài năng, mình tin có ngày anh làm được. Anh chả để ý đến mình và tán đổ ngay Thúy, em hoa khôi lớp dưới. Thế rồi mình cũng có người yêu và không quan tâm đến nhau nữa. Thời sinh viên cũng sang trang.
Một lần anh đến ngân hàng giao dịch và chúng mình nhận ra nhau. Anh bảo vừa chuyển qua chỗ làm thứ ba và cũng tạm ổn, anh có thể giúp đỡ bố mẹ trang trải cuộc sống khó khăn trước đây, mình hỏi anh sắp cưới chưa thì anh bảo vừa đi dự đám cưới Thúy tuần trước. Rồi như thói quen, anh nhìn ngang qua cửa và bảo anh phải ổn định cuộc sống và chưa nghĩ chuyện lấy vợ. Mình nhìn anh cười cười: Vậy là phải chờ anh lập lại trật tự của thế giới phải không. Anh bật cười và không nói gì.
Anh gọi điện thoại, hỏi nơi mình ở. Mình hỏi anh có việc gì. Anh bảo để mời em dự đám cưới. Tự dưng mình thấy run run, sao nhanh quá vậy, mới có 2 tháng không gặp, cô gái nào may mắn thế. Chả hiểu sao mình lại hỏi thành tiếng với anh câu hỏi ấy. Anh ngần ngừ một chút rồi bảo vợ sắp cưới là con gái giám đốc công ty anh đang công tác. Mình thở dài, thế thì thế giới này vẫn sắp xếp theo trật tự cũ. Mình đến dự đám cưới và ngạc nhiên vì thấy vợ anh trái ngược với nhan sắc Thúy hoàn toàn. Rồi mình lấy chồng và chẳng còn liên hệ với anh.
Hôm qua chợt gặp lại anh trong bữa tiệc. Anh bước xuống từ chiếc xe xa xỉ. Giật mình vì anh khác quá. Mái tóc đã bạc trắng và đôi mắt hằn vẻ mệt mỏi với cái bụng bia, không thể giấu được trong bộ trang phục sang trọng. Anh mừng vui lạ lùng khi nhận ra mình. Anh bảo em vẫn trẻ đẹp, có bí quyết gì không, mình bảo vì em ngốc nghếch nên lâu già. Anh đã lên chức tổng giám đốc một công ty lớn, hai con đã đi du học và vợ nghỉ hưu sớm, giờ cô ấy chỉ suốt ngày tụng kinh và đi chùa. Rồi anh kể là anh bị tiểu đường, bị huyết áp cao, bị thấp khớp nên kiêng khem hết, buồn. Mình đùa bảo vậy bao giờ mới lập lại được trật tự thế giới đây. Anh mơ màng một chút rồi nói ngày xưa mình đầy sức sống và nghênh ngang nhỉ. Buổi tiệc kết thúc mình chào anh về. Anh tiễn mình ra xe và nói: Nếu quay lại ngày xưa thì... Mình xen ngang: lại thay đổi thế giới à? Anh nhìn xuống, hình như anh bỏ thói quen nhìn ngang lâu rồi, nói tiếp: Không, thế giới vẫn thế nhưng anh sẽ khác. Mình cười. Nắm tay anh, dặn anh giữ gìn sức khỏe. Xe chuyển bánh. Mình không nhìn lại.
Vũ Thanh Hoa
***
25
Người Đàn Bà Trong Bóng Tối
Thấy cuộc gọi nhỡ trong máy với dãy số lạ, chị không gọi lại. Bây giờ lừa đảo các kiểu. Không phải số máy quen thì không nên quan tâm. Cơm tối xong, chị lên ngồi phòng khách bật tivi. Như thói quen, chị chỉ xem tất cả tin tức truyền hình bằng hình ảnh, còn âm thanh thì chị tắt hoặc để tiếng thật nhỏ và mở một bản nhạc không lời yêu thích trên cái đầu máy CD cũ kĩ và thưởng thức khoảnh khắc riêng mình hiếm hoi trong ngày.
Chồng chị mất từ khi con trai mới 7 tuổi, bây giờ đã là một bác sĩ trẻ có phòng khám riêng, khoảng thời gian độc thân khá dài ấy, dù bao "hiền nhân quân tử" quan tâm để ý, chị vẫn lẻ bóng cho đến nay. Nhiều người tưởng chị chỉ muốn tập trung vào công việc và chăm sóc con, thật ra chị có một mối tình bí mật trong suốt quãng thời gian công tác ở văn phòng với một đồng nghiệp trực tiếp quản lí chị. Mối tình ấy bắt đầu từ khi chị còn là một thiếu nữ mơn mởn xuân sắc cho đến khi trở thành một phụ nữ trung niên mặn mòi. Hình như nó day dứt và sâu đậm đến độ chị không thể nhen nhóm những xao xuyến mơ mộng thoảng qua với những người đàn ông khác. Thật ra Hoàng, tên người đồng nghiệp ấy cũng chả có gì ràng buộc chị. Với năng lực chuyên môn và bằng cấp cao, chị luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, nên rất độc lập trong công việc. Những dịp đi công tác, những ngày làm thêm, những đợt học nghiệp vụ, những chuyến du lịch tập thể...tình cảm giữa họ cứ âm ỉ, chôn vùi rồi bùng phát lên như ngọn lửa rừng rực thiêu cháy tất cả những rào cản cuối cùng... và những điều tự nhiên nhất khi một người đàn bà và một người đàn ông yêu thương nhau đã đến.
Chị không thể quên cảm giác run rẩy, rối tung vừa hạnh phúc vừa xót xa khi chị từ chỗ hẹn với anh trở về nhà. Đó là lần đầu tiên họ lao vào nhau giống hai đứa trẻ thèm thuồng đói khát đến rạc cả người vừa được thỏa nguyện. Như hai kẻ cuồng tín bị hút vào một cơn mê muội lạ kỳ. Đó là cuộc yêu giữa hai người rất thân quen vẫn gặp nhau trong công việc, trong tất tật mọi sinh hoạt từ sáng đến chiều tối, mỗi ngày tám tiếng hoặc hơn tại cái nơi ngột ngạt và nhàm chán được gọi là "công sở" nhưng cực kì hấp dẫn trong vai trò mới: Người tình. Có những cảm xúc rất lạ, lạ lắm với những gì họ biết trước đó. Nó vượt trên tất cả các giá trị mặc định, những ý niệm thông thường và bay lên tầng mây mỏng manh, theo những cơn gió mê dại cuốn đi... Nhưng rồi chị đã dừng lại. Chị chủ động dừng lại vì anh đang có một gia đình êm ấm với người vợ tận tụy và những đứa con ngoan ngoãn.
- Anh thương em thật lòng thì hãy quên đi những gì mình đã trải qua...
Chị lấy hết can đảm tuyên bố, mặc cho dòng lệ dâng trào. Họ ngồi cách nhau cái bàn nhưng Hoàng vẫn tìm bàn tay chị nắm chặt.
- Anh không quên được, làm sao quên nổi chứ...
Chị nhìn anh, khác hẳn vẻ oai phong thường ngày, cái vẻ mà bao năm nay anh em nhân viên vẫn quen thuộc. Anh lúc này thật mong manh, đa cảm. Chị yêu anh hơn tất cả những gì mình đang có, chị không thể đánh cắp anh ra khỏi cái tổ ấm bé nhỏ và an lành của anh. Chị cương quyết kéo bàn tay bé nhỏ của mình ra khỏi bàn tay đang siết chặt của anh, đứng dậy:
- Em sẽ xin chuyển qua chi nhánh khác công tác.
Chị nói là làm. Sau bao nhiêu nỗ lực, chị cũng chuyển được về một chi nhánh nhỏ cách khá xa nơi làm việc cũ. Thế là xa nhau, hàng ngày không được nhìn thấy nhau là một sự chịu đựng tưởng như quá sức của họ. Chỉ cần thấy bóng người kia thoáng qua cửa, nghe tiếng nói, tiếng cười vẳng lại hay thậm chí trông một vật dụng quen thuộc của nhau trên bàn, cảm giác thân thương, yên tâm đã có thể ùa đến. "Hôm nay anh ấy có khỏe không, đi đường có an toàn không, có bận lắm không..." Phải mất thời gian khá dài chị mới quên dần được những mối quan tâm hàng ngày, hàng giờ như thế với riêng anh. Giờ đây mỗi thứ hình như chỉ còn một nửa. Niềm vui, sự hào hứng, những quyết tâm và thậm chí cả nỗi buồn. Chẳng còn gì là trọn vẹn nữa. Mỗi sáng chị không còn ngắm mình thật kĩ trước gương để chọn mặc áo màu gì, tô son màu gì, chải tóc kiểu gì. Tất nhiên là để đến cơ quan giao tiếp với bao nhiêu đối tác, khách khứa và đồng nghiệp. Nhưng trọng tâm nhất vẫn là anh, người đàn ông bí mật đã chiếm quá nhiều phần trong trái tim chị.
Nhưng rồi chị vẫn phải sống, phải làm việc và hết giờ thì tất tưởi về chăm sóc con trai. Ngày tháng cứ thế trôi đi, chẳng mấy nữa chị sẽ nghỉ hưu trí. Điện thoại lại đổ chuông réo rắt. Người gọi có vẻ kiên trì. Chị chậm rãi đứng dậy. Vẫn dãy số lạ ban nãy.
- A-lô?
- Có phải chị Thảo đấy không ạ?
- Vâng, chị là ai?
- Tôi là Hồng , vợ anh Hoàng Trưởng chi nhánh BT đây chị à.
- À, vâng vâng... chào chị...
Chị lại có cảm giác lúng túng. Trước đây chỉ nhắc đến tên "Hồng" là chị lập tức có cảm giác này. Giống như đứa trẻ trót ăn vụng chút bánh, dù bà chủ tiệm không hay biết nó vẫn có cảm giác gì đó gần như mắc cỡ. Nhưng hình như không chỉ vậy, còn là cảm giác ghen tuông, tủi hờn, cay đắng mỗi khi tiếp xúc với vợ Hoàng. Đó là người đàn bà "trong ánh sáng" công minh chính đại. Người đàn bà ngẩng cao đầu hiên ngang sánh vai anh ấy trước cả thế gian này. Chị biết mình mãi chỉ là người đàn bà "trong bóng tối" mà thôi. Đầu dây bên kia, chị Hồng nói tiếp:
- Anh Hoàng bảo tôi chỉ gọi cho riêng chị để báo một tin quan trọng...
- Thế à, có việc gì hả chị?
Chị linh cảm có điều gì đó chẳng lành. Phải có việc gì rất quan trọng anh ấy mới nhờ vợ gọi như thế, chị bỗng thấy ân hận sao mình không nghe máy sớm hơn...
- Anh Hoàng phát hiện bị ung thư giai đoạcn cuối đã hơn năm nay nhưng anh ấy giấu tất cả mọi người. Hiện giờ bệnh trầm trọng lắm rồi nên anh ấy nói tôi gọi cho chị...
Giọng vợ Hoàng đều đều bình thản nhưng chị thì không nghe tiếp nổi nữa. Chị không đứng vững được mà phải vịn vào cái lưng ghế tựa không thì ngã khuỵu mất.
- Tôi sẽ đến ngay...
Câu trả lời của chị đứt quãng, nghẹn lại...
Chị vừa bấm hồi chuông thứ nhất đã thấy cửa mở. Vợ Hoàng hình như đã chuẩn bị để đón chị. Chị lại bối rối khi đối diện với người phụ nữ này, chần chừ không biết nói gì.
- Mời chị vào nhà, anh ấy đang chờ chị..
Giọng vợ Hoàng đon đả, dễ chịu đến ngạc nhiên rồi mở cửa căn phòng nhỏ trên tầng hai và xin phép đi ra. Chị rón rén bước vào và giật mình.Trong ánh đèn vàng nhờ nhờ, không thể tin được người nằm trên giường kia là Hoàng. Anh gầy hốc hác, nước da xanh nhợt, mái tóc rụng gần hết sau lần hóa trị, duy có đôi mắt vẫn tinh nhanh, tỉnh táo như thường.
- Em đến rồi à! – Giọng anh vẫn dịu dàng, ấm áp như muôn lần anh nói cùng chị.
- Sao bây giờ anh mới báo cho em... – Chị thấy mình nghẹn lại, không thể nói tiếp lời.
- Anh giấu tất cả mọi người. Anh chỉ xin nghỉ phép để về quê. Anh không muốn mọi người lo lắng hay bàn tán. Gặp em rồi anh mới thông báo cho cơ quan.
Chị ngồi xuống cái ghế bên cạnh giường, giả vờ vén tóc nhưng thật ra là lau nước mắt. Bây giờ mình không nên tỏ ra bi lụy, thương xót kẻo càng làm anh ấy buồn. Chị lấy giọng tự nhiên, hỏi:
- Anh có uống sữa không để em pha?
- Em cứ ngồi cạnh anh, đừng bận tâm, Hồng đã chăm sóc bữa tối chu đáo cho anh rồi.
- Vâng, chị ấy gọi điện báo cho em nên em mới biết.
Lúc nào chị cũng ý tứ khi nhắc đến vợ Hoàng. Anh hiểu. Hiểu tất cả những điều chị không bao giờ nói ra. Anh khẽ gật đầu:
- Anh bảo cô ấy gọi báo cho em tình hình sức khỏe của anh, chỉ riêng em thôi.
Chị chưa tìm được câu hỏi thì anh đã trả lời:
- Anh đã nói tất cả với Hồng về chuyện của chúng mình.
Chị chết sững. Giờ chị đã hiểu thái độ bình thản của vợ anh. Đàn bà với nhau, chị hiểu đằng sau sự bình thản ấy thế nào. Chị trách:
- Anh kể ra làm gì. Đã giấu thì giấu luôn đi, anh làm khó cho em.
- Anh biết sự sống mình chỉ tính từng ngày nữa thôi, bệnh này thân thể kiệt quệ nhưng đầu óc thì tỉnh táo lạ kỳ.
- Đáng lẽ anh đừng kể với chị ấy!
- Đừng bắt anh làm thằng hèn cho đến chết!
Anh cắt lời chị, dõng dạc và mạnh mẽ. Chị nhìn anh, tính cách vẫn quyết đoán, cương trực y nguyên dù thân hình đang hao hụt dần... Chị nín lặng. Có thể chị quen mình vẫn là cấp dưới của anh trong công tác. Có thể chị thấy mình hơi quá lời. Chấp nhặt gì với anh lúc này nữa, thôi thì để anh được làm điều mình muốn cuối cùng vậy.
- Anh nợ em, nợ cả kiếp này. Anh hiểu sự chịu đựng của em để anh trọn vẹn là người đàn ông tử tế.
- Không đâu – Chị lắc đầu – Rất nhiều đàn ông coi chuyện ấy là bình thường, chuyện mèo mỡ với gái cơ quan, thời nay người ta coi là bình thường!
Chị bỗng thấy anh khóc. Chị hoảng sợ, vội nắm tay anh:
- Em xin lỗi... Nhưng đấy là sự thật. Người ta còn vô số nhân tình, con rơi chỗ nọ chỗ kia, anh đừng xúc động quá...Em chịu đựng cũng đã thành bình thường.
- Em chưa một lần đòi hỏi điều gì từ anh, chưa lần nào. Sao em không nói em cần gì đi cho anh đỡ day dứt? – Anh hỏi.
- Em yêu anh và biết anh yêu em, thế đủ rồi. Hồi trẻ em nghĩ điều ấy chỉ có trong tiểu thuyết nhưng bây giờ em tin.
- Anh hèn quá! – Anh lại ôm mặt nức nở – Giá như hồi ấy anh dám đến với em, chỉ còn một bước nữa thôi mà anh lùi lại. Anh hèn quá!
- Thôi anh ạ ! – Chị vỗ về anh – Đừng dằn vặt làm gì. Biết đâu khi sống cùng nhau lại không yên lành như với chị Hồng, em bướng bỉnh mà!
Chị nhoẻn cười cho anh đỡ căng thẳng. Anh bảo chị dìu anh nằm cao lên một chút, uống hết một li nước ấm rồi lại nằm xuống. Chị đỡ lưng anh, thấy nhẹ bỗng và gầy guộc, chị cắn môi nén tiếng khóc.
- Dù được sống với em ngắn ngủi, một tháng, một năm hay cả đời, với anh mới thật là đáng sống. Anh đã tiêu phí cuộc sống của mình bằng vở diễn nhạt nhẽo dưới vỏ bọc một gia đình êm ấm thuận hòa để bảo toàn chức vụ, để nhân viên kình nể. Anh hèn lắm!
Chị không nghĩ anh lại mạnh mẽ quyết liệt như thế trong hoàn cảnh này. Nhưng mà cũng để làm gì nữa. Mọi thứ đã an bài.
- Anh giận em!
- Anh nói gì? – Chị ngạc nhiên, run rẩy hỏi.
- Sao em không cướp anh đi, không tuyên chiến mà lại từ bi làm gì?
- Em không thể... Còn các con anh, còn cương vị lãnh đạo của anh...
- Đóng trọn một vai gương mẫu, rồi anh cũng bị ung thư, hết thuốc chữa và trả một kiếp này. Trên bia mộ ghi tên một ông Hoàng với năm sinh và năm mất lẫn trong cả tỉ ông Hoàng khác. Rồi sao? Hết cơ hội để sống với người đàn bà mình yêu đến chết. Đúng hơn là chưa bao giờ dám nghĩ đến một cơ hội. Anh hèn quá!
Chị bắt đầu hoảng sợ. Hay bệnh tình đã khiến anh quá khích nhỉ. Cứ như thế này thì không biết làm thế nào. Chị thấy tủi thân. Sao anh lại khắc nghiệt quá vậy. Sao anh lại trách móc chị như thế chứ. Chẳng nhẽ sự hi sinh của chị lại chính là tội lỗi hay sao. Chị nhìn ra cửa. Anh chợt bảo:
- Em về đi. Nhớ giữ gìn sức khỏe. Anh đã nói hết những điều cần thiết. Cám ơn em ghé thăm.
Chị chần chừ, lưỡng lự không muốn đứng lên. Anh gắt:
- Em về đi. Từ nay không có anh, em không cần hi sinh vì điều gì nữa!
Anh bấm cái chuông nhỏ đầu giường. Chị Hồng xuất hiện. Anh bảo:
- Em tiễn cô Thảo về rồi cho anh uống thuốc. Ngày mai thông báo đến cơ quan bệnh tình của anh nhé.
Chị mím chặt môi, chúc anh chóng khỏe. Vợ Hoàng tiễn chị ra tận ngoài cổng, cám ơn và chào rất nhã nhặn. Ngoài đường đã khá khuya, bóng người thưa thớt, cái lạnh đầu đông ùa về. Chị đi như người máy rồi chợt dừng lại. Chị quay nhìn lần cuối cánh cổng ngôi nhà vừa khép lại rồi cố sức bước đi.
Vũ Thanh Hoa
***
24
Cây Tre Trăm Đốt
Hồi nhỏ, tôi là thằng bé hạnh phúc nhất trần đời. Bà ngoại ngày nào cũng kể mà không khi nào cạn kho tàng truyện cổ tích nước Nam. Còn tôi, cứ nài kể hoài không chán một truyện " Cây tre trăm đốt ", nhất là câu thần chú diệu kỳ ấy.
Khắc xuất - tức thì cả trăm đốt tre đều tăm tắp rời ra để anh tá điền hớn hở bó gọn mà tung tảy gánh về. Lão phú hào ré cười, vừa được vô khối tre dùng cho trăm công nghìn việc cần kíp ngoài đồng cũng như trong nhà, lại được dịp nhạo báng thỏa thuê kẻ mắc lỡm mưu cao của mình. Khắc nhập - lập tức cả trăm đốt tre liền ngay lại thành cây cao vút, dính chặt lão phú hào gian ngoan lên tít đầu ngọn. Sợ vãi linh hồn, tên phú hào xuống nước cầu khẩn thảm thiết xin tha mạng sống và thề bồi đủ điều cam đoan giữ đúng lời hứa gả con gái rượu…
Lanh trí, anh lực điền điềm tĩnh bảo " trí thông minh tao cất ở nhà " mà trói nghiến mãnh hổ vào đòn tre, buộc phải ngoan ngoãn thay trâu kéo cày ! Hay sứ giả nhà ta thông minh không chỉ chữa thẹn mà còn mắng nhiếc quan tể tướng thiên triều láo xược vẽ chim sẻ tiểu nhân đất bắc đậu trên ngọn tre quân tử phương nam.
Nói vậy. chứ tôi đâu có hiểu hàm ý sâu sắc về sự đắc dụng thân thiết của cây tre với dân ta gói trong khẩu lệnh thần thông " khắc xuất khắc nhập " ấy.
Cây cỏ nhiệt đới xứ ta phong phú, đa dạng. Trong đó, tre là đầu bảng. Tre gộc thì dựng nhà che mưa tránh nắng, vót nhỏ thành đôi đũa cho bữa ăn mỗi ngày, vạt đi làm vai bừa, cán cuốc làm đất cấy trồng, chẻ ra đan thành cái giần cái sàng trau chuốt hạt gạo ngọc ngà. Tinh xảo là đàn là sáo rộn rã đình đám .Tới khi giặc đến nhà, tre cũng thành vũ khí chống trường trận – cây chông tre
Tre trên thế giới đâu chẳng có , lại nhiều vô kể, cả về số lượng lẫn chủng loại. Nhưng cái diều sáo quê ta đi dự liên hoan quốc tế bên trời Tây cứ được tôn là thú chơi nghệ thuật dân dã, tinh tế độc nhất vô nhị.
Tôi là đứa trẻ hạnh phúc thêm một bậc. Ông ngoại tôi là người làm và thả diều sáo nhất làng. Ông lụi hụi cả tháng tìm chọn đủ năm cây tre đực làm con diều bự sải cánh vài mét. Giấy làm diều cũng phải là thứ giấy ta làm thủ công truyền thống bằng bột tre và dán bằng nhựa cây để chịu đuợc gió lộng. Ngay dây diều cũng phải làm bằng tre cật đập dập, se lại và ngâm nước muối mặn đúng một ngày một đêm cho thật dẻo dai. Kỳ tình nhất là bộ ba cái sáo dài ngắn, kích cỡ và khoét lỗ hoàn toàn khác nhau để có những âm sắc riêng. Nhưng lại phải đúng niêm luật để các thanh âm ấy hòa quyện khi cao vút, lúc trầm lắng theo độ lên cao xuống thấp con diều , khi khoan lúc nhặt theo gió thổi. Chiều chiều ông ngoại mang diều ra thả ngoài bãi đê cho thằng cháu tha hồ chạy nhảy theo con diều lượn lờ theo nhịp điệu, tiết tấu ngẫu hứng âm thanh tự nhiên. Đến khi tắt hẳn nắng, ông ngoại lại dìu con diều sáo về cột vào búi tre đầu ngõ. Tới lúc này, tiếng sáo diều lại khoan thai như tiếng ru ngọt ngào đưa con trẻ bọn tôi vào giấc ngủ thần tiên, như tiếng thủ thỉ gọi trai gái hẹn hò.
Khác với quốc thụ cây phong người Canada , hay anh đào quốc thụ của Nhật, tre của ta không ru rú làm biểu trưng làng quê ta mà dấn thân vô cách mạng kỹ thuật. Tre đốt thành than, ép thành dầu… đã thành vật liệu cho công nghệ mũi nhọn nano hiện nay. Không chừng nay mai, nhưng đồ kỹ thuật số máy tính, điện thoại di động đời mới nhất lại chẳng đuợc trang bị lõi nhớ từ thành phần than tre quê ta ấy . Còn tre được dùng để bảo vệ môi trường đã thành hiện thực. Bản thân tre hấp thụ kim loại nặng gây ô nhiễm đất để phát triển sinh khối mà tạo nên tốc độ phát triển khó có loài thực vật nào sánh bằng. Bộ rễ của nó sục bùn tạo môi truờng giàu ô xy cho các chủng vi sinh sinh sôi mà xử lý nước thải diệu kỳ như không. Cứu cánh tạo dựng làng tre sinh thái ở Bình Dương của tiến sỹ Diệp Thị Mỹ Hạnh là đó. Cũng chính vì tre đầy những đặc trưng như con nguời Việt mà vùng Rhones Alpes bên Pháp đã sẵn sàng tài trợ tài chính, các cô gái Pháp nhiệt thành Julie, Pauline… tình nguyện bốn năm góp phần biến 10 ha triền đất Phú An hoang vu toàn cỏ nác thành một thảm xanh tre ngút ngàn - hơn trăm giống với ba trăm loài, nào là tre mây Bắc Cạn, tre vuông Phú Thọ, tre ngà Thái Nguyên, tre hóp Hà Tĩnh… đủ cả. Bởi vậy ngày khai truơng chính thức Làng tre sinh thái An Phú được đưa ngay vào chuơng trình hoạt động của Tuần văn hóa Pháp tháng tư ở ta
Cây tre trong tâm trí tôi giờ đã là trăm lẻ một đốt rồi.
lêlành
***
23 - Mưa Biển
Vũ Thanh Hoa
Mỗi khi bước vào thang máy là chị cứ mong được vô tình gặp Dũng. Đó là sự mong muốn vô thức, chị không hề cố ý. Họ làm việc cùng một tòa nhà nhưng cách nhau đến cả chục tầng, họ quen nhau vì một lần va chạm xe máy, kỉ niệm rất vui. Cả hai làm hòa bằng một lần đi uống cà phê, chẳng ngờ khi trò chuyện với nhau lại hợp đến lạ kỳ. Rồi sau đó họ thường cùng nhau đi nghe nhạc, xem phim và chia sẻ đủ thứ chuyện trên đời.
Dũng bảo:
- Em không biết sau này có thể gặp ai nói chuyện hợp như chị không.
- Có rất nhiều lần mình tưởng như thế rồi không phải. Những mối quan hệ mới lại dẫn dụ mình những hứng thú mới. – Chị mìm cười, bảo Dũng.
Cậu ta lắc đầu:
- Em không có lầm tưởng. Em có nhiều bạn gái lắm nhưng chằng ai nói chuyện hợp như chị, nói mải chẳng muốn dừng.
Chị tránh ánh mắt trìu mến của Dũng. Để im bàn tay như ngầm cảnh cáo cái chạm nhẹ đầy ngụ ý. Rồi chị nhắm mắt, cố mường tượng ra khuôn mặt thân thuộc của Quang, người chồng sắp cưới đang đi du học.
Dần dà chị coi Dũng như một cậu em trong nhà và Dũng cũng vậy. Chị hay kể về Quang, những tin tức, lời thăm hỏi của anh và tất cả vui buồn của giữa họ: những lúc hai người có chuyện giận hờn hoặc cả những nỗi nhớ nhung xa cách. Dũng nghe rất chăm chú và thường động viên, khuyên nhủ chị. Ngược lại, Dũng cũng chia sẻ với chị về những những "chiến công" cưa cẩm các cô gái và cả những những cú "thất tình" vui vẻ.
Một lần, ngồi cà phê với nhau, thấy Dũng có vẻ hơi khang khác, chị hỏi:
- Chị thấy em thế nào ấy, có chuyện gì không?
Dũng nhìn ra biển, những con sóng đang vẽ những vệt trắng mơ màng lên làn nước xanh thẳm. Chiều phố biển đẹp và bí ẩn. Những cặp đôi thong thả dạo bước hoặc ngả đầu tình tứ bên nhau. Thấy Dũng im lặng, chị cũng không hỏi thêm, lắng nghe một bài tình ca vẳng ra từ chiếc loa phía góc bên phải họ ngồi. Chợt Dũng nói:
- Chắc em phải có người yêu thôi chị nhỉ.
Chị hơi bất ngờ, nhưng trấn tĩnh ngay, mỉm cười vô tư:
- Ừ, tất nhiên, đó là điều đương nhiên mà.
Dũng lại trầm lặng khác thường, cũng hơi lạ so với bản tính vốn sôi nổi và hóm hỉnh thường ngày. Chị bảo:
- Sắp có người yêu mà sao bối rối thế, cần chị giúp gì không?
Dũng tảng lờ câu hỏi của chị. Hôm nay vẫn vui, vẫn dễ chịu nhưng hình như có cái gì khang khác. Chị nghĩ mình không có quyền quá tò mò. Nếu mình quan tâm quá sẽ là có lỗi với Quang. Hôm qua anh ấy báo là cuối năm sẽ về, chị nhẩm tính từ bây giờ đến cuối năm còn tròn ba tháng nữa, ừ, ba tháng nữa. Chị thấy bình thản, không quá mong đợi mà cũng không quá thờ ơ. Quen nhau lâu dài, bình yên và chắc chắn, chị biết anh sẽ yêu chị, chung tình với chị, sẽ cưới chị và tử tế với chị suốt đời. Đó là phần phúc của từng người đàn bà mà Thượng đế không chia đều cho tất cả.
Chị nhìn đồng hồ, phải về thôi. Cách nhau nửa vòng trái đất, buổi tối bên này là buổi sáng nơi Quang đang sống và học tập. Xa nhau, chỉ gặp nhau qua mạng, anh mong ngóng chị từng phút. Nhưng họ cũng cũng chỉ biết hỏi nhau: "anh khỏe không, em khỏe không", "hôm nay có gì mới không, có gì vui không, em có nhớ anh không..." nói mãi cũng hết đề tài, nhưng sợ anh buồn mà chị phải nghĩ ra một chuyện gì đó, một câu gì đó để anh an tâm, hài lòng... rồi chị lại thấy áy náy vì hình như mình không nói thật, mình không chia sẻ được những suy nghĩ hiện tại với anh. Hay là mình đã "xa mặt cách lòng" mất rồi, mình bị phân tâm mất rồi...
Hai người bước chậm bên nhau, đã thành qui ước, gần đến cổng nhà chị một đoạn thì Dũng sẽ quay về. Bỗng dưng cậu ta dừng lại. Chị cũng dừng lại. Chị vẫn không hỏi gì. Chơi với nhau bao lâu, chị biết tính Dũng. Điều gi cậu ấy muốn nói thì sẽ nói, chả cần phải gặng hỏi, mà điều gì cậu ấy không muốn nói thì thôi, cứ để trong lòng. Chia sẻ không có nghĩa là phải nói tất cả. Im lặng đi bên nhau cũng là sự chia sẻ thú vị. Rồi Dũng hỏi:
- Nếu có người yêu thì làm gì nhỉ?
Chị cười phá lên, hơi lớn tiếng so với cần thiết. Buồn cười thật, một chàng trai lừng lững khôi ngô tuấn tú sắp ba mươi tuổi rồi, mà lại hỏi vậy. Chị nghĩ là cậu ta đùa, nên buồn cười quá. Chị vừa cười vừa bảo:
- Thôi nhé, không tư vấn cho em chuyện này đâu. Có người yêu thì tự khắc sẽ biết!
- Tất nhiên là em thừa biết, nhưng mọi ham muốn sẽ qua nhanh thôi, chỉ sự say đắm là làm mình nhớ mãi.
Chị thấy hụt hơi, chị nhạy cảm, chị sợ những điều mình vẫn tránh né bấy lâu bỗng nhiên ùa đến đột ngột và mãnh liệt. May quá mình hơn cậu ấy về tuổi đời và kinh nghiệm, mình là "chị".
- Bỏ ra khỏi đầu những ám ảnh, thoải mái cho một cuộc tình mới em nhé.
Chị nói dịu dàng, nhưng dịu dàng quá mức. Mình có làm sai gì không. Mình có lỗi với ai không nhỉ? Có lẽ phải dừng lại ở đây thôi, dừng lại trước khi nó bắt đầu.
- Thôi em về đi – Chị bảo Dũng – Đến đây chị tự về được rồi, anh Quang chắc lại đang ngồi bên máy chờ chị.
- Dạ. – Dũng đáp ngoan ngoãn như mọi lần.
- À – Chị quay lại bảo Dũng – Tạm thời thời gian tới đây chị rất bận, khi nào rảnh thì chị em mình hãy gặp nhé.
- Dạ.
Họ quay đi, bước về hai phía. Gió biển mùa thu ấm nồng là thế mà chị thấy lạnh buốt lạ thường.
Và thế là hơn hai tháng trời nay họ không liên lạc với nhau. Cùng làm việc tại một tòa nhà nhưng họ cũng không chạm mặt nhau.
Nhưng mà không thể không nghĩ về Dũng. Chị thấy mình hụt hẫng điều gì đó thật khó diễn tả, thấy buồn bã lạ lùng. Nhiều khi chị mở điện thoại để nhìn thấy tên Dũng trong danh bạ rồi thôi, lên mạng nhìn thấy cái ảnh của cậu ấy đang nheo nheo mắt rồi thôi. Quang đang phấn khởi nói với chị về một đám cưới gần. Anh gửi cho chị các mẫu váy cưới sang trọng từ nước ngoài và kế hoạch đi nghỉ tuần trăng mật. Anh học về kinh doanh nên tính toán việc gì cũng đâu vào đó, đúng là một người chồng lí tưởng. Anh bảo:
- Vợ anh đúng là cô bé lãng mạn, bàn chuyện đám cưới mình mà cứ như nghe chuyện của ai. Em có mong đến ngày làm vợ anh không?
- Có chứ ạ, người đàn bà nào chẳng mong mình lấy được người mình yêu. (Chị bấm vào icon mặt cười).
- Anh yêu em. Hôn em nhé. Ngủ ngon. – Anh cũng bấm vào mặt cười rồi tắt máy.
Chị đắp tấm chăn có in những họa tiết vui mắt lên mình. Căn phòng vắng lặng đến mức hình như nghe thấy cả tiếng lá cây đang rơi ngoài thềm. Chị lại thấy buồn mênh mang. Kỳ cục quá, sắp đám cưới với người yêu gần chục năm trời mà thấy buồn là sao chứ. Thôi cố ngủ đi để khỏi nghĩ ngợi, bỗng điện thoại rung lên báo có tin nhắn. Hơi ngạc nhiên, chị mở máy nhìn: "Chúc chị ngủ ngon nhé" – Là tin nhắn của Dũng. Sao tay mình lại run thế này, sao tim mình đập mạnh thế này. Trời, sao mình mừng thế này. Chị cương quyết, tắt máy, không trả lời. Nhắm mắt ngủ. Nhưng sao giấc ngủ không đến. Trằn trọc mãi, chị lại nghĩ ngợi: Sao mình không trả lời thằng em thân thiết bấy lâu nhỉ. Trả lời một tin nhắn bình thường như thế chỉ là một hành vi ứng xử theo phép lịch sự, mình nghiêm trọng lên làm gì. Chị ngồi dậy, mở đèn, mở điện thoại, nhắn: "Chị cũng chúc em ngủ ngon. Bye." Dũng nhắn lại liền: :"Dạ. Em nhớ chị". Chị tắt máy thật nhanh. Dứt khoát không không đọc nữa. Chị trùm chăn lên đầu. Cấm được nghĩ ngợi gì nữa. Ngủ thôi! Ngủ thôi! Bỗng chị cảm thấy hình như có những giọt nước mắt rón rén, run rẩy lặng thầm rơi trong sâu thẳm... Chị nhắm mắt lại ngủ thiếp đi nhưng nơi bờ môi lại đọng một nụ cười...
Thang máy dừng lại, cửa mở, một áo kẻ sọc bước vào. Chị giật mình. Dũng đứng trước mặt chị: cao lớn, trẻ trung, ánh mắt rạng ngời. Họ nhìn nhau. Bao nhiêu lâu rồi không gặp. Mười năm hay một thế kỷ nhỉ. Chị nhìn đi chỗ khác lảng tránh nhưng vẫn thấy mình run rẩy.
- Em khỏe không. – Chị hỏi.
- Em bị ốm.
Chị nhìn trộm Dũng: Đẹp trai ngời ngời thế kia mà bệnh gì? Xạo ghê! Nhưng mà chị vẫn thấy lo lắng, hay là cậu ấy bệnh thật? Mình vô tình quá?
- Em bị ốm làm sao?
- Em bị viêm họng, cũng đỡ rồi chị ạ.
- Uống thuốc chưa?
- Dạ, em uống rồi.
- Ăn uống thế nào?
Chị lại thấy họ thân quen như chưa hề có thời gian xa cách. Cậu ấy vẫn như đứa em nhỏ của mình, vẫn chia sẻ với nhau mọi chuyện vớ vẩn nhất như mọi khi. Thang máy mở cửa, đã đến tầng trệt, họ cùng bước ra. Dũng mỉm cười:
- Ăn uống cũng đỡ rồi chị ạ, đã có người lo cho em.
- Thế à, mẹ em chuyển về ở cùng với em hả?
- Không ạ... em có người yêu rồi. – Dũng nói, vẻ lúng túng.
Chị phác một nụ cười, nhưng một nụ cười thật khó khăn. Dũng có người yêu là điều đương nhiên mà, chị vẫn mong thế mà, họ vẫn bông đùa biết bao lần về điều này mà...
- Chúc mừng em, cô bé nào may mắn thế?
- Cô bạn đồng nghiệp tên Lan, chị cũng biết mà.
Chị nhớ ra rồi, cô bé làm cùng với Dũng, xinh xắn, ngoan ngoãn, dịu dàng.
- Ôi, Lan thì tuyệt vời quá, nhưng sao bây giờ mới nhận ra nhau hả em?
- Em biết cô ấy quý mình lâu rồi... – Dũng bỗng dưng thở dài – Nhưng tình yêu lại kỳ lạ lắm, nó không phải là sự biết ơn nhau chị à.
- Ừ... – Họ im lặng. Chị lại thấm thía hơn sự chia sẻ trong im lặng. Đã ra đến cổng, họ chào nhau. Chị một mình đi về. Thôi từ đây cậu ấy đã có người chăm sóc, chia sẻ vui buồn, mình thật yên tâm.
Đang xem các mẫu hoa cưới thì cô em gái bảo có người tìm. Nghĩ là anh thợ quay phim đến bàn lại địa điểm làm Album cưới nên chị thủng thẳng bước ra. Chị hơi ngạc nhiên khi thấy Dũng, trông rất bảnh bao chững chạc.
- Ôi, em... – Chị không giấu nổi nỗi vui mừng. Dũng chậm rãi đưa ra một tấm thiệp cưới màu đỏ.
- Em cưới vợ hả? – Chị bất ngờ quá, không biết nói gì nữa, cứ tròn xoe mắt nhìn.
- Vâng, Lan là một người con gái tốt. Chủ nhật chị đến dự với chúng em nhé.
- Ừ – Chị mỉm cười – Đúng là tuổi trẻ. Yêu tốc hành, cưới tốc hành. Mình lạc hậu thật rồi.
Bây giờ mới thấy Dũng mỉm cười, cậu ấy đứng dậy, chào chị rồi quay bước, chị cầm tấm thiệp vào trong nhà. Bỗng chị nghe Dũng gọi :
- Chị ơi ?
- Ừ, em ? – Chị ngơ ngác.
Dũng đứng đối diện chị, chững chạc bình thản. Cậu nhìn sâu vào mắt chị rồi nói dịu dàng :
- Em muốn chị nói với em một câu gì đó. Chỉ một câu với em thôi, em sẽ nghe lời chị.
Chị thấy trái tim mình run rẩy. Chị muốn ôm chặt Dũng. Chị muốn nói rất nhiều điều mà bao ngày qua họ cố gắng không nói với nhau nhưng... Chị dùng hết tất cả sức lực mỏng manh cuối cùng của mình để kìm lại, nói với Dũng :
- Em về đi. Chị chúc em mãi mãi hạnh phúc.
Chị quay vội đi, chạy vào nhà, ngồi xuống giữa đống hoa cưới và đồ cưới ngổn ngang. Chị mỉm cười : mình sẽ không khóc, không khóc đâu. Rồi chị nhìn ra ngoài cửa sổ : Biển vẫn đang đón những cơn sóng trắng lan tỏa trong chiều tím. Hình như dự báo thời tiết tối nay có mưa. Chị sẽ ngồi tĩnh lặng một mình để cảm nhận mưa buồn và lạnh đến mức nào trong căn nhà bình yên của mình.
Vũ Thanh Hoa
***
Đường Quê Ra Tỉnh
(trao về các bạn hữu quê Bình Dương)
Bé Trí mới được mười tuổi, nó rất thông minh, lanh lợi. Cả gia đình vui với tiếng cười, giọng nói ngây thơ, hồn nhiên, không chút vướng bận ưu phiền của nó. Sáng nay, nó thức dậy thật sớm, sửa soạn quần áo gọn gàng, đi tới đi lui, nói cười luôn miệng như con chim đang nhảy nhót líu lo trên cành. Thỉnh thoảng nó liếc nhìn cái đồng hồ treo trên tường, rồi liếc nhìn ba mẹ nó ra vẻ sốt ruột. Nó sợ trể giờ lên đường đi cắm trại tám tuần với các bạn .Chương trình nầy, nó và tôi đã phải tranh đấu cả tuần, ba mẹ nó mới bằng lòng.
Những đứa trẻ sinh ra và lớn lên ở các xứ văn minh, đầy đủ tiện nghi, đầy đủ vật chất như Mỹ và Canada, trong mùa hè, đi nghỉ mát, đi cắm trại cần thiết như sự ăn uống của các đứa trẻ sống ở các nước nghèo. Bé Trí như con chim nhỏ bị nhốt trong lồng suốt mùa đông dài, nó mong được sổ lồng, được bay lượn trong bầu trời bao la, được tận hưởng cảnh vật thiên nhiên nơi miền rừng núi. Tôi mỉm cười vui lây với sự vui sướng hồn nhiên của tuổi trẻ, tuổi ngây thơ " cơm cha áo mẹ công thầy ". Cái tuổi mà tôi, tất cả mọi nguời đã đi qua và tất cả mọi người đều nuối tiếc.
Dù tuổi trẻ của tôi không sung sướng, không đầy đủ vật chất như bé Trí cháu ngoại tôi bây giờ nhưng trái tim tôi chứa quá đầy tình yêu, yêu cha mẹ, yêu quê hương, yêu lũy tre làng, bên dòng suối mát, mội Thầy Thơ thơ mộng, yêu vườn cây ăn trái, ngọt, bùi, chua, chát, đầy đủ hương vị của quê hương. Riêng với cha mẹ, có biết bao kỷ niệm vui buồn, biết bao thương yêu, biết bao khó nhọc, biết bao công lao, làm sao kể hết công ơn của thầy mẹ tôi, hai đấng sanh thành đã suốt đời tận tụy vì đàn con của mình!.
Thầy tôi, khi nhắc đến hai chữ nầy, lòng tôi buồn rười rượi,gợi lên hình ảnh người cha gương mẫu, hiền lành mà tôi luôn gọi là " thầy ". Tất cả anh em trong nhà đều gọi bằng ba cũng như các trẻ trong làng đều gọi cha của mình bằng ba hay tía, nhưng tôi thì gọi bằng thầy. Có lẽ lúc tôi chào đời, cha tôi đang dạy học ở trường làng của tôi, nên tôi và bà con cả làng đều gọi là thầy. Thầy tôi mồ côi mẹ từ thuỡ lên ba, ông nội tôi tục huyền, có thêm một đàn con nheo nhóc. Sau giờ dạy học, thầy tôi lo ruộng rẫy phụ giúp nội tôi. Suốt cuộc đời, lúc nào thầy tôi cũng chịu khó, cần mẫn và lấy chữ " tín nghĩa " làm đầu.Thầy tôi không ham danh lợi bạc tiền, lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Thầy tôi sống một cuộc đời đạm bạc cho đến khi ông nhắm mắt lìa đời. Cái kho tàng thầy tôi để lại cho tôi, cho cả các anh em tôi là tình yêu thương, lòng nhân ái và lối sống đạo đức " ở hiền gặp lành ".
Tôi sanh ra và lớn lên trong làng quê hẽo lánh, dòng máu, bộ óc non nớt của tôi đã được thầy tôi đào tạo. Tôi bước từng bước khó khăn từ quê ra tỉnh, từ một thằng bé đầu cạo trọc, không có một đôi dép mòn trên đôi chân nhỏ bé, lặn lội trên năm cây số đường dài, mỗi ngày hai buổi sáng đi chiều về, đi học ở trường tiểu học tỉnh lỵ.
Trời còn lờ mờ sáng, tôi ôm cặp sách vở và một gói cơm ăn trưa, đứng chờ để đi theo các bà hàng rong gánh rau cải ra chợ tỉnh. Hôm nào các bà đi chợ trễ, tôi hồi hộp lo âu, vì khi qua hết các đường hẻo lánh, qua hết cái dốc Chín Xướng, dốc Chánh Thiện, dốc cầu Ông Đành là tôi phải chạy hết hơi để đến trường cho kịp giờ học.
Tôi sợ nhứt mà cũng thích nhứt là cái dốc Chánh Thiện. Nó cao thoai thoải, khi lên dốc không mệt, vừa đi vừa ngắm cảnh. Đứng trên đầu dốc, tâm hồn thảnh thơi mở rộng tận hưởng cảnh đồng ruộng bát ngát bao la, vào tháng mười một, lúa chín vàng cả một chơn trời, chan hoà với vài tia nắng vàng còn sót lại trong buổi chiều cuối thu. Buổi sáng bình minh, mặt trời vừa ló dạng, to và đỏ ửng toả ánh sáng lung linh, làn gió nhẹ lưót trên ngọn lúa non xanh mưót, tạo thành một làn sóng biển bao la trên cánh đồng mênh mông.
Con suối Giữa quanh co uốn khúc chạy dọc theo con đường, xuyên qua cánh đồng lúa phì nhiêu. Suối mang lại cho dân làng một nguồn nước trong xanh mát lịm, nuôi ruộng lúa xanh tươi, nuôi cây trái đơm bông kết nụ. Những hạt cát nhỏ li ti trông như những hạt kim cương, không biết từ đâu chảy theo dòng nước dưới dốc Chánh Thiện. Nơi đây con suối nở to ra và sâu, đầy cát. Dân làng thường đến đây lấy cát về xây nhà vì thế càng ngày nó càng sâu rộng, giống như một cái hồ nho nhỏ. Dân làng cũng thường tới đoạn suối nầy để tắm rửa. Khách bộ hành cũng thường ghé đó nghỉ chân vào những buổi trưa chiều mùa hè nóng bức, rửa mặt ướt đẵm mồ hôi. Những bữa đi học về, tôi thưòng xuống bờ suối, nhẹ nhàng nhúng chân vào nước, ngồi thả hồn vào cõi xa xăm, tai lắng nghe tiếng suối róc rách chảy. Tiếng suối êm đềm không tha thiết u buồn như tiếng sáo của Trương Chi, không cao sang như tiếng dương cầm của nàng tiểu thơ đài các. Tiếng suối mộc mạc, hồn nhiên như tiếng reo vui, như tiếng cười khúc khích của những đứa trẻ trong làng quê . Êm ả thay, dòng nước mát!. Dịu dàng thay, tiếng suối miền quê tôi! Tâm hồn tôi cũng dịu mát êm đềm như con suối Giữa thân yêu, đã gắn liền với tôi suốt cuộc đời thơ ấu!
Trên đầu dốc Chánh Thiện, cạnh bên đường, trải dài một nghĩa trang của người Tàu, những nấm mồ, cái thấp cái cao, cái cũ cái mới, cảnh vật u buồn. Thương thay cái kiếp con người, dầu giàu sang, danh vọng, khi chết đi cũng bỏ xương ngoài cánh đồng, trơ trọi cô đơn! Những buổi chiều mưa phùn gió bấc, sấm sét rền vang, khi đi qua nơi nầy, tôi nín thở chạy như bay, không bao giờ dám nhìn lại cái nghĩa địa hoang vu đó.
Cái dốc Ông Đành thì ác nghiệt hơn, nó cao vòi vọi lại quanh co rất khó đi, xe xuống dốc rất dễ bị tai nạn. Nhiều người đã chết nơi đây, thân nhân người chết đã lập nhiều bàn thờ dưới gốc cây đa già ở cuối con dốc, hương khói nghi ngút thường xuyên. Người ta nói có nhiều oan hồn người chết chưa siêu thoát hay về phá phách nên dân làng đã cất lên ngôi chùa Đức Sơn ở trên đầu dốc. Ngôi chùa nhỏ đơn sơ nhưng không kém phần cổ kính trang nghiêm, chung quanh chùa có nhiều cây to bóng mát. Ngôi mộ lâu đời của nhà sư trụ trì đầu tiên, rêu phủ xanh rì, lỗ chỗ đốm trắng đốm đen trịnh trọng đứng trước cửa chùa như sẵn sàng mời đón khách khách thập phương thiện nam tín nữ đến cúng viếng.
Những ngày lễ, ngày rằm tôi thường đi theo mẹ tôi lễ Phật. Có một lần mẹ tôi bịnh nặng, ba tôi phải chở lên chùa để trị bịnh. Tôi đã ở đó nuôi mẹ tôi mấy tuần lễ, tiếng chuông chùa ngân dài trong sáng sớm bình minh hay trong những buổi hoàng hôn nắng vừa tắt khiến cho lòng tôi thanh thản vô cùng. Hình ảnh đức Phật từ bi đã khắc sâu trong trái tim thơ dại của tôi từ thuỡ ấy.
Có những buổi chiều đi học về, trời mưa tầm tã, áo quần ướt nhẹp, tôi giống như con chuột lột, gió lạnh buốt da.Trời vừa tối lại sấm sét liên hồi, do trí tưởng tượng trẻ con, bóng dáng con ma xõa tóc, con quỷ lưỡi dài hiện ra trước mặt tôi. Hồn phi phách tán, tôi chỉ còn nước chạy như điên. May thay gặp chiếc xe bò đang từ từ lăn bánh, tôi xin được quá giang một đoạn đường. Ôi! tôi vui sướng biết bao, niềm hạnh phúc đã đến với tôi, lâng lâng như tôi vừa lên được thiên đàng.
Thiên đàng và địa ngục cách nhau chẳng xa, một buổi chiều, không biết hồn ma bóng quế nào đã theo phá tôi. Một bác chạy xe đạp xuống dốc, đường rộng thênh thang không chạy lại chạy đâm vào thằng nhỏ lang thang một mình trên đường vắng. Không biết vì nguyên do nào ông ta đã cùng chiếc xe đạp lủi vào tôi.
Khi tỉnh dậy, tôi thấy mẹ đang xoa đầu tôi, nước mắt chảy dài xuống má, mẹ tôi nghẹn ngào vừa khóc vừa cười, ôm tôi vào lòng.
Mẹ tôi, người mẹ suốt đời hi sinh tận tuỵ cho đàn con. Mẹ tôi có tất cả mười một đứa con trai, tôi là đứa thứ mười, cả nhà cứ tưởng tôi là út nên tôi rất được cưng chiều. Mẹ tôi cũng cưng tôi hết mực. Bất ngờ làm sao, chỉ hơn hai năm sau, mẹ tôi lại sanh thêm một cậu nữa, lúc đó cả nhà sữa lại cách gọi, gọi tôi là út lớn, em tôi là út nhỏ. Dầu tôi không còn là út độc quyền nhưng tình thương của mẹ dành cho tôi không giảm tí nào mà lại có phần tăng thêm, vì các anh lớn, thầy tôi đã gởi đi Sài gòn học, chỉ còn hai đứa út ở lại với thầy mẹ thôi.
Tất cả công việc trong nhà, cơm nưóc, săn sóc đàn con, một mình mẹ tôi lo liệu. Mẹ tôi còn phụ thầy tôi chăm lo khu vuờn quanh nhà. Vườn nhà tôi đầy đũ loại cây ăn trái, mùa nào cũng có huê lợi thu vào; vườn rau của mẹ tôi lúc nào cũng xanh tươi. Mẹ tôi vất vả suốt ngày, ít khi mẹ nghỉ, tôi chỉ thấy mẹ tôi ngồi, đó là lúc mẹ tôi vá quần vá áo cho chúng tôi. Mẹ tôi vui với vườn cây, vườn rau cải và sống hạnh phúc bên cạnh chồng con. Tôi chưa bao giờ thấy mẹ tôi giận dữ, trách móc thầy tôi hay rầy la chúng tôi. Chỉ thấy mắt mẹ lo âu, đượm buồn khi mẹ nhìn thấy đàn con thiếu thốn.
Mỗi ngày, mẹ tôi thức dậy thật sớm chuẩn bị cơm nước cho tôi ăn và dỡ một phần mang theo ăn trưa. Mẹ tôi rất cẩn thận, thường bà để cơm vào chiếc mo cau ép lại, gói theo một con cá khô, một miếng thịt ướp sả nướng hoặc một quả trứng luộc với muối tiêu, vv.. Ngoài ra, tôi còn có trái cây theo mùa, vú sửa, mận, dâu, bưởi, nhản, trái trưòng, vv.. Trái trường, một loại trái cây rừng, nhỏ bằng ngón tay cái, cở quả trứng cút, có một loại ngọt và một loại chua, màu đỏ thẫm đeo lơ lửng từng chùm trên cành cây, lẫn lộn trong màu lá xanh, trông rất rõ. Cây trường ở trước nhà tôi rất sai trái. Khi đến mùa, mỗi ngày mẹ tôi hái một chùm chín đỏ cho tôi mang theo. Đến khi ở dưới thấp không còn trái nữa, mẹ tôi ngước nhìn lên cao. Hình ảnh mẹ tôi cầm cây sào dài ngẩng đầu nhìn lên trời tìm chùm trường chín đỏ cho tôi không bao giờ phai mờ trong trí của tôi, thời thơ ấu và cho đến bây giờ.
So với các bạn cùng trường, tôi là đứa bé được mẹ cưng chiều hết mực. Những bửa trưa, chúng tôi thường bày cơm ra ăn chung. Có đứa chỉ có một cục mắm ruốc, một ít nước mắm kho quẹt, có đứa chỉ vài ba con dế cơm kho tiêu. Dầu cuộc sống của chúng tôi có phần thiếu thốn vật chất nhưng tâm hồn chúng tôi thảnh thơi không vướng bận ưu phiền, không thù hằn, ganh tị. Chỉ cần một miếng thịt muối sả, một con cá khô ăn cùng với cơm nguội ép trong mo cau cũng đủ làm cho chúng tôi sung sướng rồi. Huống chi tôi còn một tô bún kiểm vào mỗi ngày rằm. Mỗi tháng, đến ngày rằm, tôi không mang cơm theo. Mẹ cho năm cắc, buổi trưa, tôi có thể ra chợ Thủ tìm thức ăn chay. Tôi rất chung tình, chung thủy, không bao giờ thay đổi gian hàng cũng như không bao giờ thay đổi món ăn. Mỗi lần nhìn thấy mặt tôi, bà bán bún kiểm vui vẻ mỉm cười rất dễ thương. Bà nhanh tay lấy cái tô bỏ bún vào thật gọn gàng rồi cầm cái vá nhẹ nhàng quậy qua một lượt trong nồi kiểm, nưóc cốt dừa trắng trộn lẫn bí đỏ, khoai lang, bún tàu. Tôi còn thấy vài miếng mướp xanh lẫn lộn, trái táo đỏ nổi lềnh bềnh trên mặt nồi, trông hấp dẫn vô cùng. Một tô bún kiểm mỗi ngày rằm ngon lành không có gì sánh bằng cũng như không có giấy mực nào diễn tả đưọc niềm hạnh phúc của tôi .
***
Tuổi trẻ qua nhanh, tôi học xong bậc tiểu học, phải từ giả bà bún kiểm dễ thương, từ giả con đường làng quen thuộc đầy kỷ niệm, xa lìa ngôi nhà thân yêu để lên Sài gòn tiếp tục con đường học vấn.
Ngày đi thi, chính mẹ tôi đưa tôi đến truờng thi và đứng chờ suốt ngày để đón tôi về. Trên đường về bằng xe điện, vì chậm chạp và nhút nhát không dám chen lấn nên tôi bị bỏ rơi lại tại trạm xe điện Nancy (1). Tôi chỉ biết đứng khóc hu hu, kêu mẹ; mẹ tôi đã lên xe trước không trở xuống được vội nói hét lên :
-Con ở đó chờ má, đừng đi đâu hết nghe con, khi xe ngừng ở trạm tới má xuống và sẽ trở lại rước con.
Nước mắt nước mũi tùm lum, tôi đứng dưới trời nắng, vừa giận mình chậm chạp, vừa giận cái xe ác ôn chạy nhanh quá. Bà bán nưóc mía cạnh đường thấy tôi như vậy động lòng thương hại bước ra nắm lấy tay tôi dẫn vào ngồi gần xe nước mía cho đở nắng, nhìn tôi mỉm cười, nói :
- Nín đi cháu, đừng khóc nữa, một chút mẹ cháu trở lại, không sao đâu, con trai mà khóc dở lắm! Con trai phải mạnh dạn, dầu gặp khó khăn cũng phải cười mới được, " nam nhi chi chí " mà!
Sự thật lúc đó tôi chẳng hiểu gì. Tại sao con trai không được khóc? Tại sao " nam nhi chi chí "? Nhưng tôi bắt đầu suy nghĩ và nín khóc. Khi lớn lên, từ từ rời tôi hiểu. Mỗi lần gặp khó khăn, tôi lại nhớ đến lời bà bán nưóc miá để can đảm vượt qua. Mười mấy năm tù đày, khổ sở dưới chế độ Cộng sản, có lúc tôi muốn hủy bỏ cái thân xác yếu hèn nầy, nước mắt chực chờ rơi xuống. Tôi vội thu hết can đảm lập lại câu " nam nhi chi chí mà! "
Nhờ vậy, tôi mới sống còn cho đến ngày hôm nay.
Gần nửa giờ sau, mẹ tôi trở lại, mẹ vuốt tóc tôi, ôm tôi vào lòng. Mẹ cám ơn bà bán nước mía và mua một ly nước mía cho hai mẹ con, mẹ tôi chỉ uống một ít rồi đưa cho tôi. Tôi ực một hơi nửa ly thật ngon lành. Mẹ nhìn tôi mỉm cười. Tôi ngước nhìn mẹ và đưa phần còn lại cho mẹ. Mẹ tôi cũng chỉ nhấp một tí rồi đưa lại cho tôi. Cuối cùng hai mẹ con chia nhau cục nưóc đá.
Một tháng sau, anh hai về thăm, vui vẻ báo tin mừng, tôi là một trong năm trò thi đỗ đầu vào năm thứ nhứt trường Petrus Ký nên được cấp học bổng. Thầy mẹ hãnh diện nhìn tôi mỉm cười. Anh hai đưa ra một đôi giày săng-đan còn mới tinh cho tôi mang thử. Ôi! Đôi giày đẹp làm sao là đẹp, thật vừa, thật êm chân. Tôi sung sướng nhảy nhót như thằng bé lên ba được kẹo. Ngày hôm sau, thầy tôi dẫn tôi ra chợ Thủ hớt tóc lần đầu tiên. Anh hai tôi dẫn lại tiệm may đặt may cho tôi hai bộ đồng phục. Tôi cảm thấy mình lớn hơn lên, đẹp trai ra, lòng bâng khuâng, vui buồn lẫn lộn.
***
" Thưa ngoại con đi, ngoại ở nhà đừng buồn nghe ngoại, con sẽ đem quà về cho ngoại nghe ".Bé Trí ôm hôn tôi và nói líu lo, tôi vội vàng ôm nó vào lòng:
-Ờ, con đi chơi, phải ngoan, phải nghe lời người hướng dẫn, phải đi theo đoàn nghe con, đừng bao giờ đi một mình, bị lạc đó!. Con đi chơi cho vui, ngoại chờ con về đi câu với ngoại.
Bé Trí chạy nhanh ra cửa, ba mẹ nó đi theo sau, lắc đầu cười. Thằng bé mới có mười tuổi mà " ngon lành " thật. Đúng là nam nhi chi chí mà !
Ngày xưa, khi mẹ tôi đưa tôi xuống Sài gòn, tôi đã mười ba tuổi. Khi đưa tiễn mẹ tôi về nhà còn tôi thì phải ở lại Sài gòn để lo việc học hành, nước mắt tôi chan hoà, còn nghe rõ những lời âu yếm của mẹ tôi:
- Con ráng học giỏi để cho tấm thân sau nầy được nhờ, nghe con!
Tôi đứng im lặng, lòng tê tái, nhìn theo chiếc xe đưa mẹ tôi đi cho đến lúc chiếc xe xa dần, xa dần rồi mất hút trong đám bụi mờ. Tôi thương thầy mẹ tôi vô cùng, tôi không muốn xa thầy mẹ tôi, tôi không muốn xa làng quê nhỏ bé mộc mạc của tôi.
Đường quê ra tỉnh, tôi thấy xa vời vợi, nên nước mắt tuôn rơi!
Nguyễn Thanh Bạch
(1) Thời 1945-1947, còn có xe điện từ Sài gòn tới Chợlớn. Ga đầu tiên tại bồn binh chợ Bến thành tên là ga Cuniac. Ga Nancy là nhà ga , từ đó đi thẳng một đường thì đến trường Petrus Trương vĩnh Ký.
***
Chuyện Nợ Nần Thế Kỷ
Từ đầu tháng 7, truyền thông Pháp rộn ràng chuyện Hy Lạp cùng các nhà tài trợ Âu châu, khiến nhớ một sáng ở Việt Nam, hàng chữ đỏ trên cửa kéo nhà đối diện dội vào mắt: Ty, mày vay phải trả...
Đó là quan niệm của Đức, có vay phải trả, có luật phải tuân. Nhưng nói về nước này, Bộ trưởng tài chính Hy Lạp Yanis Varoufakis đã từng chĩa ngón giữa lên trời, dấu hiệu thô tục đấy. Vì vậy trước khi họp với hội đồng chủ nợ, phải từ chức đi, chớ chú đã gọi họ là đám khủng bố thì bố bảo cũng chẳng ai rỉ cho nước chú xu nào nữa. Còn đối với dân tộc Socrate-Platon thì chú là anh hùng, như tay lãng tử, cưỡi mô tô, sơ mi bỏ ngoài quần hay T-shirt, túi lủng lẳng trên vai, sọ không cần lược. Và giới truyền thông rất khoái.
Thủ tướng Alexis Tsipras mới lạ hơn nữa.Nhất là vợ dại trong nhà, nhì là nhà dột, thứ ba nợ đòi, ấy vậy mà dù kế nghiệp một đám tiền nhiệm (dại) từng liều chơi kế toán khống, dù mái nhà Hy Lạp nước dột ào ào, dù nợ cao hơn cả Chúa Chổm, phải đi khất và xin thêm tiền, mà mặt mày cứ phơi phới như đi gặp gái. Chẳng biết chú có hiểu nợ... tổ tông từ 1932 đến nay là gì không, có hiểu hơn 320 tỉ ơ-rô là bao nhiêu không. Ban đầu cũng thương, tội nghiệp cái mặt non choẹt mới chấp chính nửa năm mà phải đối đầu với các cụ già gân về toàn những vấn đề hóc búa, nhưng thét cũng bực. Ai đời mọi người có vẻ căng thẳng thì chú cứ phởn phơ, bước tới micàrô báo chí thảnh thơi điệu đàng như dân đóng phim chuyện nghiệp.
Dư luận
Và chuyện gì mà chẳng có phe binh phe chống. Phe ác cảm nói chẳng biết chú giở trò gì, muốn cái gì. Chú muốn tiền. Chú muốn xóa bớt nợ vì trong túi chính phủ chú nắm chẳng có xu nào, và muốn thiên hạ cứ tiếp tục châm tiền vô nhà băng cho chú. Có người kể là dân Hy Lạp đổ thừa rằng nước họ vào ngõ cụt như ngày nay là tại cộng đồng Âu châu. Cũng hay, cái xứ gì mà địa bạ không có, luật lệ thuế má lạ lùng, mức thuế người nghèo tăng 337% trong khi nhà giàu chỉ tăng 9%, nhà thờ và giới đóng tàu lăn trên vàng, chẳng phải đóng xu thuế nào. Ông Onassis chồng sau của cựu đệ nhất phu nhân Mỹ Jacky Kennedy là một.
Thống kê thì cứ tướng lên, lỗ nói lời, nhập nói xuất, chi nói thu... Cách sinh họat của đất nước này hơi bị lạ. Vậy nên cuối cùng, chấp nhận các đề nghị cho là "đau đớn" của Tsipras với các chủ nợ, có hứa là Viện thống kê sẽ độc lập. Sau 16 tiếng đàm phán dài ngoằng, mặt mày chú mới hết phởn phơ, cũng tội. Chẳng gì khổ nhục bằng khất nợ, xin tiền. Mà "nợ tổ tông", cùng lắm là trước đây chú đã ít nhiều được hưởng mức lương tăng 126%, xài đã tay, rồi bây giờ phải khăn gói đi vào... hang cọp.
Vậy mà chú đã vụng về tổ chức trưng cầu dân ý mặc dù Tổng Pháp Hollande khuyên đừng. Rồi hí hửng với kết quả là KHÔNG xếp vế trước những đòi hỏi cải tổ do các chủ nợ vẽ voi, khiến vai trò Hollande gay go hơn. Hollande bảo Hãy giúp tớ để tớ giúp cậu.
Ấy vậy rồi mấy ngày sau, cũng chú, trước hăm dọa Grexit, lại chấp nhận các đề nghị đó, còn tệ hơn, và dân xứ chú biểu tình phản đối, bảo chú phản bội tiếng KHÔNG mà họ đã bầu. Người thì nói gì thì gì, cho ngã ngũ đi chớ mệt mỏi lắm rồi, và phải mang chút đỉnh chớ cấm về tay không. Trở cờ nhanh quá chủ nợ lại đâm nghi ngờ, bảo chú này là người không thể kiểm sóat, khó tin. Chữ TÍN trở nên mấu chốt cho cuộc đàm phán dông dài rối rắm. Khổng Tử thì chữ Tín muôn đời xếp hạng 5, chứ chủ nợ Âu châu lúc này thì hạng nhất.
Tại Pháp
Nghe chuyện kinh tế đã như vịt nghe sấm, kinh tế cộng thêm chính trị nữa thì vịt vừa nghe sấm nghe mưa lẫn... nhạc Ráp. Khác với Ty, mày vay phải trả, thì trường hợp ngoại lệ, nhà nước không những đòi xóa bớt nợ mà còn đòi mượn thêm để đối đầu với món vừa đáo hạn! Phe hữu Pháp thì muốn cho Hy Lạp bước chân ra khỏi cộng đồng Âu châu, rằng Hy Lạp cần Âu châu chớ Âu châu đâu cần Hy Lạp. Còn phe tả mà người năng nổ nhất là Tổng Hollande thì nói Âu châu không thể thiếu Hy, rằng nếu bỏ Hy ra thì cả Âu châu chao đảo, rằng không thể quan niệm Âu châu mà không có Hy. Bố biết tin ai. Bởi vì ăn phô mai uống rượu vang hằng ngày nên miệng lưỡi ai cũng dẻo quẹo ăn nói hay ho, tự tin, lý sự, thuyết phục, đầy rẫy chi tiết hấp dẫn.
Ngay từ đầu Đức đã không muốn cho Hy Lạp vào, Pháp nhất định thuyết phục bằng được. Đầu têu vụ này là cựu Tổng Giscard d’Estaing, với quan niệm lãng mạn chỉ riêng Tây mới có, là chẳng lẽ để xứ sở của Plato... đá bóng giải hạng hai, chẳng lẽ để Plato ở phòng chờ nhỏ xíu. Rồi bây giờ cụ không ở phòng chờ mà bị tụt xuống hố sâu, bèn động não đề nghị cụ ra ngoài dạo cảnh 5 năm, sau đó nếu dân cụ biết nghiêm chỉnh làm ăn thì mở cửa mời cụ lại vào. Cựu Tổng Sarkozy thì nói khi bỏ phiếu KHÔNG là Hy Lạp đã tự rút chân ra rồi. Về sau còn cho Tsipras là kẻ nói dối. Phần mợ Marine Le Pen thì mỉa, hỏi có thể bỏ Hy Lạp ra không, mợ cười khẩy Ủa, tui tưởng là đời đời chớ ? Bởi mợ mà lên ngai thì rút khỏi "cái hình thức làm mất độc lập tự chủ của nước Pháp" gọi là Cộng đồng Âu châu này ngay.
Hy Lạp
Về phương diện địa-chính trị thì nhà bác Hy là cổng gác cho cả Âu châu, là ngõ duy nhất các anh Ả rập muốn sờ được chân các cô đầm thì phải bước qua xác hai cụ Platon-Socrate. Bác Hy lại cạnh tranh ác liệt với bác Thổ, bên kia có gì thì mình có nấy hoặc hơn. Trong khi chỉ 11 triệu dân mà đứng thứ 3 trên thế giới (sau Tàu và Ấn Độ) về mức thiết bị quân sự. Mà mua của Pháp, Đức và Mỹ chớ ai. Vậy sao Đức vẫn cứng cựa, lại làm sẵn con đường chỉ lối ra cửa cho bác Hy? Bởi vì ngoài nguyên lý Ty, mày vay phải trả, từ 2009 Hy Lạp bắt đầu muốn xét lại chuyện sắm vũ khí, chê chất lượng một số sản phẩm quân sự Đức, và chuyện trả tiền hơi trục trặc. Đức xì khói. Thiên hạ cho rằng nếu Pháp ở địa vị Đức thì cũng cư xử vậy thôi. Rồi thiên hạ chê là Đức được xóa nợ sau Thế chiến thứ 2, mà giờ nhất định làm khó Hy Lạp, nhưng có lẽ tình trạng kinh tế chính trị hồi đó và bây giờ rất khác. Bà Merkel bị quốc hội theo dõi từng bước, bà mà dễ dãi với Tsipras thì dám... ăn đòn của đồng bào. Chà, chính trị luôn luôn nặng như chì mà sao ai cũng ham.
Người ta cho rằng thảm trạng của Hy Lạp là do lỗi lầm của các ông lớn tiền nhiệm muốn dân tin rằng vấn đề phát triển của họ có thể tìm vốn từ ngoại quốc nên cứ dối trá: sống vượt khả năng quá lâu, trên lưng người khác, làm sao không sập tiệm, làm sao trở đầu đây? Chỗ này xin mở cái ngoặc : lạ, mỗi ngày rút nhà băng được 60 ơ-rô, là một tháng 1800 ơ-rô (1 Euro=340,750 Drachme, còn yếu hơn tiền Việt nam), mà chẳng đủ xài sao ? Đời sống bên Tây đắt đỏ hơn nhiều, mà biết bao gia đình Pháp lương ít hơn 1800 ? Thảo nào một nhà kinh tế nói: châm 85 tỉ Euros cho Hy Lạp tương đương châm 3000 tỉ cho Pháp.
Từ năm ngóai, Hy Lạp đã rao bán nhiều tài sản quốc gia, và anh Ba đã nhảy vô rồi, cựu Thủ tướng Antonis Samaras đã trải thám đỏ cho Li Keqiang để chờ hơn 6 tỉ euros đầu tư. Bây giờ các con nợ còn buộc Hy Lạp bán nhanh bán gấp cho ngày 15-7 này có 50 tỉ ! Kẹt chứ.
Nhiều người cho đây là sự sỉ nhục Hy Lạp, nhưng Hollande cho rằng nếu bỏ Hy Lạp ra khỏi khối Âu châu mới là sỉ nhục họ.
Chắc Tsipras đã thấm đòn hội chợ về chữ Tín, chắc hiểu "nợ tổ tông" là gì rồi. Còn thêm nỗi lo phải gồng người thuyết phục dân chúng chịu khó vào khuôn vào phép và chịu đòn phe phản đối. Bà Merkel (trước vụ này được cộng đồng Âu châu ái mộ hơn Hollande), cũng phải ra sức trấn an dân Đức về “niềm tin hy Lạp" mới. Chỉ riêng Hollande mở cờ trong bụng. Điểm ông được tăng lên 28 thay vì 23. Truyền thông cho rằng đây là chiến thắng cho ông về 2 mặt : ngọai giao quốc tế; và nội bộ thì chưa bao giờ các kiểu phe tả cùng với phe Xanh, lại đồng lòng tô điểm cho đóa hoa hồng Xã hội của ông đến vậy. Dù chưa đủ chiếu chăn cho ông tiếp tục nằm trong Điện Élysée năm 2017, nhưng cũng là chiếc gối cho ông áp đầu tủm tỉm.
Trong cuộc phỏng vấn thường lệ sau buổi diễu hành ngày Quốc khánh, về đề tài này, ông lặp lại như đã từng nói, rằng sẽ không tái tranh cử nếu số thất nghiệp không giảm, bởi vì nếu không có kết quả tốt thì làm sao dân Pháp đặt niềm tin vào tôi thêm 5 năm nữa. Nhưng cũng thòng một câu... tự sướng Hy vọng các bạn biết rồi, là có những vị tổng thống cũng táo bạo như tôi... Và không quên khen Thủ tướng Valls một phát, gần nhất là diễn văn thuyết phục Quốc hội ủng hộ Hy Lạp. Bữa đó nhìn Valls mà muốn hụt hơi : lúc hùng hồn, thuyết phục, lúc có hơi thơ mềm mại, ngọt ngào, lúc có hơi hướm du dương êm ả... lại cũng là tinh thần lãng mạn kiểu Tây, khơi gợi ý thức và lòng mẫn cảm của dân...
Về nhà với "tội" phản bội dân chúng, Thủ tướng Hy Lạp nói đường cùng thì ký thỏa thuận chớ cũng chẳng tin tưởng, thành ra chuyện Tsipras sẽ còn nhiều tập..., nhà tôi sẽ còn dịp hễ thấy Tsipras xuất hiện thì tặng quà cho bà Merkel bằng cách réo hoài : Tsiii, mày vay phải trả !
Xuân Sương
Tháng 7-2015
***
Cỏ May
Ngày xưa hóa thành kỷ niệm. Kỷ niệm quay quắt mãi trong tôi. Kỷ niệm vẫn ngọc ngà dù bâng khuâng. Ôi cái thời còn "17 bẻ gãy sừng trâu ấy"...!
Vừa dừng xe trước cổng, tôi chợt thấy một người đi bộ cùng lề nhưng ngược chiều về phía tôi.
- Cô bé ơi! Cho tôi hỏi thăm.
Nghe tiếng "cô bé", tôi đã muốn lộn ruột lên rồi.
- Cái gì? Tôi như vậy mà bé hả?
- Không phải. Thôi thì... cô lớn vậy.
- Ông hỏi gì? - Giọng tôi khô như ngói.
- Cô biết quán cà-phê Tầm Duyên ở đâu, làm ơn chỉ dùm.
Tôi "nực nội" không chịu nổi. Chỉ tay lên trên cổng, tôi đanh đá:
- Mắt ông có so le không? Tấm biển lớn thế kia mà không thấy?
Hơi ngước lên, hắn dợm cặp kính cận:
- Xin lỗi cô, tôi sơ ý vì vội. Nhờ cô chỉ giúp nhà bà Tư Huỳnh.
- Đó, ông đi tới thêm khoảng 40m nữa. Bên trái, nhà cổng xanh.
- Cảm ơn cô.
Thứ người gì vô duyên không chịu được. Cái thị trấn nhỏ bằng bàn tay này, nửa quê nửa tỉnh, có gì mà không biết chứ? Nước đó có mà... ế vợ. Vô phước mới lấy lầm "của nợ" đó.
o0o
Nhà trường thông báo đổi giáo viên sinh ngữ, tôi tò mò hỏi nhỏ Khuyên:
- Ê, giáo viên Anh văn mới là thầy hay cô, mày?
- Thầy.
- Sao mày biết?
- Thế mới hay. Muốn tao làm mai không?
- Con lạy mẹ. Đùa vừa thôi. À, mà ổng có điển trai không?
- Coi tạm được. Mà mày hỏi làm gì? Kỳ!
Chuông reo vào học. Tiết đầu. Cả lớp hồi hộp chờ giáo viên mới. Tôi hết hồn hết vía khi thấy thầy hiệu trưởng chỉ tay cho "ổng" đi vô lớp tôi. Cả lớp lao xao đứng chào. Ông trầm giọng mà không có lấy nửa môi cười, dù chỉ là nhếch mép (chắc hẳn thuộc loại ế vợ khó tính).
- Các em ngồi xuống. Tôi được chuyển công tác về đây và phụ trách môn Anh văn lớp này. Nghe nói lớp 11A khá lắm.
Cả lớp rào rào như mưa:
- Vành Khuyên giỏi Toán, thưa thầy.
- Tầm Duyên giỏi Anh văn lắm, thầy ơi!
- Thôi, các em trật tự đi.
Có tiếng vọng lên:
- Thầy cho chúng em biết tên ạ!
- À, xin lỗi các em. Tôi quên. Tôi là Nguyễn Việt Nam.
Cả lớp lại lao xao:
- Tên thầy hay quá. Nghe rất... Việt Nam.
Cuối lớp có tiếng nam sinh xen vào:
- Em tên America, thưa thầy.
Lúc này ổng mới chịu hơi nhếch mép. Được nước, lớp lại ồn lên:
- Thầy bao nhiêu tuổi ạ?
- Ba mươi. I'm out of date (1).
- No, You're still young, not old (2).
- Thầy có wife chưa?
Ổng khoát tay:
- Cả lớp trật tự. Chuẩn bị kiểm tra bài cũ nha.
Tự nhiên tôi run lạ. Trống ngực đánh liên hồi. Nhỏ Khuyên kề tai tôi nói khẽ:
- Thầy là anh họ tao đó.
- Hèn chi...!
Tay thầy đưa xuống, rồi đưa lên chầm chậm, và bất chợt dừng lại.
- Đỗ Lê Tầm Duyên.
Chúa ơi! Cái vần D quái quỷ. Tôi thầm nguyền rủa. Nghĩ đến hôm trước, tôi càng run dữ tợn, mặt tái nhợt như trúng gió. Nhỏ Khuyên hỏi:
- Sao vậy, Duyên?
Tôi lắc đầu, thở dài như trút "độc khí" trong người ra rồi cầm vở lên kiểm tra. Nhìn cặp mắt kiếng mà... thấy ghét! Thấy tôi, thầy nhẹ giọng:
- Oh, you're Tầm Duyên? (3)
Thầy quay lên bảng viết: "Yesterday, I meet a young girl is beautiful but furious" (4). Thầy nói:
- Em coi có gì sai không?
"Dễ ẹc", tôi nghĩ. Tôi biết ổng "chơi" tôi. Tôi càng lấm lét đứng như trời trồng.
- Em làm bài đi.
Tôi ấp úng:
- Thưa... thầy, "meet" phải ở quá khứ là... "met", và sau girl phải có... đại từ quan hệ là... "who".
- Tốt. Mời em về chỗ. Let bygones be bygones (5).
Nghe thầy nói vậy, tôi thấy nhẹ mình hẳn đi như trút được ngàn cân. Coi lầm lì vậy mà... cũng được!
o0o
Thời gian trôi thật nhanh. Tôi chẳng biết mình "không bình thường" từ bao giờ. Nhỏ Khuyên và tôi thân nhau từ hồi học cấp I. Hai đứa thường rủ nhau lên đồi phía sau thị trấn dạo chơi vào những buổi chiều đẹp trời. Thi thoảng có cả thầy Anh văn đi nữa. Dọc con đường mòn lên đồi mọc đầy cỏ may. Mỗi khi về là tha hồ mà nhặt. Nhặt không xuể phải lấy dao mà cạo. Cỏ may hoang dại mà lại thơ mộng. Hay chỉ thơ mộng với tôi? Thầy bình dị chứ nào có gì hấp dẫn, vậy mà tôi lại thấy mến thầy lạ thường. Hay tại tôi có chút máu văn chương nên "mê" những bài thơ thầy đăng báo?
Chỉ một tuần nữa tôi đi du học tự túc. Nghĩ đến ngày xa xứ, tôi cảm thấy buồn da diết, cộng thêm điều gì đó vu vơ khó tả. Chiều nay chủ nhật đẹp trời, thầy cùng tôi lên đồi. Không có nhỏ Khuyên vì nó đi công chuyện đột xuất. Nắng vàng nhạt. Cỏ may khẽ lay trong gió hiu hiu. Bất chợt tay tôi chạm phải "vật thể lạ". Tôi run nhẹ, xao xuyến đầu đời con gái.
- Chiều buồn quá hả Duyên?
- Dạ.
Ngưng một chút, tôi tiếp:
- Mai mốt... thầy... nhớ viết thư cho... Duyên nha.
- Em phải viết trước mới biết địa chỉ chứ?
- Dĩ nhiên rồi. Nhưng... anh... anh nhận thư là phải viết cho Duyên liền đó.
- Lỡ bận không viết ngay được thì sao?
- Bận cũng phải viết. Nếu không... "người ta" không học nổi đâu. Viết nhiều mới chịu đó!
Anh chỉ khẽ gật đầu. Người gì mà lúc nào cũng trầm mặc, lạnh lùng như vậy đó! Ghét thì ghét mà sao tôi thấy rất buồn khi xa anh. Đôi tay tôi đau nhẹ trong tay anh. Không hiểu sao hôm nay anh lại "liều" đến vậy. Tay tôi cứ ngoan ngoãn nằm gọn trong tay anh.
- Em ráng học để mai mốt về giúp ích cho đất nước, em nhé!
Tôi "dạ" rất khẽ. Sao anh không nói gì khác? Con gái thường khó hiểu đã đành, anh là con trai mà sao cũng khó hiểu vậy? Tôi muốn nói nhiều nhưng ngại vì là con gái. Ai lại...? Anh không hiểu hay cố ý không hiểu động thái con gái?
o0o
Chuyến bay sắp cất cánh. Vẫn không thấy anh đâu. Nhỏ Khuyên chạy đến vội trao cho tôi lá thư:
Tầm Duyên mến,
Hãy giữ nhánh cỏ may này như một kỷ niệm nhỏ nhoi và đơn sơ nhất. Và hãy thông cảm cho một người không đến tiễn em được vì lý do nào đó khó nói. Chúc em đi bình an và học giỏi. Hy vọng nhánh cỏ may sẽ là nhánh may mắn cho em trên con đường tương lai trong những ngày xa xứ.
See you again, (6)
TẦM DUYÊN
Sống mũi tôi chợt sè cay. Và hình như có vị mằn mặn ở đầu môi. Có một loại cỏ không tên giống như cỏ may đang nhẹ găm vào trái tim tôi, vừa nhoi nhói vừa êm ái. Lẽ nào...!?
o0o
Sau năm năm xa xứ, tôi trở về quê hương khi tiết trời đang vào xuân. Hoa cỏ có vẻ cũng tươi đẹp hơn. Nắng như tơ vàng óng ả. Không biết anh ở đâu. Không nghe Nhỏ Khuyên nói gì, mà hỏi thì... ngại thí mồ! Tôi đã báo tin trước cho anh cả tháng trời kia mà? Lá thư cuối anh gởi cho tôi cách nay đã gần một năm qua. Anh rất khác những người tôi đã gặp. Trong anh có điều gì đó huyền bí quá. Tuy anh khô như cát sa mạc và lạnh như nước đá cục, thế mà tôi vẫn thấy nhớ nhớ gì đó. Hình như vẻ băng giá của anh đã làm tim tôi hóa mềm. Nghịch lý kỳ lạ! Lẽ nào câu anh nói lần kiểm tra "Let Bygones Be Bygones" như lời tiên tri của anh sao? Không. Cỏ may vẫn mọc đầy mà!
Khoảng trống trong tôi không thể lấp đầy. Những bước chân vô tình cứ đưa tôi đi. Ngọn đồi xưa thay đổi nhiều với thời gian và mưa nắng, nhưng cỏ may vẫn lay lay trong gió như vẫy gọi kỷ niệm, vẫy gọi ký ức, nhưng thời gian không quay trở lại! Tôi mơn man những nhánh cỏ dại mà nghe lòng mình chợt hoang vu, vàng võ như vạt nắng cuối chiều. Có lẽ nhờ anh mà tôi đã thay đổi, nữ tính hơn, không ngang bướng như ngày xưa nữa. Tôi chợt cười một mình.
Đã một tuần qua vẫn không thấy tin anh. Tôi càng thấm buồn dù trời đang vào xuân. Buổi chiều, Khuyên ghé nhà tôi và bắt tôi hứa đủ thứ. Tôi bực mình và hứa đại cho xong. Khuyên cười nhìn tôi và đưa tôi lá thư ngắn gọn:
Tầm Duyên,
Nghe Khuyên nói em về nhưng anh còn chút việc chưa xong. Ba ngày nữa anh sẽ về thăm dì Tư Huỳnh, nhỏ Khuyên và nhất là để gặp em. Tầm Duyên đừng giận anh nha!
NGUYỄN VIỆT NAM
Tôi không giấu được niềm vui. Tôi cười và nhìn Khuyên. Bất chợt tôi ôm Khuyên:
- Cảm ơn mày!
- Cảm ơn suông vậy sao? Đền ơn cái gì cho tao chứ?
Tôi nhéo Khuyên:
- Con nhỏ này! Ghẹo tao hả?
Xa xa vọng lại giai điệu rộn ràng ai đó vừa bật lên, tiếng ca nhẹ nhàng và ngọt ngào: "Anh cho em mùa xuân, nụ hoa vàng mới nở, chiều đông nào nhung nhớ..." (7).
- Ê Khuyên, lên đồi chơi với tao chút, tới tối về ha?
- Không. Mày đi một mình đi.
- Thôi mà, năn nỉ mà, đừng làm eo với tao chứ!
Hai đứa tung tăng lên đồi. Mùa xuân đang về êm đềm và diệu kỳ. Tình yêu cũng nhiệm mầu như một phép lạ. Lòng tôi chợt giao mùa. Hình như trời đất cũng giao thừa sớm...
Trầm Thiên Thu
***
Linh Tử
Xe đến bến cuối, trời đã chuyển về chiều. Anh xuống xe, vặn người vài cái cho đỡ mỏi sau chặng đường dài. Lâu lắm mới về lại thành phố biển, anh cảm thấy một cảm giác khó tả, vừa có chút xao xuyến, vừa có chút bồn chồn.... Cũng dễ hiểu thôi vì anh đã từng có hơn 2 năm công tác tại đây với nhiều kỉ niệm...Thời ấy anh là chàng thanh niên chưa đến 30 tuổi, vừa tốt nghiệp Đại học mấy năm, biệt phái về hỗ trợ chuyên môn cho chi nhánh, ngày ấy anh đẹp trai và nhút nhát làm sao...
Vài bác xe ôm nhiệt tình mời chào, anh lắc đầu. Đi bộ một tí cho thư giãn. Xa Sài Gòn vài hôm, xa tiếng ồn ào khói bụi của dòng xe cộ, anh thèm cảm giác được thong dong thả bộ trên cát và hưởng mùi hương cỏ ngai ngái mà gió biển ùa về. Trời tối dần, một thằng bé trạc 9 -10 tuổi hình như đi từ cái hẻm nào đó ở phía khu dân cư buôn bán bước đến gần anh. Thằng bé lễ phép khoanh tay "Chào chú" khiến anh ngạc nhiên, con cái nhà ai ngoan thật. Anh gật đầu mỉm cười, cu cậu cũng cười, dù trời nhập nhoạng anh vẫn để ý thấy nó có đôi mắt sáng, khôi ngô.
- Này cháu!
Anh gọi nhỏ. Tự dưng có cảm tình với thằng bé. Xem ra nó cũng chẳng vội vàng gì, thong thả đi cạnh anh, vẻ sẵng sàng trò chuyện.
- Từ đây ra chỗ trung tâm có xa lắm không cháu?
- Qua ba ngã rẽ và mấy cái vòng xoay. Đường mới làm lại đẹp lắm chú!
Thằng bé nói vẻ già dặn "cụ non". Anh bật cười. Giá mình có thằng con trai nhanh nhẹn ngoan ngoãn thế này. Vợ anh chữa chạy mãi mà vẫn chưa đậu thai. May mà anh là người dễ chịu, biết cảm thông chứ xem ra ông bà cụ đã có vẻ mất kiên nhẫn. "Tao chết vẫn không biết mặt cháu!" Có lần cụ ông rượu vào đã nói dỗi thế, làm vợ chồng anh tránh nói chuyện với nhau mấy ngày. Ở với nhau hơn chục năm, ít khi nặng nhẹ, anh biết ơn vợ khéo nhường nhịn. Nhưng hai vợ chồng đã ngoài bốn mươi mà nhà vẫn không có tiếng trẻ con thì trống trải quá.
- Cháu thích uống nước mía không?
Anh chỉ xe nước mía trước mặt. Thằng bé gật đầu đồng ý ngay. Ngồi xuống cái ghế bố sọc xanh vàng, anh bỗng thấy buồn ngủ ríu mắt vì gió mát và khí hậu dễ chịu. Ông chủ quán đặt trước mặt anh li nước mía, mời:
- Chú uống nước chú ơi! – Anh mới giật mình choàng dậy. Định cầm li lên uống thì nhìn qua, thấy thằng bé đang tròn mắt thòm thèm. – Cháu uống trước đi! – Anh đưa li nước cho nó, thằng bé "Cám ơn chú" rõ to rồi mới cầm lên uống, dáng vẻ từ tốn.
– Cho thêm li nữa nhanh lên chứ? – Ông chủ quán hình như nặng tai, ngần ngừ một chút rồi mới bưng ra một li nữa.
- Cháu ở chỗ hẻm đông đông đó hả?
Anh chỉ về phía đường ban nãy, nó vừa uống vửa gật gật. Li nước mía hết veo. "Uống nữa không?" Anh hỏi, nó lắc đầu. Thằng bé có vẻ bối rối khi anh nhìn nó lâu lâu, nó đưa móng tay lên miệng cắn cắn.
- Này cháu! – Anh bật cười – Cháu có cái tật cắn móng tay y hệt như chú ngày nhỏ!
Anh nhe hàm răng, chỉ cho nó thấy chỗ bị sứt một miếng nhỏ, cười bảo :
- Kết quả xấu xí thế này đấy! Có muốn giống như chú không?
Thằng bé lắc lắc đầu, nó thật dễ thương, tự dưng gặp nó đâm ra đỡ tẻ nhạt hẳn. Nghĩ đến cảnh về chỗ khu nhà nghỉ cơ quan, ăn suất cơm theo tiêu chuẩn công tác phí, ngồi hàn huyên chút đỉnh với mấy bác bảo vệ rồi đi ngủ, cũng đơn điệu thật.
- Bố mẹ cháu đâu?
Thằng bé có vẻ lảng tránh câu hỏi làm anh thấy lạ lạ. Bất giác anh cho tay vào túi quần. Ví và điện thoại vẫn nguyên, nhưng anh vẫn cẩn thận kéo cái ba lô và cái cặp đựng laptop sát về phía mình. Thằng bé vẫn ngồi nguyên, hồn nhiên vô tư khiến anh lại thoáng chút ân hận vì đã nghi ngờ nó.
- Cháu học lớp mấy rồi?
- Lớp... lớp... – Nó ngắc ngứ khiến anh lại thấy lạ. Trông nó thông minh sáng sủa thế, mà hỏi học lớp mấy lại lúng túng, chắc là có vấn đề. Thôi, giải tán cho chắc ăn. Anh gọi chủ quán thanh toán rồi đứng dậy. Thằng bé vẫn lẽo đẽo đi theo nhưng có vẻ sợ sệt, không nói gì nữa. Anh nghĩ ngợi; mình đọc báo nhiều quá có khi cũng bị ám. Thằng nhỏ cỡ này thì định lừa mình cái gì chứ, chắc là nó cũng có hoàn cảnh sao đó khó giãi bày nhưng anh linh cảm nó là đứa bé ngoan và hiền lành. Có lẽ cũng cần xem xét lại sự cảnh giác thái quá với bất cứ ai mới gặp, hội chứng mất lòng tin của con người hiện đại.
Trời đã tối không nhìn rõ mặt người. Đèn đường thì chỗ bật chỗ không. Anh đi bộ và xách đồ nặng nên bắt đầu thấm mệt. Thằng bé vẫn lặng im, anh cho là nó giận dỗi gì đó. Anh đứng lại, ngóng một chiếc taxi nhưng không thấy. Thằng nhỏ cũng dừng lại một chút rồi đi tiếp. Anh nghĩ thôi cứ vừa đi vừa để ý taxi vậy. Anh bước theo kịp nó, hỏi:
- Cháu giận chú à?
- Không bao giờ giận! – Nó nói, vẫn giọng "cụ non". Anh bật cười, vỗ vai nó:
- Phải vậy chứ, đàn ông ai thèm giận vặt!
Nó có vẻ vui hơn, liếc nhìn anh, đôi mắt thông minh lấp lánh dưới ánh đèn đường. Rồi lại có vẻ măc cỡ, nó đi khá nhanh bỏ anh một đoạn. Phần vì mệt, phần vì vác nặng, anh thở phì phò theo mãi không kịp. Qua cái vòng xoay đến một ngã rẽ, thằng nhỏ mất hút. Anh đứng lại nghỉ một chút, có ý chờ nó quay lại. Quên không hỏi nó tên gì, mà nó cũng ra vẻ bí mật ghê. Anh châm điếu thuốc hút ngấu nghiến. Vẫn không thấy bóng dáng thằng bé, anh đành lại vác đồ lên lưng đi về cái hướng thằng nhỏ mất dạng. Anh thấy một con hẻm nhỏ sâu hun hút, anh đi đến cuối hẻm thì thấy một ngôi nhà, kín cổng cao tường ẩn dưới cây lá sum suê. Nghĩ là mình nhầm, anh quay ra thì chó trong nhà sủa inh ỏi. Đèn cổng bật sáng và chủ nhà bước ra. "Chú kiếm ai?" Giọng bà chủ nhà khàn khàn, khuôn mặt nhăn nheo, tóc trắng như cước. Anh đành trình bày:
- Cháu tìm một cậu bé trạc 9 -10 tuổi vừa đi vào đây?
- Ở đây làm gì có thằng bé nào! – Bà già ngạc nhiên.
-Vậy thì chắc cháu nhầm, cháu xin lỗi bác! – Anh nói vội rồi quay đi. Nhưng bà già như nhớ ra điều gì đó, chạy theo:
- Thằng bé trông thế nào hả chú?
- À... – Anh miễn cưỡng mô tả – Nó cao chừng đến vai cháu, mắt sáng, tóc để lòa xòa trước trán, lễ phép lắm!
-Thằng Bin, đúng là thằng Bin! – Bà già vội kêu lên rồi kéo anh vào trong nhà. Anh chả hiểu đầu cua tai nheo gì, đành theo sau. Trong nhà đồ vật bày biện gọn ghẽ, ngăn nắp. Anh ngồi xuống bộ xa lông và cám ơn chén nước bà chủ nhà vừa rót.
- Thằng Bin đó!
Theo hướng tay bà, anh nhìn thấy cái bàn thờ khói hương nghi ngút, trên đó có di ảnh. Anh lại gần nhìn kỹ thì thấy người trong ảnh giống hệt thằng nhỏ anh vừa găp, anh rợn người. Bà già mở cuốn Album đưa cho anh xem:
- Còn đây là mẹ Bin nhưng giờ cô ấy định cư ở nước ngoài rồi.
Anh nhìn người phụ nữ trong Album ảnh và giật nẩy mình! Trời ơi, là Trâm, đúng là Trâm! Anh lặng người nhớ lại cách đây mười mấy năm, Trâm – cô thợ may ở trọ gần anh nơi công tác , cô gái mà anh đã từng có quan hệ tình cảm lúc xa nhà, cô đơn. Sau nhiều lần hẹn hò, cô ấy đã thú nhận có thai và anh đã lạnh lùng đưa cô ấy một ít tiền bảo hãy tự giải quyết rồi anh tránh né gặp cô ấy cho đến khi về lại Sài Gòn...
- Cháu Bin mất được bao lâu rồi hả bác?
Anh nghe giọng mình run rẩy, hình như anh muốn khóc nhưng lại không khóc được.
- Nó đi học về gặp tai nạn, cũng 3 năm rồi. Khổ thân nó chỉ ước gặp được bố!
Anh lặng lẽ đến bên bàn thờ thắp ba nén nhang. Anh khấn rất nhiều, chủ yếu là những lời xin lỗi. Bà chủ nhà cũng không nói gì thêm, bà chậm chạp ngồi xuống cái ghế gần đó, thở dài.
Vũ Thanh Hoa
***
Tôi Với Mùa Xuân
Năm mười bảy tuổi, nếu có hỏi về tuổi tác của mình, tôi rất vui vẻ trả lời ngay rằng tôi mười bảy tuổi. Thời gian vụt qua tôi ngoài bốn mươi, ai hỏi tôi chỉ nói năm sinh để ai giỏi toán thì tự trừ ra với năm hiện tại thì biết, gặp tay dốt toán trừ nhầm có khi tôi lại được giảm đi...vài tuổi! Rồi cứ thế tôi ngoài năm mươi, giờ thì ai hỏi tôi chỉ nói bằng tên...con giáp!Chẳng hạn tôi nói tôi tuổi con gà, con gà thì có bao nhiêu là năm...gà! Họ chẳng còn biết đâu mà lần ...
Không hiểu sao tôi rất thích nói về tuổi Tây, tuổi Tây nghe vừa có vẻ...Tây vừa giảm bớt một tuổi già so với tuổi Ta. Là phụ nữ khổ thế đấy, chắc chiu từng ngày xuân, đã thế người ta lại hay nói "Trai ba mươi tuổi còn son. Gái ba mươi tuổi đã toan về già". Tôi chắc rằng tác giả của câu nói ấy là đàn ông (và là người có ác cảm với phụ nữ lắm)mới bày ra câu nhận xét đầy...ác ôn như vậy. Chứ nếu là tôi, một người có mối thiện cảm với đàn ông lẫn đàn bà thì tôi sẽ nói "Trai bảy mươi tuổi còn son. Gái bảy mươi tuổi mới toan về già" cho người đời dựa vào đó mà có một cái nhìn rộng thoáng về sự lão hoá của cả hai phái.
Mùa đông đã qua, tôi cặm cụi tỉa lá cho cây Mai Tứ Quý trước sân nhà, hy vọng mùa xuân đến cây cho nhiều hoa. Tôi ngắm thân cây xù xì già cỗi như ngắm những đốt thời gian đi qua để lại dấu vết buồn bã trên thân cây. Cây mai này đã hơn một nửa tuổi của tôi, nó cũng cô đơn quạnh quẽ qua bao mùa mưa nắng trước hiên nhà. Tôi thông cảm cho nó như cám cảnh cho cuộc đời tôi nên cố trồng thêm một cây nữa bên cạnh cho nó có bạn, nhưng dù có ươm trồng, chăm bón bao nhiêu cây mai con cũng không sống được.Người chung quanh lại bảo "Nó giống bà chủ của nó, cứ một thân một mình vậy thôi. Chừng nào bà kiếm được một mình nữa ở chung thì tự khắc cây mai đó sẽ sinh sôi nẩy nở". Hừm! Tôi mà kiếm được một mình nữa thì còn nói làm gì. Tôi ức lắm, họ nói như thế chẳng khác nào chế giễu tôi không có ma nào nhìn tới, tôi mà kiếm được một mình nữa thì...thì họ phải biết với tôi. Ừ! Mà biết gì nhỉ? Có tôi biết thì có, biết phải ra sức mà chìu chuộng người mà mình rước về ở chung. Biết phải trở thành người phụ nữ công dung ngôn hạnh như thế nào cho đẹp lòng người í, biết phải giỏi việc ngoài xã hội lẫn đảm đang việc trong nhà! Biết phải ra đường cứ thẳng một đàng mà đi và phải biết...đủ thứ!
Rồi mùa Xuân đến thật nhanh. Những bông mai tứ quý bắt đầu e ấp nở trên những nhánh cây trụi lá sau mùa đông giá. Tôi thường đặt chiếc ghế cạnh cây mai và những buổi chiều tôi hay ra ngồi ở đó ngắm nhìn mây bay, ngắm nhìn một thời dĩ vãng đã qua, ngắm nhìn những hình ảnh vẫn để lại trong trái tim một niềm khắc khoải...
Gió chiều mát mẽ, tôi cũng thường hay lạc vào giấc mơ tiên!
000
Hồi tôi còn trẻ tuổi, hồn nhiên vô (số) tội. Được cái vui vẻ dễ hòa đồng và cũng có tí gọi là nhan sắc. Và với tấm nhan sắc nếu không mặn mà bằng nàng Hồng kiêu sa, thì cũng là nàng Cúc vàng tươi ấy tôi tha hồ mà ngắm nhởn nhơ con bướm lượn tà tà quanh tôi. Tôi tưởng bở cứ nghinh mặt lên mỗi khi thấy có ai nhìn mình. Riết thành tật, mặt tôi cứ nhìn lên...trời nên tôi không thấy có ai ngang tầm nhìn thẳng. Thỉnh thoảng mẹ tôi rỉ tai:
-Bà Hai có thằng con trai coi được lắm, nó cũng thích mày nên bã muốn chọn mày cho con trai bã, mẹ cũng thấy...
Không đợi mẹ hết câu,tôi trề môi:
-Anh chàng đó chỉ biết vùi đầu lo kinh sử, có thấy gì ngoài mớ chữ nghĩa. Tướng đạo mạo như ông già. Mắt thì đeo cái "đít chai" dầy cộm, ra đường cứ đi lầm lầm lũi lũi có ngày đâm vô cột đèn cũng không thấy...
Lúc khác mẹ lại thỏ thẻ:
-Bà Ba có vẻ muốn "chấm" mày cho thằng con trai của bã, nên cứ hỏi thăm mày.
Tôi lắc đầu, làm bộ làm tịch:
-Anh chàng đó nhìn thiếu thước tất, con mà lấy về thì chắc để ẳm...đi chơi!
Mẹ tôi thấy không thể nào kéo tôi xuống khi mà tôi đang lơ lửng trên mây nên cũng nãn lòng chỉ còn biết nhắc tôi:
-Mấy bà ở giá không chồng ưa...cắn người ta lắm, mày liệu đừng có đến gần họ.
Trong lòng thì cũng thú vị lắm khi nghe có người chú ý đến mình, nhưng ngoài mặt tôi cứ ỏng ẹo làm cao. Ỏng ẹo mãi như thế cho đến khi tôi hạ thấp tầm nhìn thì các chàng trai một thời theo đuổi tôi đã yên bề gia thất, các bạn gái của tôi cũng tay dắt, tay bồng. Còn mẹ tôi thì ngồi than vắn, thở dài không yên lòng vì sợ sau khi bà qua đời, tôi sẽ thành bà tiên khi khát phải bò ra giếng uống nước vì cái sự độc thân của tôi.
Rồi ngày ấy cũng đến, tôi trở thành một bà giá chính hiệu, ra vô thui thủi một mình.Chẳng ai rảnh rang mà chuyện phiếm với tôi, thậm chí mấy đứa trẻ con trong xóm cũng lảng đi dù tôi kêu chúng đến để cho kẹo, không biết có phải chúng nghe ai truyền miệng rằng mấy bà già độc thân thích...cắn trẻ con!Thật ra đó là những lời hù dọa, cũng là nhắc khéo mấy cô làm biếng...lấy chồng.
Tôi ra khỏi hồi tưởng vì một bà bạn đường đột đến thăm.
-...Tui đến để thực hiện một chuyện quan trọng. Tôi sẽ không để cho bà sống một mình nữa...
Tôi hốt hoảng:
--Bà định gởi tui vô nhà dưỡng lão ư?
-Đừng vội, từ từ rồi cũng biết, tui tới đây vì có người nhờ, có mục đích hẳn hoi (rồi bã nhìn tôi xăm soi như đang xem một món hàng) Không biết "nội thất" có vấn đề gì không chứ "mặt tiền" thì cũng chưa đến nỗi nào...
Tôi tự khai:
-Tim, gan, phổi, dạ dày của tui đều hòa thuận với nhau, chả khi nào biểu tình hay mít tin nên tui rất dễ chịu. Nói chung là ổn!
-Còn mắt thế nào? Nhìn có rõ không?
-Dù không còn là một giòng sông cho thuyền anh bơi lội, nhưng đeo kính vào thì thị lực cũng khoảng bảy chục phần trăm.
Bà bạn của tôi chất vấn tiếp:
-Thế còn tai? Tai nghe có rõ không?
-Trời ơi! Nếu lãng tai làm sao tui nghe bà hỏi nãy giờ...
Bà bạn tôi vỗ tay vào bắp vế một cái tỏ vẻ dứt khoát:
-Vậy là tốt! Tui có thể tuyên bố kế hoạch...
Tôi ngạc nhiên:
-Kế hoạch gì vậy?
-Làm mai cho bà một ông để sớm hôm hủ hỉ...
Tôi lắc đầu nguây nguẩy:
-Tui già rồi, còn nghĩ đến việc lấy chồng sao?
-Lấy tuốt, mắc gì không! Còn ăn còn thở là còn lấy chồng được. Nghe mấy câu ca dao nè. "Ai đi xin đợi tôi cùng. Tôi đi kiếm rượu cho chồng tôi xơi. Chồng hư mang tiếng mang tai. Tiếng tai thiếp chịu hơn ai không chồng"...
Tôi phản đối:
-Bà đừng ỷ mình có chồng mà ngạo mấy người ở giá như tui đó nhé.
-...tui không ngạo, tui chỉ nói chuyện thực tế thôi. Nghe tui kể tiếp nè. Có một cô quá lứa vừa mới lấy chồng, sau đêm tân hôn cô ta ngẫm nghĩ sao đó mà khóc um lên, cổ nói nếu biết như thế thì cổ lấy chồng từ lâu rùi...
-...vì sao?
-Vì tiếc đã bỏ phí mấy chục năm!Vì đến lúc ấy cổ mới biết lấy chồng là như thế nào...hahahaha....
-Hừm! Thế còn câu "Lấy chồng như gông vô cổ" thì sao?
Bà bạn của tôi chắc là một bà vợ trong một gia đình hạnh phúc nên lý sự về cái vụ ở giá rất vững:
-...nhưng "Gái không chồng như ván gỗ lênh đênh!".
Tôi thấy tai mình nóng lên. Quái! Tôi có còn trẻ đâu mà nghe chuyện lấy chồng lại ngượng như hồi mới lớn vậy kìa. Sau một hồi tranh luận, những điều bà bạn tôi nói đầy tính thuyết phục nên tôi thấy cũng có lý quá, nhưng nếu bây giờ tôi gật đầu ưng thuận cho bà bạn giúp tôi thì còn ngượng hơn. Tôi còn đang bối rối thì bà bạn hỏi dồn:
-Sao? Có đồng ý không cho tui còn tính, tết đến nơi rồi sợ không kịp...
Tôi không dám lắc đâu (dù là giả vờ) Vì sợ mất cơ hội như ngày xưa, tôi đã từng bỏ qua cơ hội của mình vì cái sự làm bộ làm tịch. Tôi nói lí nhí trong miệng:
-Thì ...thì tùy bà, nhưng biết có ai...
-Có đấy! Một người cũng vì mãi lo công danh mà quên bén cái vụ tìm lại khúc xương sườn bị thất lạc của mình. Ngay ngày mai tui sẽ đưa ổng đến đây gặp bà.
000
Ngay ngày mai! Bà bạn thân mến của tui không quên nhiệm vụ. Tôi dậy sớm. Sau khi sửa sang lại dung nhan cuối xuân của mình xong thì những người khách thân mến của tôi đến. Tôi trố mắt nhìn người đàn ông đi bên cạnh bà bạn tôi, rất dễ để tôi nhận ra những nét quen thuộc mà thời son trẻ tôi từng gặp, vẫn cái kính dầy cộm, dáng người đạo mạo cùng vẻ mặt (ngày xưa trắng trẻo thư sinh) nay đã in khắc dấu của thời gian như...tôi! Tôi chợt nhớ câu thơ của cụ Phan Khôi "..nếu chẳng quen lung, đố có nhìn ra được...".
Tôi bối rối hỏi:
-Anh...anh có phải là con của bác Hai mà ngày xưa...
-Vâng! Chính tui đây.
Tôi hiểu rằng chính tôi đã để mấy chục mùa xuân của mình trôi qua một cách uổng phí, nếu như ngày xưa tôi đừng bày đặt chê anh. Nhưng giờ gặp lại nhau cũng chẳng biết nói gì, có lẽ ảnh cũng vậy, cứ lúng ta lúng túng. Còn bà bạn của tôi thì cứ cười mím chi, bã rành cái vụ này quá nên chắc cũng thông cảm, bã gợi chuyện:
-Ủa! Cây mai con lúc nãy tui thấy anh xách theo nói để trồng cho cổ đâu rồi?
Ngay lúc đó anh mới có chuyện để nói, có việc để làm:
-Mấy bận đi ngang qua đây thấy cây mai nhà cô Ba đẹp quá nên tui dìa tìm giống để ươm, may sao nó lên không thiếu hạt nào, để tui ra trồng bên cạnh cây của cô cho nó có bạn... cô Ba có cái gì để xới đất không để tui trồng xuống cho cô...
Thế là mỗi việc xới đất lên, vùi có một gốc cây xuống, tưới nước mà cả ba người lăn xăn như trồng cả một vườn cây, may sao đó cũng là cách để khỏa lấp những ngượng nghịu mà mục đích của cuộc gặp gỡ cần nói (Già rồi chả lẽ mà nói chuyện yêu iếc thì biết nói gì!!!). Rồi những chuyện tiếp theo mà chúng tôi rôm rả là...các giống cây mai có trên trời đất.
Mãi đến khi bà bạn của tôi và ảnh ra về, tôi mới liếc mắt nhìn theo. Lại nhớ đến câu thơ của cụ Phan Khôi "Liếc đưa nhau đi rồi. Con mắt còn có đuôi..."
Hồ Thụy Mỹ Hạnh
***
Người Vô Tội
Tôi đã mở mắt chào đời, nhưng không hạnh phúc được cuộc đời chào đón lại như số mạng của bao nhiêu con người khác. Nào là sanh khó, không khóc, nhẹ cân làm cho bà mụ phải cố gắng vất vả lắm mới được thở phào nhẹ nhõm, để báo tin mừng là mẹ tròn con vuông. Cùng với nụ cười mãn nguyện của mẹ tôi, thì bà cũng là người rất vui mừng vì đã hoàn thành nhiệm vụ sau khi tôi bắt đầu cất lên tiếng khóc ra đời.
Số mạng khởi đầu của tôi là như vậy. Tuy nhiên, nhiều lần tôi tự hỏi tại sao từ bấy lâu nay không ai có thể chỉ cho tôi biết mặt mẹ (cha tôi bị bệnh mất sớm trong lúc mẹ tôi đang mang thai), mà lại đã hiểu rõ được hoàn cảnh tuổi thơ của tôi, thì không ai muốn trả lời vì có thể họ còn muốn giấu giếm tôi một điều gì bí mật. Lúc đó, tôi còn nhỏ lắm nhưng tôi cũng không tin là mẹ tôi đã qua đời. Cho đến khi tôi lớn khôn hơn một chút, thì dì tôi mới nói rõ là mẹ tôi từ lâu đã bị mất tích vì là nạn nhân của chế độ diệt chủng ở nước láng giềng, kèm theo sự a tòng xúi giục của ngoại bang ngang nhiên xua quân tàn sát hàng ngàn người vô tội ở dài theo biên giới miền Tây.
Tôi cần nói rõ thêm, là trước đó thì cha mẹ tôi và cả tôi vốn là những thành phần Việt-kiều sinh trưởng ở tại nước láng giềng rồi chạy giặc cho nên mới trở về quê hương, và định cư ở quanh vùng biên giới như bao nhiêu nạn kiều khác vào lúc bấy giờ.
Hèn chi! Tôi thường thấy dì tôi thắp nhang vái lạy khấn nguyện điều gì mỗi khi tôi bị ốm đau, hay nhiều khi mắng yêu rồi cười nói phải chi mẹ tôi có mặt ở đây thì bả sẽ trả cái con nầy lại cho...
Gia đình tôi vỏn vẹn chỉ có hai người, và dì tôi thương yêu tôi như con ruột. Chúng tôi là những nạn kiều chạy trốn chế độ dịêt chủng, và may mắn còn trốn thêm được một cuộc thảm sát vô cùng tàn bạo, cho nên còn sống sót cho tới bây giờ. Tuổi thơ của tôi là được dịp sống gần gũi với cộng đồng người tị nạn diệt chủng, được tập trung rải rác trên khu vực ven con lộ cách không xa cây cầu biên giới. Rồi theo thứ tự thời gian của năm nầy tháng nọ, các bà con trong xóm lần lượt bỏ đi xa hơn để làm ăn, cho nên kể như lần mất liên lạc lẫn nhau. Riêng về phần tôi, mặc dù chưa tới tuổi lao động, nhưng tôi cũng đã đi làm việc lặt vặt từ lâu để phụ giúp dì tôi cùng sống qua ngày. Mỗi tối về, hai dì cháu thường đem truyện, thơ ra đọc rồi bàn chuyện cho đỡ buồn trước khi đi ngủ. Thời gian tuy lặng lẽ trôi qua như vậy, nhưng có thể nói đó là lúc hạnh phúc nhất trong cuộc đời của tôi.
Dì tôi hôm nay không còn nữa!
Dì đã vĩnh biệt con ra đi trong khi con còn quá nhỏ chưa đủ sức làm việc kiếm tiền để nuôi lại dì, để trả ơn công lao dưỡng dục của dì đã yêu thương cưu mang tấm thân con từ thuở bé. Dì tôi chết vì tại nạn giao thông cách nay đã ba năm. Tại hiện trường lúc đó, khách đi đường đã còn tìm thấy thêm một cái bánh trung thu mà dì thường hay mua về, để cúng vái hưong hồn của cha mẹ tôi như thông lệ mỗi khi có dịp. Và cũng do từ biến cố gia đình tang thương đó, mà cuộc sống bản thân tôi đã phải bị xáo trộn rất nhiều.
Sau đó, giống như trường hợp của bà con hàng xóm, tôi đành phải chẳng đặng đừng để lìa quê, để đi xa tìm việc sinh nhai với ước mong sao cho có cơ hội tốt hơn hầu cải thiện được cuộc sống bấy lâu nơi đồng ruộng. Thời gian đầu tiên ở chốn thành phố đèn hoa, xe cộ nhộn nhịp, tôi đã phải mất khá nhiều thì giờ để tập làm quen với lối sinh hoạt văn minh có sức lôi cuốn kỳ diệu về tâm lý của con người. Nhờ ở trọ được trong nhà của một gia đình bà con nạn kiều cũng như tôi, cho nên tôi cũng cảm thấy thoải mái được phần nào. Tuy nhiên, vì lo ngại sự chung chạ lâu ngày thì cũng khó mà có thể tránh được mọi điều bất ngờ nào đó có thể xảy ra, mà làm mất lòng tốt lẫn nhau. Do vậy, cho nên tôi mới tự tìm cách mướn phòng trọ để ở chung với một người bạn gái lớn hơn tôi gần hai tuổi.
Chị là người gốc ở thành thị, cho nên chị hiểu biết hơn tôi rất nhiều. Có thể nói, sau hình ảnh của dì tôi thì chị là người được tôi coi như là điểm tựa tinh thần để tâm sự thân thiết. Trong căn phòng nhỏ tiện nghi đủ để cho hai người ở, nhưng thực ra phải nói đúng là hai người rưởi, vì chị đang có bầu với cái bào thai thành hình trông vào là thấy ngay. Chị làm nghề uốn tóc trong một thẩm mỹ viện, ngay trung tâm thành phố. Tấm bảng hiệu quảng cáo đề thẩm mỹ viện treo trên mái nhà đó, thực ra, chỉ là một hình thức thông thường để gợi sự chú ý của khách hàng. Vì ngoài cái việc uốn tóc ra, thì tiệm không có làm gì khác hơn để chăm sóc về nhan sắc cho phái nữ cả. Và cũng vì nhờ chị vững tay nghề, cho nên có nhiều khách hàng tin cậy thường tìm đến căn phòng trọ nầy, để nhờ chị uốn tóc với giá rẻ hơn. Chính vì thế, mà chị có rất nhiều dịp để làm quen với các thân chủ và lần trở thành bạn bè giao du chuyện trò.
Trước thời gian ở chung với chị, tôi làm đủ mọi nghề vất vả để kiếm sống và khi nào có thư thả thì giờ thì tôi đi chùa cầu nguyện cho dì tôi. Đồng thời, tôi cũng ước ao có ngày tốt phước gặp lại mẹ mình, như những câu chuyện thật là hi hữu, cảm động lạ lùng không thể tin nhưng có thật ở trên đời, giống y trang như trong chương trình phát sóng "Như chưa hề có cuộc chia ly" từng trình chiếu vào mỗi cuối tuần.
Tôi nghĩ như thế là vì không phải còn tin vào phép lạ, nhưng vì đúng theo ý nghĩa thực tế thì mẹ tôi chỉ vắng mặt, mất tích mà thôi. Hơn thế nữa, chưa bao giờ tôi tìm thấy tờ giấy khai tử của mẹ tôi giống y như trường hợp của mọi người.
Nghề làm công gần nhất của tôi sau nầy, là nghề pha chế. Tôi dùng tiếng pha chế, là vì muốn nâng cấp cho nó có vẻ kiêu sang lên một tí cho vui. Chứ thực ra, mọi động thái quen thuộc của tôi trong cái không gian bé nhỏ hằng ngày là phụ người ta nấu rượu. Nấu rượu xong rồi, thì họ giao cho tôi có bổn phận là phải sắp thành những hàng chai. Kế tiếp, thì dùng một cái ly có dung lượng nhỏ mà đổ cồn vào. Xong rồi, thì đổ mỗi ly chứa cồn vào một chai rượu đế, lắc đều, rối đóng nút lại là hoàn thành công việc. Thoạt đầu, tôi cứ tưởng cái ly nhỏ chứa nước đó giống như đồ gia vị khi làm bếp bắt buộc phải có, để thêm vào thì mới thơm ngon. Nhưng sau vài ngày ngửi mùi, thì tôi mới biết rõ đó là loại cồn kỹ nghệ uống vào sẽ gây nguy hại cực kỳ cho sức khỏe.
Thật tôi không ngờ, mình đang vô tình sinh sống bằng một phương tiện nghề nghiệp quá ư khiếp đảm như vậy! Trước đây, nguyên nhân chính làm cho tôi phải bỏ quê ra thành tìm việc làm sinh sống, cũng vì gặp phải trường hợp giống y trang như vậy. Lúc đó, làm mướn ở miệt vườn quanh đi quẩn lại thì cũng chỉ có mấy việc như gặt lúa, hái trái cây, tạp dịch ăn công, làm khoán v.v tính đi tính lại cũng chẳng có bao nhiêu loại. Nhưng làm lung tung việc lâu ngày như vậy, thì cũng chán lắm mà biết làm sao bây giờ. Lần cuối cùng, tôi nhận làm khoán cho một gia đình trồng bắp. Có nghĩa là, từ lúc đi gieo hột cho tới khi hái xong vụ mùa thì mới được trả tiền công. Trong thời gian chờ hái bắp, tôi còn phải nhổ cỏ, làm giồng trồng khoai lang, củ mì để cho gia chủ có thêm thu hoạch. Sau cùng, độ chừng hơn ba mươi ngày trước khi hái bắp, thì phải pha thuốc trừ sâu xịch vào trái bắp. Thể theo lời chỉ dẫn quan trọng trong toa thuốc, thì sau khi xịch thuốc trừ sâu nầy thì phải để trong vòng một tháng hơn mới được hái bắp. Vì nếu nhà trồng trĩa muốn hái sớm hơn, thì trái bắp sẽ không có đủ thời gian cần thiết bắt buộc, để loại thải ra hết được những độc tố làm phương hại trực tiếp đến sức khỏe cho ngưòi tiêu thụ. Tuy nhiên, ngặt có một điều là nếu phải chờ cho đến một tháng mới hái, thì sau khi hái xuống trái bắp sẽ bị héo rất nhanh hơn là hái nó sớm hơn. Do vậy, mà người ta thường hái nó sau khoảng hai tuần khi bắt đầu xịch thuốc.
Giờ đây, mỗi khi ngồi nghĩ lại những việc mình làm để kiếm cơm qua ngày thì tôi thật vô cùng ớn lạnh, ngán ngẫm. Và cũng vì thế, mà tôi quyết định chuyển sang qua đi học thí công nghề uốn tóc. Nguời bạn cũng là ngưòi thầy của tôi không ai khác hơn là bà chị đang ở cùng nhà. Chị làm có tiền nhiều hơn tôi, mặc dù ở chung nhưng đôi khi chị cũng còn chàn tiền bạc cho tôi về nhiều việc phí tổn ở trong nhà. Đáp lại, tôi làm đủ mọi thứ từ vệ sinh lau chùi nhà cửa, giặt gỵa, bếp núc, đi chợ v.v. Trong những ngày đầu tiên đi chợ, tôi thường bị mất khá nhiều thì giờ để la cà nơi các quầy hàng tạp hóa bị chị cằn nhằn hoài nhưng tôi vẫn chưa bỏ tật. Thay vì bỏ hẳn tật xấu đó, thì tôi rút ngắn nó lại bằng cách dòm qua liếc lại nơi các gian hàng thịt cá trước khi ra về. Rồi một hôm đi chợ chiều cố tình mua thịt.
Khi đi ngang qua một sạp thịt sắp sửa dọn dẹp thì thấy không được ngon, cho nên tôi vội bỏ đi và định mua cá thay vào, dù có nghe được những tiếng mời mọc bùi tai của bà bán thịt. Sang qua sạp cá, thì thấy cá bữa nay cũng không ngon làm cho tôi phải trở lại hàng thịt. Lần nầy, tôi thấy bà bán thịt đang bày ra những miếng thịt đỏ tươi vừa mới lấy ra từ trong cái xô có nắp đậy. Tôi mừng thầm trong bụng rồi mua ngay không cần trả giá nữa, vì bà bán thịt đã rao là có hạ giá rồi.
Bà chị tôi nhìn miếng thịt xong, liền cho tôi một bài học nên thân. Chị lục tờ báo trên kệ xuống kêu tôi đọc to lên để hai chị em cùng nghe. Nghe xong, tôi rợn người khi được biết câu chuyện của những chậu ngâm hàn the có tác dụng làm cho thịt cá có màu tươi trở lại, nhưng cực hại cho sức khỏe của ngưòi nào ăn nó vào cơ thể. Rồi còn nào là chuyện rau muống xịt nhớt, hành phi chiên dầu phế thải, trái cây nhập cảnh Trung-Quốc xịt hóa chất bảo quản quá liều lượng, bún hôi tái chế, dăm bông bẩn tái chế, lợn nái giả thịt heo rừng, chân gà, nội tạng thú vật bốc mùi ngâm thuốc sát trùng v.v.
Tiện dịp, chị tìm đưa luôn cho tôi xem về những bài điều tra phóng sự của các nhà báo viết về "1001" câu chuyện mánh mung ma giáo của nghề nghiệp con người hiện hành ở khắp nơi nơi trên cõi hành tinh. Tất cả đều có bí quyết của nghề nghiệp để làm tiền hợp pháp. Từ trạm sửa xe, bảo trì máy móc, thầy thuốc chữa bệnh, thợ chuyên môn, rải đinh vá ép, hối lộ, tham nhũng, buôn lậu, thậm chí còn có những mưu mô kiểu anh hùng cứu mỹ nhân để trục lợi v.v. Thật là khiếp đảm, khi cộng đồng của con người ta bắt buộc phải sống chung nhau trong sự lừa lọc, dối trá, gạt gẫm để sinh tồn!
Tánh tôi đơn giản, và dù không đơn giản nhưng bản thân tôi cũng chỉ là một kẻ xuất thân từ đồng ruộng, trong mắt tôi hàng ngày nhìn thấy cây trái bông hoa và ấm lòng dưới bóng trăng thanh gió mát. Ngoài ra, người dân quê của chúng tôi tuy cũng có những bản tính tập quán không hay, nhưng khi đem so với ngưòi thành thị thì thật là chẳng thấm vào đâu. Ngay về quan niệm trong tình yêu cũng vậy. Tôi có một người yêu chân thật, lần đầu tiên tỏ tình thì anh mở đầu bằng những lời nói mộc mạc, ấp úng, rụt rè. Có khác rất nhiều với mấy chàng trai thành thị bạo dạn nói dai, nói dài, đôi khi bằng những lời sáo ngữ thật kêu mà bà chị tôi gọi là đểu giả. Phải! Không đểu giả sao được, nếu không thì cớ chi mà bà chị của tôi lại vướng phải cái bầu oan nghiệt thế nầy. Tôi nghĩ thầm như vậy. Tôi rất thông cảm cho hoàn cảnh, gần như là trốn chạy cuộc đời của chị.
Trong cuộc sống gia đình xã hội bình thường, thì cái bào thai là hạnh phúc tuyệt vời của cặp vợ chống chung thủy, là niềm vui trọn vẹn của cả hai bên dòng họ hàng nội ngoại. Nhưng không như trường hợp đó, cái bào thai nầy của chị đúng là hậu quả của sự lỡ lầm vô cùng đáng tiếc, đã xảy ra trong nghịch cảnh của một mối tình đơn phương tuyệt vọng thương tâm. Và suýt trở thành một tai họa chết người, khi một lần chị đã mưu toan tự vận.
Phải thành thật nói rằng, trước nay tôi có quan niệm sống rất là cá nhân, ích kỷ vì lẻ thân phận mồ côi, cô đơn bạc phước. Nhưng sao bây giờ tôi lại cảm thấy mình còn có phước hơn là bà chị, vì lẻ tôi còn thân con gái chưa đến lúc phải có trách nhiệm nào với cái bào thai. Tôn trọng tình cảm riêng tư của chị, trước nay những điều gì của chính chị chưa hoặc không muốn nói ra, thì chẳng bao giờ tôi tò mò dám hỏi. Tuy nhiên, vì khi nghĩ về số phận của cái bào thai vô tội sắp sửa được chào đời, cho nên một lần tôi đánh bạo hỏi thăm chị về tác giả của nó là ai? Thay vì trả lời minh bạch, chị chỉ nói với tôi bằng một câu cộc lốc rằng là hãy nghĩ nó như là một cái thai thành hình vô thừa nhận!
Mỗi người một hoàn cảnh mà chỉ có mình mới biết! Trường hợp có người mang thai vì một phút lỡ lầm, vì bị người tình phụ bạc thì đã không hiếm có xảy ra ở trong xã hội nầy. Và nghiệt ngã thương thay cho những cái bào thai linh thiêng, nó ao ước vui mừng chờ đợi đến phút ra đời, thì sẽ hạnh phúc vô cùng vì được nhìn thấy mặt mẹ, biết cha...nhưng cay nghiệt, lại bị người đời nhẫn tâm quăng hình hài vô tội của nó vào trong thùng rác.
Hỡi ơi! Thương thay...
Có phải không, khi con người ta sống ở trên cuộc đời chỉ là cõi tạm, vì nhục thể của xác thân nầy trước sau gì cũng phải trả lại cho thế giới của bụi trần. Nói như vậy, không có nghĩa là tôi không ý thức được trách nhiệm của con người khi được cha mẹ sinh ra để làm bổn phận đóng góp tinh thần trí tuệ của mình vào cho quê hương, cộng đồng, xã hội. Tuy nhiên, vì từ nhiều năm làm thân phận mồ côi bơ vơ không bao giờ có được tình thương của cha mẹ, lại thiếu cả niềm hạnh phúc của cuộc đời. Do,vậy, cho nên đôi khi quá buồn cho thân phận thì tôi thầm ước...
Là nếu có thể được trở về với cõi vô sanh trước khi được sinh ra, thì chắc chắn tôi sẽ là người đầu tiên tình nguyện nộp đơn, để mong ơn trên sớm chấp thuận cho được chui vào trở lại nằm im với giấc ngủ lâu dài ở trong cái bào thai nào đó! Vì như ai cũng đã từng biết đến giá trị của giấc ngủ, từ thuở bao đời nó luôn luôn bao giờ cũng mang đến sự sung sướng cho hầu hết tất cả mọi người. Huống chi đó lại là một giấc ngủ ngàn thu, đối với linh hồn của một con người vô tội.
Và cũng kể như từ đó, tôi đã hoàn toàn được tự do giải thoát, đọan tuyệt, như chưa hề có dịp bao giờ quen biết đến cái gọi là trần gian xinh đẹp của con người.
An-Tiêm MAI-LÝ-CANG
(Paris)
***
Những Khuôn Mặt Súc Sắc
(1)
Người trẻ tuổi bày tỏ với cha mình, ngay sau buổi tiếp tân kèm tiệc tùng xa hoa, hào nhoáng:
-Bệnh nghề nghiệp của bố! Con không thấy hứng thú khi còn lo bảo vệ bố. Mất tự nhiên, hao phí và mệt mỏi lắm bố à. Vừa qua...
Ông bố rất ngạc nhiên, khoát tay:
-Ồ không.Phải hiểu là vì con, bố đã ngẫu hứng kịp thời "làm nóng" lên dăm mười phút.Một cơ hội tốt dễ gì thường xuyên xuất hiện? Này, có hiểu là bố đã chẳng ngại tốn tiền bạc công sức cũng vì mày thôi con ạ.Nhà nghệ sĩ nào cũng muốn tạo ấn tượng mạnh cho đứa con ngay bên phông ảnh chính mình...Nhất là khi mày đang đứng trên ngưỡng cửa cuộc đời.Thế đấy.Bố đã thành công do diễn xuất, và cuộc sống được tôn vinh ngần nầy cũng nhờ đó con ạ.
Người con ngắm nhìn ông.Nhìn mái đầu nhuộm kỹ che đi các phần tóc đã bạc, giọng thập phần ái ngại:
-Vâng, là diễn viên chuyên nghiệp và danh giá, nên bố gần như dính chặt với sàn diễn mất rồi.Từ tập quán, lần hồi tình trạng đã áp đặt một "bản chất sàn diễn" lên bố.Là thứ bản chất do ngoại lực đào luyện cùng với hứa hẹn tiện ích đặc thù mà nên.Nó đã "đánh tráo" của bố bản chất nguyên sinh...
Ông bố sáng mắt lên, khẳng định:
-Con đừng quên, cuộc đời nầy rồi cũng chỉ là sàn diễn cả thôi.Một sân khấu lớn nhất, quan hệ nhất, và toàn diện không riêng gì với bố con mình.Nói chung cho hết thảy.Tất cả không ra ngoài sàn diễn.Chứ gì? Sàn diễn...
Nhìn vẻ mặt khác lạ của con, ông bố nhíu mày cật vấn:
-Nhưng bố đã làm gì khiến con phải bảo vệ? Ô hay, bố đang ra sức kiến tạo tương lai của con kia mà.Phải bảo vệ bố đấy à? Cái gì nào?
Người con lập tức tường trình về sự cố xảy ra, giọng cố nén chút khôi hài:
-Dài dòng để "lăng xê" con qua cuộc tiếp tân như một lời đề bạt trá hình.Một cuộc gửi gắm đã được đan cài mặc thị cùng nhau từ những bậc có danh uy.Chưa đủ dư thừa sao? Còn hơn thế, khi bố còn đính kèm phần diễn xuất để phổ biến "logo" cần tiếp thị...Thế nào à?
Đây...Lúc đúc kết sau chuỗi ngôn từ tràng giang đại hải, bố tươi cười dang rộng hai tay ra và vội vã tiến về bìa sân khấu.Bố đưa mắt ngước về con đang ngồi giữa bạn bè.Giữ nguyên tư thế tạo hình ấy, bố đứng yên uy nghi trong ánh sáng bừng lên, gom về ngay chỗ đứng.Âm nhạc hào hùng trỗi dậy.Một giây, hai giây, ba, bốn, năm giây...Là thông điệp gì nhỉ? Ai cũng nhanh chóng hiểu ra rằng:"Tất cả đang sẵn sàng chờ con.Vì tương lai, hãy đến bên bố thật nhanh để được ban cấp đặc ân và tiện ích.Đừng bỏ phí, vì thời gian không bao giờ trở lại".
Đấy! Diễn xuất chánh tông! Bố có biết đâu bất ngờ vì sự chú ý quá độ của mọi người, con đã không cách nào tránh né.Tất cả đều hiểu, con phải làm gì lúc ấy để có ngay sự tương thích cùng diễn xuất của bố?
Người trẻ tuổi thở dài thố lộ:
-Quái! Trước rất nhiều tia mắt đạo mạo, bố muốn con tỏ ra đầy hưng phấn, ào ngay vào vòng tay bố chứ gì? Con đã rất lúng túng khi xô ghế đứng dậy, đã cố gắng nở một nụ cười thật tươi và như một phản xạ, bươn nhanh qua mấy dãy bàn bề bộn.Chết dở! Mắt chỉ biết trông về phía bố.
Kết quả...Sau lưng là cốc rượu, lọ hoa tan tành rơi vỡ...
Chiếc khăn trải bàn đã bị dính mắc, lôi theo.Một số khách quý đã phải lật đật vào nhà vệ sinh sau đó.
Để bảo đảm cho "mặt nổi" buổi tiếp tân không bị nháo nhác, lu mờ...Số nhân viên phục vụ đã nhanh chóng lau chùi, dọn dẹp.Họ cố thu mình dưới chân ghế quý khách để làm sạch các đôi giày vướng bẩn.Tất nhiên, bị che tầm mắt nên bố đã không nhìn thấy điều gì.Lời xin lỗi của con sau đó khác nào câu "chào hàng" đầu tiên đến từ diễn xuất của bố! Ôi thật...
(2)
Thấy bố im lặng, người con chán nản, hỏi gắt:
Bố đã quên béng đi sao? Chưa bao giờ con là diễn viên để cùng nhau khế hợp các động thái trên sàn diễn.Ồ, rất có thể con vẫn ngồi yên, khiến chỉ trong một phút sự diễn xuất của bố sẽ rơi vào lố bịch.Nhưng may là không! Thay vì cứ yên vị, con đã kịp thời giúp đỡ nghiệp vụ cho bố.Một sinh viên tốt nghiệp đại học ngành toán lý như con vốn dị ứng với ánh đèn màu và diễn xuất trên sân khấu! Bố quên luôn hay cũng chẳng cần lưu ý?
Ông bố xí xóa bằng biện hộ nghệ thuật:
-Ừ, thì quên...Đột ngột lúc "xuất thần".Tình trạng mà bất cứ nghệ sĩ nào, nhất là trên sàn diễn như bố đều rất mong đạt đến.Nó minh chứng giữa diễn viên và nhân vật nhập vai đã hoàn toàn làm một.Nghệ thuật cao quý chỗ đấy.Phải biết vượt qua những bất trắc nhỏ nhặt.Đúng chứ? Tất nhiên đã gọi "xuất thần" thì chả làm sao tiên liệu.Bố đã "ngẫu hứng" và...
Người con trẻ không che dấu mối bất bình:
-Phút "xuất thần" của bố ư? Quên lãng sự riêng tư để "sống trọn" cùng vai diễn, để "lột tả cho kỳ hết chân thực" chứ gì?Bố đã không lý gì đến thực tế nhân thân và tính tình con của bố! Cứ việc diễn xuất, cứ mặc nhiên rằng đứa con là đồng nghiệp, là diễn viên phụ đang sẵn sàng bên bố?
Người con lắc đầu chỉ ra chỗ tiềm ẩn bất trắc có thể thấy được từ góc nhìn cá nhân:
-Duy, vừa rồi sự "xuất thần" nghề nghiệp kia lại suýt là một nguyên nhân gây thất thố.Nó phủ nhận sự thật nhằm phục vụ một ý đồ diễn xuất "lấy được".Bố biến con thành diễn viên phụ đầy bất đắc dĩ.Thay vì nhăn mặt, con đã ráng tươi cười lên và đi nhanh về phía bố.
-Hề gì.Cuối cùng thì con cũng đã diễn xuất.Tốt.
Người con nhìn bố đến lạ lùng, khó hiểu:
-Nhầm.Bố nên khen trí thông minh chứ không phải tài diễn xuất nơi con.Con không phải, không thể nào là diễn viên.Xin lỗi bố.
Ông bố dịu giọng, nói vòng để cắt giảm căng thẳng:
-Không thông minh sao lại diễn xuất hay? Ê, hai thứ đó vẫn là một thôi con ơi.
-Chúng khác nhau.Trong diễn xuất, không thông minh nào thay thế sự trơn tru các động thái từng thực tập nhiều lần.Chúng trở thành phản xạ máy móc, kỹ xảo.Dĩ nhiên, bố tài năng hơn rất nhiều đồng nghiệp khác.Nhưng không phải khi nào cũng đứng trên sàn diễn.Phải không?
(3)
Ông bố gật gù đã có vẻ chịu nghe ít nhiều khuyên giải:
-Dù sao, diễn viên cũng có lúc rời bỏ hóa trang để trở về con người thường bố ạ."Con người không diễn".Con người thật, ở sâu trong nội tâm của họ.Nếu không nói cũng chính là "con người cô đơn" trong mỗi một cá nhân.
Lý do, "Con người không diễn" dần bị hạn chế về tần suất xuất hiện.Tới một lúc nào đó, có nguy cơ chỉ còn chút ít thoáng qua trên sân khấu đời người"."Con người không diễn", nó mờ nhạt đi ghê gớm và gây hiệu ứng mơ hồ trong nhận diện tự thân? Vâng, một thực thể "hình như không đủ sức để chứng minh tồn tại".
"Con người không diễn" vì thế, vẫn cứ sống đầy cô đơn và lang thang không đủ đất dung thân.Bi kịch "Hành khất trước mái hiên nhà mà lẽ ra nó đáng mặt chủ nhân ông".
Người bố cười khà, ra vẻ thông cảm và phục thiện:
-Ấy do công việc, bố khá thiếu những lúc riêng tư để gần gũi.Lúc mà theo con, bố nên là một "con người không diễn" chứ gì.Song, con cũng phải thông cảm nữa chứ.Do không gian quy định cả mày ạ!
Ông phân bua thêm như nhắc nhở hiện tình:
-Ban nãy thấy đấy, đâu phải chỉ mình cha con ta? Toàn là vai vế, những khách mời thượng lưu, tầm cỡ...Đấy là các mực thước đang trực tiếp đo đạt, quy định giá trị hôm nay cho những người như bố.Còn đáng lưu tâm hơn, rồi sẽ tới phiên mày trong một tương lai không xa lắm.Bây giờ nhé, không có chỗ cho "Hồ trường" để tráng sĩ xưa ngâm thơ hào sảng.Ta phải nắm bắt thực tế thôi con ạ.
(4)
Im lặng nhìn bố hồi lâu, người con trẻ đâm ra muốn đàm luận với ông qua một phương thức khác.Ông bố chỉ muốn khỏa lấp sự cố vừa xảy ra, tỏ vẻ lý thú về đề nghị bất chợt của người con.Điều mà ngày thường khó lòng ông hưởng ứng."Nói về tư tưởng diễn xuất", nghe thế, ông cất ngay gọng kính và xoa tay vui vẻ:
-Ý hay.Đâu con nói gì nào? Bố rất muốn nghe đây.
Người con nói về Shakespeare, Pirandello, Camus rồi Sartre, các kịch tác gia đã trở thành kinh điển.Đơn cử các tác phẩm để đời "Hamlet", "Sáu nhân vật đi tìm tác giả", "Caligula", "Ả giang hồ" và nêu quan điểm chính mình:
-Cuộc đời này cũng là sân khấu.Vâng, con không phản bác nhưng để đồng ý bố, nhiều lắm chỉ một nửa mà thôi.Vì sao nhỉ? Thành ngữ Nga "Một nửa bánh mì vẫn là bánh mì. Nhưng một nửa sự thật chưa phải là chân lý".
Ông bố cười to:
-Bố hãnh diện về kiến thức của mày.Không chừng cũng gần vượt qua cả bố.Về triết học chứ gì? Nên nhất quán là đủ con à.Đâu cần đa tạp cho nó thiếu tập trung.Rắc rối là ở Hamlet đấy.Shakespeare "viết tốt" thật!
Người con trẻ bật cười, sửa lại chiếc nơ trên cổ bố:
-Hamlet có "đánh mất" đi chính gã như thường xuyên bị ngộ nhận không? Hay chỉ là thủ thuật tự "đánh tráo" qua một kiểu "khuôn mặt" khác, vốn cùng nhau tồn tại."Khuôn mặt" khác kia thực ra, ẩn sâu hơn trong nội tâm của hắn. Nếu nói rằng, cộng hưởng mọi tư tưởng phức tạp, mọi "khuôn mặt" với hy vọng diễn xuất đầy đủ "con người" thì không sai, song với chừng ấy "khuôn mặt" trong "hạn chế Hamlet" thì chắc chắn là chưa.Nó hỗn độn hơn nhiều.
Người con nghiêm túc hơn khi nhận định:
-Thử lấy tri kiến nhà Phật để dọi sâu vào tư tưởng trời tây...Vâng, Hamlet "đánh tráo" chứ không hề "đánh mất" gì cả.Như một con súc sắc tùy vào bàn tay gieo, mặt nầy hiện ra không có nghĩa các mặt kia đều tiêu biến. Thực ra, các "khuôn mặt" chỉ thay nhau hiện ra và chìm khuất theo "duyên và nghiệp" mà thôi.Chúng biến hóa ra sao cũng cứ còn là những "khuôn mặt" trong một viên súc sắc.Tất nhiên "con súc sắc người" chả đơn giản với từng ấy "khuôn mặt" đâu bố ạ.Bao nhiêu? Không thể nào đếm hết!
Ông bố nghe và bắt đầu ngáp vặt:
-Bố ơi.Trong hằng hà sa số "khuôn mặt" sở hữu kia để tùy nghi diễn xuất, nhiệm vụ nhân bản nhất, ý nghĩa nhất của tự mỗi đời người, là nỗ lực truy cập "khuôn mặt vĩnh cữu" của chính mình.Cũng có thể gọi là "khuôn mặt muôn đời" hoặc kinh điển hơn "bản lai diện mục" theo kiểu nói Huệ Năng. Nếu không, chủ sở hữu của cả hai thứ xác thân và tinh thần nầy "mãi mãi chỉ là sự ngộ nhận liên tục". Kết quả từ bộ sưu tập "nhiều khuôn mặt cứ vẫn thay nhau, luôn đánh tráo trong ta".
Bởi thế, với Phật pháp câu hỏi về "bản ngã" hay "đích thực ta là ai? Với khuôn mặt thế nào? Ở đâu?" đã trở thành tiên quyết, chí tử.Nó từ đó cảnh báo rằng, sự vô minh về "bản ngã" là vô minh trùm lên mọi "cái biết" mà con người đã, đang và sẽ còn hãnh diện, ôm đồm...Bi hài kịch!
Thấy người con dừng lại và kéo hộc tủ.Ông bố trố mắt nhìn chăm chăm vào một viên súc sắc nhỏ đang được thảy lên và rơi xuống mặt bàn:
-Không như loại súc sắc thông thường trên tay con.Mỗi bàn tay gieo "con súc sắc người" còn tùy vào cơ duyên nhân quả...Luôn luôn, nó mang theo níu kéo của "nghiệp lực" chi phối khác nhau.Có nghĩa, tình trạng ngẫu nhiên theo toán học từng phán quyết cho thứ súc sắc vô tri, thông thường này, không còn đúng ở "Con súc sắc người" đã nói. Là súc sắc mang nhân quả đi theo như bóng với hình...
Người con trẻ ôn tồn trở về thực tế:
-Bố à.Khái niệm diễn xuất, dù sân khấu cỡ nào cũng chỉ là một phần của cuộc sống.Cho dù phần trăm ấy lớn thế nào hoặc lợi ích thực tế đến đâu, đối với nhà nghệ sĩ cũng chỉ là diễn xuất sân khấu mà thôi.Bên cạnh, diễn viên còn có cuộc đời thật, tâm tư thật của con người riêng hắn.
Nếu bảo rằng, cuộc đời nầy cũng chỉ là loại sân khấu lớn
mà thôi.Một thứ sân khấu mặc nhiên, tự hiện.Thế, có ai để tâm không? Các đạo diễn, họ là ai và với lý do nào tồn tại?
Quyền tự quyết? Hay buộc dựa trên kịch bản ở nơi nào?
Và khán giả hay đám đông còn lại khi ấy sẽ thưởng thức được những gì? Hoặc giả rất có thể cần thiết đòi hỏi chọn lựa như những ai từng rút tiền ra mua vé, khi ấy họ đòi hỏi chỗ nào? Ở ai? Thật bi hài, khi mà "diễn viên cũng chính là khán giả"...Là kẻ, với một "khuôn mặt" khác phải nhập vai, đã được diễn tập trước từ phân công đạo diễn! Hai vai trong chỉ một con người."Đánh tráo"!
Bố có tự hỏi đấy không? "Mỗi cá thể tham dự trong tấn tuồng đại trà mang hình hài xã hội kia", diễn viên.Vâng, khi ấy con người thật sự của diễn viên sẽ tồn tại ở nơi đâu? vào những khoảnh khắc nào cụ thể? Cuộc "đánh tráo" các "khuôn mặt" cứ thế lặng lẽ thay nhau trong mỗi một con người.Thấy đấy! "Đánh tráo" chứ không hề là "đánh mất" đâu bố nhé!
Người con nhặt viên súc sắc lên ngắm nghía, để sau rốt ném mạnh qua cửa sổ và phủi sạch bàn tay:
-Nếu cho là "đánh mất", khác gì ta mặc nhiên coi con người tư riêng của mọi diễn viên, hay nói cách khác "cái tôi mỗi con người trong xã hội", lúc bấy giờ không còn lý do tồn tại? Họ hoàn toàn là "con súc sắc người" trong bàn tay đạo diễn.Những công nhân của "Tổng công ty diễn xuất"!
Người bố bối rối không biết nói gì.Dần dà, ông ta hiểu manh nha rằng, mình và sự cố vừa qua chỉ là một "lát cắt" trong tổng quan nhận định từ giới trẻ có kiến thức và ý thức ngày nay.Điều này khiến ông ta vừa bất an vừa ẩn chứa vui mừng.Vì sao? Ông không thể và không muốn trả lời minh thị.Bây giờ, ông mới thấy quả nhiên có "con người cô đơn" đang lẩn lút ở trong ông...Đứa con để mặc bố trầm tư và kết thúc như tự thoại với riêng mình:
-Bởi thế thỉnh thoảng nhờ thủ thuật "đánh tráo", diễn viên tạm dừng và vỗ tay "tự cổ động lấy mình"Làm gì thế? Để đừng quên, mặt khác họ cũng đang là khán giả.Cứ thế, sân khấu xã hội thành tựu thứ áp lực quy định hẳn vào vận số của con người.Cái mà ai cũng cứ ngỡ chỉ có mệnh trời đưa đẩy.Đấy chính là thứ "nghiệp lực" vô minh, hành lang của bóng tối. Là đường dẫn cho bi hài kịch thế sự hiện hình.
(5)
Mấy ngày sau, ông bố bước vào phòng đứa con với tư thái của một người chưa thỏa mãn về cuộc tranh luận ngay hôm tiếp tân đầy long trọng.Họ lại tiếp tục và dần thu hẹp ít nhiều biên giới thường nhật.Tất nhiên, những bất đồng căn cơ còn đó.Ông bố sau một hồi nói theo kiểu vòng xoay, bao giờ cũng quy về kết luận cố hữu "Đấy.Ta phải thực tế thôi con ạ".Bây giờ, ông mới ngó đồng hồ và giật mình kêu lớn:
-Trễ hơn mười lăm phút! Ừ, phải đi đây nhưng mà bố sẽ tiếp tục "đấu tranh tư tưởng" với con, chưa có ngã ngũ đâu mày nhé! À mà nhớ đấy, cần gì con nói bố giúp đỡ.
-Vâng, cảm ơn bố.
Người con thầm nghĩ...Bố chưa bao giờ năng nổ tranh luận cùng con cái những vấn đề "ngoại sổ" như hôm nay. Từ lâu ngoài những căn dặn dại khôn, khô khan nhằm uốn nắn gọi là giáo dục vào đời, quá ít khi ông tự đến gõ cửa phòng con cái.
Giờ đây, ít ra ông cũng đã mới hơn trong câu nói "cần gì, con nói bố giúp đỡ".Thay vì, kiểu thông điệp đã công phu diễn xuất trong lần tiếp tân kia."Tất cả đang sẵn sàng chờ con.Vì tương lai, hãy đến bên bố thật nhanh để được ban cấp đặc ân và tiện ích.Đừng bỏ phí, vì thời gian không bao giờ trở lại".
Từ ban phát, ông bố đã chuyển thành giúp đỡ.Với người con, chừng ấy quả là biến chuyển tuyệt vời không mong đợi.Chỉ cần thực tâm muốn cầu thị lắng nghe, thì may ra mọi giúp đỡ mới không còn là ban phát.
Thật ra, ban phát nhấn mạnh đến khoảng cách đối diện,là biên giới giữa cao và thấp, giữa ban cho và nhận lấy.Ban phát không đặt nặng về nhu cầu nào, thứ gì là cấp thiết chođối tượng được ban? Nó chỉ nhằm nâng cao uy thế chủ thể ban phát.Đặc biệt, ban phát để tâm đến sự tri ân hồi đáp như một thứ lợi tức trá hình nhân nghĩa.
Giúp đỡ, không như thế.Giúp đỡ đích thực là thế đứng cạnh nhau để hiểu biết, cảm thông và cùng nhìn về một hướng.Giúp đỡ tự biết tìm hiểu và tôn trọng nhu cầu cấp thiêt từ đối tượng kêu cầu.Và, giúp đỡ vì vậy chẳng để tâm đòi hỏi đến tri ân.
(6)
Mẩu chuyện trích ngang sinh hoạt giữa hai bố con diễn viên nhà nọ chỉ có thế.Hai thế hệ nối liền nhau, nhưng họ không hề nối liền nghiệp vụ và, càng khác nhau hơn qua cung cách tiến thân.
Họ có thể còn tiếp tục tranh luận hay không? Sẽ đi đến một kết quả thế nào? Chưa thể biết. Dù để lại đây với nhiều câu hỏi.Vâng, nhưng người thuật chuyện vẫn đã xong công việc của mình.Ít ra, vài dấu hiệu lạc quan cũng đã sáng lên trước bao niềm hy vọng....
Trần Hạ Tháp
***
Chuyện Ông Già NOEL
Ông Già Noel có thật hay chỉ là truyền thuyết? Có thật chứ! Dù người ta có nói thì thực sự vẫn có một Ông Già Noel hào phóng, người ta gọi Ông Già Noel là Santa Claus.
Ông Già Noel tên là Nicholas (Ni-cô-la), là người theo Kitô giáo Hy Lạp, sinh tại Thổ Nhĩ Kỳ vào khoảng năm 300 sau công nguyên.Ông thương người nghèo và cho họ những gì ông có. Cha mẹ ông mất vì bệnh dịch khi ông còn nhỏ. Ông sống như lời Chúa Giêsu nói với chàng thanh niên: "Bán tài sản và cho người nghèo" (Mt 19:21). Và ông đã thực hiện đúng như vậy.
Ông trở thành linh mục, rồi được bổ nhiệm làm giám mục GP Myra khi còn trẻ tuổi. Một truyền thuyết nói rằng ông được chọn vì ông có lòng đại lượng, yêu thương trẻ em, quan tâm các thủy thủ... đặc biệt thương những người bị oan sai. Ông Già Noel chính là Thánh Nicholas.
Tại TP Patara gần đó, có một thương gia bị mất hết tài sản, mà ông lại có ba đứa con gái. Ông không có gì để hồi môn cho các con. Thời đó, con gái có của hồi môn càng nhiều càng có cơ hội lấy chồng. Người cha cảm thấy chán nản lắm. Tiếng đồn tới tai Thánh Nicholas, lúc này Thánh Nicholas đem một túi vàng đặt ở trước nhà thương gia kia để có của hồi môn cho con gái lớn. Không lâu sau, cô con gái này có chồng.
Thánh Nicholas cũng làm vậy lần hai, rồi lần ba. Lần cuối cùng, người cha "canh me", rồi bắt gặp nhà hảo tâm nên đã bày tỏ lòng biết ơn. Thánh Nicholas cấm ông không được cho ai biết chuyện, vì Chúa Giêsu dạy: “Khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm" (Mt 6:3). Những thỏi vàng được đặt vào những chiếc vớ treo trước lò sưởi. Do đó, trẻ em ngày nay thường treo vớ trong Đêm Giáng Sinh với hy vọng nhận được quà của Ông Già Noel.
Nhiều truyền thuyết nói rằng đó không là những túi vàng, mà là những trái bóng bằng vàng. Đó là lý do mà ba trái bóng vàng là biểu tượng của Thánh Nicholas – thánh bổn mạng của các tiệm cầm đồ (pawn shops).
Hồi còn trẻ, Thánh Nicholas hành hương tới Thánh Địa. Ngài đi trên con đường Chúa Giêsu đã đi xưa để có được cảm nghiệm sâu sắc về Chúa Giêsu. Khi trở về qua đường biển, một cơn bão mạnh đe dọa tàu. Thánh Nicholas vẫn bình tĩnh cầu nguyện. Các thủy thủ đều sợ hãi vì bão, nhưng bỗng ngạc nhiên khi thấy gió yên, biển lặng, mọi người thoát chết. Do đó, Thánh Nicholas là bổn mạng các thủy thủ và cách hành khách đường biển.
Hoàng đế Diocletian của Rôma mạnh mẽ chống lại Kitô giáo, hành hạ dã man các Kitô hữu, đã ra lệnh ĐGM Nicholas bị bắt. Ngài bị đánh đập, bị đày và bị tống ngục. Các tù nhân là các Kitô hữu quá nhiều nên chật nhà tù. Để giải quyết tình trạng này, họ hành hạ các Kitô hữu để giải khuây và co họ chết bớt.
Khi Hoàng đế Constantine gia nhập Kitô giáo, ĐGM Nicholas được thả. Trong cả Chính Thống giáo và Công giáo, nhiều câu chuyện kể về Thánh Nicholas về lòng nhân hậu: Cứu người thoát khỏi đói khát, cứu sống những người bị kết án tử oan sai. Những câu chuyện tương tự kể về việc Thánh Nicholas làm việc thiện nhưng không muốn ai biết.
Theo một nhà viết tiểu sử, 5 thế kỷ sau khi Ông Già Noel qua đời, Thánh Nicholas đã chống lại tà thuyết Arian – tà thuyết này không nhận thần tính của Chúa Giêsu. Một số nhà viết sử nói rằng Thánh Nicholas đã tham dự Công Đồng Nicê và đã thẳng tay tát vào mặt Arius (người khai sinh tà thuyết Arian). Các giám mục khác ngạc nhiên không hiểu sao ngài lại thô lỗ với Arius như vậy. Truyền thuyết nói rằng lúc đó cả Chúa Giêsu và Mẹ Mariađã hiện ra bảo vệ ngài.Những người gièm pha ngài đều rút lui.Có thể đó chỉ là truyền thuyết, vì các sự kiện này không được ghi lại trong hồ sơ của Công Đồng, cũng không thấy có tên ĐGM Nicholas trong danh sách các tham dự viên.
Công Đồng Nicê nổi bật với tín điều mà ngày nay vẫn được sử dụng, xác tín rằng: "Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình. Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật. Người sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản tính với Đức Chúa Cha…".
Thánh nicholas qua đời ngày 6 tháng 12 năm 343 (sau công nguyên) tại TP Myra, được an táng tại nhà thờ của ngài. Người ta nói rằng man-na (giống như lương thực từ trời nuôi dân Ít-ra-en đi qua sa mạc 40 năm dưới sự hướng dẫn của Mô-sê) xuất hiện trên mộ Thánh Nicholas và man-na này có khả năng chữa bệnh. Ngày nay, mộ của ngài tại Thổ Nhĩ Kỳ vẫn là điểm đến của hàng ngàn khách hành hương mỗi năm. Lễ Thánh Nicholas là ngày 6 tháng 12 (ngày 19 tháng 12 theo lịch Julian), ngày ngài qua đời.
Hoàng đế Justinian dâng kính Thánh đường ở Constantinople cho Thánh Nicholas. Một sử gia Hy Lạp viết: "Cả Tây phương và Đông phương đều tôn vinh Thánh Nicholas. Ở đâu có người ở thì ở đó tên ngài được tôn kính, và có những nhà thờ được xây dựng dâng kính ngài. Mọi Kitô hữu tôn kính ngài và cầu xin ngài bảo trợ".
Khi TP Myra mừng lễ ngài thì một nhóm hải tặc Ả Rập từ đảo Crete đến tấn công, cướp tài sản và bắt các tù nhân đem bán làm nô lệ. Cậu bé Basilios bị bắt và phải dâng rượu cho vua Ả Rập, rượu đựng trong chiếc ly vàng rất đẹp. Cha mẹ của Basilios đau khổ vì mất đứa con duy nhất, họ đau buồn suốt nhiều năm.
Gần ngày lễ Thánh Nicholas, người mẹ không muốn tham dự. Thay vì bà phải tới nhà thờ cầu nguyện cho con trai. Khi dâng rượu cho vua Ả Rập, Basilios bất thần chạy trốn. Thánh Nicholas xuất hiện trước mặt Basilios đang hoảng hốt, ngài chúc lành và đưa Basilios về tòa giám mục ở Myra. Truyền thuyết nói rằng Basilios đã xuất hiện trước mặt người mẹ khi bà đang cầu nguyện, tay Basilios vẫn cầm chiếc ly vàng của vua Ả Rập.
Có gần 400 nhà thờ được dâng kính Thánh Nicholas ở Anh quốc hồi cuối Thời Trung Cổ. Nhiều truyền thuyết về Thánh Nicholas nói ngài đã đến với những người độc ác giết người hoặc bắt cóc trẻ em, và ngài cầu nguyện cho họ. Sau đó họ đã hoán cải.
Tại Pháp, có chuyện kể về ba trẻ em đi chơi và bị lạc, chúng bị lừa bán làm nô lệ. Thánh Nicholas cầu xin Thiên Chúa và chúng đã được thả về với gia đình. Do đó, Thánh Nicholas được coi là bổn mạng của trẻ em. Ngày nay, Thánh Nicholas được sùng kính cả ở Đông phương và Tây phương với tước hiệu là thánh bổn mạng của trẻ em, của người đi biển, của ngành ngân hàng, các tiệm cầm đồ, các học giả, các trẻ mồ côi, dân lao động, các du khách, các thương gia, các quan tòa, dân nghèo, các thanh thiếu nữ, các sinh viên, các nạn nhân bị oan sai, các tù nhân và các người làm hoặc bán nước hoa. Ngài là thánh bổn mạng của TP Apulia (Ý quốc), đảo Sicily, Hy Lạp, và TP Lorraine (Pháp quốc).
Sau khi được rửa tội ở Constantinople, Nga hoàng Vladimir I đã đem các câu chuyện về Thánh Nicholas và lòng súng kính ngài về Nga. Ngày nay, Thánh Nicholas vẫn là vị thánh được sùng kính nhiều nhất tại Nga, với hơn 2.000 nhà thờ mang tên Thánh Nicholas.
Tại một số quốc gia, Thánh Nicholas được gọi là Papa Noel (Cha Giáng Sinh), Sinter Klaus hoặc Santa Claus (Sinter/Santa là "thánh", Klaus/Claus là dạng thu gọn của chữ Nicholas).
Mộ Thánh Nicholas ở Myra vẫn là nơi thu hút khách hành hương. Khoảng năm 1000 (sau công nguyên), vì nhiều cuộc chiến xảy ra trong vùng, một số Kitô hữu quan ngại việc kính viếng mộ Thánh Nicholas, nhất là vì Thổ Nhĩ Kỳ đa số là dân Hồi giáo. Đầu năm 1087, các thủy thủ đã đem xương Thánh Nicholas tới Bari, một hải cảng thuộc miền duyên hải tại Ý quốc.
Một nhà thờ được xây dựng ngay trên mộ ngài, nhiều tín hữu vẫn không ngừng tới kính viếng Thánh Nicholas – người là nguồn cảm hứng về Ông Già Noel ngày nay.
Trầm Thiên Thu
(Chuyển ngữ từ Beliefnet.com)
&&&
Chuyện Giáng Sinh
Lễ Giáng sinh có thể gọi chính xác là ngày nghỉ của các giác quan.
Đây là mùa của đèn nến và kim tuyến, thánh ca và ca đoàn, hương vị của cây thông và hạt dẻ nướng. Giáng Sinh đến với chúng ta với những bữa ăn ngon, những tiếng cười vui vẻ, và những nụ hôn dưới cây tầm gửi. Khung cảnh Giáng Sinh được trang trí lộng lẫy khắp nơi, từ thôn quê tới thành thị, vô số những tấm thiệp được gởi để chúc mừng nhau. Hơn 2.000 năm qua, thế giới đánh dấu việc giáng sinh của Chúa Giêsu là lễ hội vui mừng nhất. Không có ngày nào trong năm vui mừng như vậy.
Chưa một Công đồng nào hoặc một Giáo hoàng nào công bố như vậy. Nhưng mỗi năm, Giáng Sinh đến như làn gió Đông bất ngờ thổi vào Tháng Mười Hai, như ánh nắng lấp lánh phản chiếu trên tuyết trắng xóa. Cảm giác rất lạ, đang từ mùa Đông cằn cỗi tới mùa ánh sáng vui mừng.
Giáng Sinh đầu tiên – ngày Chúa Giêsu giáng trần – là "cú sốc” đối với lịch sử nhân loại.
Trải qua nhiều thế kỷ, nhân loại đã sống và đã chết trong tội mà không biết, cảnh khốn khổ của thế gian này không thể tránh khỏi và niềm vui quá ít mà mau qua. Giáng Sinh tới, lịch sử được chia làm đôi: Trước ngày đó (trước Công nguyên), và sau ngày đó (sau Công nguyên). Thế giới hoàn toàn thay đổi. Vì Ơn Cứu Độ khởi đầu từ khi Thiên Chúa hóa thành nhục thể, khi Thiên Chúa hạ sinh tại Belem.
Thiên Chúa đến ở với chúng ta trên thế gian này. Thánh Gioan khởi đầu Phúc Âm bằng cách diễn tả một Thiên Chúa rất quyền năng, rất xa xôi, nhưng Ngài đã vượt qua tất cả vì yêu thương nhân loại:
“Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng" (Ga 1:1-5).
Đó là Thiên Chúa mà chính các triết gia ngoại giáo cũng biết, họ gọi Ngài là Động Lực Đầu Tiên, Tạo Hóa, Thượng Đế. Kịch bản của Thánh Gioan lên tới đỉnh điểm: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" (Ga 1:14).
Đây là tin "giật gân". Từ trời cao xa, từ thời điểm xa nhất, chính Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể và "cắm lều" ở giữa Dân Ngài. Từ đời đời, Thiên Chúa là Ngôi Lời, nhưng không ai nắm bắt được Ngôi Lời. Bây giờ Ngài hóa thành Hài Nhi, và người ta có thể bồng bế hoặc ôm ấp Hài Nhi.
Theo sự thật lạ lùng của Kitô giáo, không gì táo bạo như điều này: Ngôi lời sinh ra tại một ngôi làng nhỏ, trong một hang đầy thú vật, vào một đêm vừa lạnh giá vừa tăm tối. Ngôi Lời đã làm người và đã thay đổi mọi thứ. Điều này làm cho lễ Giáng Sinh trở thành lễ gây sốc nhất trong lịch.
Ý nghĩa lễ Giáng Sinh được gom lại trong điều này. Thiên Chúa đã sống trong một gia đình như chúng ta. Ngài cũng run người vì lạnh như chúng ta. Ngôi-Lời-mặc-xác-phàm cũng đã bú sữa mẹ như các em bé khác, cũng khóc lóc khi cơ thể bất an. Hoàn toàn như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi.
Truyền thống cho chúng ta biết rằng Thánh Gioan viết đoạn mở đầu cho Phúc Âm của ngài khi được linh hứng cao độ. Bạn bè của ngài đã bảo ngài viết chuyện đời Chúa Giêsu, thế nên ngài bảo họ ủng hộ ngài bằng cách ăn chay và cầu nguyện. Khi ăn chay xong, Thần Khí ngự xuống trên Thánh Gioan, và ngài như không còn là chính mình. Ngôn từ cứ tuôn trào – có thể chính là những từ mà ngài cố gắng tìm mà chưa bao giờ tìm được.
Chúng ta có thể thấy lạ trong giọng điệu khi ngài nói với chúng ta rằng Ngôi Lời trở nên người phàm. Khi ngài viết, hẳn là ngài cũng cảm thấy rất hưng phấn, như lần đầu đến nhà của thợ mộc Giêsu ở làng Nadarét, Đấng Được Xức Dầu, Con Thiên Chúa.
Sự ngạc nhiên này cũng có trong thư thứ nhất của Thánh Gioan. Theo truyền thống, Thánh Gioan viết lá thư đó 66 năm sau khi Chúa Giêsu về trời, nhưng vẫn có sự ngạc nhiên trong lối hành văn của ngài. Ngài vẫn như thể không tin được rằng "điều đó là từ khởi đầu" cũng là "điều mà chúng ta nghe, thấy và sờ được".
* * *
Trong thời Giáo hội sơ khai, lễ Giáng Sinh không là lễ quan trọng. Cuộc đời Chúa Giêsu vẫn là ký ức sống, và sự phục sinh của Ngài vẫn chiếm vị trí trung tâm trong lịch. Nhưng theo thời gian, các thầy dạy giả mạo bắt đầu không chịu nhận nhân tính nơi Chúa Giêsu. Họ cho rằng cơ thể Chúa Giêsu là cách cải trang tinh vi, chứ Thiên Chúa không bao giờ hạ giá chính Ngài bằng cách "mặc lấy xác phàm". Sau đó, các tà thuyết từ chối việc Đức Mẹ sinh ra Ngôi Lời. Họ nói rằng Đức Mẹ sinh ra "thùng" chứa đựng Ngôi Lời. Các tà thuyết vẫn cho rằng Chúa Con là phần phụ, như thần thánh, chứ không đồng bản thể và vĩnh hằng với Chúa Cha.
Các tà thuyết này có một điểm chung: Không chấp nhận việc làm người của Con Thiên Chúa. Arius là người lập ra tà thuyết Arian, ông là người giỏi về luận lý. Ông từ chối tín điều Tam Vị Nhất Thể (Chúa Ba Ngôi), ông cho rằng ba không thể là một, đó là số học sơ đẳng. Thiên Chúa vô hạn không thể làm người hữu hạn, đó là triết học sơ đẳng. Do đó không thể có việc Thiên Chúa làm người.
Những người lạc giáo như Arius muốn dành cho Thiên Chúa sự sỉ nhục không thể lý giải của sự lệch lạc vì kết hợp quá sát với bản tính nhân loại. Đó cũng là vấn đề tương tự mà nhóm Pharisêu không thể vượt qua: Nếu Ông Giêsu này quá tốt, tại sao Ngài thân thiết với người tội lỗi và người thu thuế? Thật vậy, mặc dù những người theo tà thuyết khăng khăng cho rằng họ bảo vệ sự hoàn hảo của Thần tính, họ vẫn thực sự từ khước sự hoàn hảo của tình yêu Thiên Chúa. Cuối cùng, tình yêu có thể có vẻ bất khả lý luận. Bất kỳ ai đánh giá người khác như chính mình đều có vẻ hoàn toàn thái quá.
Hầu như không thể trùng khớp việc kỷ niệm ngày sinh của Chúa Giêsu theo lịch sử và theo nghĩa đen, Ngài là con bác thợ mộc bắt đầu đảm trách việc quan trọng hơn khi đức tin đích thực bị choán bởi các sai lầm rất nguy hiểm là từ chối việc hóa thành nhục thể. Mừng Con Thiên Chúa giáng sinh là tách điều chính thống với tà thuyết. Mừng Chúa Giáng Sinh đưa Giáo hội tới nguyên tắc rõ ràng.
* * *
Từ đầu, không có sự thống nhất về ngày lễ Giáng Sinh. Giáo hội ở Ai Cập đặt ngày Đức Kitô giáng sinh vào tháng Tư hoặc tháng Năm. Các Giáo hội khác đặt vào tháng Ba, hoặc bất kỳ tháng nào mà họ thích. Điều cũng phổ biến là kết hợp lễ Giáng Sinh với lễ Hiển Linh (Ba Vua), đặt cả hai lễ này vào ngày 6 tháng 1. Nhưng khoảng thập niên 400, lễ Giáng Sinh được ấn định ngày 25 tháng 12 cho tới ngày nay.
Có ít nhất ba giả thuyết về lễ Giáng Sinh được mừng vào ngày 25 tháng 12. Cả ba đều hợp lý.
Giả thuyết thứ nhất đơn giản nhất. Chuyện xưa kể rằng, khoảng năm 350, ĐGH Julius I tìm ngày Chúa Giêsu giáng sinh trong hồ sơ điều tra dân số. Không thấy trong hồ sơ có thông tin về 350 năm sau đó. Chúng ta biết qua Phúc Âm theo Thánh Luca rằng Chúa Giêsu sinh ra trong thời gian điều tra dân số. Người Rôma, với sự tôn trọng mệnh lệnh, có thể đã giữ hồ sơ quá kỹ ở nơi nào đó tại Rôma nên không thể phát hiện.
Giả thuyết thứ nhì cho rằng các Kitô hữu không thể bỏ lễ kỷ niệm giữa mùa Đông của người ngoại giáo, nên dùng ngày đó luôn. Xuyên suốt lịch sử, người ta đã bỏ qua những ngày ngắn trong năm như ngày Đông chí hoặc Hạ chí. Khi ngày bắt đầu dài trở lại, nghĩa là mùa Đông cũng qua, và thế giới sẽ tái sinh vào mùa Xuân.
Nguồn gốc ngoại giáo của ngày này không làm chúng ta thành xấu xa. Thật vậy, nhiều truyền thống Kitô giáo đã có nguồn gốc từ ngoại giáo. Chẳng hạn cây Giáng Sinh không liên quan gì tới ngày Chúa Giêsu giáng sinh, nhưng chắc chắn mang ý nghĩa là nghi lễ giữa mùa Đông của ngoại giáo: Nhờ sự thông cảm, chúng ta đem tinh thần này vào ngày lễ bằng một cây xanh – cây này vẫn sống khi các cây khác đã chết khô. Và đó cũng là biểu tượng xứng hợp đối với các Kitô hữu. Cây xanh là phép ẩn dụ minh nhiên về niềm hy vọng của cuộc sống mới mà Đức Kitô mang lại cho chúng ta.
Còn nữa, đèn nến mà chúng ta thắp sáng khắp nơi trong lễ Giáng Sinh có thể là sự sống còn của nghi lễ ngoại giáo – một lần nữa lại là dạng thông cảm, lửa thắp sáng để làm mặt trời chết sống lại. Nhưng ánh sáng luôn là biểu tượng ưa thích của Kitô giáo.
Chúng ta biết rằng Giáo hội thời sơ khai thường lợi dụng niềm tin hoặc tục lệ của dân địa phương để loan truyền Phúc Âm. Chính Thánh Phaolô đã có một câu nổi tiếng được khắc trên bàn thờ dâng kính một vị thần ở A-thê-na (Athens): "Thưa quý vị người A-thê-na, tôi thấy rằng, về mọi mặt, quý vị là người sùng đạo hơn ai hết.23 Thật vậy, khi rảo qua thành phố và nhìn lên những nơi thờ phượng của quý vị, tôi đã thấy có cả một bàn thờ, trên đó khắc chữ: Kính thần vô danh. Vậy Đấng quý vị không biết mà vẫn tôn thờ, thì tôi xin rao giảng cho quý vị" (Cv 17:23). Tinh thần của Thánh Phaolô có rất nhiều trong Giáo hội trong việc phát triển cách hiểu của Kitô giáo về các lễ hội được ưa thích của người ngoại giáo, giải thích cho những người chuyển đạo rằng họ thực sự tôn thờ không chỉ Thần ánh sáng mà là Chúa Nguồn Sáng.
Giả thuyết thứ ba giải thích về ngày 25 tháng 12 là nó thích hợp với khái niệm của Giáo hội sơ khai về sự sống hoàn hảo của Chúa Giêsu. Truyền thống nói rằng Chúa Giêsu chết ngày 25 tháng 3. Các thần học gia lý luận rằng, để sự sống của Ngài hoàn hảo, Ngài cũng phải được thụ thai vào ngày 25 tháng 3, rồi sinh ra 9 tháng sau đó.
Ý tưởng về sự sống của Chúa Giêsu có sự hoàn hảo về mỹ học phải làm thỏa mãn thời đại cho tới thời triết học tân Platon. Điều đó đã làm thỏa mãn các nhà thông thái cũng như lễ hội giữa mùa Đông làm thỏa mãn tình cảm của dân chúng.
Các giả thuyết này đều có thể là thật. Chẳng hạn, người ta tưởng tượng rằng Đức giáo hoàng đã khám phá ngày tháng trong cuộc điều tra dân số, và Giáo hội lợi dụng sự thích hợp đó với ngày tháng của lễ hội ưa thích của người ngoại giáo, cũng như các Kitô hữu lợi dụng tính cân xứng với ngày chết của Chúa Giêsu. Các Kitô hữu đã tới các quốc gia theo cách mà các quốc gia đã được chuẩn bị để nghe biết. Nhờ đưa ra cách hiểu về Kitô giáo đối với phong tục địa phương hoặc ý tưởng triết học hợp lý, Giáo hội đã cho những người mới theo đạo cách hiểu lịch sử của việc Chúa giáng sinh theo cách mà họ có thể hiểu.
* * *
Khi lễ hội này lan tràn khắp các nước mới gia nhập Kitô giáo ở Âu châu và Đông phương, người ta gom các phong tục ngoại giáo cổ xưa hơn và tạo cách hiểu mới. Lễ Giáng Sinh lan truyền tới đâu thì đều có vẻ mới nhưng vẫn quen thuộc với những người mới theo đạo. Có thể chính sự quen thuộc đó đã làm cho lễ Giáng Sinh được người ta yêu thích.
Khoảng năm 1100, lễ Giáng Sinh đã trở nên lễ quan trọng nhất trong năm. Suốt thời Trung cổ, lễ Giáng Sinh được cử hành ở khắp nơi với những cảnh đẹp lộng lẫy và niềm vui mừng. Người ta hát những bài ca giáng sinh mà họ thích; những đám rước nhộn nhịp qua các con đường nhỏ ở các thành phố thời Trung cổ; và bất kỳ nơi nào cũng tỏa mùi thơm từ những món ăn mừng lễ Giáng Sinh.
Tuy nhiên, với cuộc Cải cách Tin Lành, có những thay đổi về văn hóa. Họ hăng hái chống lại mọi sự lạm dụng trong Giáo hội, nhiều nhà cải cách đã nhắm vào lễ Giáng Sinh chỉ là một trong các lễ hội ngoại giáo. Theo nghĩa nào đó, dĩ nhiên họ đúng: Nhiều truyền thống có nguồn gốc ngoại giáo. Nhưng các phe chống lễ Giáng Sinh đã chỉ phê phán bằng "cái gốc" đáng lẽ họ phải phê bình bằng "hoa trái".
Khi những người theo Thanh giáo chiếm lĩnh ở Anh quốc, họ đã cấm lễ Giáng Sinh. Các cửa tiệm phải mở toang ra. Bất kỳ ai bị phát hiện một miếng bánh nào sẽ gặp rắc rối. Người Thanh giáo cho rằng các loại bánh khúc cây, bánh mận, và những bài hát giáng sinh tạo nên lễ Giáng Sinh truyền thống Anh quốc đều không là gì khác ngoài việc tôn sùng ngẫu tượng ngoại giáo, thế thì phải dẹp bỏ. Có một số người phản đối, thậm chí một số người còn sẵn sàng chết vì bảo vệ lễ Giáng Sinh, nên dân chúng vẫn theo truyền thống dùng lễ Giáng Sinh là ngày nghỉ – nhưng người Thanh giáo vẫn chiếm ưu thế, dù chỉ trong một thời gian ngắn.
Để phản kháng, người Thanh giáo ra lệnh rằng lễ Giáng Sinh phải là ngày ăn chay. Truyền thống này không bao giờ được tiếp nối. Dễ dàng nói rằng việc ăn chay không bao giờ được theo vì tính yếu đuối nhân loại – cuối cùng, người ta thích ăn mừng lễ hơn ăn chay vì tự nhiên như người ta thích vui hơn thích buồn. Nhưng Mùa Chay không bao giờ bị bỏ ra ngoài lịch. Các Kitô hữu tốt lành sẵn sàng chịu đựng sự từ bỏ mình khi thích hợp. Nhưng điều đó có vẻ không thích hợp với lễ Giáng Sinh.
Có điều người Thanh giáo không hiểu, và có điều nhiều người tốt vẫn không hiểu, đó là không có sự mâu thuẫn giữa việc tôn thờ Thiên Chúa và tận hưởng sự sáng tạo của Thiên Chúa. Không gì xấu để tận hưởng những điều tốt lành mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta. Phép lạ thứ nhất của Chúa Giêsu là hóa nước thành rượu – mà không chỉ là rượu thường, thánh Gioan tỉ mỉ cho biết đó là loại rượu hảo hạng. Rõ ràng Con Người có vị giác rất tốt theo nhân tính.
Một số các Kitô hữu sai lầm như Thanh giáo đều xấu hổ vì hiểu đức tin với niềm vui trần tục. Nhưng mầu nhiệm Chúa Giáng Sinh là mầu nhiệm Ngôi Lời làm người. Thánh Athanasiô nói rằng chữ "nhục thể" (xác thịt) là sự chính thống anh hùng vô địch khi những đám mây tà thuyết có vẻ đen tối nhất, "nhục thể không loại bỏ vinh quang của Ngôi Lời, tư tưởng còn xa hơn. Ngược lại, nhục thể được Thiên Chúa làm cho vinh quang".
Một số các Giáo phụ gọi lễ Giáng Sinh là lễ Hóa Thân, theo nghĩa gốc tiếng Latin. Khi Thiên Chúa mặc xác phàm, chính nhục thể trở thành vật thánh, là điều được cử hành bằng hình ảnh, tượng và thiệp giáng sinh.
Thế kỷ VIII, một bè rối nổi lên trong Giáo hội và tự nhận là "Iconoclasts", tiếng Hy Lạp nghĩa là "những người đập nát hình ảnh" (tức là phá ngẫu tượng). Họ cố gắng "thanh lọc" và "tâm linh hóa" đời sống Kitô giáo bằng cách xóa bỏ mọi biểu tượng về Chúa Giêsu, Đức Mẹ, và các thánh. Họ phá hủy mọi hình ảnh tôn giáo trong thời Đế quốc La Mã Đông phương, và họ chặt tay các Kitô hữu nào không loại bỏ các ảnh tượng. Họ nói rằng Thiên Chúa không thể được thể hiện qua ảnh tượng; ai làm vậy là thờ ngẫu tượng. Nhưng đây là cách mà Thánh Gioan thành Damascô trả lời họ: "Thời xưa, Thiên Chúa không được thể hiện bằng bất kỳ cách nào. Nhưng ngày nay, vì Thiên Chúa đã mặc xác phàm và sống giữa chúng ta, tôi có thể biểu hiện điều nhìn thấy ở Thiên Chúa. Tôi không tôn thờ chất liệu, mà tôi tôn thờ Đấng tạo nên chất liệu và trở nên chất liệu vì tôi… Qua chất liệu, Ngài hoàn tất ơn cứu độ cho tôi".
Nói cách khác, sự "hóa thân" làm thành nghệ thuật, và cũng là đồ thánh, cũng như điều đó làm cho cơ thể thành vật thánh. Các họa sĩ đã vẽ tranh giáng sinh qua nhiều thế kỷ mà không tạo ra ngẫu tượng. Cách thể hiện của họ là những bài Thánh ca (hymns) ca tụng Thiên Chúa vô hình được làm thành hữu hình.
Nhìn vào bất kỳ tranh giáng sinh cổ điển nào đều có thể cảm nhận Thiên Chúa. Mỗi con vật trong hang đá là một thụ tạo; mỗi cọng rơm trong máng cỏ đều được rút ra bằng sự cẩn thận vô cùng. Trong các cảnh của Kinh thánh, các họa sĩ đã yêu quý vẽ ra từ nhiều thế kỷ qua, lễ Giáng Sinh gợi nhớ sự vui mừng nhất trong niềm vui vẽ tranh, và Thiên Chúa hiện hữu trong từng chi tiết đó.
* * *
Câu chuyện giáng sinh của mọi người là câu chuyện trong Phúc Âm theo Thánh sử Luca. Điều làm cho câu chuyện đó được yêu mến là sự thân thiện. Thánh Luca có vẻ như viết cho dân ngoại, cố gắng tới đúng chỗ Chúa Giêsu sinh ra về phương diện lịch sử và địa lý. Chúa Giêsu giáng sinh không là một ẩn dụ hoặc ngụ ngôn như những câu chuyện thời Trung cổ, mà đó là sự kiện thật ở nơi thật mà lịch sử có thể chứng minh.
Thánh Luca tiếp tục cho chúng ta thấy kỹ năng viết của một sử gia, chính xác các chi tiết mà chúng ta cần biết về sự giáng sinh của Chúa Giêsu. Chúng ta biết Thánh Giuse và Mẹ Maria cảm thấy thế nào khi không có chỗ trọ, và các ngài vui thế nào khi tìm được cái hang chiên lừa, và khiến chúng ta cũng cảm thấy như Thánh Giuse và Mẹ Maria. Rất chi tiết. Còn các tác giả Phúc Âm khác không cho chúng ta biết chi tiết như vậy, mà chỉ nói các điểm chính.
* * *
Ngôi Lời hóa thành nhục thể không chỉ là sự kiện một lần trên Thập giá hoặc Thăng thiên. Đức Giêsu Kitô không chỉ đến trong thế gian ở một nơi đặc biệt và vào thời điểm đặc biệt, mà Ngài còn thiết lập Giáo hội là Nhiệm Thể Ngài trên thế gian này. Các cộng đoàn tín hữu sinh sống ở mọi nơi trên hành tinh này – họ là các chi thể của Đức Kitô. Nếu bạn muốn biết Chúa Giêsu như thế nào, hãy vào nhà thờ và nhìn xung quanh bạn.
Hơn nữa, chúng ta còn gặp Đức Kitô hiện thân trong Bí tích Thánh Thể, vì Ngài nói: "Thịt Tôi thật là của ăn, và Máu Tôi thật là của uống" (Ga 6:55). "Hóa thân" không là điều trừu tượng – đó là điều “cụ thể kỳ diệu” trong đời sống thường nhật của chúng ta. Điều đó không chỉ xảy ra hơn hai ngàn năm trước mà vẫn đang xảy ra từng ngày trong thời đại chúng ta ngày nay.
"Hóa thân" là "hiện thân" của tình yêu hiện hữu trong những điều thực tế mà Chúa Giêsu trao ban cho chúng ta. Đó không chỉ vì sự hiểu biết của phàm nhân yếu đuối mà các bí tích đều được cử hành bằng các dấu bề ngoài. Chúa Con đã hóa điều đó nên sự thánh.
Chính trong Thánh Thể, chúng ta thấy sự nuôi dưỡng dành cho tinh thần được mô tả trong dạng sơ đẳng nhất của sự nuôi dưỡng dành cho thân xác. Thiên Chúa vĩnh hằng hiện ra với chúng ta trong dạng tạm thời của bánh và rượu: "Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy. Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội" (Mt 26:26-28). Khi cử hành Bí tích Thánh Thể, chúng ta được gợi nhớ rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã trở nên xác thịt thực sự để xẻ ra và máu thực sự để đổ ra.
Sự hóa thân đó cho chúng ta cảm thấy niềm vui thực sự thích hợp với lễ Giáng Sinh. Qua sứ vụ của Ngài, Chúa Giêsu thành Nadarét đã chữa lành các bệnh nhân và làm no thỏa những người đói khát. Ngài yêu thương chúng ta không chỉ để đưa chúng ta về Thiên đàng với Ngài, mà Ngài còn muốn chúng ta tận hưởng hạnh phúc ngay khi chúng ta còn sống trên thế gian này. Ngài chỉ yêu cầu chúng ta một điều duy nhất là yêu mến Ngài, đồng thời yêu thương tha nhân như Ngài đã yêu thương chúng ta.
Người ta vẫn thấy dấu vết của tình yêu Kitô trong các phong tục cổ và thói quen tặng quà giáng sinh. Việc mua thiệp giáng sinh cũng là sự thôi thúc của Kitô giáo là "trao tặng", như Chúa Giêsu đã dạy: "CHO thì có phúc hơn là NHẬN" (Cv 20:35).
Chúa Giêsu luôn thấy điều tốt nơi chúng ta và tha thứ lỗi lầm cho chúng ta, Ngài cũng muốn chúng ta phải làm cho người khác hạnh phúc. Chúng ta hãy cầu nguyện cho điều đó hiện thực nơi mỗi chúng ta.
Đây là điều Chúa Giêsu dạy chúng ta: Chúng ta có thể xác để dùng nó mà thờ lạy Thiên Chúa, như Đức Giêsu thành Nadarét đã làm. Chúng ta có thể xác để dùng nó mà phục vụ tha nhân, như Đức Giêsu thành Nadarét đã làm. Chúng ta có thể xác để dùng nó mà đem lại sự thuận lợi, an ủi và chữa lành, như Đức Giêsu thành Nadarét đã làm. Chúng ta có thể xác vì mục đích làm vinh danh Thiên Chúa.
Lễ Giáng Sinh chan hòa niềm vui: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương (Lc 2:14). Chúa Giêsu sinh ra nơi hang bò lừa hôi tanh cho những gia đình lao động nghèo. Đó là điều vinh dự đích thực. Không gì lý tưởng bằng việc Chúa Giêsu giáng sinh làm người. Con Thiên Chúa sinh ra theo cách rất ư bình thường, thậm chí còn tệ hơn bình thường. Những người đầu tiên biết Tin Vui này là những mục đồng chăn chiên nghèo khổ, chứ không phải những người cao sang quyền thế hoặc hoàng đế Augustô tại dinh thự ở Rôma, cũng chẳng phải bạo chúa Hêrôđê. Đó là sự kỳ diệu của Ngôi-Lời-Làm-Người: Ngôi Lời thực sự là người như chúng ta.
Câu chuyện giáng sinh là câu chuyện kể về cách mà xác thịt hóa thành thánh thiêng, thân xác được thánh hóa, và niềm vui trần tục trở nên thánh ca chúc tụng Thiên Chúa. Như vậy, lễ Giáng Sinh là lễ dành cho ngũ quan. Chúng ta thích nghe đi nghe lại câu chuyện Chúa Giêsu giáng sinh mà không chán, và câu chuyện đó vẫn ở mãi trong chúng ta.
(Chuyển ngữ từ FathersOfTheChurch.com)
Trầm Thiên Thu
&&
Chiếc Đồng Hồ Vàng
Bố mẹ mất sớm, là anh cả của 6 đứa em nơi vùng quê nghèo nhất nước, Sinh lặn lội lên thị xã B. ở nhờ nhà ông Tuyên, ông chú họ xa bên mẹ . Vợ chồng ông Tuyên khá giả lại không có con nên thương yêu Sinh như con đẻ. Ban ngày Sinh phụ việc ở quán ăn của chú thím, tối đi học.
Một tối học về muộn, vợ chồng chú đã lên phòng nghỉ, Sinh thấy chiếc đồng hồ vàng rất xịn ông Tuyên thỉnh thoảng vẫn đeo để trên bàn. Không kìm mình được, Sinh giấu chiếc đồng hồ vào người rồi len lén ra phòng ngoài chùm chăn ngủ...Sáng sớm, Sinh đem chiếc đồng hồ ra cửa hàng bán được 3 triệu, gửi tiền về quê cho các em ăn học.
Mấy hôm sau, vợ chồng ông Tuyên mới phát hiện mất đồng hồ. Ông bà nghĩ chắc để quên ngoài quán, khách hàng lấy. Sinh nghe ông Tuyên bảo vợ:
- Tôi không chỉ tiếc giá trị cái đồng hồ mà tôi còn tiếc vì đó là vật kỷ niệm của ông thầy dạy nghề đã tặng tôi trước khi mất...
Ông Tuyên buồn bã suốt một thời gian. Sinh hối hận quá nhưng không thể thú nhận với chú thím.
Năm tháng trôi qua, Sinh đã học xong và ông Tuyên xin cho cậu vào làm việc ở một công ty kinh doanh đồ may mặc. Sáng dạ, cần cù nên chỉ thời gian ngắn, Sinh đã được ông chủ cho làm quản lý một đại lý nhỏ ở thành phố S. Đại lý ngày một phát đạt. Mấy năm sau, Sinh được đề bạt làm phó giám đốc công ty. Cậu đi xe hơi láng coóng, tay xách lap-top, tay nghe điện thoại di động, trông thật oai phong.
Rồi Sinh mở công ty riêng và trở thành một Tổng giám đốc nổi tiếng. Các em Sinh cũng đã chuyển lên thành phố, đứa lấy chồng, lấy vợ, đứa học đại học...
Một hôm đang ngồi dự tiệc với quan khách, Sinh nhận được điện thoại của bà Tuyên :
- Chú bệnh nặng lắm rồi, con nên về gặp chú...
Sinh vội lao ra cửa, trước bao cặp mắt ngạc nhiên của các vị khách quý. Trên đường lái xe về thị xã B., nước mắt rơi nhòe đôi mắt của ông Tổng giám đốc trẻ. Đến thị xã, trời đã sáng, Sinh không về ngay nhà chú mà lái xe đến cửa hàng đồng hồ ngày nào. Cửa hàng chưa mở, cậu nhẫn nại đứng bấm chuông. Một bà già to béo, nhăn nhúm như quả táo tàu, vừa mở cửa vừa làu bàu:
- Khiếp! Có chuyện gì mà cậu khủng bố cửa hàng chúng tôi sớm thế!
- Cô ơi...Cô có nhận ra cháu không
Bà chủ tiệm nheo mắt nhìn, lắc đầu:
- Chịu. Tôi bây giờ quên nhiều lắm, hình như cậu là ông lớn...
- Cô ơi, cháu là thằng bé năm xưa đã mang chiếc đồng hồ vàng bán cho cô. Khi đó cô đã bảo là sao lại có cái đồng hồ đẹp chưa từng thấy bao giờ ấy...
Bà già ngẩn ra một lát rồi gật gù:
- À, nhớ rồi! Cho đến giờ tôi cũng chưa mua được cái đồng hồ nào đẹp hơn . Dạo ấy tôi trả cậu mấy triệu, tôi thấy cậu bán ngay nên rất mừng...
- Bây giờ còn không hả cô
Bà già luồn tay vào túi áo, lấy ra một chùm chìa khóa, đi vào nhà trong, Sinh nghe tiếng bà mở cẩn thận ngăn tủ bí mật nào đó. Lúc sau bà mang ra cái hộp nhỏ màu xanh, trong đựng chiếc đồng hồ vàng còn mới nguyên, bảo:
- Nó đẹp quá nên tôi chẳng dám dùng, cất đi để xem ai trả giá thật hời mới để lại...
Run rẩy vì xúc động, Sinh vội hỏi bà chủ muốn để lại bao nhiêu, bà già hơi lúng túng rồi đưa ra một cái giá bà vừa nghĩ ra . Không chần chừ, Sinh rút ngay tiền trả.
Trên đường về, thỉnh thoảng Sinh lại liếc nhìn cái hộp xanh, thầm hứa với lòng mình sẽ thú thật tất cả với chú thím...
Sinh chạy vội vào phòng trong nơi chú Tuyên nằm. Chú bây giờ chỉ còn da bọc xương, không nói được nữa nhưng vẫn nhận ra đứa cháu yêu quý. Tia vui mừng hiện ra trong ánh nhìn của chú, Sinh nắm chặt tay chú rồi vội lấy ra chiếc hộp nhỏ, cậu vừa định mở lời thì thấy đôi mắt chú khép lại...chú đã đi về cõi vĩnh hằng...
Ngày nọ, người ta thấy một người đàn ông ăn mặc sang trọng, đi chiếc xe hơi đắt tiền, dừng trước ngôi mộ ông Tuyên, anh quỳ xuống , thầm thì gì đó khá lâu , sau đó lấy ra một cái hộp nhỏ màu xanh, rất nâng niu, anh châm lửa hóa. Chắc hẳn trong đó là một vật rất quý giá.
Vũ Thanh Hoa
&&&
Mội Thầy Thơ
Quê tôi có những tên nghe rất hiền hoà. Nơi tôi sanh ra là ấp Hoà Mỹ, làng Ðịnh Hoà, tổng Bình Phú, tỉnh Bình Dương, ở về phía đông miền Nam nước Việt. Nơi đây không có đồng ruộng mênh mông cò bay thẳng cánh hay những ngọn núi cao hùng vĩ, những thác nước ngoạn mục; cũng không có bờ biển sóng vỗ rì rào, đồi cát nhấp nhô hay những cánh rừng bao la bát ngát. Tôi lớn lên giữa những lũy tre xanh, những thửa ruộng chạy dài theo các con suối có những bờ đê cao cây cối um tùm.
Những ngày nghỉ học, tôi thường đi dọc theo bờ suối để nghe tiếng nưóc chảy róc rách, tiếng chim kêu ríu rít trên cành cây, để hái những chùm nhản lồng chín vàng hoặc trái trâm màu tím long lanh dưới ánh sáng chói chang của mặt trời mùa hè. Nhưng điều tôi thích thú nhất là được ngâm mình trong lòng nưóc mát của mội Thầy Thơ.
Mội Thầy Thơ dính liền với con suối phân ranh giới giữa làng tôi và làng kế cận. Làng nầy cũng có một cái tên dễ thương, có nghĩa có tình, làng Tương Bình Hiệp. Người nông dân sống ở miền đồng quê tỉnh Bình Dương đều biết đến những cái mội nằm giữa đồng ruộng vì đó là nguồn cung cấp nước uống trong sạch không cần phải đào giếng như ở các vùng đất cao.
Mội thoát thai từ những mạch nước ngầm phun lên từ lòng đất bùn lầy. Muốn có được một cái mội tốt, phải đào khoét cho sâu rộng thành một cái hồ lớn nhỏ tuỳ theo ý mình, rải một lớp sỏi đá ở phía dưới đáy và đắp bờ xung quanh có chừa những lỗ thông ra ngoài cho nước có thể thoát ra được.
Những cái mội lớn như mội Thầy Thơ còn là nơi dân làng đến để tắm rửa, giặt giũ quần áo. Mội Thầy Thơ lại ăn thông với con suối chảy ngang qua đây, rộng khoảng ba thước bề ngang, đoạn suối nầy cũng được khoét sâu để làm bến tắm cho ngựa và trâu bò.
Thầy Thơ là một ông thầy giáo làng đã để lại tên của mình cho cái mội sau khi mất đi, do công đã tập hợp dân hai làng tiếp cận, góp công góp vật dụng để xây thành một cái mội ba ngăn rộng rãi và sạch sẽ, một ngăn để lấy nước uống, một ngăn để tắm rửa và ngăn còn lại để giặt giũ quần áo. Ngay tại lỗ mội, nơi mạch nước phun lên, được khoét rộng ra lớn hơn một cái giếng thường. Nưóc phun lên không ngừng, rất trong và rất mát. Dân làng truyền lại cho nhau và vẫn tin rằng mạch nước của mội ăn thông với một cái mội lớn khác nằm ở bên đồng ruộng làng Tương Bình Hiệp, cách đó hơn một cây số. Đã có người thả một mãnh ván từ bên mội bên kia, sau đó, nó đã trôi qua và trồi lên ở lỗ mội bên nầy.
Thầy Thơ và bà con lối xóm đã xây bằng đá ong một ngăn cho lỗ mội làm nơi riêng biệt. Dân chúng chỉ được múc nước để uống hoặc gánh mang về nhà, chứ không được tắm giặt tại đây. Phía bên ngoài, thầy Thơ cho xây thành một cái hồ rộng khoảng năm thưóc dùng làm nơi tắm rửa, kế đến là nơi giặt quần áo, ăn thông qua con suối. Vào mùa mưa, có lúc con suối bị ngập, nước dâng lên tràn vô phía trong mội nhưng ngay tại lỗ mội thì nước vẫn trong vì mạch nước lúc nào cũng phun mạnh lên từ đáy mội, xua đi nước đục từ con suối tràn vào. Phía ngoài suối, là bến tắm trâu bò. Nếu không có mưa lụt thì nước cũng trong nhờ có lớp cát sỏi dầy nằm dưới lòng suối.
Một tàng cây trâm che mát phần bên trong mội. Cây trâm cổ thụ không biết có tự bao giờ mà thân của nó lớn một người ôm không xuể. Các bác nông dân hay dùng thân cây trâm để cạ lưng kỳ đất nên một bên vỏ cây trâm mòn nhẵn. Tôi còn nhớ có một hôm một bác vừa đưa lưng vô cây trâm kỳ cọ đã vội nhảy tưng tửng vừa gải lưng vừa la oai oái. Hoá ra vỏ cây trâm đã bị người nào chơi ác bôi trái mắt mèo. Mắt mèo là loại dây leo. Dây, lá, trái đều có lông vàng, dính vào mình thì bị ngứa ngáy vô cùng. Thứ trái nầy có khi cũng được các cậu học trò " rắn mắt " bôi vào ghế ngồi để phá các ông thầy giáo nghiêm khắc.
Mội thường rất đông người, nhất là những buổi trưa hè nắng gắt. Được ngâm mình trong nước mội mát lạnh, tai lắng nghe tiếng chim thảnh thót trên tàng cây là một điều vô cùng thích thú. Các cô gái ở nhà gần hai bên bờ suối thường đến đây gánh nước. Có điều là các cô phải canh giờ nào có ít người tắm giặt và phải cẩn thận lên tiếng trước khi bước xuống mội để báo động cho bác nào đang lỡ tắm truồng thì kịp thời che thân.. Cẩn thận hơn nữa là đứng trên bờ có hàng tre che khuất, chờ cho đến khi nào được gọi mời thì mới đi xuống. Cũng có nhiều cô - thường là các bà lớn tuổi - bạo dạn hơn, không cần chờ đợi, cũng không nói năng gì cả, cũng không liếc nhìn ai, nhắm thẳng hướng lỗ mội xông tới, múc nước đầy thùng rồi quay đi thẳng một mạch.
Mội Thầy Thơ còn là nơi hẹn hò của các chàng trai quê và những cô gái mộc mạc của hai làng bị ngăn cách đôi bờ bởi con suối " vô tình ". Từ làng bên nầy nhìn sang làng bên kia họ không nhìn thấy nhau vì bờ suối rất cao bị phủ lấp bởi những hàng cây chằng chịt. Muốn gặp nhau, họ phải tìm cách đến cái mội, nàng thì đi gánh nước hoặc đi đãi gạo nếp để nấu xôi cúng đình, chàng thì dẫn trâu cày đi tắm. Họ đến đây có khi chỉ để len lén nhìn nhau mà không nói với nhau một câu nào. Có khi họ ấp úng khẽ nói lên một lời chào hỏi rồi thôi, mạnh ai nấy làm công việc của mình. Rồi sau đó, trước khi lên bờ, hai người rẽ theo hai lối, họ bỡ ngỡ nhìn nhau, gật đầu chào nhau, lòng rộn ràng vui một niềm vui đầy ước vọng. Cũng có những cặp quen nhau đã lâu nên bạo dạn hơn, lựa buổi trưa vắng người, lén cùng nhau đi dọc theo bờ suối, vừa đi vừa hái trái nhản lồng vừa thỏ thẻ tâm sự hoặc cùng chạy đuổi bắt con bướm vàng, làm nuớc bắn tung lên ướt cả mình mẩy.
Nhiều cặp trai gái đã kết thành vợ chồng, ăn đời ở kiếp với nhau sau những buổi hẹn hò tình tự tại mội Thầy Thơ.
Vào mùa cấy lúa, mội Thầy Thơ còn là nơi nghỉ giải lao - mà dân làng nói là nghỉ nửa buổi - của những đám thợ cấy vần công. Từ sáng sớm, khi giọt sương còn ướt đọng trên cành cây ngọn cỏ, nghe tiếng tù và báo giờ đi cấy trổi lên một giọng buồn buồn, các tay thợ cấy lũ lượt kéo đến mãnh ruộng của một người trong nhóm để cấy giúp. Cấy vần công thì không có trả tiền vì đây là một hình thức tương trợ luân phiên. Nhưng đến giờ giải lao thì các tay thợ cấy được cho ăn nửa buổi. Bửa ăn không có gì là cao lương mỹ vị mà thuờng là xôi chè, có khi có thêm món đặc biệt là bánh trôi nước mà quê tôi quen gọi là chè xôi nước. Buổi trưa hôm đó, mội Thầy Thơ vang lên tiếng nói cuời hồn nhiên vui vẻ.
Vào mùa mưa, có lúc mưa dầm, quê tôi trở nên đìu hiu quạnh quẽ. Nước suối từ trên nguồn đổ xuống ào ào, có khi nước suối cao lên tới ngực. Nuớc tràn vào trong mội nhưng nước tại lỗ mội vẫn trong vì nước phụt lên từ lòng đất lúc nào cũng rất mạnh, đánh bạt nước suối đục ra ngoài. Lúc đó, đối với học trò trường làng, một mình băng qua con suối để đi học là một việc khó khăn, nguy hiểm. Cho nên, mấy bửa trời mưa như vậy, thường ba tôi đưa tôi băng qua suối để đi đến truờng tiểu học nằm bên cạnh chợ Bưng cầu thuộc làng Tương Bình Hiệp. Theo lời ba tôi thuật lại, một người anh của tôi - tôi có chín anh trai tất cả - đã một lần bị nước cuốn trôi đi vì đã lội qua suối một mình. May có người trông thấy, gõ mõ báo động, kêu cấp cứu, nhờ bà con lối xóm chạy tìm dọc theo con suối, cứu thoát được. Anh tôi đã một phen hoảng vía kinh hồn, uống đầy một bụng nước. Và cũng may mà anh tôi hồi ấy đã biết bơi, và rất khoẻ. Sau biến cố đổi đời 1975, lúc đó anh tôi đã trên sáu mươi tuổi, đi xe đạp về quê chở một bao gạo xuống Sài gòn là chuyện thường làm mặc dầu đường có nhiều dốc cao và khoảng xa trên ba mươi cây số.
Trong thời tuổi thơ, tôi sống gắn bó với mội Thầy Thơ. Mỗi lần đi học, băng qua mội, tôi không bao giờ quên ghé lại đây uống một hơi nước mát rượi và rửa mặt cho tỉnh nguời. Mỗi lần đi mò cua, tát cá hay hái rau ở đồng ruộng quanh đó, tôi đều mang đến đây để lặt rửa và ngâm mình trong nước mát trước khi về nhà.
Trong thời gian học ba năm tiểu học, mỗi tháng tôi dến nhà một người chú họ, chú tám Hắng, nhờ cạo đầu một lần. Chú tên thật là Hớn, Nguyễn Văn Hớn. Nhưng bà con trong xóm kêu trại là chú tám Hắng. Theo tôi đoán, có lẽ tại vì bao giờ chú cũng tằng hắng trước khi muốn nói điều gì. Mỗi lần chú cạo đầu xong, chú tám dẫn tôi xuống mội để gội đầu cho sạch đồng thời chú cũng đem con dao theo để mài luôn vì tại phía trong mội có một cục đá mài dao tròn, lớn bằng hai cái thau nước đã mòn nhẵn từ đời nào, vừa dùng làm đá mài dao vừa dùng làm cái thớt để giặt quần áo, rất tiện lợi. Cho tới khi học xong bực tiểu học, thi đậu bằng tiểu học, sắp ra tỉnh lỵ học tiếp, tôi xin tiền ra chợ để hớt tóc, ba má tôi vẫn chưa chịu cho, vẫn cứ nhờ chú tám cạo đầu. Phải chờ ba năm sau, thi đậu xong bằng sơ học và trúng tuyển vào trường trung học Petrus Ký, tôi mới được phép từ giả chú tám Hắng. Tôi còn nhớ, sau lần hớt tóc ở tiệm đầu tiên, một mình chạy xuống mội để gội đầu, tôi cảm thấy vui một niềm vui khó tả. Con người tôi sảng khoái vô cùng và cảm thấy mình lớn hẳn lên. Khi tôi đến chào từ giả ông thầy cũ của tôi ở trường tiểu học trước khi đi xuống Sài gòn học, thầy tôi không còn vò đầu tôi như những lần trước, lúc đầu tôi còn được chú tám cạo trọc.
Dầu phải từ giả ruộng đồng để đi Sài gòn tiếp tục học, mỗi kỳ nghỉ hè trở về làng, ngay sau khi gặp mặt ba má tôi là ba chân bốn cẳng tôi vội chạy ngay xuống mội Thầy Thơ. Trước hết, tôi vô ngay lỗ mội để nốc một hơi cho đả thèm. Sau đó, tôi ngâm mình thật lâu trong lòng nước mát. Tôi muốn được hoà mình vào nước mội để làm vơi đi nỗi nhớ nhà sau những ngày xa cách!
Nhìn con suối róc rách chảy, nhìn cánh đồng xanh long lanh dưới ánh nắng vàng, tôi muốn hét to lên, trút bỏ hết những nỗi niềm tâm sự, quên hết những nỗi ưu phiền!
Tôi đã sinh ra và lớn lên ở nơi nầy, tôi sẽ trở về nơi nầy dầu có phải đi xa vì nơi nầy muôn đời vẫn là quê hương của tôi!
Nguyễn Thanh Bạch
(Trích " Hồi ký)
&&&
Phận Nghèo
Hồng Minh sinh ra trong gia đình có hoàn cảnh thật éo le. Ba là cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954 và có thời gian dài sống ở Nông trường chè Chí Linh, Hải Dương. Như rất nhiều cán bộ miền Nam tập kết, ông phải xa vợ con sống đơn thân nơi đất Bắc, lòng không nguôi nhớ về quê hương. Nỗi nhớ thương càng day dứt khi ông hay tin đứa con gái duy nhất của ông đã mất khi mới lên 3 tuổi. Sau 18 năm khắc khoải chờ mong, dù đã kiên tâm đợi ngày trở về đoàn viên, nhưng chiến tranh dai dẳng, buộc ông phải phụ tình với người vợ hiền đang chung thủy chờ chồng ở quê nhà, chỉ với một niềm mong ước để có con nối dõi tông đường. Vào một ngày mùa đông năm 1973, Hồng Minh đứa con trai mong ước của ông đã cất tiếng khóc chào đời, (tại thôn Tiền Định, xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) và chỉ 2 năm sau đó thì đất nước thống nhất. Rồi Hồng Tâm ra đời, ông đành lỗi hẹn với quê hương, ở lại mảnh đất Chí Linh sinh sống với vợ con.
Cuộc sống không mỉm cười với gia đình Hồng Minh. Đất nước đã hòa bình, nhưng cả cha mẹ đều đau ốm, nhất là mẹ lại thêm chứng bệnh thần kinh không bình thường, lúc tỉnh lúc ngơ. Năm 1982, biết mình không còn có thể sống bao năm nữa, cha của Hồng Minh đành gửi lại người vợ bệnh tật nhờ mẹ vợ chăm sóc, quyết định đưa hai anh em Hồng Minh trở về quê hương Duy Nghĩa, Duy Xuyên, Quảng Nam để các con biết quê Cha đất Tổ. Về quê sau gần 30 năm xa cách, với lưng vốn gần như tay trắng cùng 2 đứa con trai Hồng Minh và Hông Tâm mà ông coi đó là hai "cục vàng", tài sản duy nhất mình có được trong cuộc đời. Ông tạ lỗi với người vợ già vẫn một hình một bóng suốt bao năm trời, nhờ bà chăm sóc nuôi dưỡng hai con trai...
Cái khoảng thời gian ấy, sau chiến tranh, đất nước khó khăn cùng cực. Ở cái đất chỉ có cát và nắng mà dòng tộc Lê Tăng của ông đã sinh sống bao đời, với bốn người, hai già yếu, hai con trẻ chưa đủ lớn thì cuộc sống quả là khốn khổ. Họ đã gắn kết, nương tựa vào nhau để sống trong cái nghèo truyền kiếp. Vì nhà quá nghèo, hai anh em Hồng Minh không được học hành tử tế. Rồi cha bệnh triền miên và qua đời năm 1989. Lúc này Hồng Minh 16 tuổi, Hồng tâm 14 tuổi phải phụ Má kiếm sống qua ngày...
Từ nhỏ anh em Hồng Minh đã được Ba dạy dỗ rất kỹ về nhân cách, đạo đức, nhân nghĩa ở đời. Những đêm trăng sáng, ông thường trải chiếu trước sân nhà kể chuyện cổ tich, chuyện ngụ ngôn và đọc thơ cho các con nghe. Khi Ba mất đi, tuy nhỏ tuổi nhưng Hồng Minh đã biết mình phải thay Ba chăm sóc em trai, chăm sóc Má. Dù với cuộc sống nhọc nhằn, đã rất ít học (đang học lớp 6 thì phải bỏ), lại không có điều kiện để bút nghiên, thơ phú, nhưng có lẽ là duyên nợ, anh rất ham đọc sách báo và viết nhiều thơ tự sự với chính mình, với những người thương yêu của mình, với cuộc sống xung quanh mình. Anh có thể viết lời cho những điệu dân ca quê nhà, khi làng xóm có hội hè, là anh lại hát để góp vui. Mỗi lúc buồn đau, anh lại có những dòng tâm sự rất cảm động. Có thể thấy rất rõ điều này qua một số bài thơ, chẳng hạn khi nói về cái khó của gia đình mình anh có bài TỰ TRÀO:
Mẹ cha trồng mãi lúa khoai
Sinh con ra cứ ươm hoài thơ văn
Vần hay, ý lạ, tứ khan
Rồi ra thiếu cả cái ăn... giật mình!
Hồng Minh hiểu Ba là người rất khí khái. Bởi vậy, cuộc đời ông có nhiều uẩn khúc. Ông dạy con dù nghèo cũng phải sạch, dù khó cũng phải hiên ngang, ngẩng đầu mà sống... Tuổi cao sức yếu, hoàn cảnh éo le, Ba anh đã không thực hiện được ý nguyện của mình là cho các con được ăn học đến nơi đến chốn...
Sau khi Ba mất, anh em Hồng Minh được Má tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng. Nhưng cuộc sống vẫn cứ khó khăn, Má cũng ngày một gìa yếu, anh em Hồng Minh thì không biết làm nghề gì. Một ngày kia hai anh em dắt díu nhau lên Đắc Lắc kiếm kế sinh nhai. Năm 1995, hai anh em mới dành dụm được chút tiền về thăm quê ngoại, thăm Mẹ sau nhiều năm ly biệt. Nhưng đau lòng lắm, vì mẹ vẫn cứ dửng dưng như vậy, cứ lặng lẽ nhìn hai con với sự hờ hững của người vô cảm. Trong khi đó các cậu, các dì và người thân thì mừng khôn xiết. Ngậm ngùi, tủi phận, anh viết bốn câu tứ tuyệt
Trở lại quê hương, ước cánh diều...
Nhà nghiêng bóng mẹ nắng liêu xiêu
Khóc đoàn viên tản, con hờn gió
Sương đọng hoàng hôn đổ ngược chiều.
(VÔ ĐỀ)
Biết trách hờn ai đây trước cảnh gặp lại gia đình, gặp lại mẹ già cắt lòng như vậy? chỉ biết hờn với gió, khóc trong chiều hoàn hôn mà nước mắt nào có tuôn rơi! Giá mà nước mắt cứ trào ra ngoài được thì có thể nhẹ đi, vơi đi một phần nỗi cay cực trong lòng chăng? Nhưng nghiệt ngã lắm, Hồng Minh khóc thương mình, thương mẹ mà nước mắt chỉ đọng thành những giọt sương chiều, đổ ngược vào lòng. Phải thấm đến tận cùng nỗi đau đớn, xót xa trong tâm can mình thì mới có thể viết được như vậy.
Qua thời gian dài vất vả, kiếm sống ở Đắc lắc, mới tạm ổn định việc làm, hy vọng có cuộc sống đỡ phần vất vả thì anh hay tin Má ở quê bị bệnh nặng. Anh đành bỏ lại tất cả để về phụng dưỡng. Với anh, Má tuy không sinh thành nhưng đã nặng công dưỡng dục anh nên người. Sau 3 năm được anh tận tâm nâng giấc, tuổi già sức yếu, Má anh đã mãi mãi đi xa. Xót thương cuộc đời cay đắng và kính nể sự hy sinh thủy chung, nhân hậu của Bà, anh đã viết tặng Má bài thơ SẮT SON (Bài thơ này đã được anh thuê đánh máy vi tính và treo bên bàn thờ Má):
Non nước đâu còn cảnh chiến tranh
Mà tơ duyên đứt nối không thành!?
Dòng sông ai đặt mùa thương nhớ
Để suốt đời nghe gió tiễn canh.
Bông lúa vàng so lời hẹn ước
Thủy chung lòng sánh bóng trăng xanh.
Nồi Rang* một sớm thuyền lơi bến
Cửa Đại* ngàn năm sóng bủa gành.
(*: Nồi Rang, Cửa Đại là những địa danh)
Rồi em trai Hồng Minh bị bệnh, không phải bệnh ngơ ngơ ngẩn, trầm uất như mẹ, mà bệnh lúc nhớ, lúc quên, lúc thao thao bất tuyệt. Bao nhiêu tiền bạc hai anh em dành dụm được lại lo cho việc chữa bệnh cho em. Em đỡ bệnh rồi thì lo cho em học nghề... Và khi bà mẹ thân sinh mất ở Chí Linh (2008), do làm ăn lưu lạc không kịp hay tin, rồi hoàn cảnh khó khăn hai anh em không thể làm sao về được. Mãi đến 49 ngày sau, Hồng Minh về thăm mộ mẹ ở Chí Linh. Nhớ lại nguồn cơn, anh lại viết CON VỀ THAêM MẸ vừa là để tạ lỗi với Mẹ, mà cũng vừa như là kiểm lại lòng mình vậy:
Xa cách đôi trời thương nhớ quanh
Con về thăm mẹ giữa đồng xanh
Thờ ơ têm khổ tâm Dì, Cậu
Hờ hững càng đau dạ Chị, Anh.
Xứ Quảng đã đền ơn dưỡng dục.
Hải Dương cam phụ nghĩa sinh thành.
Mẹ ơi! Lượng thứ cho con trẻ
Nam Bắc hồn thơ lệ thất thanh.
Đứng trước thềm tuổi bốn mươi, trải qua bao gian truân vất vả, giờ đây Hồng Minh cùng vợ và con gái 3 tuổi sống rất đạm bạc trong căn nhà Tình nghĩa trên dưới hai mươi mét vuông do quỹ Đền ơn đáp nghĩa của xã xây cho. Nền nhà tráng xi măng, mái lợp tôn xi măng, không có trần. Một chiếc tủ đứng nhỏ bằng gỗ đã đã bạc thếch được kê giữa gian trước để làm tủ thờ Ba Má. Chiếc giường mộc một mét hai làm chỗ ngủ cho cả 3 người được kê ở gian dưới. Quần áo mới, cũ đều mắc tất cả trên dây. Bước ra ngoài thềm trươc là sân toàn cát trắng, bước ra sau vườn cũng toàn cát trắng... Vợ chồng anh vừa làm ruộng, vừa nuôi heo. Anh còn là thợ cắt tóc, nếu có ai kêu thì chạy xe ôm phụ thêm tiền cho sinh hoạt gia đình. Hồng Minh biết rất rõ hoàn cảnh khó khăn của mình. Ba anh là Trưởng tộc, anh là con trai đích tôn nhưng lại ít tuổi hơn anh em dòng họ rất nhiều (ba sinh anh lúc đã hơn 45 tuổi). Hàng năm vợ chồng anh phải lo bao nhiêu đám giỗ của họ tộc, lại còn bệnh tình của em trai lâu lâu lại tái phát.... Phận nghèo thiếu trước, hụt sau, nhưng anh không bi quan, sống khép mình như Ba anh trước đây. Anh tham gia vào các hoạt động xã hội ở thôn xóm, mừng với sự đổi thay từng bước của quê hương và hy vọng rồi dần cuộc sống của gia đình anh sẽ đỡ chật vật hơn. Anh Viết:
Duy Nghĩa hôm nay sáng điện đường
Ngời gương anh dũng đẹp quyê hương
Ruộng đồng xao xuyến bao công xưởng
Làng xóm bâng khuâng những phố phường.
Cửa Đại cầu xây tình xứ sở
Thu Bồn lụa dệt nghĩa yêu thương
Đời dân hạnh phúc vui no ấm
Quê cát giờ đây ngập ánh dương.
(SANG TRANG)
Và mới đây nhất, như là một tiếng reo vui, tươi sáng trong tâm hồn được thốt lên vào một sớm mai, trên chuyến đò qua sông Thu Bồn, Hồng Minh đã viết:
Gió dậy Thu Giang sóng Thuận Tình
Con đò vẫn cập bến hư vinh.
Ô kìa! Ai đã sang bờ giác
Vui cõi chân không vẫy gọi mình!
(QUÁ GIANG)
Mong sao, đời không phụ lòng người. Cầu chúc cho Hồng Minh sẽ gặp được nhiều may mắn và niềm vui trong cuộc sống.
Minh Hương
Nha Trang - 16/9/2011
&&&
Ốc Mượn Hồn
Vào truyện:
Người kể chuyện thuật cho người viết cách đây khá lâu. Vì vậy nay hồi tưởng lại, không thể chẳng có những sai sót. Ấy là chưa nói đến giữa truyện viết và chuyện kể thường không thể tránh khỏi là có đôi chút...hư cấu và hoang tưởng. Mà dẫu rằng hư cấu thế nào đi chăng nữa, "chuyện kể" vẫn có đó còn đó. Và dù rằng hoang tưởng cách mấy thì "người kể chuyện" vẫn còn đây và hiện đang có mặt nơi thành phố với người viết cùng những ngày tháng đong đưa...
***
Ngay tình mà nói, tôi không biết gã là ai.
Chỉ nhớ một lần thiếu chân mạt chược, bạn bè dẫn gã lại nhà, sau mấy lần lui tới, tôi thấy gã chỉ lặng lẽ xoa bài, được thua không qua một nụ cười. Năm thì mười họa, gã cũng trao đổi dăm câu vô thưởng vô phạt và tôi vẫn không biết nhiều gì về gã. Thế nhưng sau này có ngồi chịu trận nghe gã kể lể hàng giờ chuyện của gã để nay có bài viết dưới đây, để thấy rằng:
Trong khi kể chuyện, gã nhập vai, hóa thân là một người hòan tòan khác hẳn. Hay nói khác đi gã không còn là gã, từ cách ăn nói đến điệu bộ. Kể xong, mặc dù tôi có gần gũi với gã hơn.
Nhưng tôi vẫn mang cái ấn tượng sâu đậm trong đầu là: Gã như một xác chết...biết đi.
Cho đến bây giờ gã vẫn chuyên trị xe buýt...Sáng chủ nhật ghé nhà thờ gần nhà tôi cho phải đạo cái đã, rồi tà tà đi bộ tới phó hội quần hùng. Gã lại ăn chay trường, tay lúc nào cũng lủng lẳng cái túi ny-lông thủ dăm trái chuối, vừa đi vừa ngước mặt nhìn đời như người cõi trên. Chuyện tha hương ngộ cố tri cứ như vậy cho đến một ngày cuối tuần, trong khi đợi mấy con mòng góp mặt, gã ngồi một mình dựng, xoa, nắn mấy con bài như một thằng người gỗ.
Ngán ngẩm mẫu người nghiêm và buồn ấy quá đỗi, tôi mò ra vườn thăm chừng mấy bụi tre, khóm trúc. Mà cái giống này cũng hay, với bản năng sinh tồn hay sao ấy, cứ lá vàng rụng xuống là cây cối chung quanh không ngóc đầu lên nổi. Chưa hết, nếu có mầm tre, đọt trúc xanh tươi nhú lên, thế nào cũng có dăm cây èo uột lăn quay ra héo chết.
Đang suy nghĩ vẩn vơ, quay lại thấy gã lù lù đứng đằng sau lưng tự lúc nào và tôi bâng quơ với gã về những kỳ bí của con tạo với "hữu sinh hữu họai".
Gã nhíu mày suy nghĩ, và chậm rãi nói với tôi:
- Mình nói chuyện một chút được không?
Khỉ mốc gì đâu "mình" với "mẩy", khi không ôm rơm rặm bụng, chẳng hiểu gã định gãi ngứa gì nữa...Chả là tôi biết gã đang trông nom một tờ nguyệt san ở thành phố phẳng lặng đến buồn hiu mà tôi và gã đang luân lạc. Tôi thầm nghĩ ắt hẳn không ngoài chuyện cùng một lứa bên trời lận đận với trại cải tạo chi đây. Thế nhưng tôi cứ ấm ức vì sắp phải nghe chuyện gã kể mặc dù chưa biết ất giáp gì: Rằng sao gã không quại lên báo nhà? Mà lại nhè tôi cầm cu cho chó đái để vương vãi, chẳng lẽ với lý do vớ vẩn vì đang ế khứa và tôi là chủ nhà.
Và gã nhập hồn, nhập vía vào chuyện biển dâu của gã nổi trôi như dưới đây. Như trên đã thưa gửi, gã không còn là gã nữa trong một khoảng thời gian, không gian nào đó...
***
"...Tôi (tức là gã) là thằng nhà giáo được gọi nhập ngũ vào giờ thứ 25, chưa bắn một phát súng thì đụng ngay ngày 30 tháng 4. Ra khỏi trại cải tạo, một buổi chiều cuối năm, nín thở qua sông mãi cũng nhão người, bèn mò xuống xóm chị Tình xả xui. Về thấy nhà đang rối tinh chuyện gửi gấm tôi vượt biên, chỉ kịp tắm vội một quả, đầu còn bọt xà bông, quơ cái túi quần áo xuống thuyền ở ngay Nhà Bè. Chuyến vượt biên của tôi thảnh thơi như ới cái xích lô...đi chợ Bến Thành. Vì không giống như bất cứ những chuyện vượt biển nào của ai khác là không có mục mua bãi, cá lớn với cá con, hay gặp hải tặc hoặc bị bắt lại đi tù khơi khơi chẳng hạn.
Không thêm bớt một chữ là tôi cứ bước xuống thuyền là...tới bến.
Thế nhưng cũng có tí đầu cua tai nheo để mà kể, ấy là thuyền vừa ra lạch gặp ngay một chiếc ghe câu đêm lướt qua trước mũi. Lão tài công lầu bầu "Đủ má" cái một. Vì rằng với dân đi chài rất kiêng cử cái vụ bị "ngáng đường" lớ quớ như vậy. Ra đến hải phận quốc tế, chiếc thuyền lưng cong và rộng, phom phom vượt sóng. Những mảng nước lớn thốc vào dưới mũi, tự rẽ đôi chẩy róc rách hai bên mạn, rồi lại hếch cái mũi ướt sướt mướt lao đi, ngỡ rằng cứ như vậy sẽ suôi chèo thuận mái. Đang lan man này kia, bỗng dưng dàn máy phát tiếng hục hặc ho khan, rồi khựng lại, và cứ ì ra lừ đừ, vật vờ. Có người đề nghị cho căng buồm, nhưng lão lắc đầu cho biết gặp ngày gió nhẹ, buồm vát không ăn gió, đập phần phật cho...mát mắt thế thôi. Lão tài công nói tỉnh khô và dửng dưng như không, coi như chẳng phải phần việc của lão.
Một hồi lâu, dưới hầm máy, có tiếng tay thợ máy người Tàu Chợ Lớn kêu "chết" nhớt. Mà..."hết" nhớt thật, hóa cái ốc thay nhớt, lâu ngày rớt lúc nào mất tiêu. Lão cho buông neo, khổ nỗi cái neo không cắm, nằm bẹt trượt trên nền đáy biển như hòn đá nặng. Thuyền không bị chằng lại, cứ chòng chành trôi từ từ, kéo cái neo sắt rê rê trên cát.
Vậy mà, lão tài công vẫn thản nhiên lau bụi cái bàn thờ, loay hoay sắp hoa quả...
Chạng vạng tối, gió bắt đầu đổi chiều, ngọn đèn bão chao tới chao lui, sáng tối nhập nhòa. Trong khi tay thợ máy vật vã dũa, mài, khía làm răng cho con ốc mới to hơn ngón chân cái và thở ra vì chẳng lấy gì làm ngon ăn. Biển bao la, bốn bề mênh mông nước, lũ tụi tôi chờ đợi bằng cách đi lại như con kiến bò quanh miệng chén. Tối khuya, biển dạt dào, tôi nằm im nghe sóng vỗ vào mạn ghe, thuyền đong đưa như nhịp võng, biển ngập trăng, một mầu vàng nhão nhọet. Mới tờ mờ sáng mà chân trời đã rộ, vầng thái dương đỏ ối nhô lên từ đáy nước lên. Trưa nắng chói chang, nước lấp lánh như vàng rơi trên biển, tôi nằm phơi mình như con cá nằm phơi trên cạn. Nắng và khát, môi nứt nẻ, tôi nuốt nươc bọt, cổ họng khô ran. Rồi thẫn thờ nhin đàn cá trích, cá hồng, cá đốm lẫn cá thu cứ bám theo hông thuyền mà bơi, con nào con nấy chỉ to bằng hai đốt ngón tay. Lão tài công đứng bên cạnh tôi từ lúc nào không hay và bâng quơ: "Cá bơi để tránh sóng. Mà vượt biên chứ có phải đi chài, đi lưới đâu, ông thầy".
Lão gọi tôi là "ông thầy", số là tôi khoe mẽ với lão tôi là thầy giáo Ăng-lê, tới đảo, chuyện chữ Tây chữ u tôi bao dàn. Cũng từ lúc làm quen với lão, tôi mới hay lão là bợm già trong nghề sông nước. Những bạn chài quanh bến bãi gọi lão là "Xích Thố". Lão như con ngựa biển suốt đời rong ruổi trên đại dương, lão nhìn mầu nước đóan thời tiết. Bấm tay tính nước thủy triều. Trông sao trời đi trong đêm tối. Thuộc lòng từng khối đá nhô lên khỏi mặt nước, từng doi cát biển ngầm... Ngoài ra, cũng qua những bạn chài tôi được biết thêm:
Lão tin dị đoan, mỗi lần lão "Đủ má" là thế nào...cũng có chuyện.
Bỗng có tiếng "...cạch...cạch..", mọi người nhất lọat lồm cồm đứng lên. Tiếng máy nổ ròn rã được mấy giây rồi tắt ngúm, nghe gục gặc, lão nhão, đồng thời thuyền giựt giựt mấy cái như có cái gì kéo lại và rung lên bần bật. Lão buông thõng: "Cái chân vịt bị dây cuốn" và mặt thừ ra. Lão cho thả neo, chiếc neo phụ quá nhẹ, lại cũ mèm, thuyền như muốn trôi đi. Lão kéo tôi ra một góc và nói nhỏ như sợ có ai nghe thấy. Lão cho tôi hay, dân sông nước ớn nhất công việc lặn gỡ dây neo quấn chân vịt. Với một lý do thần bí nào đó, chẳng ai giải thích nổi, là hình như càng những tay bơi lội như rái cá thì càng hay gặp nạn. Nhất là thuyền rời bến vào những ngày lẻ. Hoặc giả có ai đó trên thuyền, trước khi đi lại...đi chơi bời. Khiếp nhất là trên thuyền có đàn bà, con gái đang có kinh nguyệt. Lão nhìn đám đàn bà con gái đang tụm năm tụm ba, rồi quay qua tôi lắc đầu thở ra. Mèng ơi, nghe đến kinh nguyệt, tôi cũng thấy...kinh thật.
Rồi lão lôi tôi vào khoang lái, thắp nén hương khấn vái. Xong nói nhỏ với tôi: "Hay là ông thầy". Tôi ớ ra, vì mình vừa mới...xuống xóm thăm chị Tình nên miệng câm như hến. Lão chuẩn bị đồ lặn cho tôi, gọi là đồ lặn nhưng thực ra chỉ có một cuộn dây thừng và con dao để cắt dây. Đứng cuối thuyền, lão vừa buộc sợi thừng ngang lưng tôi, vừa dặn dò dăm điều, chúc tôi may mắn, vỗ vai và bất thình lình đẩy tôi ùm xuống biển. Vậy mà tôi vẫn còn nghe lóang thóang câu chúc của lão: "Đủ má, đừng ham vui ở lại với Hà Bá, nghe ông thầy". Tôi chột dạ, hay là có chuyện đây....Thế nhưng nào có gì, nói cho ngay ngon hơn óc chó, ngoài cứ hai, ba phút trồi lên thở và khỏang thời gian không hơn một tiếng là xong tuốt...
Thuyền tiếp tục trong sóng yên biển lặn, tôi bắt gặp một đàn chuồn chuồn xanh bay là là ngang mặt nước. Lát sau lại có một lũ hải âu chao mình trên sóng, đảo quanh thuyền thật thấp, cất tiếng kêu lanh lảnh và bay về một hướng khác. Thấy lạ và đi kiếm hỏi lão thì lão đáp trống không là gần đấy một cái đảo nào đó, vì bé quá, lão chưa bao giờ ghé đến. Trời về chiều, ở cuối chân trời hiện lên một vừng mây tỏa ra hình nan quạt. Lão nói với tôi: "Coi kìa ông thầy, trời đổ ráng ngòai. Sắp có tố đến nơi". Lão chép miệng thở ra, lẩm bẩm: "Năm hết Tết, sao lại có bão lạc dậy cà. Chịu hết biết, hổng hiểu nổi". Cùng lúc ấy có năm, sáu con cá heo bơi ngược chiều với thuyền. Lão nói: "Đủ má, bão thiệt, ông thầy. Bầy cá heo đang đi trốn bão".
Tôi nghĩ trong đầu, thế là bỏ mẹ rồi, cứ..."đủ" với..."thiếu" mãi đi.
Thuyền đi chậm lại đến sốt ruột vì ngược gió, ngược nước. Biến chuyển sang một mầu nước dưa, không khí bỗng chốc ngột ngạt và nóng bức như giữa mùa hè. Sóng mỗi lúc một mạnh, tôi lo ngại nhìn mũi thuyền chốc chốc lại chìm trong lớp sóng bạc trắng xóa...Lão tài công nói vọng qua tôi: "Tới ba ráng lận, tố to đấy". Chợt nhớ tới mấy con hải âu bây giờ đã biến mất, tôi hỏi lão sao không ghé vào đảo gần đây? Lão cho hay đó là một tai họa. Ai chẳng biết phơi lưng giữa biển trong bào tố là nguy hiểm. Trời kêu ai nấy dạ, nhưng chớ bao giờ đưa thuyền vào đảo lạ khi đang có bão. Lão nói lão quen thuộc với vùng biển này, đảo lớn đảo nhỏ chen chúc nhau như bàn chông. Mà trong trường hợo này, chớ có dại mà thả neo, chẳng có xích neo nào chịu đựng nổi những cái giật ghê người như thế. Đấy là chưa kể vô số bãi cát ngầm di động, khiến sau này việc kéo neo để đi, xoay trở như cày, dũi không phải là dễ.
Nghe thì nghe vậy, sống với Việt Cộng một thời gian. Cái đầu đất của tôi lại cứt trâu hóa bùn, rằng lão tài công này dám...lờ quờ lắm chứ chẳng chơi. Bố ai mà tin được. Thế nhưng nhờ nói chuyện với lão, tôi biết sắp tới đảo Phú Quốc, vùng biển mà sau này qua lão kể, lão nắm gọn lỏn trong lòng bàn tay. Thuyền sắp đi vào vùng vịnh Thái Lan có mấy cái đảo vật vờ giữa biển, là nơi ẩn náu của đám hải tặc và tôi hỏi lão về những tin đồn ấy. Lão không trả lời. Lẳng lặng đứng lên, cúi xuống mở cái bục gỗ dưới mông. Trong ấy tôi thấy một một thanh mã tấu và mấy trái lựu đạn. Cứ theo lời lão kể lể thì lão là dân chài ở An Thới, thấy cũng chẳng nở mày nở mặt gì, làm cho lắm tắm cởi truồng là thế. Thế là theo con nước và gió mùa, lão cho thuyền hướng về mạn đầu cầu Sấu phía bắc của đảo. Sau lão theo chân đám buôn lậu bên Căm Bốt, đi đi về về với cả thuyền thuốc lá, rượu và ngay cả vũ khí nữa.
Càng về chiều, gió cuồn cuộn thổi, trời vần vũ, mây xuống thấp lòa xòa trên sóng, nước ngùn ngụt chuyển, đưa con thuyền lên cao như cánh diều băng rồi dìm sâu dưới nước. Sau mỗi đợt sóng, nước bung lên tạt vào thuyền làm tôi và lão ướt nhẹp. Lão vẫn im lìm ngồi, bỗng lão nhờ tôi lấy dây buộc hai chân lão vào cái bục được đóng chết cứng trên sàn thuyền. Hai tay lão ghìm chặt bánh lái, cho thuyền dọc theo triền sóng và lão giảng giải cho tôi nghe, bình thường bão nhỏ mình có thể cưỡi sóng mà đi. Nhưng gặp bão lớn như thế này, đành phải suôi theo sóng gió. Có điều cần nhớ là nếu muốn giữ cho thuyền đừng lật úp, chớ bao giờ đưa hông thuyền ra hứng đợt sóng lớn đang dập xuống. Lão vuốt nước trên mặt và bắt đầu tâm sự những gian truân của một đời sông nước cho tôi nghe. Cảnh sông nước triền miên đã làm lão ngán ngẩm, cứ muốn dứt ra lại bị cuốn vào và vẫn chẳng thóat ra khỏi được cái mái chèo. Giữa sóng gió gào thét bập bùng, giọng lão cứ vậy, cứ phẳng lặng, đều đều...
Màn đêm buông xuống, con thuyền đang vật vã với những cơn sóng nhồi thì lão chấm dứt câu chuyện bằng một câu: "Ông thầy xem mấy can nước ngọt, san cho đầy và giữ lại can không làm phao cho bà con". Tôi gật đầu. Nhưng bỗng sởn gai ốc, vì bắt gặp mặt lão xám thẫm, mắt trong veo, long lanh tia sáng của tử thần và lão gửi vớt lại cho tôi một câu để đời: "Đủ má...Làm cho ngon lành nghe ông thầy". Và rồi "ông thầy" ngả nghiêng theo gió dọc theo mạn thuyền...như gã say rượu. Nước dưới đánh lên, nước trên đổ xuống sối sả, bỗng có tia chớp lóe lên ngang bầu trời, mang theo một đợt sấm ầm ầm. Trong hầm con thuyền, bà con chen chúc, la hét chói lói, gọi nhau ơi ới. Pha lẫn tiếng rì rầm cầu kinh, khấn vái, tiếng còn tiếng mất. Tôi lẳng lặng ngồi xuống, tháo lỏng sợi dây mấy can nước để chuyền can này qua can nọ. Chiếc thuyền lắc lư mạnh, nghiêng bên này, ngả bên kia, kêu răng rắc. Đang lúi húi tháo với buộc cái can 30 lít còn một phần tư nước. Như có hẹn trước, đột nhiên có một cột nước khổng lồ như cá nhà táng mà sau này tôi nghĩ là sóng rồng biển. Nó như tìm thấy tôi và bổ nhào xuống chụp dính và giận dữ quẳng...mẹ tôi xuống biển. Chợt nhớ đến hai chữ xui xẻo "Đủ má" của lão Xích Thố. Tôi cũng buột miệng: Đủ má...vì biết sắp có chuyện.
Tôi cũng chợt nhớ tới chị Tình dưới xóm...Nhưng tay vẫn còn kịp quơ được cái can nước.
***
Bị văng xuống nước, tôi gào thét mong có ai nghe và bơi, nhưng bơi cách mấy thì phỏng ích gì ở giữa biển. Tôi kiệt lực và ngất đi. Tôi nằm mơ thấy bị Việt Cộng vác AK đuổi chạy có cờ trong đầm lầy quận Nhà Bè. Chúng nhè tôi làm một tràng "ra phan" và...Mẹ, xui gì đâu hết biết, tôi lãnh nguyên con một viên vào bắp chân. Tôi kêu "Ối mẹ ơi, đau quá" và tỉnh dậy...
Mở mắt ra, qua tia ánh mặt trời buổi trưa yếu ớt nhập nhòa và tôi bắt gặp ngay một thằng oắt con, tay cầm cái que chọc chọc đúng vào chỗ cái chân bị...Việt Cộng ghim cho một lỗ. Tôi bật dậy. Hiểu theo nghĩa là tôi gượng đứng lên và chóang người, còn sợ hơn là cái lúc rơi tòm xuống biển: Vì thấy mình đang đứng trên một cái...đảo hoang to chỉ bằng cái lỗ mũi. Vì rằng đứng ở ven bên này, tôi có thể thóang thấy mé bờ bên kia. Tôi ớ ra nhìn...nó. Và nhìn...cái đảo. Tôi lắp bắp hỏi rõ ngớ ngẩn: "Mày...Mày ở đây lâu chưa". Nó cười toe cho biết mới...lưu vong tới đây từ thuyền khác, cũng vì cơn bão hôm qua.
Và việc đầu tiên của một người mò tới đảo lạ là tôi lẳng lặng bước qua bờ bên kia để thăm thú. Tôi lảo đảo bước như người mộng du và dáo dác ngó quanh, để chợt thấy mình...sống cũng như chết. Vì rằng nếu tôi có chìm lỉm ngòai biển khơi vào cái tối hồi hôm thì cái chết đã...như mơ. Bất quá dẫy dụa chừng năm, ba phút và uống nước cho đã là...êm. Còn đằng này cái chết ở đây là cái chết gậm nhấm từ từ với...chết đói, chết khát. Tôi thuỗn ra nhìn trời nước bao la và thầm nghĩ có lẽ đây là mỏm ngọn núi dưới biển, với vài chỗ có đất, mặt lồi lõm, rải rác những tảng đá lớn nhỏ, phần còn lại bị san hô phủ kín. Khứa Robinson nào đó xưa kia lạc tới đảo còn có rừng rậm, suối nước, cùng con này, thức kia...Chứ ở đây thì...Để rồi tôi ngao ngán lắc đầu không dám nghĩ tiếp đến một ngày mai đen tối đang rình mò đợi chờ.
Tôi quay lại về phía bờ bên kia và đi chậm lại, thấy thằng bé vẫn chống gậy và đứng yên một chỗ. Nói cho ngay vì bị choáng lúc tỉnh dậy, lúc này tôi mới nhìn xuống dưới thấy chân nó bị thương, máu dồn từng cục và sưng vù, nhưng kệ nó tính sau. Tôi cẩn thận lần mò tìm kiếm chung quanh, không ngòai đám đá lô nhô, xám xịt, gieo vào lòng người u sầu, bứt rứt cùng bốn bề bao la là nước. Tôi bắt gặp lác đác dăm cụm cây trái thấp tè, già cỗi, len lỏi giữa mấy khe đá vươn lên ngả nghiêng trước gió. Như một...bức tranh thủy mạc. Tả chân tả cảnh như vậy đấy, nhưng lúc đó tôi chẳng thấy đẹp khỉ mốc gì.
Đúng lúc ấy, mặc dù không cảm thấy đói, phản ứng tự nhiên là thò tay tính vặt đỡ một trái thì có tiếng thằng oắt tì vọng tới cho biết đấy là trái đậu ma. Buồn tình vớ lấy mà ăn, không bị ói mửa, thì cũng ngứa cổ họng...và móc họng ra chết giấc. Ủa...Tiên sư nó chứ, sao thằng này nó biết? Tôi nghĩ vậy, nhưng chưa vội hỏi vì thấy nó đang đứng ngó bâng quơ, ngó ra biển khơi. Tôi đi tới gần để hỏi thêm tí chuyện nhưng thằng nhãi quay đi, lần mò tới ven đảo. Nó bước từng bước ngắn như thăm dò triền cát nông, sâu. Nhòm theo bước chân nó, tôi thấy những đợt sóng ngầu bọt sầm sập dồn tới vào bãi cát, xô vào lại tản ra. Đây đó ngổn ngang đủ lọai rác rưởi của trận bão tối hôm qua dạt về như ván thuyền, bao ny lông, guốc, dép...
Quay trở lại, nó đứng ngay ở cái can nước của tôi và đẩy qua một bên. Nó lom khom cúi xuống, hai tay tay nó lúi húi vốc cát...Tôi nghĩ thầm, thằng của nợ này dấu gì ở dưới đáy. Hóa ra...Với cả hai bàn tay khum khum, nó vốc lên cả chục cái trứng rùa đưa lên cao cho tôi xem và lại cười toét. Nhìn mấy cái trứng rùa và cái can còn một phần tư nước, tôi nhủ thầm cũng may.
Trở về thực tại thấy buồn hiu hắt, tôi cứ bần thần như vậy đến một lúc lâu và không biết làm gì hơn là thất thểu đi thám sát hòn đảo một lần nữa. Để thấy hòan tòan tuyệt vọng và vẩn vơ tiếp: Có ai đi tìm dấu vết hai con thuyền đắm hay không? Có thể sẽ có người đến, nhưng bao giờ? Ngày mai, tuần tới, tháng sau? Mà người ta đến đây làm gì chứ? Vì trộm nghĩ rằng, rất có thể ít nữa sẽ có tầu, có thuyền đi ngang qua đây, cái chuyện này chỉ có giời biết. Bữa cơm thanh bạch chiều hôm ấy, chấm dứt một ngày buồn thiu bằng...một quả trứng. Tôi nhắm mắt nuốt chửng cả...con rùa con. Nuốt xong, bụng bảo dạ, nào khác gì cái thời buổi quá vãng nín thở qua sông thì thà chết sướng hơn. Tôi thở ra: Thế này thì sống thế chó nào được.
Khuya về tôi mới thấm cái lạnh của biển, của đảo hoang, gió thổi thông thốc, gió rít vu vu như...thông reo. Nếu ban ngày ban mặt, trời nóng cách mấy, nhẩy ùm xuống nước là...phẻ. Ở đây, đêm về với cái lạnh cóng da buốt thịt thì...trốn ở đâu cho thóat, hở giời. Nếu như trong khoang thuyền kín gió, cũng còn có đôi chút ấm áp tình người. Còn có con nít khóc...rưng rức. Đây trần sư cụ là tôi với một thằng nhô cũng như...con nít đang ngủ vùi. Nhớ lại phim câm của khứa tài tử chân đi chữ bát "Sạc-Lô" kẹt trong căn nhà gỗ. Cũng bão tuyết lạnh lùng, nhưng vẫn có củi lửa, cái nồi với đôi giầy và dây buộc giầy chấm mút. Nghĩ đến đây tôi lại thấy cái đói tàn bạo trong cái hoang lạnh của...đảo hoang. Tôi lại...hoang tưởng đến chiếc dép, cái guốc nằm ngoài bãi biển, nhưng lại không có...cái nồi. Người tôi như co lại và cong như con...tôm he. Lại tôm với cá. Tôi vội sua đuổi ý nghĩ ấy ngay đi. Tỉnh dậy thấy biển tối thui, loay hoay không ngủ được, tôi đâm bực mình lây qua cái thằng mới tí đầu lại cứ đòi dậy khôn. Như hôm qua đây, nó dậy tôi uống nước phải nhấp từ từ, đừng làm cái ực này kia. Tôi lại nghĩ tiếp, hay là vì tù túng quá nên tôi bẳn tính với nó. Đến gần sáng, tôi vẫn trằn trọc cùng những buồn bực không đâu...
Sáng hôm sau, trời ấm áp hẳn lên. Nếu không có những rác rưởi ngổn ngang trên bãi cát, với khung cảnh bình lặng thì như chẳng có gì sẩy ra, để hai đứa tôi ngồi thu lu nhấm nhẳng ở đây. Ngồi bó gối cạnh thằng nhãi, nó cắn từng vỏ trứng rùa ngon lành như nhai bánh đa...Như khám phá ra cái chân lý tiên thiên là...trời sinh voi trời sinh cỏ. Thế là tôi bung dậy. Nó nheo mắt dò hỏi. Tôi đành làm lành và nhỏ nhẹ cho nó biết dễ hiểu đến như vậy mà nó...ngu như bò. Nó không biết là: Có trứng rùa thì dưới biển thế nào cũng có...rùa.
Chẳng đợi thằng bé tâm phục khẩu phục...ông thầy. Ba chân bốn cẳng tôi ào ra men đảo. Nhào xuống tức thì. Mở mắt thao láo. Và tức như bò đá khi thấy nguyên...một nghĩa địa san hô. Vỏ sò, ốc dầy đặc, hàng hàng lớp lớp. Ngoi lên lấy hơi. Hụp xuống tìm tiếp. Lần này tôi thấy mấy chú rùa to bằng bàn tay, bây giờ tôi mới hiểu câu nói chậm như rùa là sai bét. Vì rằng ở dưới nước chúng nhanh như cắt. Vừa định dơ tay chộp thì vèo một cái, chúng bơi vù như tên bắn. Lóp ngóp leo lên, vừa đi tôi vừa nhắm chừng ngòai dăm ba chú rùa nhí, hòan tòan là một mảnh đất chết. Tôi...Rồi không chết trước thì cũng chết sau, như đám sò, ốc dưới kia. Chưa kịp kể lể chuyện trên trời dưới biển, thằng bé hỏi: "Chú thấy rùa?".
Không dằn được, tôi nổi cơn điên: "Tiên sư mày, nói cứ như bố tao ấy". Thằng bé, giọng nhẫn nhục: "Chú hổng hay chứ đảo có san hô, bãi cát bự chần rần thì phải có rùa. Có rùa là có tôm". Tôi chưa kịp gắt nhặng sị lên để át giọng. Nó tiếp: "Mai kia người ta ghé lưới rùa, tôm...". Nó nói gọn lỏn: "...nhứt là đồi mồi". Đến đây thì tôi không chịu nổi cái thằng con nít hay lên mặt dậy đời, tôi cáu kỉnh: "Mẹ, mày làm như cái đíu gì cũng biết". Mặt nó hơi sụ xuống, giọng yếu sìu: "Hồi trước, tía tui dẫn ra đảo...gòai".
Mấy tối sau vẫn chỉ hai khỏan "đóí" và "lạnh" làm bạn với tôi rất ư thắm thiết. Dường như cái đói, cái lạnh về đêm dễ dàng xâm nhập vào tim, gan, phổi phèo và tàn bạo hơn. Để tôi "tư duy" rằng cả hai thứ "môi hở răng lạnh" tập kết với nhau thì...Thì tiên sư chúng nó chứ, chúng ác ôn chẳng thua gì...Việt Cộng. Bố khỉ, hay luận theo ngôn từ ngọai sử của quân lực VNCH hào hùng thì... "từ chết đến bị thương". Buổi chiều tôi vừa làm một giấc nên trằn trọc, thấy thằng bé khò khè, hình như nó lên cơn sốt nên tôi cũng hơi lo lo. Tôi gợi chuyện với thằng bé là gió mạnh như vậy nó có ngủ được không. Nó ho khan: "Tui nhớ má tui". Nó khật khừ tiếp: "Má tui với tui hổng hạp, gặp là gây, rầu hết sức dậy đó. Riết rồi tui bụi đời, chơi bạch phiến gồi bị nhúm vô khám. Hồi rày tui mới hiểu bả, bả đâu có dư săng nhớt chi mà cho tui vượt biên, thiệt tình ...". Nó ngừng lại nhấp một ngụm nước, tôi hỏi ba nó đâu. Thằng bé trả lời, giọng mệt mỏi: "Tía tui là lính truyền tin, ổng tử trận trong trận Hòang Sa". Thảo nào nó biết nhiều về vùng biển, tôi nhủ thầm và tự trách mình hơi nặng lời với nó mấy hôm nay.
***
Mãi đến gần xế trưa nó mới dậy và nằm bẹp một chỗ. Đang chập chờn vì tối phải thức canh nó, tôi giật mình nghe tiếng động lạ. Mở hé mắt thấy có một đàn hải âu ồn ào như cái chợ đang bay vòng vòng, đôi cánh dăng ngang, có con bổ nhào xuống mổ nhanh trên mặt cát ẩm những mảnh vụn. Thấy chẳng có gì, miệng chúng lầu bầu như gấu ó nhau và vụt lên, nháo nhác vài vòng nữa và cả đàn bay mất. Tôi nhớ ra đám chim này từ mạn thuyền hôm nào, như lão tài công nói là có đất liền gần đây. Theo phản xạ tôi nhìn chung quanh thấy ...vẫn vậy, đám hải âu này bỏ đi là phải.
Còn lại vẫn là hai thằng tôi với một ngày như mọi ngày, cũng chỉ trên là trời, dưới là nước. Vậy mà đột nhiên nhòm thấy chiếc tầu từ đằng xa. Tôi nhẩy cẫng lên, chạy vội xuống bãi, vớ cái ván thuyền quơ lia lịa. Mồm miệng gào tóang lên làm như thể trên tầu họ nghe thấy tiếng mình không bằng. Tôi càng khoa tay vẫy, con tầu càng...từ từ lụi dần và mất hút. Tôi đứng chêt lặng, mắt ngây dại như vừa trông...gà hóa cuốc. Thóang nghe thằng nhỏ nói có đốt lửa, có khói thì tầu nó mới thấy...Chưa kịp nghĩ có lửa đâu mà đốt, chợt nghe có tiếng khục khục trên bầu trời ngọng nghịu như trẻ tập nói. Nhìn lên không phải là...con cuốc. Mà là có một con hải âu lạc bầy bay trở lại đảo. Trưa biển vắng...bóng người, nó đảo hai, ba vòng quanh thăm chừng, xà xuống bãi cát. Thả bộ dăm thước như kiếm mồi, lại vẫn cát với cát để chẳng có khỉ mốc gì. Như mỏi mệt với một chuyến bay xa, nó lười biếng dúi mình vào cánh, gật gù phơi nắng và...ngủ.
Bỗng thằng nhỏ gượng dậy, bước từng bước xuống triền bãi. Nhặt nhặn ván thuyền to nhỏ tha về cạnh cái can nước. Hay là nó dùng mấy thư ấy để..."làm" khói báo hiệu cho tầu ngòai khơi. Mà lửa ở đâu ra, chẳng lẽ lại ở lỗ nẻ chui lên? Ngay lúc ấy, con chim giật mình tỉnh giấc bay vụt lên và kêu "quéc quéc" như chửi bới vì bị phá giấc ngủ. Và thằng nhỏ...cười.
Lâu lắm mới thấy nó nhếch cái miệng như mếu và..."sai" tôi vặt cho nó mấy trái đậu ma.Xong, nó ngồi xuống bẻ ra từng vụn nhỏ và ném ra xa. Miệng nó mấp máy tiếng gì ấy, như nói với con chim thì đúng hơn. Con hải âu vù lên đảo một, hai vòng, cái đầu nghiêng qua một bên và đáp xuống. Mắt mở tròn ngơ ngác mổ cái một, ngửa cổ nuốt. Nhớ lại nhời thằng bé hôm nào: "...cứ vớ lấy mà ăn, không bị ói mửa, thì cũng ngứa cổ họng...và móc họng ra chết giấc". Tôi lâm râm cầu Phật Bà Quan Âm cho con chim...chết giấc để tôi...làm thịt nó. Vậy mà nuốt xong, con hải âu lững thững từng đi kiếm thêm mồi khác. Khỏang thời gian có lâu hơn. Nhưng những vụn hạt đậu...ma mãnh của thằng nhỏ cũng gần hơn. Tiếp đến, thay vì nói chuyện thì nó húyt sáo. Con hải âu ngỏng mỏ há to nghe ngóng. Đầu gục gặc liên hồi. Ra cái điều sao có người lại..."tử tế" với mình như thế. Thêm mươi giây nữa, giọng húyt sáo của nó càng nhỏ dần...Con chim lò dò tới cũng gần hơn...Một thước, rồi...nửa thước...Tim tôi đập rôm rả.
Còn mấy gang tay...Mắt tôi mở thao láo: "Rồi xong...! ". Còn một gang tay. Tôi thầm nhủ: "Rồi...! ". Còn nửa gang tay. Tôi nghĩ thầm: "Xong...! ". Ủa lạ chửa kìa, con hải âu nhẩy lên đùi thằng nhỏ...? Nó miệng vẫn rì rầm, không chụp bắt như tôi nghĩ...? Nó nhẹ nhàng vuốt ve cổ con hải âu...? Cái thằng quái gì đâu chẳng biết nữa!. Và lóang một cái...Cái cần cổ nằm gọn trong năm ngón tay...thần sầu của nó. Bố khỉ, như thể lấy...đồ trong túi vậy. Tôi phục lăn.
Thở ra nhẹ nhõm...Mà thở ra thì cái bụng thóp lại...Lại thấy cái đói cồn cào, nhôn nhao trong bụng. Tôi vừa dợm chân bước tới...Nó nhìn vào khỏang không, rồi ngó tôi và khe khẽ lắc đấu và nói...đưa nó cái kính cận 5 độ của tôi và "sai" tôi đi...vặt cỏ. Ủa, nó lại bầy trò gì nữa đây? Chẳng thắc mắc lâu, vì trong một giây phút thóang đãng, tôi đã...ngộ với cái môn quang học ấm ớ trước kia. Tôi phụ lúi húi chất mấy ván thuyền mỏng trên nhúm cỏ, loay hoay cái kính với tia nắng mặt trời. Nó kéo cái kính ra xa. Tôi thấy điểm sáng hội tụ có nhỏ thật đấy. Nhưng trông yếu ớt vì trời âm u và cỏ lại chưa kịp khô. Đợi mãi chẳng có tí lửa để thui con hải âu béo ngậy. Đói quá đói, tôi lập cập xé tọac ra làm hai...Như người bán khai cầm cái đùi lợn rừng, tôi đưa cho nó, nó lắc đầu và cuối cùng thì tôi cũng đành nhai sống cái đùi cái một...
***
Sau đó ít bữa tôi cứ lo ngại vẩn vơ vì thằng bé cứ sốt cách nhật và mỗi ngày một yếu hơn. Nhưng nói chuyện với tôi cũng nhiều hơn mọi khi, giọng mệt mỏi nhưng rỉ rả đủ thứ chuyện. Nào chuyện hàng xóm láng giềng hành tỏi, ngay tên tuổi của dượng Ba, thím Tư ở mãi tận đâu đâu, riết rồi những mẩu chuyện rời rạc ấy chui vào đầu tôi. Tôi thuộc lòng cả số nhà với tên đường.... Tối nay cũng vậy, đêm đã khuya, thằng bé vẫn ôm ấp với những kỷ niệm xa tắp, tôi chỉ biết lắng nghe...Rồi im bặt, hình như thằng bé thiếp ngủ lúc nào không hay. Sờ trán thằng bé, tôi thấy nóng hừng hực như lửa, lưng mồ hôi vã ra như tắm. Sờ đến bàn chân thấy lạnh ngắt, lâu lâu nó lại giật giật như lên cơn động kinh, người co quắp, miệng ú ớ gọi tên má nó.
Tôi thao thức canh chừng đến quá nửa đêm, bụng lại cào cấu. Kể cho rõ ra thì đói đến mờ người, đói run tay, đói lỏng đầu gối, đói đến lủng ruột. Đang miên man với cái đói đến...nhức cả đầu, thóang tôi nghe nó kêu: "Khát...nước...nước". Tôi lấy nắp nước cuối cùng còn lại và kê vào miêng thằng bé. Nhưng nó lắc đầu, thì thào: "Anh...anh..." và đẩy tay tôi ra, nhắm mắt thiếp ngủ. Trong bóng tối, tôi thấy nó dễ thương và hiền lành gì đâu. Như ít nước vừa rồi, hình như nó muốn để dành cho tôi thì phải và tôi lắc đầu thở dài...Chợt nó cố gượng người lên, nhăn mặt rồi nằm vật trở lại và thở dốc. Cũng nhờ vậy, tôi mới thấy mắt nó trông như mất thần, môi chuyển mầu hơi tai tái. Như có hơi hướng lạnh lẽo của mùi tử khí. Miệng thằng bé mấp máy...Tôi ghé sát tai nghe tiếng được tiếng không: "Chắc em...em...hổng qua...qua...nổi".
Nó khựng lại như lấy sức, giọng khô đặc, như vọng về từ cõi âm: "Em chết...chết...Anh cứ lấy thịt...thịt...em mà...mà..". Như bị cái búa tạ táng vào đầu. Đầu óc tôi choáng váng để chẳng nói được câu gì ra hồn. Mà biết nói gì hơn trong cái lúc này, không ngòai câm lặng và im ắng. Nhưng tai tôi vẫn nghe tiếng "u u" gió thổi. Tôi chợt rùng mình vì thằng bé, tay bấu chặt vào tay tôi, nhướng đầu lên. Miệng lập bập..."Anh thay...thay..em viết thơ...thơ.. thăm hỏi má em...". Nó nghẹn ngào: "Anh ký... ký...tên dấu...dấu...thập...thập...". Trước khi thở hắt ra, thằng bé thì thào "Anh...cho má em hay. Em vẫn khoẻ...khỏe...". Nó nấc lên một cái, ngọeo đầu sang một bên, mười đầu ngón tay đang bấu chặt vào tay tôi, lỏng dần rồi buông thõng, mép trào ra ít tia máu hồng, đôi mắt vẫn mở chừng chừng. Tôi phải vuốt mắt thằng bé, nó nhắm mắt lại như bình thản đi vào giấc ngủ của trẻ thơ. Nhưng chẳng bao giờ thức dậy nữa...
Suôt tối hôm ấy, tôi ngồi bó gối nhìn vào bóng đêm và suy nghĩ mông lung...Tôi nghĩ đến chuyện chôn nó, mà làm sao đào được cái huyệt đây. Đến sáng, tôi đã thử lấy miếng ván thuyền múc, sới, đào được hai, ba lát là thở dốc vì đất hòa lẫn với san hô cứng như đá tảng. Đào thêm chục nhát nữa, cái phần mộ cũng chẳng sâu được thêm chút nào. Mấy đầu ngón tay bắt đầu tê dại, tôi biết đó là triệu chứng của cái đói cùng cực và thân thể thiếu nước. Cái can nước cũng đã cạn, tôi đang chờ...một cơn mưa.
Gần trưa, trời đất sáng sủa không một bóng mây. Cảm giác tê dại như kiến cắn lần lần đến ngón tay, chậm rãi từ từ bò lên mặt, nhất là hai bên má đã bắt đầu ngưa ngứa. Tôi biết những giờ phút cuôí cùng đã đến. Chẳng còn hy vọng gì nữa, rồi thì cũng như nó. Sẽ chấm dứt ở đây, cũng ở ngay chỗ nó đang nằm này. Tôi gượng dậy, người tôi như co lại và muốn gục xuống. Lưỡi tôi đắng ngắt. Cái đầu tôi nhẩy múa với những lời trối chăn rời rạc của nó: "Anh cứ lấy thịt...thịt...em mà....". Môi khô như có vẩy, tôi đang thèm những giọt...Bất cứ giọt gì. Tai tôi như có tiếng "..u..u.." giục giã. Âm vọng như những lời dặn dò của thằng bé hồi đêm: "Em vẫn khoẻ...khỏe...". Nếu nó sẽ giúp tôi khỏe và vào được đất liền. Tôi sẽ theo đạo. Tôi sẽ viết thư cho má nó...""Anh ký... ký...tên dấu...dấu...thập..."...
Cái đầu tôi lúc ấy rối ren cùng những lệch lạc, để chẳng biết diễn tả thế nào cho gẫy gọn...Tôi như quay về với một thời hoang sơ...Nhìn lên mặt trời với nắng gắt chói lòa...Tôi lom khom như người tiền sử. Như một quán tính. Tôi lẩy bẩy cầm cái kính cận chũng như lòng chảo xoay theo hướng mặt trời vào đám cỏ hôm trước. Cũng đưa cái tròng kính tới, lui với gần, xa. Ánh nắng xuyên qua mặt kính hội tụ. Chưa đầy mấy phút, mặt cỏ úa vàng chuyển qua mầu nâu...Rồi đen...Rồi thì bốc khói. Nhúm cỏ đã quá khô sau một ngày phơi nắng. Một đốm lửa đỏ xuất hiện trên mặt lá, tản rộng ra. Khói bốc nhiều hơn. Vết cháy lan rộng qua nhúm cỏ. Tôi quơ tay thêm mấy cái ván thuyền, chất thành một cụm, cuối cùng thì giữa cái nắng chang chang...
Tôi đã có một nhúm lửa giữa đảo hoang...
***
Gã chào đi về, tôi bắt tay gã xiết chặt và giữ lại một hồi lâu, lâu lắm. Tần ngần đứng trước khóm cây, thấy dóng trúc đang vươn lên hiu hắt trong nắng hanh. Những nhánh lá non còn đang cuộn tròn chưa kịp rộ bung. Bên cạnh là một nhánh cây khô đã chết từ đầu mùa. Thêm cụm cỏ gà chồi lên lúc nào không hay, eo sèo, đong đưa trước gió...
Tiễn gã ra cửa...Gã lặng lẽ đi về phía nhà thờ, gần cuối đường. Đôi vai cánh phản, dáng đi gù gù như chúi người về phía trước. Rồi cả cái bóng gã ngả nghiêng xa dần rồi mất hút...
Như con ốc mượn hồn về một vùng biển xa đất vắng...
Phí Ngọc Hùng
Trúc gia trang
&&&
Lòng Người
Đang lau nhà, bất chợt nhìn lên đốc lịch treo trên tường, tôi lẩm bẩm: lại quên chưa bóc lịch. Hôm nay đã là ngày 22 tháng 9 rồi, vậy mà tờ lịch thì hiện rõ mồn một con số 19 tím ngắt. Biết mình quên cái gì thì phải làm ngay khi phát hiện ra, đó là một cách khắc phục phần nào "cái sự hay quên" của mình, tôi liền bỏ cây lau nhà xuống, đến bên đốc lịch. Theo thói quen, tôi đọc những dòng chữ nhỏ dưới con số 19. Bây giờ người ta hay ghi những câu ngạn ngữ trên các tờ lịch lắm. Tôi nheo nheo mắt, dịch mãi mới được 3 dòng chữ nhỏ li ti:
Vô lại trên núi thì trừ dễ
Xấu xa lòng người khó vượt qua.
(Ngạn ngữ Nhật bản).
Lướt qua mấy tờ lịch của các ngày 20, 21 nhưng không có gì ấn tượng, tôi bỏ tất cả vứt vào thùng giấy nháp, chỉ gấp tờ lịch ngày 19 lại cho vào túi áo và tiếp tục lau nhà. Vừa lau nhà, tôi vừa ngẫm nghĩ: "Lòng người ở đâu nhỉ? Rồi lại tự trả lời: Lòng người thì nằm trong con người chứ ở đâu! Rồi lại tự hỏi: Nằm trong con người, nhưng mà nó nằm ở chỗ nào trong con người, ở bụng, hay ở ngực, ở đầu...?
Thực ra, mấy hôm nay tôi đang có nhiều nỗi niềm trong lòng nên đọc câu ngạn ngữ trên thì đâm ra nghĩ ngợi vậy thôi. Chứ từ xa xưa, ở Việt nam, người đời vẫn thường dặn miệng lại với nhau: Sông sâu còn có kẻ dò/ lòng người ai tỏ mà đo cho tường là gì (cũng có người đọc là lòng người nham hiểm ai đo cho tường hoặc Đố ai lấy thước mà đo lòng người).
Trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong thơ văn, sử sách, người ta có rất nhiều cách nói về lòng người để thể hiện tâm tư, tình cảm, cảm xúc của mình cũng như thể hiện thái độ trong giao tiếp ứng xử giữa con người với nhau. Khi vui thì: lòng mừng rỡ; lòng khấp khởi; lòng hân hoan; lòng sung sướng; lòng hoan hỉ; reo vui trong lòng; phấn chấn trong lòng; mừng rơn trong lòng... Khi nhớ nhung thì: lòng nhớ khôn nguôi; lòng nhớ cồn cào; lòng nhớ nôn nao... Khi tức giận thì: Lòng sôi sùng sục; lòng bực tức, lòng căm thù; lòng hận thù ... Khi yêu thích, ham muốn thì: lòng thích thú; lòng đam mê, lòng say đắm, lòng cuồng si, lòng mê mẩn, lòng mơ ước, lòng khát khao; còn ngược lại là lòng chán chường, lòng chán ngán, lòng rã rời, lòng nặng nề; lòng trắc ẩn...Đặc biệt, khi con người buồn lo, đau khổ thì: lòng buồn da diết; lòng buồn thăm thẳm; lòng buồn rười rượi; lòng buồn man mác; lòng rối như tơ vò; lòng não nề; lòng quặn thắt; lòng đau như cắt; đau âm ỉ trong lòng; xót xa trong lòng; cay đắng trong lòng... Để đánh giá lòng người thì: lòng hiếu thảo, lòng nhân hậu, lòng bao dung; lòng vị tha; lòng độ lượng; lòng từ tâm; lòng từ bi, lòng quả cảm, lòng kiên trung; lòng ích kỷ, lòng xấu xa; lòng ti tiện; lòng nham hiểm; lòng thâm hiểm; lòng độc ác; lòng ghen tị, lòng hiềm khích, lòng phản trắc ... Đấy, thấy chưa! Mới chỉ liệt kê sơ sơ vậy thôi mà đã thấy đủ các trạng thái của lòng người. Có khi người ta chẳng nhắc đến chữ "lòng" nhưng vẫn biết đó là trang thái cảm xúc trong lòng rất đặc sắc, chẳng hạn như: Nở từng khúc ruột; đau thấu tận tim gan; nỗi buồn vò xé ruột gan; đau thắt tim... đau đến đứt từng khúc ruột; đau như cắt ruột; ruột gan rối bời; bồn chồn trong dạ; xót xa trong dạ; buốt tận tâm can; đau đầu nhức óc; điên hết cả đầu...
Vậy lòng người ở đâu nhỉ? Cứ trực quan mà nhìn thì hình như lòng người có ở những nơi nhậy cảm nhất của cơ thể con người. Nhưng mà ngẫm cho kỹ thì không phải vậy. Lòng, dạ, tim, gan, đầu óc... chỉ là những phần xác được trí óc nằm trong bộ não có suy nghĩ, tư duy của con người mượn làm nơi gửi gắm những nhận thức, trí tuệ, cảm xúc của mình trong cuộc sống tinh thần mà thôi. Thực ra, lòng người theo tôi nghĩ nó nằm trong tâm khảm, hồn cốt của mỗi con người...
Tôi bật cười một mình. Ái dà! Sao hôm nay mình lại ra dáng triết lý thế! Lại thân làm khổ đầu đây! Nhưng mà cái đầu nó cứ giật tưng tưng lên thì phải nghĩ theo thôi... Cất cây lau nhà, tôi lấy gạo vào rá và chuẩn bị cho bữa cơm chiều, đầu vẫn không dứt khỏi suy tư.
Tôi cho rằng lòng người tốt, xấu chính là ở cái Tâm, cái Đức của mỗi người. Không ai là hoàn hảo cả, nhưng nếu mình tâm niệm sống tốt, sống thiện, chịu khó tu rèn thì sẽ có bản lĩnh để vượt qua những suy nghĩ đen tối, xấu xa trong lòng mình. Tùy vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể, cùng với nhân cách và vốn sống, sự hiểu biết của mỗi người mà Lòng người có những diễn biến, trang thái, cung bậc khác nhau như đã liệt kê ở trên. Nhưng đó là lòng người đã được bộc lộ thông qua ngôn ngữ. Còn những điều thầm kín ẩn dấu trong lòng mỗi người thì sao? Đúng là Lòng người ai tỏ mà đo cho tường! Những suy tư trong lòng người, nếu tích cực thì không cần nói nhiều, nhưng nếu tiêu cực thì thật khó lường. Mà thường thì người ta hay dấu những điều xấu xa trong lòng, ở mức độ nhỏ thì chỉ là lòng ganh ghét, đố kỵ, nhỏ nhen, ích kỷ. Còn ở mức độ lớn hơn thì trở nên nham hiểm, thâm độc, hơn nữa thì thành âm mưu, thủ đoạn...Những điều đó nếu cứ cất giữ trong lòng sẽ làm cho người ta sống trong dằn vặt, toan tính, thù hận... sẽ là "mầm ủ". Nếu không được ngăn chặn thì đến một lúc nào đó có cơ hội "mầm ủ" sẽ nảy sinh tội lỗi, hơn thế nữa là tội ác.
Đã sống hai phần ba cuộc đời, tôi nghiệm rằng mọi sự xấu xa của lòng người đều xuất phát từ lòng tham, lòng ích kỷ mà ra cả. Cái tham vọng lớn là được làm bá chủ toàn cầu, dẫn đến biết bao xung đột đầu rơi máu chảy chiến tranh liên miên giữa các quốc gia, dân tộc. Sau đó là tham tiền tài, danh vọng. Cái tham nhỏ hơn là tham nhục dục, tửu, sắc, tham hưởng thụ... Tất thảy những cái đó hễ ngấm vào ai, tùy mức độ, điều kiện, bản năng của mỗi người đều gây lên hậu quả xấu hoặc gây thành thảm họa. Nhỏ thì cho chính bản thân mình, hơn nữa thì cho gia đình người thân, và lớn hơn nữa là cho nhân loại. Từ việc anh em giết nhau, vợ giết chồng, con cái ngược đãi bố mẹ, tranh chấp tài sản... trong cuộc sống cho đến những cuộc mua danh, mua chức, mua quyền, bán nhân cách...rồi những cuộc chiến tranh, những đối đầu chính trị...đều là cái giá khủng khiếp của lòng tham. Thường đã tham lam thì hay ích kỷ. Đã ích kỷ thì dẫn đến nhỏ nhen, ghen tỵ, hiềm khích, thù hận...Những xấu xa đó cũng có thể gây nên những bi kịch thảm khốc mà trong cuộc sống ta vẫn thường phải chứng kiến.
Đúng là không thể biết được lòng người cao thấp, rộng hẹp, nông sâu thế nào. Nhưng nếu ta biết tin vào cuộc sống và sống vươn đến Chân - Thiện - Mỹ, thì không những giúp cho bản thân ta được thanh thản, hạnh phúc mà còn góp phần cùng với mọi người xung quanh ngăn chặn không cho những điều xấu xa trong lòng mỗi người có cơ hội bộc phát. Và quan trọng hơn, sau những lần kìm chế được những xấu xa trong lòng, người ta có được thời gian, cơ hội nhìn lại lòng mình, xấu hổ với chính mình, để rồi ngộ ra những điều tốt đẹp hơn, thấy lòng mình nhẹ nhõm hơn, thanh thản hơn, và quan trọng nhất là: sống tốt hơn.
Có một điều rất thường tình ở đời hầu như ai cũng biết mà vẫn mắc phải, đó là: Nhìn khuyết điểm của người khác thì dễ, mà nhìn được khuyết điểm của chính mình thì thật khó. Tự nhận ra khiếm khuyết của mình thường đã rất khó, tự mình vượt qua được nó càng khó hơn nhiều. Nó đòi hỏi bản thân mình phải tự phủ nhận mình, tự xỉ vả mình, và phải có nỗ lực mới vượt qua được. Chính vì lẽ đó mà Người Nhật cho rằng: Vô lại trên núi thì trừ dễ/ Xấu xa lòng người khó vượt qua. Trong cuộc đời mỗi người, hẳn chẳng có ai không phải trải qua sự giằng co giữa điều hay, điều phải với những điều xấu, điều dở trong lòng mình. Để rồi có những hành động đúng, sai tùy thuộc vào ý chí vượt lên chính mình của mỗi người, dẫn đến sự tự hào,vinh dự, thanh thản hay nỗi dằn vặt, mặc cảm cắn rứt lương tâm về hành động đó. Tôi đã đọc đâu đó một câu danh ngôn: Mỗi người đều là kẻ thù mạnh nhất và là người thi hành án của chính mình.
Nhưng mà, thật là may mắn, cuộc sống vẫn luôn mỉm cười với tất cả chúng ta. Và đáng quý biết bao vì Lòng người trong sáng, cao đẹp đã luôn lan tỏa và chế ngự, lấn át Lòng ngườixấu xa qua những thăng trầm của quá trình phát triển nhân loại. Vạn vật vẫn vần xoay, và Lòng người cũng vậy! Khi vui, khi buồn, khi bao dung độ lượng, khi giận dữ, nhỏ nhen, tàn bạo... nhưng bất cứ ở đâu, lúc nào Người đời vẫn luôn cần những tấm lòng nhân ái, cần đến tình người nhân hậu. Nhất định là như vậy rồi. Có cần gì phải nói nhiều, bởi vì: Mọi lý thuyết đều là màu xám, Chỉ có cây đời là mãi mãi xanh tươi (Goethe) và đây nữa, trên trang bìa của Blog TRI ÂN CUỘC ĐỜI có một dòng chữ nhỏ: Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy/ Ta có thêm ngày nữa để yêu thương. Đó chính là những thông điệp "vàng" để lòng người xích lại gần nhau hơn trong cuộc đời này.
Minh Hương
Nha Trang - 9/2011
&&&
Thời Đại Quạt Mo
Trần Hạ Tháp
Hắn ngồi dựa gốc cây. Mắt lờ đờ ngái ngủ nhưng giọng nói vẫn trơn tru, sôi nổi. Hắn nói:
-Thưa quý vị, quả có một thời đại hết sức đặc biệt. Ít nhất, nó tồn tại trong văn chương truyền khẩu nước Nam ta. Nếu không, làm gì có ca dao Thằng Bờm lưu lại đến ngày nay. Điều đáng nói là rất ít, quá ít quý vị thức giả, học giả chú trọng đúng mức nhân vật Phú ông khi cao đàm khoát luận về cái thời tạm đặt tên Thời-đại-quạt-mo vừa giới thiệu... Ha ha, tên Thị dân có đôi chút tự trọng như ta chẳng lẽ nói thuội, sao lục hoặc tồi tệ hơn, ăn cắp và húp nước luộc lại những gì người ta đã nói? Thị dân ta cho rằng, chưa bao giờ có quá nhiều kẻ tồi bại tập trung như trong cái thời đại ấy... Chậc, chắc rằng chúng nó có khi còn vênh váo, bảo nhờ thế sản sinh ra bao nhiêu là Phú ông quyền thế, bao giá trị huy hoàng, bao góp phần dâng hiến... Vâng, cái mùi của giá trị kiểu ấy thật chẳng nơi nào sánh nổi.
-Người Thị dân đã tự giới thiệu và nói luôn về chủ đề cuộc hội thảo hôm nay. Cuộc hội thảo tại gốc cây như thường lệ... Vâng, không giấy mời, cũng không cần ghế ngồi hay cặp xách gì ráo trọi. Tôi, người tạm dẫn chương trình bằng miệng và như thế quá đủ, không phải ngồi ở vị trí nầy lâu hơn nữa. Xin mời, quý vị cứ hết sức tự nhiên như đang nói...Một mình.
-Là Thợ đụng, tôi thắc mắc thế nào mới là "chú trọng đúng mức nhân vật Phú ông" trong câu nói của Người Thị dân vừa phát biểu? Cảm ơn.
-Bên bị gọi là thằng, Thằng Bờm. Đã gọi là thằng thì không quyền uy không thế lực, lại nghèo là cái chắc. Bên đã được tôn lên ông. Phú ông tức ông giàu, hay ngài giàu cũng thế. Còn do đâu giàu ư? Phương tiện nào giúp làm giàu đến thế? Mua bán làm ăn sinh lãi, do tổ tiên để lại hoặc dựa vào quyền uy thế lực mà nên? Bằng kiểu nào...? Ấy, nhu cầu quạt mo tự nó đã trả lời. Một nhu cầu kì dị, quá cần thiết cho Phú ông đấy nhé. Ai ngây ngô bảo Phú ông kia nóng nực không có Cái quạt mo để dùng, lão đi năn nỉ Thằng Bờm để đánh đổi bằng được thứ vật dụng tầm thường kia thì buồn cười chết được? Nói toẹt ra, Phú ông cần Cái quạt mo vì bản mặt ông ta liên thông với cái mo cau dày cộm... Thưa quý vị, vì sao dân gian vẫnquen gọi "mặt mo" đấy nhỉ? Là loại mặt dày mày dạn, trơ tráo xứng đáng lấy quạt mo che mặt. Tất nhiên Cái quạt mo nầy chả liên quan đến gió máy hay nóng mát quái gì cả. Chú trọng đúng mức nhân vật Phú ông là chú trọng nhu cầu cần che cái mặt mo đi đấy. Thưa quý vị.
-Ồ, chết dở. Mấy lâu nay Thợ đụng tôi cứ tưởng ca dao Thằng Bờm đơn giản.
Nào ngờ, bí hiểm thật. Hỡi ơi, Phú ông tuy giàu có đủ cả nhưng rút cuộc thiếu hẳn cái quạt-mo-che-mặt. Nó tượng trưng cho sự thiếu-thốn-đến-tột-cùng-về-danh-dự. Càng giàu có về vật chất, hoá ra lão càng nghèo-nàn-tinh-thần đến vô cùng thê thảm. Một thực tế nổi trội ở Thời-đại-quạt-mo... Tiện đây, xin phép Người Thị dân cho phép Thợ đụng tôi sử dụng các thuật từ đắc giá này. Rất khoái đấy, xin hãy thông qua về tác quyền sáng tạo. Được quá chứ?
-Vâng, cũng là thủ tục cần thiết để ngày nào Thợ đụng ngươi khỏi khổ công đi năn nỉ Thằng Bờm để đổi Cái quạt mo che mặt. Ngoài ra nên nhớ, ta cũng chả muốn làm một Thằng Bờm bất đắc dĩ. Chút thôi, đủ đánh giá ngươi vẫn là hạng người còn danh dự đấy Thợ đụng ạ.
-Xin chào, cũng quá biết nhau rồi nhưng vẫn tự giới thiệu tôi là Chạy xe ôm thường trực gốc cây nầy. Xin thêm mấy ý bên cạnh Cái quạt mo và những gì còn liên thông đến thứ vật dụng quái chiêu vừa nói. Dân gian ta đã bảo "Quân sư quạt mo" để ám chỉ những thằng mang cái kiến thức biết-một-mà-chẳng-biết-mười ra giúp các Phú ông giàu có nhưng đầy dốt nát ấy. "Quân sư quạt mo" lấy làm cần câu cơm, câu tài lộc, câu chức vị. Chính chúng nó mới là loại thủ phạm sâu xa chuyên đẻ ra bao nhiêu là tệ hại, dở khóc dở cười cho hầu hết xóm làng nghèo khổ. Tổ cha chúng nó, trong ca dao Thằng Bờm chưa cụ thể chỉ ra được loại ăn hại đái nát nầy. Tuy thế, chúng không qua mặt được các bậc tinh thâm. Họ ký hiệu phường giá áo túi cơm kia bằng thuật từ như vậy đó. Mẹ kiếp, đối với những học trò rõ thậm ngu nhưng lắm quyền nhiều của như Phú ông thì thầy dốt mấy vẫn cứ là thầy của chúng. Ôi, lũ "Quân sư quạt mo" hay sự bất hạnh đã ẩn mặt trong Thời-đại-quạt-mo. Tổn đức!
-Ê, Chạy xe ôm giành phần đủ rồi đấy, hãy để Người Thị dân ta tiếp tục. Xin nhắc lại rằng, ngươi bỏ sót tục ngữ "Gà mổ mặt mo" để nói tới trình độ chai lì vô liêm sĩ, không xao xuyến của cả hai hạng người Phú ông và "Quân sư quạt mo" đấy nhé. Da mặt chúng đã dày đến ngang với đá kéc cơ mà.
-Thợ đụng tôi vẫn chưa nguôi thắc mắc. Vì sao? Phải Cái quạt mo của Thằng Bờm, chứ Phú ông không đổi Cái quạt mo ai khác. Kỳ lạ thật, một ẩn số tồn tại chỗ oái oăm này mà chỉ Phú ông và Thằng Bờm giải được? Tất nhiên, lão ta cam chịu hạ phong trong vấn đề trả giá cũng do ẩn số ấy mà ra.
-Đúng đấy, là bài toán xã hội học cho nên có đáp số đàng hoàng, thưa quý vị. Nghe đây, giả như Thợ đụng ngươi ăn trộm hoặc đã làm điều rất tồi bại nào đấy... Thị dân ta bắt quả tang. Ngươi vốn giàu có, ta lại quá nghèo khổ thì sao nào? Cách gì dễ nhất, nhanh nhất và chắc ăn nhất giải quyết vấn đề ngươi tự hiểu lấy đi... Tất nhiên, hình thức hối lộ, mua chuộc phải mượn vào một cái cớ nào đó che đi mắt thiên hạ là xong. Chỉ có Thằng Bờm mới hiểu được tại sao Phú ông lại điên khùng đến thế... Bao nhiêu tài sản đắc giá sẵn sàng để đổi lấy Cái quạt mo rẻ mạt, nhà quê không ai thiếu. Ha ha, việc làm và kiểu suy tính của Phú ông cũng chả gì ghê gớm, rất thường là khác. Chỉ thái độ của Thằng Bờm là vô cùng đáng nói. Khâm phục, khâm phục bài ca dao tuyệt vời của nước Nam ta đấy...
-Chạy xe ôm xin cắt ngang. Xin lỗi. Có dị bản về câu cuối trong ca dao Thằng Bờm...Khi là "Phú ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười", hoặc có lúc "Phú ông xin đổi cục xôi, Bờm cười". Sao đây, cục xôi hay nắm xôi ? Hoặc là gì cũng chả sao hả quý vị?
-Chạy đúng đường rồi đấy, xe ôm ạ. Ngươi phải hiểu cuộc trả giá điên khùng của Phú ông thật ra chỉ là điên-khùng-giả-tạo. Vì cái "mặt mo" mà phải thế.
Nói gì thì nói, hễ cứ điệp khúc lập lại đầy ru ngủ "Phú ông xin đổi..." thì đáp lại là điệp khúc thẳng thừng từ chối "Bờm rằng Bờm chẳng..." Người xưa nói rồi, việc gì cũng có mặc định bất thành văn. Hễ "Quá tam ba bận" vẫn chưa gì đổi khác cũng đồng nghĩa công việc bất thành, đã tiêu tan hy vọng... Phú ông chịu khó nhún mình năn nỉ đến 4 phen đều chua cay thất bại. Và thế là thứ thông điệp cuối cùng được đưa ra với hình ảnh hiện-vật-chỉ-vừa-bằng-nắm-đấm. Ăn nắm xôi này nhé! Đấy là đe doạ báo thù, là ngấm ngầm cho hay sẽ chơi màn bạo lực khi không còn thuốc chữa. Là không từ nan bạo hành đầy khốn nạn vì thế-cờ-chết-tiệt "rượu mời không uống, đòi uống rượu phạt". Đến nước nầy thì "Bờm cười". Vâng, "Bờm cười" chứ không hề "Bờm đòi", "Bờm khoái chí, nhất trí" như lắm tư duy chật hẹp ưa ngộ nhận. Một cái cười nhạt, cười khẩy bất cần rồi đấy. Và quả nhiên, cả hai bên chẳng còn gì để nói.
-Đồng ý. Cho nên cần bảo trì 2 giá trị độc đáo của bài ca dao để không rơi vào những giải thích ba phải, ngô nghê... Thợ đụng tôi xin bổ túc thứ nhất, về mặt văn-bản-học thì chữ thứ 5 ở câu cuối cùng là "nắm" chứ không thể là "cục". Mặt phát-âm-học, điệu ca lục bát cho phép lựa chọn này vì cùng âm trắc, song khi đọc lên câu ca thì "nắm" rõ ra là thuận miệng hơn"cục" đấy. Bổ túc thứ hai, về mặt tư tưởng của chữ thứ 8 cũng trong câu cuối cùng này"cười" phải hiểu là cười khẩy, cười nhạt thay vì cái cười quá hạ giá là cười mơn, cười chấp nhận, cười nịnh nọt ăn tiền... Nếu ai chọn cái cười kiểu sau, hãy vất ngay Thằng Bờm vào sọt rác để khỏi mất công bàn luận đến ngày nay.
-Vâng, Chạy xe ôm cũng "cười" khẩy kiểu ấy khi người ta bảo Thằng Bờm là con nít háu ăn. Nó chả biết giø sất sao? Nó là đứa ngu đến thế ư? Quái lạ, và mâu thuẩn khi Phú ông phải mướt mồ hôi đem cả đống tài sản to tiền ra điều điønh với đứa ngu như nó? Trong khi Cái quạt mo đáng mấy xu và nhà quê nơi nào là chả có? Mà Thằng Bờm đãdại ngộ cỡ đó thì ông bà cha mẹ chú bác nó ở đâu? Sao lại không bày khôn cho nó kìa? Chỉ lần thứ nhất thôi, với "ba bò chín trâu" e rằng cuộc điều điønh đã thành công chóng vánh. Gia điønh Thằng Bờm tha hồ làm nông, có cái ăn cái mặc dài dài... Vốn thực Thằng Bờm đã được gọi thằng kia mà, Thằng Bờm nghiêm chỉnh chứ không còn cu Bờm hay cu Bợm gì hết. Nó còn con nít dại khờ và háu ăn ư? Nếu thế, Phú ông ngay lần điều điønh thứ nhất thay vì "ba bò chín trâu" phải đưa ra "nắm xôi" mới đúng với tâm lý đấy. Thực tế bài ca không hề bảo thế mà hoá ra còn ám chỉ ngược lại. Thằng Bờm không còn con nít và là người rất mực khôn ngoan, đầy bản lĩnh. Nó khiến cho loại người như Phú ông phải kiêng dè nể sợ.
-Cảm ơn bổ túc hay ho và nhất là hợp lý với cái cười khẩy sau cùng của nhân vật quái chiêu nầy. Thằng Bờm, sau nhiều năm tháng lăn lóc dưới những bàn luận hạ thấp nhân cách lẫn thể trạng của nó. Nguyên do ngộ nhận đầy ấu trĩ của số không ít nhà-Bờm-học... Thiết nghĩ, vô tình đã phủ nhận gần hết tinh hoa tư tưởng của dân gian nước Nam ta, của tổ tiên ông bà muốn gửi gắm qua bài ca dao đặc sản ấy. Nay nhân lúc ngồi gốc cây, Thị dân ta không thể không mạn phép có kết luận đích thực về nhân cách Thằng Bờm. Thưa quý vị, hãy lập tức chấm dứt tình trạng khá chung gọi Thằng Bờm là con nít, tai quái hơn còn cho nó háu ăn và đính kèm theo cả một kiểu cười được tuỳ tiện áp đặt từ nhân thân con nít. Sự-dở-ẹc nầy, Thằng Bờm không nhận đâu. Nó vẫn liệng trả lên đầu ai chụp ảnh nó qua nguồn sáng của chỉ vài con đom đóm. Không tội nghiệp Thằng Bờm làm gì nhưng tội nghiệp ai, xưa nay cứ một mực vô tình bôi nhọ, đánh giá thấp tư tưởng của cha ông qua nó đấy.
-Người dẫn chương trình xin trở lại vị trí. Xin cảm ơn tất cả. Cảm ơn Thằng Bờm, cảm ơn một đặc sản văn chương truyền khẩu nước Nam ta đầy giá trị và nhắm chừng giá trị ấy vẫn chưa hề lỗi-nhịp-với-thời-gian. Cảm ơn các tác giả vô danh nhưng hết sức thâm sâu... Tôi trịnh trọng nói rằng, họ đã chả cần cóc gì cái danh, không cần ai biết để gọi một tiếng nhà văn, nhà thơ cho nở mặt. Ấy, nhưng rõ ràng tác phẩm không vì thế không đi vào hồn dân tộc. Cái hậu của tác phẩm nầy... Vâng, một chữ "cười" thôi song đã để lại cho hậu duệ, cho chúng ta biết bao nhiêu tư tưởng gửi gắm, bao giáo dục làm người... Trước cảnh huống Thằng Bờm gặp phải, chữ "cười" ấy được hiểu ra thế nào đây? Kiểu gì? Là cười khẩy, cười nhạt hay ngược lại cười mơn, cười nịnh nọt, cười híp mắt híp mũi, cười ngậm miệng ăn tiền, cười ti tiện. Thật ra, đấy cũng là các loại ký hiệu để, giả như khi có ai thử thế vào vai Thằng Bờm sẽ nhất thiếtphơi bày ra mỗi nhân cáchrất khác nhau, sẽ tự định nghĩa lấy con người mình không phải cần bàn cãi. Đến đây, tôi tuyên bố cuộc hội thảo tại gốc cây hoàn tất. Một lần nữa, thay mặt mọi người cảm ơn quý vị. Xin chào, hẹn gặp lại gốc cây khi bất đắc dĩ chúng ta cùng rơi vào tình trạng rỗi-nhàn-kiêm-thất-nghiệp...
Hắn ngừng nóimở mắt, nhảy ra chiếc xe máy cà tàng đang chống dưới gốc cây im bóng. Mụ khách quen xách giỏ vừa le te đi đến. Mụ ta cười cứ như ai thọc léc:
-Đi chú ơi, 2 vòng vô ra chợ Đông ba mười ngàn. Nói chi cả buổi hung rứa?Tay chân múa men như lên đồng mãi. Tui không nói chú điên như mấy đứa quanh đây mô. Răng mà giỏi rứa hè? Chú đi kịch khi mô, có một mình mà giả ra giọng nhiều người là tài lắm đó. Ai cũng sợ chú tà nhập, chỉ có tui thương chú nghèo khổ. Tui đi xe chú sợ chi.
Hắn bật cười, nghĩ bụng mụ ta keo kiệt chẳng đứa nào thèm chở. Mụ biết lấy lòng hắn có lợi, đỡ phải trả thêm 5 ngàn như khi đi thằng khác. Hắn nổ máy, chả phân bua gì chỉ buột miệng nói khan:
-Có ai là không kịch đâu. Kịch gì thì kịch, rút lại chỉ hai loại người là hết.
-Hai loại chi chú?
-Loại tự biết mình kịch. Và tệ hơn, loại lâu ngày không còn biết mình kịch.
-Khi mô mới bị rứa? Lạ hè.
Hắn cứ nói dù biết mụ ta không tài nào dzô được. Hắn đâu có khinh mụ:
-Khi thời-gian-kịch quá nhiều, thời-gian-không-kịch thì quá ít. Đó là lúc chắc chắn nó không còn biết mình kịch. Điên, chưa bất hạnh bằng loại này đâu, vì điên lắm lúc vẫn cứ còn nhân cách. Tụi kịch lâu quá không còn biết mình kịch chính là loại đã điên-về-nhân-cách.
-Chú nói chi cũng khó hiểu. Mà chỗ mô mới có điên-về-nhân-cách? Có nhà thương điên loại nớ không rứa chú?
Hắn nói một câu mụ ta tắt đài, ngồi yên sau xe không còn rục rịch:
-Ở Thời-đại-quạt-mo. Nhiều, quá nhiều không nhà thương điên nào cho đủ.
Mụ thở dàingao ngán không còn biết cái thằng Thị-dân-thợ-đụng-chạy-xe-ôm vừa nói giø? Hay là nó đã quen tự kịch, tự nói lấy một mình?
Nơi gốc cây kia, mụ vốn biết rõ hắn chuyên ngồi chờ kiếm năm đồng ba trự kiểu "con tạo xoay vần" qua đã nhiều năm tháng... Nói chung những công việc hắn làm ai cũng hết sức ưa. Là nai lưng ra cho họ sai, rồi nhận tiền công rẻ mạt. Hắn là loại không quen kèo nài, than thở với ai. Hơn thế, dường như đôi khi còn tỏ ra mang ơn được người ta "cứu đói".
Các cuộc hội thảo tại gốc cây như thế thường xuyên, ngày càng dày đặc. Có lẽ, một nhận định chỉ ở loại động-vật-cấp-cao-thật-sự như hắn mới ứng dụng được mà thôi:Trong một giới hạn nào đó... Khi nguồn cung cấp năng lượng vật chất giảm thiểu, mất đi đó cũng là lúc ngược lại, nguồn cung cấp năng lượng tinh thần sẽ được nâng cao hơn, tỉ lệ nghịch.(*) Tất nhiên, với động-vật-cấp-thấp thì nhận định trên không bao giờ tồn tại.
(*) Một trong những nguyên lý căn bản của Thiền, hiểu theo nghĩa hiện đại(THT).
(thành nội Huế-tháng 2/2012)
Trần Hạ Tháp
&&&
Những Chiếc Nón Cối
Tôi, thằng Bắc kỳ, người di tản buồn, bấy lâu nay ôm nỗi buồn không tên qua bóng ngả đường chiều. Cứ năm hết Tết đến thêm nỗi sầu nhân thế Mỗi năm hoa đào nở - Lại nhớ cánh mai vàng và hụt hẫng nhớ đến miền Nam mưa nắng hai mùa, quên tiệt đất Bắc mưa phùn gió bấc mãi tận đẩu tận đâu. Buồn với nhớ thì đất lề quê thói còn đấy, tự nhủ chắc phải về thăm nhà một chuyến, một công đôi chuyện sắm ít đồ cổ dối già...
Vậy mà cứ khất lần đến nửa năm, Sài Gòn cát bụi, tôi chán ngấy, Hà Nội xô bồ, tôi đã nhẵn thín qua mặt báo nên đâm ra chần chừ. Rồi vất vưởng trong đầu hay là về Bắc thăm bà chị cùng cha khác mẹ, hơn năm mươi năm có lẻ, hai chị em chưa bao giờ gặp nhau. Số là năm 54, chị từ quê ra Hà Nội, tôi đeo theo tầu há mồm vào Nam. Năm 75, chị vào Sài Gòn tìm tôi, tôi lại đu theo tầu hải quân qua cái xứ chết bầm chết dí này.
Từ cái dạo đứt phim ấy, hai chị em chỉ liên lạc với nhau qua thư từ, thương chị, năm cùng tháng tận, dấm dúi chị ít tiền lì xì, vậy thôi. Mượn dịp bà chị tống cho cái thư chữ nghĩa như gà bới: Cậu cố gắng thu xếp về thăm mồ mả gia tiên, nhà từ đường.... Mà quái lạ, mấy thứ này với tôi hình như xa vời vợi, đến quê cha đất tổ còn chưa một lần giáp mặt. Lâu lâu nếu có, không ngoài nhấm nhẳng với câu thơ nẫu người Ai ra bến nước trông về Bắc - Chỉ thấy mây trôi chẳng thấy làng. Nghĩ tới nghĩ lui, chạy trời không khỏi nắng là chắc phải...về quê rồi, nhưng vẫn còn ngại ngùng Tôi bước đi không thấy phố, không thấy nhà - Chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ. Thế nên bèn ngẫu hứng qua cầu, chu miệng thổi sáo một khúc nhạc họ Trịnh để có hào khí với một mai Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi không ngừng, Sài Gòn ra Trung, Hà Nội vô Nam, tôi đi chung cuộc mừng và mong sẽ quên...chuyện non nước mình...
***
Và chuyện non nước mình là như thế này đây: Chả là đáp xuống phi trường Nội Bài, từ quầy thủ tục hải quan, va vào mắt tôi là mấy cái nón "cát-két" viền băng đỏ, họ lật từng trang sổ thông hành như bới bèo tìm bọ. Ngứa miệng tôi quay qua người bên cạnh nhỏ to: Năm hay mười đây ông? Khỉ gió cắn răng gì đâu, vừa lúc có cái nón "cát-két" khác đi tới. Tôi sợ vãi đái ra quần vì hắn dương mắt cú vọ nhìn khúc ruột ngàn dặm nối dài là tôi đây như cú nhìn nhà bệnh. Hắn ghé vào tai tôi xì xầm: Năm hay mười cũng...thoải mái thôi. Chữ nghĩa nghe mất vui chẳng thỏa thuê tí nào. Để rồi nước non ngàn dậm ra đi, tôi quên béng mất cái cảm giác giao động của những giây phút ban đầu. Ấy là khi trở về quê mẹ, đặt chân xuống mảnh đất quê hương mà có ai đó bày tỏ nỗi niềm là quỳ gối xuống sàn xi-măng phi trường hôn rõ đến chụt một cái rõ to.
Nói cho ngay, tôi bị ám ảnh vi những cái nón, nhưng ấy là chuyện sau.
Trong hàng người lố nhố, tôi thấy cánh tay vẫy vẫy của bà chị tôi, chân chị nhẩy cẫng lên như sáo sậu. Hai chị em ôm chầm lấy nhau, mừng mừng tủi tủi, mắt tôi cay cay đọng nước. Trong tôi dâng tràn những cảm giác lạ lẫm như đứa con hoang trở về, sau bao nhiêu năm dài bỏ làng, bỏ nước mà đi. Trên xe, bà chị tôi huyên thuyên chuyện đầu cua tai nheo, chuyện họ hàng xa gần từ Bắc vào Nam. Tới khách sạn, chưa ngồi yên chỗ, bà chị tôi đã mau mắn với miếng trầu là đầu câu chuyện:
- Cậu nghĩ thế nào về chuyện ấy để chị tính?
- Chị để thư thả, em đang...suy nghĩ!
Tôi thầm hiểu chị tôi muốn nói gì nhưng cứ ậm ừ tránh né, vả lại tôi cũng chưa mặn mà cho lắm về "một hình bóng" nào đó. Đêm đến, tôi cứ trằn trọc với câu dọ dẫm của bà chị, chẳng qua không ngòai chuyện chị có lòng muốn mai mối cho cậu em đang cha già con cọc. Tôi thì dị ứng với những chuyện ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên này, niết bàn, địa ngục tôi còn lạng quạng tin được. Chứ một tháng trời...tìm hiểu thì khỉ ạ, không có tôi, cứ như chuyện thầy bói mù sờ voi không bằng. Nằm bâng khuâng nghĩ chuyện xa gần, chuyện về Việt Nam lấy vợ đông như tổ đỉa...
Mà chẳng đâu xa, một khứa cùng trường với tôi, ở miền bắc lạnh giá, già lại thích chơi trống bỏi với thứ nhất thịt bò tái, thứ nhì gái đương tơ mò mẫm về Bắc khuân được một em @ còng thuộc diện 19x, 20x qua đây. Một lũ tụi tôi mời vợ chồng khứa xuống để...xem mắt người "Hà Nội trong mắt tôi". Hẹn năm giờ ngòai quán, sáu giờ chưa thấy tăm hơi, bẩy giờ mình khứa tiu nghỉu dẫn xác tới. Hỏi ra thì tại một trạm xe buýt nào đó giữa đàng, vợ khứa đánh nước bài chuồn êm như mơ. Ít lâu sau, ngựa quen đường cũ gà tơ xào với mướp già - Vợ hai mươi mốt, chồng đà sáu mươi", khứa vác qua một em khác thật mướt. Bèn hỏi chưa thấm đòn hả? Khứa tỉnh như ruồi: "Nhưng vẫn còn cái thú đau thương".
Và chuyện của tôi cũng dễ hiểu thôi, nhà tôi mất cách đây không lâu, bà chị săm soi chấm được một hình bóng nào đấy cho cậu em yên bề gia thất. Sau đó, cứ mè nheo tôi mãi, thôi cũng đành chiều bà chị một lần cho biết...cái thú đau thương. Trằn trọc không ngủ được, vì ai chẳng có lúc bị đẩy đưa cùng nước chẩy bèo trôi. Rồi lẩn thẩn về chuyện của hai chị em nói hồi nẫy và hoang tưởng đến cô em gái kết nghĩa của bà chị Mận hỏi thì đào xin thưa – Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào. Tôi thiếp vào giấc hoàng lương qua một chuyến đò nên duyên và bắt gặp cô Bắc Kỳ nho nhỏ mắt như trời bao dung...trước khi nhìn đám đông, hãy nhìn sâu chút nữa, trước khi vào đám đông! em có biết anh không... giữa Sài Gòn cát bụi với áo lụa Hà Đông.
Ấy đấy, vào cái tuổi nhạt nắng tôi vẫn có lúc thả hồn đi hoang như thế đó, như vậy đấy...
***
Sáng hôm sau đang ngon giấc, tôi bật dậy vì có tiếng gà gáy te te và ngơ ngác chẳng biết mình đang ở đâu. Giống sau năm 75, nửa đêm chòang tỉnh dậy, tóat mồ hôi hột vì vừa nằm mơ thấy bị mấy ông dép râu đuổi chạy vắt gìo lên cổ, tiện chân bèn chạy tuốt luốt qua đây, nên chưa thóat nạn cái bệnh...u mặc.
Tay cầm ly cà phê, châm điếu thuốc lá, ra cửa trầm ngâm nhìn xuống phố phường, trên lề người người đi lại tấp nập, tiếng rao hàng lanh lảnh. Và đập chát vào mắt tôi trong ngày đầu tiên là bức tranh vân cẩu với cuộc đổi đời, rằng giữa lòng Hà Nội 36 phố phường của một sáng tinh mơ là một trang hảo hán đang còng lưng đạp xích lô, đầu đội...chiếc nón cối.
Mẹ ơi, từ tấm bé đến lớn, bây giờ tôi mới nhìn thấy chiếc nón cối từ thời Tây đánh thành Hà Nội, chỉ khác là nó mầu xanh bộ đội bệnh họan. Tôi khựng lại. Tôi có khựng lại thật, nhưng vẫn nheo mắt ngắm cho kỹ...Y trang hồi nào ở xạ trường Thủ Đức, giữa gió lộng bao la của đất trời, tôi cũng đã một lần nheo mắt qua đỉnh đầu ruồi khẩu M16, ngắm thẳng băng ngay chóc...cái nón cối.
Và bấm cò...một cái tách!
Đến trưa, bà chị xách tôi tới thăm vợ chồng gã em họ bên ngoại của chị. Trên đường đi tôi cứ lơ mơ với cái bia tập bắn ở quân trường vẽ khuôn mặt mồm vêu, răng vẩu, chấn thêm cặp môi đỉa trâu thâm sì. Nhưng cũng may, gặp gã, tôi có cảm tình ngay vì gã trẻ trung, bề ngoài sạch nước cản và khuôn mặt có những góc cạnh mang dáng dấp của người Hà thành năm xưa. Thế nhưng gã có giọng nói nhà quê đặc, chém chết cũng là dân đất đồng chua nước mặn với con tâu tắng buộc bờ te tụi đâu đó. Vừa nói chuyện gẫu, tôi vừa đảo mắt nhìn quanh nhà, bất chợt tôi nhìn thấy ngay trên tường treo chình ình một...cái nón cối. Thêm một lần tôi ngây người ra nhìn...
Từ đấy tôi gọi gã là thằng nón cối.
Thằng nón cối lấy xe đưa chị em tôi đi khắp hang cùng ngõ hẻm, từ hồ Hoàn Kiếm bắt qua chợ Đồng Xuân, miếng ngon Hà Nội thì từ bún chả Cầu Gỗ đến bún ốc ngõ Tạm Thương, tiết canh ngan thì lạc từ cửa Nam bắt qua cửa Bắc. Nhưng xe là của cơ quan, tôi nói với chị tôi gửi tiền gã cho phải phép, nhưng thằng nón cối lắc đầu nguây nguẩy. Tôi trộm nghĩ cái thằng lạ, chỉ sĩ diện hão, nhưng chẳng sao, trước sau tôi cũng phải tính với gã cho ra nhẽ. Tiếp đến, chỉ khổ một nỗi trên xe, gã cứ chan chát như chầy giã gạo với một mảng ngôn từ lạ hoắc với "tham gia lưu thông", "xa tốc" kia, "cầu cạn" nọ, xe này "cực độc", xe đó chạy "láng lụa", hết "kinh qua" đến "ùn tắc", "quá tải" thế này thì thế nào cũng có ngày "tai tệ nạn", tôi nghe lỗm bỗm nên tức như bò đá.
***
Qua một ngày đi với nhau, tôi thấy cái thằng ba đời bần cố nông này cũng không đến nỗi nào, lằng nhằng vậy thôi, nhưng cũng dễ...nối vòng tay lớn. Vì vậy, trong chuyến đi, tôi và gã chuyện trò không "động não động tình" hục hặc như chó hóc xương giống buổi đầu nữa.
Đến bến phà Tân Đệ, thằng nón cối cho xe tạt vào một cái quán nghỉ chân ăn trưa. Ngồi ở trong quán, nhìn qua bên đường tôi thấy cái đài tử sĩ có ngôi sao đỏ to chành bành chọc vào mắt chẳng mãn nhãn chút nào. Trong khi chờ đợi nhà hàng bắt gà đuổi vịt, tôi hỏi để...giao lưu văn hóa cho có chuyện:
- Ông thấy đẹp không?
Thằng nón cối quại ngay một câu:
- Hơi bị đẹp.
Tôi ngọng trông thấy, ấy là năm 2000, chữ nghĩa tiếng Việt trong sáng với tôi còn lớ quớ. Mà giao lưu văn hóa kiểu này nhức nhối thật, thà vén quần nói chuyện với đầu gối sướng hơn. Như đi guốc trong bụng tôi, gã "thuyết minh" thêm: Chữ nghĩa bây giờ bỗ bã lắm bác ạ, để em kể chuyện này cho bác nghe nhá. Một lần em đi..."điền dã". Tôi định hỏi gã điền dã là chạy bộ hả thì gã đã tiếp: Em đọc thấy cái báo cáo tường cụ tỉ và cô súc như thế này đây: "Báo cáo các anh, các chị buổi nay cơ quan không có gì để báo cáo. Nếu mai không có gì để báo cáo các anh, các chị. Cơ quan sẽ báo cáo các anh, các chị là không có gì để báo cáo. Báo cáo các anh, các chị là báo cáo buổi nay thay cho báo cáo hôm qua vì không có gì để báo cáo. Nay báo cáo".
Tôi chẳng biết làm gì hơn là...làm thinh. Hơn nữa, cái thằng không có tướng lại có tính này khôn như rận nên tôi chả dại. Lớn tuổi rồi đi xa hay mắc tè, muốn đi nhưng không có cái mả đá nào lấy chỗ để xả. Thả bộ cả chục thước, ngó quanh ngó quẩn vén quần làm một bãi, về chỗ thấy thằng nón cối đã chi chầu ăn rồi. Tôi vốn Bắc kỳ kỹ nên hay lo xa là sao lại tử tế với nhau thế này nhỉ? Chắc mẩm gã chơi cái trò bỏ con săn sắt, bắt con cá rô gì đây! Với gã thì phải "đề cao cảnh giác", bác và đảng của gã đã dậy như vậy rồi mà. Nhìn cái mặt xanh như đít nhái của gã, tôi không tin tưởng chút nào, từ đấy: Tôi với thằng nón cối lại như...mèo rình chuột.
Con đường sống trâu về quê tôi bụi mịt mù, nghĩa địa làng tôi kia, ngay giữa cánh đồng chơ vơ, mồ mả tổ tiên tôi đã bao năm cô quạnh nằm ở đấy. Xuống xe, bước vào thửa ruộng, đạp lên những gốc rạ khô để gặp lại các cụ, qua những mộ bia nghiêng ngả. Tôi miên man, người nằm xuống, người đi và người ở lại...Như chị tôi đang đứng đằng kia, thẫn thờ như con gà rù giữa buổi đồng vắng, gió thổi lay lắt những bụi cỏ gà...Tôi mang mang đến một hình bóng khác, không biết bây giờ đang ở nơi nao, hay như nhúm cỏ gà đang nhao nhác lăn theo cơn gió thỏang. Trong tôi đang dấy lên một chút bâng khuâng và chẳng hiểu tại sao, trong lúc này lại cảm hoài về "cô ấy"...Người mà tôi chưa một lần gặp mặt, giữa nghĩa địa hoang vắng trong cánh đồng chiều.
Qua cái ao nuôi cá mè là bước vào căn nhà ông cậu của chị tôi tức bố của thằng nón cối. Bước ra là vườn cây cây ăn trái và tôi bắt gặp chị tôi đang nấp bóng dưới cây xoan hoa tím. Tôi bồi hồi nhìn chị, chị tôi vẫn giữ dáng dấp chân quê mộc mạc, qua bóng dáng của chị tôi, tôi hình dung ra người trong mộng của riêng tôi, bình dị như đất quê đang mỏi mòn đợi mong tôi. Cô thua chị tôi một giáp, chị tôi an phận ở lại, cô rời lũy tre xanh, bờ đê, mảnh vườn để tìm một nơi chốn đất lành chim đậu ở một nơi chốn có hai mùa mưa nắng. Chỉ dăm hôm nữa thôi, tôi sẽ xuôi Nam gặp cô em gái Bắc Kỳ nho nhỏ...Tôi sẽ an phận với đất quê, đất quê lành lắm, cam chịu và nhẫn nại, quẳng xuống cây gì cũng sinh hoa sinh trái, xòai cũng như cam, ngọt nhờ đắng chịu...
***
Từ quê về sửa sọan hành lý bay vào Sài Gòn. Vợ chồng thằng nón cối điện thọai mời đi ăn cơm niêu ngòai cửa Nam. Tôi nhận lời ngay. Vì cũng mượn dịp này để trả món nợ đời với vợ chồng gã, cho nhẹ mình nhẹ mẩy cùng một thoáng mây bay.
Quán trên gác, nhỏ và ấm cúng, vui chuyện vui trò, tôi kể cho mọi người về cái thú chơi đồ cổ của tôi. Cầm cái niêu của tiệm, tôi giảng giải cho gã về những sắc thái đầy tình tự dân tộc của nghề gốm làng Chu Đậu. Và cũng nói với gã, chỗ tôi ở, được cái niêu tân tạo này, chôn xuống đất dăm năm hóa thành đồ cổ ngay với qúy hồ tinh bất qúy hồ đa. Gã chăm chú nghe và hình như có gì đang suy nghĩ lung lắm. Đến lúc tôi ra trả tiền thì mới vỡ nhẽ...vợ nó đã...nhanh nhẩu đoảng thanh tóan rồi. Thế mới đau!
Trưa hôm sau, đang lúc leo lên xe ra sân bay, vợ chồng gã hộc tốc tới ôm món quà để tặng tôi. Không phải một mà là hai. Tôi ngỡ ngàng vì bất ngờ, từ chối cũng không xong vì vợ nó cứ cò cưa...của ít lòng nhiều để lấy thảo với "anh giai". Cho đến khi xe chạy, tôi ngóai cổ lại nhìn, hai vợ chồng nó vẫn lặng lẽ ngóng theo. Hai món quà gói vội bằng giấy báo, vừa ngồi xuống ghế là tôi bóc một mảng ra xem, gói thứ nhất là bộ ấm trà Bát Tràng. Gói thứ hai, vừa hé nhìn thấy tôi tê người và buột miệng chửi thề:
- Sư mày...Thằng nón cối.
Đó là cái niêu làng Chu Đậu còn dính mấy...hạt cơm nguội.
Suốt chuyến bay từ Bắc vào Nam, tôi cứ ân hận qua những ân tình của gã. Cũng thực với lòng mình, mình tức là cái thằng tôi đây, trong trận chiến giữa "ta" và "địch" vừa rồi, tôi vẫn còn "thua" gã ở cái "tình người". Tất cả đã đẩy đưa tôi có những suy nghĩ vụn vặt, chẳng thể chối bỏ, về những người kẹt lại năm 54. Vì làm thế nào được khi mà ý thức hệ, thể chế và hai mươi năm chiến tranh đã để lại cho tôi những cái nhìn phiến diện và lệch lạc giữa kẻ đi, người ở. Tôi và họ, trong cuộc chiến chẳng có gì để mà chọn lựa, không đứng bên này thì cũng ở bên kia, và vô hình chung đành chịu trận giữa hai lằn đạn.
Vậy mà mới hôm nào đây, tôi đã gặp họ bên dòng sông quê tôi, trong một ngày không nắng cũng chẳng mưa, con sông mát rượi, mặt nước dập dờn như gợn sóng, qua kè đá phủ rêu xanh trơn trợt, ở đấy, tôi bắt gặp những dấu chân rất người.
***
Về đến Sài Gòn, với người kẹt lại năm 54, tôi tòan gặp những chuyện thổ tả...
Nhẩm tính sổ nợ đời còn rơi rớt lại thằng anh họ. Tôi gọi nó bằng thằng vì trước cũng một thời ăn cùng mâm, nằm cùng chiếu, học cùng trường, nên mày tao chi tớ là vậy. Họ nhà tôi đâu phải họ nhà tôm cứt lộn lên đầu đâu! Nên nó học giỏi thần sầu, riêng khỏan láu tôm láu cá nhất Bắc kỳ nhì Đông Dương không ai ngoài nó. Nay vật đổi sao rời, quỷ tha ma bắt, tôi chịu chẳng hiểu nổi mồ mả của dòng họ tôi táng ở huyệt hàm rồng nào mà nó leo núi vượt đèo, đào khoai móc sắn quơ quào được cái quân hàm thượng tá của quân đội nhân dân. Chưa hết, nó lại có tên trong quân sử qua trận đánh Ban Mê Thuột mù trời dậy đất năm 75. Trong khi cái thằng tôi vắt vai chỉ lẻ bóng có cái hoa mai vàng, không bị tống vào trại cải tạo nhờ phúc đức ông bà để lại...
Qua chuyện họ hàng hang hốc kể lại, muốn gặp mấy bố cách mạng quan to súng ngắn này còn khó hơn gặp người cõi trên. Lại nữa, năm 75, tôi bỏ của chạy lấy người, mới lóp ngóp về đây, láo ngáo như người khách lạ trên chính quê hương mình. Không lẽ gõ cửa cháo ám nhà nó để quấy quả, để nghe nó hát đồng dao, nói chuyện...lịch sử, mà trong sách vở đã rạch ròi: Lịch sử là gì?, và câu trả lời ngắn ngọn và trong sáng là: Lịch sử là chuyện kể của kẻ chiến thắng!. Trang sử cuộc nội chiến Nam Bắc đã lật qua, dù sao nó cũng là thằng anh con ông bác ruột, không gặp không xong. Lại nữa, tôi vừa mới đi thăm mồ mả tổ tiên về, hương đèn còn đấy, khói nhang còn mờ mịt gió mây. Và tôi gọi điện thọai mời nó đi ăn, nếu sau đó có đấm mõm nó thêm tí ti hủ hóa...bia ôm, thì cũng chẳng chết thằng răng đen mã tấu nào. Tôi nghĩ vậy!
Đến đón tôi bằng xe Honda, người to hơn xe, con nhà võ có khác, dáng điệu gù gù như gấu, khuôn mặt đôn hậu, nụ cười hiền hòa. Riêng cái bắt tay làm ấm lòng người khiến tôi như trút được một gánh nặng, vì đã nghĩ quẩn về nó như đã nháo nhào ở trên. Mà cha mẹ ơi, thằng này lè phè thấy rõ, quần jean, áo bỏ ngoài quần, vậy mà đầu chơi nguyên con...cái nón cối có gắn ngôi sao đỏ màu nước vỏ lựu máu mào gà. Tôi đùa dai: Thủ trưởng làm gì mà "xịn" quá thể vậy!. Nó cười tươi cho biết hôm nay kỷ niệm ngày "Tây Nguyên Ta Giải Phóng". Tôi nhủ thầm, chết mẹ, tự nhiên rủ nó đi "liên hoan" đúng vào cái "ngày treo cờ đỏ". Đúng là cầm cu cho chó đái, may mà chỉ có riêng tôi với nó.
***
Nhưng chẳng may gì, vì vừa bước vào quán, tôi thấy hai thằng bạn của nó đã ngồi phục kích sẵn ở đấy từ hồi nào. Tôi chột dạ, thôi rồi, mình bị gài độ, bị bề hội đồng là cái cẳng. Cái trò gài độ trong quán nhậu này thì xưa như trái đất, nhưng cứ để xem lũ chuột đồng này nó quậy ra sao đã. Nên tôi giả ngu giả điếc, bình thản bước tới và sẵn sàng chấp nhận cuộc chơi. Dẫu gì tôi cũng là một thiếu úy, sĩ quan biệt phái, chưa bắn một phát súng, nhưng đụng trận là phải...chơi đẹp.
Thằng anh họ tung tẩy giới thiệu với tôi đó là hai sĩ phu Bắc Hà của đất nghìn năm văn vật. Cả hai tên trời ơi đất hỡi này đều trạc tuổi tôi. Một tên trong hội nhà văn, tham quan đế quốc Mỹ năm rồi, tên họ nghe như chum kêu chậu vỡ. Mà thằng này cũng ma bùn, chẳng "liên hệ" gì, gặp lần đầu, cứ như quen nhau từ tám hoánh nào rồi, ồn ào, đốp chát ngay để người nghe có lúc sượng mặt, khô người. Còn tên kia là Bắc Kỳ 2 nút, trước là giáo sư phó tiến sĩ ngồi ở viện cóc nhái gì gì đó, cũng mới ra biên chế, nên đang là "ẩn sĩ". Chắc là dân "nòng nợn nuộc" làng Cổ Nhuế hay Kẻ Noi thì phải, vì câu đầu môi chót lưỡi khứa đây luôn luôn là "Óc thằng đó nà óc chó". Vô duyên đối diện bất tương phùng nên tôi né, tránh "viện sĩ" chẳng xấu mặt nào. Chung sự tòan là quan chức, cây đa cây đề chốn cung đình, tôi nghĩ chuyến đi này về, tha hồ mà nở mày nở mặt với bằng hữu. Ai nói đi xa về nhà nói khóac đến thầy chạy thì tôi cũng...thua.
Hai anh em tôi ngồi hai đầu bàn, hai cây đa cây đề ngồi bên trái. Bỏ mẹ, còn hai cái ghế bên phải còn trống hóac đợi thằng cốt đột nào nữa đây. Mẹ, của khôn người khó, bị bắt địa thấy rõ, quá cha ăn cướp rồi còn gì.
Mặt trận Ban Mê Thuột...giờ H-1:
Tự nhiên như người Hà Nội, thằng nhà văn búng tay kêu một thùng Tiger, mỗi thằng một cái đùi trừu ướp rượu vang nướng chanh, cứ như dân Gaulois không bằng. Bia mang ra, nó rót tồ tồ vào ly cối rồi đưa lên hướng về phía tôi, giọng Bắc kỳ đểu: Mừng quan bác...Khúc ruột ngàn dặm nối dài. Rồi đưa về phía thằng "anh hùng quân đội nhân dân" kiêm anh họ tôi: Mừng quan anh...Chiến thắng Buôn Mê Thuột.
Trong khi thằng anh tôi mặt mày cứ phưỡn ra, tôi thầm nhủ: Rồi chiến trường đã được tụi Bắc quân điều nghiên, trận địa đã được tụi nó chọn sẵn là Ban Mê Thuột. Còn Nam quân là cái thằng tôi thì như cá nằm trong rọ, nằm đợi tụi nó khai hỏa, tụi đặc công vẫn chưa thấy ló mặt, mới chỉ thấy pháo Tiger bắn dọ dẫm. Tôi lắc đầu nhủ thầm, chuyện nhỏ, nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ này, như muỗi đốt gỗ và tôi cầm chai bia dốc ngược tu cái một, thằng nhà văn củ cải chộp liền, vác sơn pháo 82 ly ra nã tức thì:
- Bác đừng nốc bia như ở bên ấy, ở đây nó chửi cho thối đầu đấy. Bác phải ề à nâng lên hạ xuống, nhấp nháp rồi lau mép, súc miệng vài câu chửi thề rồi mới khà một tiếng...
Tôi đang bí lù, nó trấn áp và giáo điều thêm:
- Bố phải trở về nguồn, phải nói năng đéo lắt, bụi bụi một chút. Phải trở về với dân tộc tính, bố ăn uống phải ngồi đầu gối quá mang tai, phải xụp xọap như heo xục cám, nhai xương phải nhai rau ráu như chó gặm...
Tôi bị pháo kích phủ đầu đến chóng mặt, đinh tai nhức óc. Ắt hẳn thằng nhà văn cũng cảm thông như vậy, nên tạm thời ngưng chiến da beo, gắp cho tôi một lát rau Đà Lạt tươi mát, lát cà chua đỏ tươi. Tôi dại dột buông một câu: Cảm ơn.
Thế là nó vác B-40 nã ầm ầm:
- Thượng đế ơi, Ngài chỉ được cái lịch sự nhảm, nghe chán bỏ mẹ. Thượng đế "chiêu đãi" tụi này thì cảm với cúm gì nữa hở!
Bá ngọ cái thằng bán cái này, nó lọan ngôn loạn chữ, tôi có "chiêu đãi" tụi nó hồi nào đâu? Nó rải đạn như sương sa hạt lựu để tôi là thằng chi tiền. Mà cái thằng dân Hà Nội vỉa hè, miệng lưỡi như vẹm, thằng nào thằng nấy nói năng cùng một sách vở như con vẹt: Nó réo tôi từ "bác" qua "bố", bây giờ khơi khơi phong vương tôi là "Thượng đế" mới cha đời.
Nhưng phải công nhận, chữ nghĩa tụi nó gọi "Buôn Mê Thuột" chuẩn xác hơn...ta.
Mặt trận Ban Mê Thuột...giờ H-2:
Cũng vừa lúc có hai con nhạn là đà tới, mặc quần áo dân sự, nhưng khi được giới thiệu thì hóa ra cá mè một lứa. Cũng anh hùng Tây Nguyên khỉ gió nào đó, chẳng cần biết lon lá, tôi cứ gọi hai thằng là "thủ trưởng" cho êm. Mặt trận cánh tôi có hơi lắng dịu một chút, nhờ có mặt của hai tên thủ trưởng mới nhập trận này, nhưng tôi vẫn phập phồng lo ngại...
Vì rằng tụi Bắc quân vẫn chưa lộ diện, sư đòan 310 còn đang ở phía bắc, bên kia biên giới, sư đòan 968 và 320A đang lẩn quất đâu đây ở phía đông, nhưng không khí chết chóc bao trùm thị trấn nặng nề, ngộp thở đến đáng ngại. Chờ đợi và lo lắng...
Vì tụi nó đang họp kiểm thảo chính trị nội bộ, triển khai rút ưu khuyết điểm. Chưa uống hết ly bia, hai tên thủ trưởng khai pháo trước. Tụi nó nghiêng về phía tướng Trần Độ, và dè bĩu ông cai đồn điền cao su Lê Đức Anh. Trận "Căm Bu Chia", ông này mới chỉ là đại tá, không đáng xách dép cho ông tướng về hưu, một mình một ngựa đang múa thương như Triệu Tử Long trong trận Đương Dương Trường Bản. Còn hai nhân sĩ Bắc Kỳ thì ôm khư khư lấy Bùi Tín, một Tô Tần tân thời, đang uốn ba tấc lưỡi ở bên trời Âu để đi tìm một hậu thuẫn chính trị quốc tế nào đấy. Bức tường Bá Linh đã đổ, bất chiến tự nhiên thành, tất cả đang rục rịch sắp xếp cho một cuộc đổi thay êm thắm nay mai.
Nhưng tôi biết tỏng tụi nó đang bất mãn kinh niên. Vì thời buổi "nhất phe nhì cánh" để ăn trên ngồi chốc, mấy bố lại bị treo niêu về hưu non ngồi chơi xơi nước, nên hóa rồ nói chuyện "phản kháng" cho sướng miệng đấy thôi. Thế nhưng cũng phải thầm công nhận để ngậm tăm, chẳng dám nói hở với ai vì sợ bị chụp cái nón cối thì vỡ mặt. Là tụi nó tư duy logic, lập luận gẫy gọn hay ra phết. Tụi nó ăn nói bài bản đâu ra đấy, chữ nghĩa bề bề, ngẫu hứng qua cầu, chấm phá bằng thơ phú, điểm thêm một, hai câu ca dao đầy tình tự dân tộc...Như viện sĩ phó tiến sĩ có châm chọc "Thằng này thiếu văn hóa, ngu như nợn" thì quan võ cũng chỉ nhẹ nhàng Từ ngày cách mạng mùa thu - Thằng khôn đi học, thằng ngu làm thầy. Cớ sự này thằng anh họ tôi phải hòa đồng hòa giải dân tộc, không nên dân chủ đa...mang quá, chỉ làm lợi cho...địch.
Không biết nó có chơi chữ với tôi không vì nó đâu biết rằng, thằng địch Ngụy tôi đang ngồi chồm hổm trên đống lửa, đang sợ thọt dái lên đến cổ. Tụi nó rượu vào lời ra, đổ nợ không biết chừng. Vì tụi "bò vàng" ngồi lảng vảng đâu đây, chúng nó mà nhúm thì thằng "Việt kiều yêu nước" tôi, lạng quạng dính trấu là cái chắc. Nên tôi rét thật tình, tai bay vạ gió, một cổ đôi tròng, hú họa dám thành là người của mặt trận này, mặt trận kia...Nay mai chường mặt lên báo, rồi vang danh bốn bể chứ đâu có đùa.
Cũng may vừa lúc hai thằng thủ trưởng gọi thêm đồ ăn thức uống. Lại nữa, cũng chẳng may gì! Vì chúng nó kêu..."đại" cho mỗi thằng một con cua bể Thái Bình, con nào con nấy to bằng cái đĩa Tây và một thùng Heineken ướp lạnh...
Thế là từ phía đông thị xã, tiền pháo hậu xung, trung đoàn đặc công 968 thọc ngang hông, cắt đôi lực lượng Nam quân làm hai, hỏa tiễn Heineken 122 ly tụi nó quất ngập đường ngập phố dọn đường cho tank cua bể T-54. Sư đòan 320A tập hậu, bọc vòng ngòai vừa để công đồn đả viện, vừa làm nút chặn với dàn 12 ly 8 và 14 ly 5, chúng bắn như đĩ, đạn phòng không đan như lưới. Mẹ, con ruồi cũng chui không lọt huống chi cái thằng tôi...
Tôi, tứ bề thọ địch, vừa lo tránh pháo vừa lẩm nhẩm ước tính thiệt hại quân số: Hỏa tiễn và phòng không tôi coi như pha, ê càng nhất là cua bể T-54. Trong túi sẵn có mấy trăm ngàn, sáng nay mới đổi 100 đô, vị chi có hơn hai triệu, một trăm ngàn một con cua bể, sáu con là quá lóng chóng số tiền dằn túi chứ còn mẹ gì nữa. Nhưng sau hai giờ đụng trận vẫn còn...tử thủ được, đạn được súng ống dư xăng. Mặc dù vố này tụi nó chơi tôi hơi nặng. Cầm chai bia cụng với hai thằng thủ trưởng cái cốp, nhưng trong bụng lẩm bẩm chửi đổng hai thằng sư trưởng của sư đòan 968 và 320A: Sư hai anh nón cối. Hai anh chơi thế này thì chơi với ai.
Mặt trận Ban Mê Thuột...giờ H-3:
Nhưng vẫn hồi hộp vì chưa thấy tăm hơi sư đòan 316 đâu?
Bỗng tôi thấy thằng anh họ thượng tá thì thầm gì với "người" phục vụ. Xì xầm chó gì mà lâu quá thể vậy hả giời, tôi nín thở qua sông và nghĩ dại Sư chúng nó chứ! Chứ điệu này tụi nó chơi trò xa luân chiến thì bỏ mạng sa truờng, không có đất mà chôn. Y như rằng, "người" phục vụ biến mất. Một lúc lâu sau...Lâu lắm. Tôi muốn bá thở và lặng người đi, khi thấy "người" mang ra một chai Cordon Bleu cỡ một lít, to đùng, và một cái lẩu ba ba bự sự.
Rồi, vậy là sư đòan 310 tân lập hay F10 đã lộ diện qua chai Cordon Bleu AT3, lọai hỏa tiễn hiện đại nhất, nằm chềnh ềnh trên Molotova mười bánh. Riêng hỏa tiễn 122, Sam7 lẩu ba ba thì không kể. Chúng vừa vượt qua biên giới, từ phía bắc kéo xuống. Ba mũi giáp công cùng hai sư đòan 968, 320A với biển người trong tiếng hò hét vang dội, lẫn tiếng xích sắt ken két ầm ầm của tùng thiết, cùng tiếng sơn pháo ì ầm từ hướng phi trường. Quận Phụng Dực bị tràn ngập, đường huyết mạch dẫn vào thành phố bị bỏ ngỏ...Ban Mê Thuột như sợi chỉ treo chuông. Không phải hằng ngày, hằng đêm mà từng giờ, mà từng phút, với sức ép của ba sư đòan Bắc quân vào một buôn Thượng nhỏ bé làm đầu cầu. Đó là chưa kể sư đòan 316 đang tiến vào để tăng viện từ Nghệ An.
Thằng sư trưởng sư đòan 310, chính là thằng anh họ khốn khiếp, khốn khổ của tôi dứt điểm không thương tiếc bằng chục trái B40 vào thị xã, tiếng nổ long trời lở đất, ù tai mờ mắt. Ngay lúc ấy, tôi thầm nghĩ: Tiêu rồi! Coi như xong, tôi đã đi hết láng vào canh bạc chót này... Đúng là chưa thấy quan tài chưa đổ lệ, vì tôi tự biết rằng, mình vừa mất béng một trăm đô la tiền tươi cho chai rượu ngoại...ngoại khổ kia.
Mặt trận Ban Mê Thuột...giờ H-4:
Bắc quân hòan tòan làm chủ tình hình thị xã Ban Mê Thuột...
Trong khi chúng đang say men chiến thắng, cười nói hô hố, ăn uống ào ào, tôi lẳng lặng chui vào...cầu tiêu. Đang đái giắt, tôi thầm nhủ khi không lại cầm cu cho chó đái nên nực cò thấy rõ. Đang rặn, nên được thể mặt mày táo bón trông thấy, ấy là chưa kể bụng dạ cực kỳ xốn xang để không hiểu nổi rằng gặp người dưng nước lã thời đi nhẹ về nặng. Gặp người trong họ thì từ chết đến bị thương. Mà tụi này cũng chơi ép quá mạng, lấy thịt đè người, sức người có hạn và tụi nó cũng đã đi quá đà. Mẹ! Chắc phải...nói chuyện phải quấy với tụi nó quá, nếu cần răng đổi răng, mắt đổi mắt. Và tôi nghĩ vậy. Nghĩ vậy nhưng củ cải cái đầu ùn tắc cứ chậm tiêu nên bí đặc. Bèn tự than thầm, từ Bắc vào Nam, không lẽ chết dí ở cái lỗ chân trâu này sao hở giời. Cuối cùng thì các cụ ta xưa dậy cấm sai bao giờ, ấy là cùng tắc biến, biến tắc thông và khi không tôi nhẩy nhổm lên quên cả...kéo quần.
Ấy là trong một giây phút yên sĩ phi lý thuần, đang mặt mày bí rị tôi bật ra cái ý tưởng: Tụi Bắc quân vừa phạm phải một sai lầm chiến thuật chết người của Nã Phá Luân và Hít Le, là mang quân quá sâu vào đất địch, để sa lầy vì không có..."tiếp liệu".
Đến như Hàn Tín luồn trôn cũng phải lắc đầu chào thua, đã đến lúc phải phản công. Tôi kéo quần lên và đi ra. Tôi diễn xuất màn khổ nhục kế của Hàn Tín, xoa tóc vuốt mặt cho đầu bù tóc rối, vò áo xốc quần cho xốc sếch, đúng như một..."tù binh" có thật. Tôi bước thất thểu, chân cao chân thấp, mặt mày thảm não, như chưa bao giờ thảm thiết đến như thế. Thế là tôi đi về phía tụi nó thật chậm, đọan đường chiến binh thật dài. Qua chỗ ngồi, không ngừng lại...Tụi nó nhìn tôi ngạc nhiên, tưởng tôi say xỉn, thằng này ngó thằng kia...
Ghé tai thằng anh họ, học thói thằng nón cối em họ chị tôi:
- Báo cáo anh! Đau bụng quá! Phải chém vè thôi...
Qua thằng anh họ...Điều tôi muốn nhắn nhủ với tụi Bắc quân là: Chúng tôi là kẻ bại trận, nên không thể như Đặng Tiểu Bình để dậy các anh một Bài học lịch sử. Các anh đánh đâu thắng đó, từ Điện Biên Phủ đến Ban Mê Thuột. Nhưng rất tiếc, di tản chiến thuật là nghề của chúng tôi, chúng tôi là:...bậc thầy.
Và tôi ngạo nghễ đi ra cửa. Như tráng sĩ sang Tần, một đi không trở lại:
Kinh Kha quán lạnh, sầu nghiêng chén
Ai kẻ dâng vàng, kẻ biếu tay
Mơ gì ấp Tiết thiêu văn tự
Giày cỏ gươm cùn Ta đi đây
***
Giầy cỏ gươm cùn Ta đi đây...Đi đâu chưa biết, nhưng muốn ghé Lái Thiêu thăm cô em gái kết nghĩa của bà chị tôi thì phải đợi đến cuối tuần. Cuối cùng thì ngày ấy cũng tới, trời xanh, mây trắng, nắng vàng, tôi rong ruổi đi về một nơi chốn đầy tình người.
Qua Thủ Đức...Tôi bồi hồi lắng đọng về một nơi chốn xưa cũ, con đường tình ta đi như suối Lồ Ồ ngày nào. Ngày nào...Tôi có một mối tình học trò với một cô bé Trưng Vương, có đôi mắt buồn muôn thuở, để rồi...em tan trường về đường mưa nho nhỏ. Từ đấy...Tôi gắn bó với những âm hưởng của Phạm Thiên Thư với...lên non tìm động hoa vàng. Và bây giờ...Tôi đang não tình với cô Bắc kỳ nho nhỏ, đang nặng nợ với một Nguyễn Tất Nhiên vấn vương, vương vấn...em buồn như ma-xơ!
Đứng trước hiên nhà của người tình không chân dung...Tôi để hồn đi hoang, để níu kéo một mùa xuân đang lấp ló trở lại, dàn hoa vàng của những chùm hoa vông vang ẩn mình trong nắng hanh. Một hình bóng lẩn khuất bấy lâu, đâu đó đang mời gọi... mận hỏi thì đào xin thưa, vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.
Và tôi gõ cửa thật nhẹ...Cửa mở thật êm và như đêm giữa ban ngày. Giời ạ, ông giời có mắt xuống đây mà xem, mộng dưới hoa của tôi lừng lững xuất hiện và tôi lặng ngắm từ dưới lên trên:
Chân mang dép Bình Trị Thiên. Tay cầm cái cuốc. Đầu đội...chiếc nón cối.
Trúc gia trang
Đông chí, Kỷ Sửu 2009
Phi Ngọc Hùng
&&
Rưng rưng cảm xúc
một thời học trò.
Lê lành
Đầu đã bạc trắng, hắn vẫn lăng xăng như khi còn hai buổi chân sáo tới trường. Hẵn mừng cẫng, khi Trương Bảo Lan nhận ra là anh trai một bạn gái học cùng lớp thân thiết. Hắn sà vào bàn ban tổ chức, lèo nhèo đòi thẻ và huy hiệu kỉ niệm hội trường, dù trên cổ, trên ngực áo đã tòng teng, móc cài đủ lệ bộ. Chủ tịch hội Alasiens & Alasiennes cựu học sinh nam nữ trường Lycée Albert Sarraut Đỗ Hữu Điển biết cái tính đuểnh đoảng của hắn, đã nhận hộ, rồi nhắn tới nhà lấy mà chỉn chu cho buổi gặp mặt trang trọng 90 năm lịch sử trường mang tên người đảng viên xã hội cấp tiến Pháp Albert Sarraut, kỉ niệm 40 năm hợp tác hữu nghi Việt-Pháp. Nào ngờ, chị Nguyễn Thi Nguyệt không vừa, dằn mặt luôn : Nè, học trò lớp nhì moyen-un ra chỗ khác chơi nhá, để người lớn làm việc há !
Thế là hắn lọt vào khuôn hình ống kính đài truyền hình quốc gia. Phóng viên truyền hình Việt Nam Đỗ Phương Anh, tự du học ba năm cử nhân văn chương đại học Lyon, nổ luôn một tràng tiếng Tây làu làu thách thức rằng, kênh VTV4 có bản tiếng Pháp, có giỏi nói thẳng bằng tiếng Tây cho oách . Cuống quit , nhưng hắn lanh trí rằng người ta phải nói tiếng ta chứ. Thế là hắn nói tiếng ta văn vẻ chữ nghĩa, không dám bỗ bã một lời lẽ tếu táo nào.
Bước vào sảnh uy nghi tòa nhà bề thế mặt tiền trường sở, hắn rưng rưng cảm xúc học trò bồi hồi nhập môn văn hóa Phàp, một nền văn hóa có tiếng là duy lý đến cùng , nhưng lại giàu tính nhân văn hơn hẳn văn hóa Anh, Mỹ, lại có những nét tương đồng văn hóa Việt, dễ giao thoa lắm .
Đâu năm nay, nhà văn Nguyên Ngọc tự sự là ngày bé đọc mê say, nhập tâm những trang văn trong Truyện kể từ cối xay gió - Lettres de mon Moulin của Alphonse Daudet , trong Cuốn sách của bạn tôi - Le livre de mon ami của Anatole France. Đến nay còn thuộc lòng từng đoạn dài.
Không chỉ một con người đâu, cả một thế hệ may mắn chúng tôi. Ân huệ sâu xa thế hệ chúng tôi từng được hưởng từ những quyển sách nhỏ ấy, những trang văn ấy, nền văn học và văn hóa ấy. Cái đẹp, vâng, vậy đấy, cái đẹp, chứ không phải cái to tát. Cái đẹp giữ tâm thiện cho con người !
Hắn tự hào được đồng môn vong niên Vũ Bằng truyền nghề. Bí quyết duy nhất đơn giản là miệt mài trau dồi tiếng mẹ đẻ trong những giờ học tiếng Việt ít ỏi ở trường Tây này. Trực quan, Vũ Bằng đọc vanh vách, truyền cảm bài học thuộc lòng tiểu học " Bà Trưng quê ở Châu Phong. Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên. Chị em nặng một lời nguyền. Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân. " Lần thì ngâm nga, bình giảng sang sảng : " Trải vách quế gió vàng hiu hắt. Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng " mở đầu tuyệt tác Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều trong chương trình giảng văn bâc trung học. Từ học vấn căn cơ ấy, Vũ Bằng làm văn xuất sắc, được trao giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. . Rồi bằng cái vỏ bọc viết văn làm báo ấy, ông hoạt động đơn tuyến giữa Saigon hai mươi năm , được thưởng huân chương kháng chiến hạng nhất.
Hắn vẫn còn ấm ức là không lo cho đồng môn đàn anh bác sĩ Nguyễn Ngọc Hàm anh hùng lao động một lần được gặp, chuyện trò với nhà văn-nhà báo Vũ Bằng một mực ngưỡng mộ từ xưa. Nam Cao từng bốc thơm Vũ Bằng trong truyện ngắn Con mắt là bình Tam quốc sắc sảo, cao siêu bằng mấy Thánh Thán Mao Tôn Cương ấy chứ : Tiên sư anh Tào Tháo !
Trường Sarraut tọa lạc ngay trước mặt tiền dinh toàn quyền Đông Dương, nay là phủ chủ tịch nước. Cùng với trường Bưởi bảo hộ kề đó, bên mạn hồ Tây, là minh chứng giáo dục hồi xưa được coi trọng cực kì, học trò được ưu ái hết mức, xứng với đức hiếu học, tính siêng năng học trò Việt Nam sáng dạ, ham hiểu biết.
Hằng ngày hắn đáp xe điện leng keng đỗ bến đền Quan Thánh. Bước bộ một đoạn đại lộ đẹp nhất thành phố, xưa mang tên Carnot, nay là đường Phan Đình Phùng. Vào trường, qua cổng bên hông, trên đường Destenay, phố Nguyễn Cảnh Chân bây giờ. Hẵn vẫn thuộc một bài khóa texte trong sách giáo khoa từ vựng Vocabulaire tiểu học kể về Carnot. Carnot chỉnh tề quân phục, oai nghiêm những mề đay sáng láng trên ngực, chân dận ủng da cồm cộp bước về làng, ghé ngay trường cũ, dõng dạc giơ tay chào,: Thưa thày, trò Carnot ngày xưa đây ạ !.
Bỗng một liên tưởng nhoáng trong hắn. Hai ông bà người Pháp cao tuổi, phúc hậu, cất công từ Paris sang, nhân dịp này, nhờ hắn ghi hình đủ kiểu đứng, ngồi tới lui trong phòng ốc ngày trước là lớp học để tưởng niệm người cha thân yêu từng mài đũng quần nơi đây nên người ! Không chừng người Pháp hồi bé học hành ở ta cũng nhiễm đức tính hiếu hạnh gia đình người Việt mà dạy bảo con cái thành người tử tế, hiếu thảo cũng nên,
Đang dẫn diệu theo hành lang trước, sau từ lớp này sang phòng bên, chợt động đến kí ức, Trần Hiệp Hải nhắc tới một bạn cùng học thân thiết Phan Lạc Nhuận hiền lành, học giỏi nhất ,nhì lớp. Thực thà lí lịch học trường Tây từ lớp đồng ấu, Phan Lạc Nhuận bị địa phương xét nét, phải lên nông trường Tây Bắc dạy văn hóa, không được học đại học như hắn, chứ đừng nói sang Ba Lan làm luận án tiến sĩ như Trần Hiệp Hải. Hắn mủi lòng, giá Phan Lạc Nhuận phúc phận sống đến hôm nay để thấy thái lai một thời học trò trường Sarraut chăm ngoan , để mừng biết mấy cùng bạn bè là dẫu gian khó vô chừng, vẫn nhân lên được cái vốn học vấn bản ban đầu dưới mái trường này thành người tri thức, đạo đức, góp phận cho đời.
Hôm nay, trụ sở Ban đối ngoại trung ương Đảng rộng cửa cờ hoa đón ngót hai trăm cựu học sinh trường Sarraut về cất tiếng hát nằm lòng học trò ngày xưa "…Say ngắm từng gian lớp xinh, lòng xao xuyến tình xưa. Bao tình thơ ngây…" Với hắn, bài diễn từ chúc mừng nồng thắm của ông phó Ban đối ngoại Trưng ương Đảng Trần Đắc Lợi là sự thừa nhận công khai trường Sarraut là một cơ sở giáo dục đào tạo lớp lớp người trưởng thành giỏi giang, phụng sự đất nước bằng cả tấm lòng , bằng hết trí tuệ, là sự xác nhận chính thức đại tướng Võ Nguyên Giáp là đồng môn trường Sarraut với học giả Hoàng Xuân Hãn, nhà khoa học Đặng Phúc Thông, triết gia Trần Đức Thảo, nhà thơ Phạm Huy Thông…
Hắn ao ước giá trường Sarraut cũng có được một phòng truyền thống, không để làm cảnh mà thành một động lực nhắn nhủ đã là học trò thì phải học chăm, học giỏi để làm người tốt, người hay.
Sân trường Trần Phú nhân dịp này trồng hai cây phượng vĩ gắn bó thân thiết với tuổi học trò xưa. Là cựu học sinh cao niên nhất, ông Jacques Raux, sinh năm 1922, được vinh dự phát biểu : Tôi mong mỏi cây phượng này ăn sâu rễ xuống lòng đất , cành lá vươn lên sum suê trong không gian nơi đây là biểu tượng tiếp nối lớp lớp học trò trường Lycée nhỏ, trường Lycée lớn học hành tấn tới, thành người thành đạt.
Trường Lycée nhỏ trên đường Hai Bà Trưng, nay là trường Trần Phú, có trước, ngay thập kỉ đâu thế kỉ 20. Năm 1923 trường Lycée lớn cất xong, mang tên Albert Sarraut. Nhưng đúng kiểu ttiếng Việt, chỉ ngắn gọn " trường Saraut, dân Sarraut " thôi. Truyền thống văn hóa là thế.
lêlành
&&&
Xuân Sương
Mai Liên Kiều
Tả bữa cơm cúng Tết, nhà thơ Trần Trung Phương viết :
Tiếng pháo nổ rồi từng tràng pháo nổ,
Trên bàn thờ mâm cỗ đã bày xong.
Mẹ tôi đang châm dở nén hương vòng,
Và xếp lại trái hồng mâm ngũ quả...
Bây giờ không còn Mẹ, cũng không nghe pháo nổ ở quê người, tôi vẫn giữ đủ các lễ nghi cho ba ngày Tết, như hồi thấy Mẹ thường làm ở nhà. Gần Tết thì lau chùi quét tước hết mọi ngõ ngách, ý là cái gì cũ kỹ dơ dáy thì tống hết nó ra. Chiều ba mươi cúng rước ông bà. Sáng mồng một cúng chay. Mồng hai cúng mặn. Mồng ba cúng bánh trái. Và mồng bốn cúng tiễn. Tôi có đạo Chúa mà
khói hương chùa chiền còn thường trực hơn lễ lạc nhà thờ, mở miệng ra thì Mô Phật chớ không lạy Chúa, bởi vậy Chúa vẫn thường nhìn tôi với đôi mắt tuy dịu dàng không trách móc gì nhưng buồn da diết, chán chường.
Mặc dầu không biết là Thần tài có đặt chân tới nhà mình không, tôi vẫn kiêng không dám quét nhà trong ba ngày Tết, vì như vậy e chẳng khác nào đuổi ông ấy đi trong khi đáng lẽ vừa thấy ông thấp thoáng bên hàng xóm là mình đã phải lo trà rượu kèm theo nụ cười "cầu tài" đứng chờ ở cửa. Hút ông ấy vào máy lại càng không nên, ai mà dám "hãm tài" như vậy? Thầy tôi kể là cái trò dị đoan này do trong sách Sưu Thần Ký chép có một người lái buôn đi qua hồ Thanh Thảo, được Thủy Thần cho một con hầu tên Như Nguyện, đem về nhà chẳng bao lâu sau phất lên giàu có. Một hôm đánh nó nhằm ngày mồng một Tết, nó chui vào đống rác biến mất. Từ đấy người lái buôn trở nên nghèo. Cho nên người Tàu kiêng đổ rác trong mấy ngày này, người Việt mình cũng theo lệ ấy, như thể nhà nào cũng có sẵn con Như Nguyện nằm... vạ đâu đấy. Và trong ba ngày Tết cũng không được hái hoa hái lá gì, "để cho nó ăn Tết", không nên đào xới đất, ồn ào ông táo không trở về ở với mình thì quanh năm ... cơm canh chẳng chín. Mẹ tôi vẫn bảo vậy. Cây lá đã thế, con sâu cái kiến thì lại còn tuyệt đối không được làm nó đau (nếu có nhã ý muốn cho nó đi luân hồi thì chịu khó chờ sau Tết).
Cúng rước ông bà, tôi đốt rất nhiều giấy tiền vàng bạc. Cứ mỗi một xấp đô la hình như mấy trăm tờ, lại là bạc một ngàn, mà tôi đốt cúng tới sáu xấp. Thêm vào đó vài xấp vàng bạc, vài xấp vải đủ màu. Ông bà tha hồ đếm tiền mỏi tay. Vừa đốt vừa tha thiết xin các cụ chia nhau trong tinh thần hoà hoãn tương ái. Ai biết đâu được là họ chẳng bất hoà nhau vì giành giật? (gây cho người khác sục sịch ghen ghét nhau là chuyện không nên). Thì hẵng cứ vái như vậy cho chắc. Đốt trong cái nồi cô-cốt, làm nó đen vì ám khói. Quanh năm nấu phở, chà mãi thì cũng trắng ra, vừa tới dịp Tết lại đen trở lại. Nhà tôi vẫn thường ớn cái trò này. Bởi Tết luôn luôn là vào mùa đông, cúng kiến và đốt vàng bạc đều làm trong nhà, cửa chỉ he hé vừa đủ cho ông bà lách người vào thôi. Một lần hàng xóm trông thấy, hoảng hốt hỏi ủa Su ơi, bộ vous muốn đốt nhà hả. Nhà tôi thường sốt ruột vì sợ cháy nhà thật, nhưng đố dám cấm tôi hậu đãi ông bà, tự do tín ngưỡng mà lại, chỉ e ấp hỏi:
- Nhỏ ơi, mà em đốt chi nhiều dữ vậy?
Tôi nói nghiêm trang như thật :
- Mình kỉnh ông bà nhiều thì ông bà sẽ cho mình nhiều.
Nhà tôi nghi ngờ :
- Hay có nhiều tiền quá ông bà lại rủ nhau đi Casino thua hết sạch lại chẳng cho mình cái gì.
Dị đoan số một, tôi cho như vậy là nói gở, vội trả lời, cũng nghiêm trang cứ như thật :
-Không có đâu, ông bà mình không ai có máu cờ bạc cả.
Nói là nói vậy chớ ông bà mình mình còn không rõ, chỉ biết trong gia phả ghi rằng ông Cao tôi là tướng, gốc người Hưng Yên cầm quân vô Quảng Ngãi, có những mười tám bà vợ, cưng bà Quảng Ngãi như gì, rồi lập nghiệp luôn ở cái đất mà ai cũng cho là khỉ ho cò gáy đó. Điều này ghi rành rành trên các bức hoành phi liễn đối thếp vàng treo ở hai nhà từ đường của hai chi phái. Biết thế thôi. Còn ông bà nhà chồng mình lại càng mù tịt hơn nữa, biết thế quái nào là không ai có máu cờ bạc?
- Vào lấy cho em cây cời. Có nhiều tờ không cháy hết, xuống dưới lại thành bạc rách thôi.
Vốn thông minh, nhà tôi nhanh trí nói :
- Dễ mà, em đốt thêm cuộn băng keo, xuống dưới tờ nào rách thì ông bà dán lại. (Chép miệng) Đốt chi mà lắm vậy không biết!
Khói cuồn cuộn. Nhà tôi lại bảo:
- Nước mắt nước mũi ràn rụa như vậy thì không khéo ông bà lại hiểu lầm là mình cho mà em còn tiếc của nên khóc.
Tôi bày những bốn bàn thờ : bàn thờ Phật, bàn thờ Chúa, bàn thờ ông Táo, và bàn cúng rước ông bà đặt gần cửa. Những lúc cúng kiến tôi luôn luôn làm sếp chủ tế, nhà tôi xớ rớ cho tôi sai vặt. Rót ba chén rượu. Rượu gì em? Em không biết, chắc là rượu khai vị cũng được. Rót cho bàn nào em? Bàn nào cũng rót. Rót ba ly trà. Bàn nào cũng rót hả? Đốt hai cây đèn cầy cho mỗi bàn. Đốt ba cây hương và vái. Vái cái gì em? Trời ơi thì vái là mình mời ông bà về ăn Tết với mình. Anh lạy được chưa Nhỏ? Và nhà tôi lạy, chẳng biết vái có ra trò trống gì không, nhưng chắc chắn trong lúc đó Đức Phật và Đức Chúa đang cụng ly trong tinh thần quân tử "hoà nhi bất đồng".
Nhà tôi vẫn lấy đó làm vui. Vào thời sinh viên, cứ Tết đến là làm văn nghệ, có khi hai nhóm chống nhau, nhóm này đi xé áp phích quảng cáo của nhóm kia, rồi đánh nhau. Bây giờ thì bắt đầu về già, lại biết thế nào là cúng kiến, là lạy là bái, là vái là cầu, nên thấy "rất ngộ".
Một cô bạn dặn tôi :
- Trên bàn thờ cúng Tết chị phải mua một trái mãng cầu, một trái dừa và một trái đu đủ.
- Chi vậy?
- Tức là "cầu vừa đủ" ăn đó mà. Trái mãng cầu là cầu, trái dừa là vừa, đu đủ là đủ.
Tôi bật cười. Dân An Nam mình "an phận" thật, chỉ cần "đủ" thôi. Mà không biết như thế nào mới là đủ? Nào phải ai cũng "tri túc"? Tiếc là Việt Nam mình không có trái gì gọi là trái "dư", nếu có thì trái đu đủ ắt đã không được ai mua trong ba ngày Tết.
Lại còn cái vụ hái lộc chùa đêm giao thừa. Nhà tôi thì không đủ lãng mạn như nhà thơ Nhất Tuấn :
Ngày ấy Xuân về em nhớ không,
Anh ra vườn hái một bông hồng,
Rồi cài lên tóc em anh bảo :
Mừng tuổi cho em (vợ của chồng).
nên thỉnh thoảng tôi theo các cháu lên chùa gần nhà hái lộc và chờ lì xì của quý thầy để tự mừng tuổi cho mình. Hết phần hành lễ, hai thầy đứng hai bên phát lì xì cho chúng sanh. Nhận tiền chùa thì sẽ được phát đạt quanh năm, ăn như tằm ăn lên cũng không sao hết của. Xong, chúng tôi ra ngoài hái lộc. Trước khi đi đã thủ sẵn cái xì-ca-tơ. Năm nào mà sau giao thừa, các cây chùa chẳng trở thành trơ trụi? Có năm tôi cắt được một nhánh đào có hai nụ bụ bẫm. Ai cũng khen tốt. Thằng cháu xúi mua lô-tô đi cô. Tôi mua. Sau ngày xổ số nó điện thoại xuống hỏi cô ơi trúng không. Không. Uả sao lạ vậy kìa. Nghe nó nói một cách thất vọng, tôi bật cười.
Lại còn cái vụ người nào "đạp đất" sáng mồng một là cũng góp phần vào việc suy vượng quanh năm của mình. Người nào coi vẻ mặt hắc ám, quanh năm nhăn nhó hay làm chỗ nào thì chỗ ấy sập tiệm, người nào ưa cãi cọ, xấu mồm xấu miệng, ác tâm ác khẩu, người nào hay la cà trà đình tửu điếm, người nào sát phạt đỏ đen... thì tốt nhất nên "nói khéo" thế nào để sáng mồng một họ đừng lò mò tới thăm mình. Vì rất dị đoan nên tôi thường dặn thằng cháu mau mắn vui vẻ tới xông đất nhà tôi. Nghe các cháu sắp lên cầu thang, tôi mở cửa sổ ra dặn :
- Hưng lên trước.
Dưới sân có tiếng xê dịch đổi chỗ cho nhau. Một đứa nói :
- Chưa tới giao thừa mà cô?
- Cứ làm như vậy. Rồi tới Lộc, tới Thủy, rồi Hải.
Dưới sân lại đổi chỗ. YÙ tôi sợ bọn trẻ lịch sự nhường chỗ cho đàn bà con gái lên trước, mà con cháu tôi có bịnh thường hay mè nheo, tôi e quanh năm mình sẽ không... cứng cáp chút nào!
Mồng một Tết mà mình làm kiểu ở Rome và thành phố Naples là ném đĩa và khăn ăn qua cửa sổ thì ở đây họ sẽ cho là mình điên. Nếu như dân Chypre phải hắt xì lúc giao thừa không thì năm mới sẽ không được như ý, thì dân bị dị ứng tha hồ mọi sự mãn nguyện. Nếu làm như dân Algérie thường vỗ vào mông nhau sau lời chúc mừng thì nhất định các ông mong Tết hoài hoài. Nếu làm như ở quần đảo Mergui (Ấn Độ dương) người ta chúc nhau sụt đi một tuổi, mỗi năm một tuổi bớt đi, thì nhất định là các bà các cô hân hoan tuyệt đối, sẽ cảm thấy "trẻ mãi không già". Còn nếu quái gở cỡ dân Cameroun là các bà dùng một con rắn độc còn sống làm vòng đeo tai thì có khối người không thèm ăn Tết! Thôi thì mình cứ ... hạ quyết tâm làm những chuyện rất bình thường mà không thiếu phần ý nghĩa : là tổ chức chơi Tết trong đám anh em bè bạn, rồi múa lân, rồi lì xì cho các cháu, rồi ăn bánh chưng củ kiệu và thịt kho dưa giá, rồi xôi vò xôi gấc và không quên các thứ bánh mứt dân tộc, vân vân và vân vân, bộ không truyền thống và hấp dẫn à?
Mỗi Tết bên này, nhớ về quê hương, nhớ gia đình, tôi lại bắt chước thiên hạ cắt mấy nhánh Liên kiều làm mai, mua ít nhành đào về chưng. Và vẫn thường tự hỏi như Vũ Đình Liên:
Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ,
Hồn ở đâu bây giờ?
Xuân Sương
Tết Bính Tý 1996
****
Làm Sao Cắt Nghĩa
Thế là chúng tôi giận nhau, à không! Phải nói rằng tôi giận họ mới đúng, mặc dù tôi là người "chủ động" trong việc giận hờn này, tôi vẫn thấy rằng tôi là người buồn nhất, bởi vì tôi trở nên lẻ loi trong khi họ có đôi. Họ là ai ư?
Đây, ảnh của họ đây, các bạn hãy xem. Người đứng bên trái có mái tóc dài mượt mà ấy là Lan. Người đứng bên phải có nụ cười duyên dáng với chiếc răng khểnh là Hương .Còn người đứng giữa, ấy chết! Không phải là con trai đâu, tôi. . .đấy!
Không nói các bạn cũng đoán biết chúng tôi thân nhau lắm. Sự thân thiết lâu dài do nơi chúng tôi sống cùng một khu phố, lớn lên bên nhau, học cùng một lớp, biết bao là kỷ niệm. Rồi không biết từ lúc nào tôi nảy ra một ý nghĩ, tôi không thích một kẻ nào chen vào giữa chúng tôi, nói trắng ra là không đứa nào được có người yêu. Vâng! Không ai có thể san xẻ tình cảm mà chúng tôi đã có công xây dựng . . . lâu đời như vậy .Chưa nói vướng vào yêu đương phức tạp lắm. Tôi nói điều này với Lan và Hương, họ cùng nghĩ như tôi, vậy là chúng tôi cùng nhau "tuyên thệ". . .
Thi đại học cả ba đều . . . "Out". Tôi chọn cách nhanh gọn là đi học nghề. Còn Lan và Hương tiếp tục ôn tập chờ năm sau thi lại.Vì phải lên đường tầm sư học nghề nên tôi phải đi xa.
Trong một lần về thăm nhà tôi thấy họ không còn quấn quít với tôi như trước nữa, phải chăng vì xa mặt nên cách lòng? Thay vì phải khắn khít với nhau sau những ngày không gặp thì họ lại có vẻ như thờ ơ với tôi.
Không chần chờ, tôi vội tìm hiểu nguyên nhân. Đầu tiên tôi đến nhà Hương, vừa đến nơi tôi đã biết ngay điều tôi muốn biết khi thấy Hương đang ngồi tiếp bạn trai (tim tôi nhói lên) một gã mà thoạt nhìn tôi đã mất cảm tình, quần áo thẳng nếp, tươm tất trông thật "mướt", ồ! Tôi không nói rằng tôi thích những anh chàng ở . . . bẩn! Song mày râu nhẵn nhụi như vậy thường "đểu" lắm, đàn ông con trai phải "bụi" một chút. Anh ta là sinh viên ư ? Sinh viên càng phong trần càng hay chứ sao!
Tôi khựng lại trước hình ảnh đó. Trao cho Hương một cái nhìn mà chỉ có nó mới hiểu ý nghĩa, tôi quay đi thật nhanh trước khi nụ cười xã giao của gã kia kịp tắt trên môi.
Chả lẽ mà tôi khóc? Nếu ai đã từng bị phản bội thì sẽ hiểu tâm trạng của tôi lúc đó.
Không vội về nhà, tôi thẳng đến Lan để trút sự bực tức này cho nó. Nhà Lan cách nhà tôi mấy căn nhưng bức tường cao và cánh cửa sắt làm nên sự cách biệt với các nhà trong xóm. Tôi bấm chuông, Lan ra mở cổng, Tôi nhíu mày nhìn nó, một vẻ khác thường nào đó ở bạn tôi, khuôn mặt đã được trang điểm nhẹ, tóc xỏa buông thay vì buộc gọn gàng như thói quen, quần áo cũng kiểu cách hơn, tôi nghĩ bụng "Lan đẹp làm sao. . ."
Tôi bèn hỏi ngay :
-Mày đi đâu mà maquiller đẹp vậy?
Lan cười bẽn lẽn :
-Ở nhà sửa soạn một chút không được sao?
Tôi lách người qua cổng, vừa buộc miệng :
-Tao mới đến nhà Hương .
Lan bước sau tôi :
-Có nó nhà không? Sao mày không rủ nó tới đây luôn?
Câu hỏi "trúng tủ", tôi đáp ngay :
-Nó có bồ mày ạ! Tao thấy tên ấy đang ở đó (Tôi gừ trong cổ họng ) . . . hừm ! Quá thật …
-Ồ! Chuyện nhỏ, đó là quy luật, ai lớn lên mà lại chẳng . . .
Tôi quay phắt lại, hơi lớn tiếng :
-Mày nói sao? Thế mày đã quên lời "tuyên thệ" xưa kia của tụi mình rồi ư?
Lan xoay vai tôi đẩy đi :
-Cần khai tử lời thề trẻ con ấy đi.
Tôi tức tối, vùng vằng :
-Tao tưởng nói ra mày sẽ nghĩ như tao, ai ngờ . . .
-Thật ra tình yêu có gì xấu?
-Không xấu mà chín mươi chín phần trăm cứ yêu là đau khổ.
-Tại vì có kẻ lạm dụng tình yêu để làm chuyện không tốt, chứ thực chất của tình yêu không phải vậy, thật ra . . .
Câu nói của Lan chưa dứt thì bàn chân tôi đã đặt vào bục cửa, tôi tròn mắt lên nhìn về phía bộ ghế salon màu đỏ thẩm sang trọng. Trời ạ! Không phải một mà đến . . . hai gã con trai đang ngồi ở đó. Một gã đang ôm đàn rải những âm thanh trầm vào không gian vốn rất yên tĩnh của căn phòng. Một gã ngồi ngả đầu trên yên ghế nhả những vòng khói tròn nối nhau loang ra như một tên sành điệu, ăn chơi thứ thiệt . Lan mỉm cười (chắc là ngượng) nhìn tôi. Còn tôi do dự không biết có nên vào hay không, thì Lan đã đẩy tôi đến ghế, rồi giới thiệu:
-Anh Tuấn, anh họ của Lan. Còn đây là anh Vĩnh, bạn của . . . Lan ở Sài Gòn lên chơi, đây là An Thy bạn học của em . . .
Tôi nhếch môi cười lấy lệ chào họ. Thôi vậy là hết thật rồi! Hương và Lan đã có người yêu. Thảo nào . . . tôi than thầm . Vậy mà lúc nào tôi cũng tưởng họ chỉ nghĩ đến tình bạn của chúng tôi thôi. Tôi liếc nhanh gã có tên là Vĩnh, thấy ghét chi lạ . Quần jean bạc, áo khoác rộng thùng thình, ngón tay vàng vì nhựa thuốc lá, lại còn thêm bộ ria mép nữa chứ, nhìn cái mặt sao mà . . . đểu! Anh ta là nghệ sĩ điêu khắc ư? Nghệ sĩ là phải làm ra vẻ phong trần sao? Cứ tươm tất, mày râu nhẵn nhụi thì càng hay chứ sao. Còn gã anh họ của Lan nữa. Gớm! Đeo kính trắng làm ra vẻ trí thức đấy. Gã đang kể chuyện khôi hài làm Lan và Vĩnh cười thoải mái, còn tôi cứ bậm môi, cố nín không thèm cười .
Tâm trí bận suy nghĩ nên tôi không biết rằng tôi cứ nhìn chằm chằm vào đĩa bánh ngọt trên bàn, đến khi nó chuyển động và tiếng của Tuấn làm tôi giật mình đánh thót một cái:
-An Thy ăn bánh đi chứ . . .
Tôi nhát gừng đáp ;
-Cám ơn, tui hổng ăn.
-Tên An Thy nghe lạ và hay
-Tại lúc nhỏ tui đen nhẻm y than, nên má tui nói lái luôn lại là An Thy!
Vĩnh xen vào :
-Con gái nước da bánh mật thường có duyên .
Tui liếc xéo hắn, không thèm hưởng ứng câu nói, mãi một lúc lâu tôi mới kiếm được lý do để rút lui. Từ giã ra về, lòng tôi nặng trĩu một nỗi buồn.
OoO
Tôi lánh mặt Hương và Lan từ hôm đó với sự giận dỗi khó giải tỏa. họ cứ đến tìm tôi, lại còn dắt cả Tuấn và Vĩnh theo như cố tình trêu tức tôi. Đã thế còn giả vờ như hối hận lắm, lần nào cũng viết để lại mấy dòng giải thích, phân trần mong tôi hãy hiểu họ.
Lòng tôi cũng có phần dịu lại, song cứ nghĩ đến tình bạn của chúng tôi đã bị hai tên đáng ghét kia xen vào san xẻ, thì tôi lại hậm hực.
Lan và Hương vẫn kiên trì tìm tôi, và một lần bất ngờ nên tôi đã không kịp lánh đi:
-Còn tìm tao làm gì nữa?
Hương khoe răng khểnh ra ;
-Tao cho là giận chừng đó đủ rồi .
Lan ôn tồn hơn:
-Cứ cho là tụi tao có lỗi đi (Lan chìa tay ra) bắt tay hòa nhé, coi như tụi tao đã xin lỗi mày . . .
Tôi giấu tay ra sau lưng, im lặng. Hương xen vô:
-An Thy làm mặt "ngầu" xinh chẳng kém. . . làm mặt " kênh" Lan nhỉ?
Tôi nén cười :
-Tao không giỡn với tụi mày đâu nghen.
-Tui tao cũng không đùa. Anh Tuấn nhận xét về An Thy cũng y như mày vậy đó Hương.
Hương hỏi, vẫn giọng cợt đùa :
-Ảnh nhận xét sao? Nói lẹ nghe coi.
-Ảnh nói bạn của Lan nhìn ngổ ngáo vậy nhưng ảnh cho rằng bản tính của cô bé rất . . dễ thương!
-Rồi sao nữa?
-Ảnh hỏi sao An Thy giận tụi mình, tao bèn kể vậy . . . vậy đó .
-Rồi ảnh nói sao?
-Ảnh lăn ra cười, nhưng đây mới là điều tao muốn nói. Có vẻ anh chàng " để ý" An Thy hay sao ấy, cứ hỏi thăm nó hoài . . .
Nghe vậy tôi la toáng lên:
-Tao ứ thèm nghe chuyện bịa.
-Vậy thì nghe chuyện thật đây, mày sắp hết hạn thăm nhà, tụi tao sẽ đãi mày một chầu vào ngày mai. Xin trân trọng thông báo với mày, đó là nhã ý của anh Tuấn .
Tôi chớp mắt:
-Lại bịa, "ông" Tuấn sao biết tao sắp đi?
-Có quan tâm, có biết! (Lan cong môi lên)
Hương chậc lưỡi:
-Tao nghi anh Tuấn mày bị coup de foudre quá .
Lan nháy mắt, gật gù:
-. . . đâu đó! tao cứ nghe ổng hát "I love you more than I can say . . .", rồi còn cái vụ cứ rủ tao qua nhà An Thy chơi nữa chớ, tao đòi hối lộ, ổng nói . . .
Tôi cảm thấy nóng bừng hai má, bèn ngắt lời Lan:
-Tao hổng giống tụi mày, vắt mũi chưa sạch mà bày đặt.
Hương cười rũ rượi:
-Mặt đỏ lên rồi kìa , tín hiệu khá đấy. Đừng vội tuyên bố, trời sẽ trả báo khi gặp đối tượng nghe chưa .
Tôi nguýt mắt:
-Hổng sợ đối tượng, đối voi gì ráo.
-Điều đó cứ chờ khắc biết .
Trêu tôi chán, hai đứa mới chịu về. Màn đêm ôm trùm khu phố nhỏ, những vì sao lấp lánh như những viên kim cương trên nền trời đen thẳm. Không gian yên ắng, tôi hướng mắt sang nhà Lan, đêm nay sao tôi không nghe tiếng đàn văng vẳng? Lòng chợt thấy bâng khuâng, khắc khoải, không biết bao giờ Tuấn về thành phố nhỉ ? À! Có gì đâu, vì tôi thích . . . nghe tiếng đàn ấy thôi mà.
Hồ Thụy Mỹ Hạnh
&&&
Lời Nói Một Buổi Chiều
Người đàn bà đó bây giờ ngồi trước mặt hắn, tóc đã cắt ngắn, cách trang điểm khác bảy năm về trước, cái nhìn lời nói đã đầy đủ ý tứ. Chỉ có Thúy và hắn trong căn phòng, giữa hai người là cái bàn ăn tròn phủ tấm vải nhiều hoa, chiếc quạt trên trần quay như không đều, mệt mỏi hay bất cần, nhà nằm sâu trong ngõ hẻm vẫn không thoát được cái inh ỏi của xe gắn máy. Phòng chật chội những thùng hàng chồng chất lên nhau: máy truyền hình, đầu video, máy nhạc và nhiều loại hàng linh tinh. ở ngoài, mùa hạ cháy âm ỉ trên thành phố, buổi chiều chưa tỉnh ngủ hẳn đã có tiếng chu chóe của hàng xóm cãi nhau trong điệu nhạc xập xình của một băng Paris by night mới về. Thúy tìm ra cách để thằng bé đừng quấy rầy mẹ, băng hoạt họa Nhật Bản sẽ giữ nó yên ở phòng trong. Nàng mang ra hai ly thạch đen có đá và ngồi cắt cam sành.
- Anh về mùa này Hà Nội không có nhiều hoa quả.
Hôm trước hai người tình cờ gặp nhau ngoài đường, hắn đang đi bộ trên hè phố, Thúy ngừng xe lại bên cạnh. Vẫn tình cờ, như lần gặp nhau ở Paris, không ai tránh được những tình cờ. Ngỡ ngàng, hụt hẫng, đến cách xưng hô cũng phải một lúc họ mới tìm được, những câu hỏi luýnh quýnh chồng chéo lên nhau, những câu trả lời rời rạc bỏ lửng, những im lặng vô duyên. Giữa đường phố tấp nập, họ vừa thiếu thì giờ vừa không biết kéo dài trao đổi. Họ chỉ loay hoay được một lúc rồi hắn khách sáo:
- Chắc Thúy đang bận, anh không muốn giữ lâu. Gặp lại nhau sau bao nhiêu năm thật là bất ngờ. Thể nào mình cũng còn dịp khác.
Hai người cười cười gật gật, mắt không chịu đi theo lời chào. Khi xe đã rồ máy Thúy bất chợt nói:
- Thôi thế này nhé, mời anh đến nhà em hôm nào anh rảnh. Anh Quân đi Hồng Kông chưa về, nhưng nhất định bác Dũng phải nhìn thấy thằng cu con của em. Năm nay nó đã 4 tuổi. Anh định ngày giờ đi, lúc nào em cũng thu xếp được.
Hắn chẳng biết nghĩ sao, nhận lời.
Hắn do dự cho đến ngày hẹn. Không có lý do gì phải gặp lại một quá khứ đã làm hắn mất bao nhiêu năm mới ra khỏi. Chuyện cũ lạc lõng giữa hiện tại ở nơi này, trong cái thành phố đang hối hả sống, không có đầu óc để hoài niệm. Bảy năm trời, những thay đổi đã cộng vào nhau như kết quả chắc chắn của thời gian, có những tháng ngày mất đến cả sự thật của chúng. Hắn bỏ hẹn không sao, đâu còn lần khác. Nhưng cuối cùng hắn vẫn đến, không biết vì tò mò hay tự ái, không chừng cuộc gặp gỡ sẽ xóa được những gì chưa chịu rời trí nhớ.
- Nhà cửa bừa bộn quá. Em đang chờ chuyển qua cửa tiệm mới. Đấy anh nhìn những loại hàng em bán. Thiên hạ bây giờ thi đua nhau mua sắm những thứ này. Anh về nông thôn đã thấy, ăng-ten ti-vi mọc cả trên những mái nhà tranh. Dân mình quen rất nhanh với văn minh tiêu thụ. Nước ta sắp thành rồng anh ạ, các cụ nhà mình quả quyết như vậy. Cái cửa hàng làm em bận lu bù. Em phải lo một mình, anh Quân không có thì giờ giúp vào. Em đã ngừng hẳn nghề dạy Pháp văn. Tiếng Pháp thời buổi này chẳng ai thèm học, người ta học tiếng Anh tiếng Tàu, thậm chí tiếng Nhật, thì mới làm ăn được chứ.
- Cũng có lý. Thôi Thúy cất món tiếng Tây vào tủ lạnh. Lâu lâu lấy nó ra đọc thơ sũng nước của Lamartine hay chuyện kiếm hiệp ly kỳ của Alexandre Dumas. Hai năm thực tập ở Pháp coi như là một chuyến du lịch không mất tiền.
Thúy cười:
- Anh vẫn cái giọng mỉa mai hồi nào. Việt kiều như anh không bao giờ thấm được thực tế ở đây.
Nàng biết hắn không ưa chút nào nhãn hiệu "Việt kiều", kể cả thời còn "Việt kiều yêu nước".
Hắn không chú tâm đến những gì Thúy kể sau đó về đời sống ngày hôm nay, chuyện nhà cửa đất đai, chuyện phát triển du lịch, chuyện ngoại quốc đầu tư, chuyện chọn lựa những trường học chưa xuống cấp, những nhà thương còn bảo đảm... Thời gian ở đây, kinh tế thị trường hắn nghe đã tạm đủ. Nếu Thúy hỏi về tình hình ở Pháp, hắn sẽ nói về nạn thất nghiệp, những cuộc biểu tình đình công, người ăn mày trong métro Paris, không khí hận thù một số cộng đồng nhập cư... Nhưng nàng không hỏi, và hắn ngồi nhìn nàng, tìm những nét còn lại của cô thực tập sinh trước đây.
- Còn chồng Thúy bây giờ làm gì?
Thúy lúng túng:
- Thú thật dạo sau này em cũng không rõ. Anh Quân làm phó giám đốc một cơ quan xuất khẩu. Họ xuất nhiều loại hàng như đồ nhựa, giày dép, bàn ghế bằng mây... Làm ăn nhiều với các nước trong vùng. Anh Quân hay đi Singapore và Bangkok. Em chỉ biết vậy thôi.
Thúy vẫn thuộc một thành phần ưu đãi. Lúc trước, bố có chức vụ cao trong chính quyền, tuổi trẻ nàng là một tuổi trẻ được bảo vệ và chiều chuộng. Vừa xong đại học là được học bổng qua Pháp. Về nước lấy một anh phó tiến sĩ tốt nghiệp ở Đông Âu. Hiện nay vợ chồng mỗi người một chỗ tốt để làm giàu. Hắn có thể yên tâm cho nàng, cho mình. Không lẽ hắn chờ đợi gì khác?
Người đàn bà không muốn nói thêm về chồng. Nàng đứng dậy, đi đến cửa vào phòng trong, đứng nhìn con. Khi quay ra, nàng đột ngột:
- Em tiếc cho chuyện gia đình anh hồi đó.
- Anh và Loan đã ly dị. Không lâu sau khi Thúy về nước.
- Tại sao chị Loan không chịu tha thứ?
- Thúy không có quyền hỏi câu đó.
Họ ngừng lại, có lời đã lỡ. Sau một lúc, nàng nói nhỏ:
- Em xin lỗi anh.
Loan không tha thứ. Suốt hơn 10 năm, Loan đã phục vụ chồng con, không đòi hỏi gì ở hắn, kể cả một tình thương lâu bền, gia đình là nơi hy sinh của nàng, và sự hy sinh này là tất cả giá trị của bản thân nàng. Những nguyên tắc đạo đức đã làm Loan khắc nghiệt với chính mình, làm sao đòi hỏi nàng khoan dung với người khác? Loan không thể tiếp tục phục vụ một người chồng đã phản bội, sống với hắn không còn ý nghĩa.
- Hai đứa con anh chắc lớn lắm rồi. Nếu em không lầm, thằng Kim năm nay đã vào đại học.
- Tụi nó vẫn còn giận anh, không gặp anh. Tụi nó đứng hẳn về phía mẹ. Bây giờ lại đến tuổi muốn tự lập, càng không cần bố.
- Em nghĩ rồi có ngày tụi nó sẽ trở về với anh.
"Bố phải để mẹ yên, đừng gọi về nhà nữa", hắn nhớ cái thời gian ngóng chờ điện thoại vào mỗi cuối tuần, rồi con My gọi đến nói bận học thi, thằng Kim phải lo việc cho mẹ. Hắn không muốn người đàn bà ngồi trước mặt biết những gì xảy ra sau đó: Loan và hắn giành giựt của cải, kiện cáo nhau đủ thứ chuyện, hắn mất con, mất bạn bè, bỏ công ăn việc làm, sức khỏe suy yếu, sống lang thang như một kẻ chạy trốn.
- Anh đã qua khỏi giai đoạn khó khăn. Đời sống ổn định trở lại. Việc làm không được như trước đây, nhưng còn hơn là thất nghiệp. Chỉ chưa tìm lại được vợ. Thúy có cô bạn nào góa chồng hay chán chồng, giới thiệu cho anh. Cô nào muốn trăm năm hạnh phúc ở một nước văn minh, với một Việt kiều có quốc tịch Pháp hẳn hoi nhưng vẫn thích nước mắm Phú Quốc.
Thúy cười qua loa, ý nghĩ ở nơi khác:
- Qua người này người nọ em vẫn hỏi han về anh. Nhưng mỗi lần lại phải nghe người ta phê phán anh. Làm như chỉ an ủi được em bằng cách đổ mọi lỗi cho anh. Chẳng ai hiểu được chúng mình đâu anh ạ.
- Chúng mình hiểu nhau được tới đâu mà đòi người khác hiểu mình?
- Anh có cần nói vậy không?
- Hồi đó anh cứ nghĩ người ta hiểu nhau hơn trong khó khăn.
- Nếu chỉ là những khó khăn...
- Biết rồi, Thúy khỏi cần nhắc lại, mơ mộng quá hóa điên. Sống phải thực tế, phải biết điều, mơ một lúc rồi phải mở mắt ra. Có đúng không?
- Chuyện chúng mình không có tương lai.
- Cái hay là trong hoàn cảnh nào Thúy cũng sáng suốt, biết nhìn gần nhìn xa.
- Anh Dũng, ngày hôm nay anh có thực sự nghĩ chúng mình có thể làm khác?
- Không. Dĩ nhiên là không. Mình không cùng giới. Hai môi trường khác nhau như hai thế giới không có gì để chung. Ai cho phép vượt những ranh giới đã được định? Người nào phải trở về chỗ người nấy. Thúy về với cái giới có quyền lực ở Việt Nam. Anh về với những người Việt lập cư ở Pháp. Một kết cuộc hợp tình hợp lý, như người ta thường nói. Chỉ có thể như vậy thôi.
- Em tưởng vấn đề gia đình anh với thời gian cũng giải quyết được.
- Đó lại là chuyện khác! Phần sau không còn liên quan đến Thúy, Thúy khỏi thắc mắc làm gì.
- Tại sao không? Em không có trách nhiệm gì trong sự đổ vỡ của gia đình anh? May thật! Tất nhiên như vậy thì phải tránh ra xa, không được nhòm ngó vào cái riêng tư của anh.
- Thúy còn muốn gì? Muốn tội nghiệp cho anh hả? Thôi thôi, anh xin gói trả lại những thương hại của người khác. Anh cám ơn, nhưng xin phép được một mình thương hại lấy chính mình.
- ít nhất tự ái của anh còn nguyên vẹn.
- Có khi cần tự ái để có sức mà sống.
- Anh quá phức tạp, em không hiểu.
- Thúy có hiểu cũng không có gì thay đổi.
- Chắc anh tưởng mọi chuyện ở em đều dễ dàng? Vì thấy em lấy chồng, em đẻ con, em làm giàu. Anh tưởng chuyện cũ em chỉ cần đậy nắp lại, phủ khăn lên là xong? Là chấm hết, phủi tay bước sang chuyện khác! Anh yên trí, không chỉ có anh mất mát. Có cần chúng mình kê khai những mất mát của mỗi người để so sánh hơn thua? Để biết có bao nhiêu tình cảm đã bị phí phạm? Có bao nhiêu uớc mơ sẽ không bao giờ trở lại? Chẳng ai nguyên vẹn được sau khi bị nhục nhã. Anh đòi hỏi quá sức của em. Hồi đó anh muốn em coi thường con mắt của thiên hạ. Cho dù mang tiếng là cướp chồng, phá hoại hạnh phúc gia đình người ta, chạy theo Việt kiều đến mất cả nhân cách... Anh muốn em chống cự lại gia đình, bạn bè, những người chung quanh mình. Nhưng em quá tầm thường. Em yếu hèn. Không đủ can đảm đối đầu với xã hội, trút bỏ cái an phận ra khỏi mình. Em đã sợ. Em đã đầu hàng. Cuối cùng em chỉ lo chạy cho thân mình, để anh ở lại một mình nhận những hậu quả. Đấy, con người thật của em như vậy, biết làm sao bây giờ? Em nhận hết mọi lỗi. Nhưng còn bao nhiêu lỗi nữa cho vừa?
- Thúy, có những lời nói làm đau.
- Chưa xong, còn phải kể đời sống của em khi về đây. Anh có biết tại sao em lấy chồng chỉ một thời gian ngắn sau đó? Vì phải tẩy sạch một vết nhơ cho gia đình. Vì phải chuộc tội. Lúc đó, vấn đề sống còn đối với em là vào lại những khuôn mẫu của xã hội càng sớm càng tốt. Em chấp nhận người đàn ông đầu tiên vừa ý gia đình. Là anh Quân hay bất cứ ai khác cũng thế thôi. Anh Quân thấy rõ điều đó, em không có thêm sức để giả dối. Mục đích đã hoàn toàn ích kỷ, em còn phải lo dẹp những kháng cự ở trong mình, đầu óc nào để tìm hiểu chồng, nói gì đến tình thương. Rồi em tự hỏi tại sao anh Quân chịu lập gia đình với một người đàn bà vừa tai tiếng, vừa dửng dưng với mình như vậy. Sự thật giản dị. ở anh ấy chẳng có gì khác ngoài ý muốn lợi dụng địa vị của bố em, của cải gia đình em. Sống chung không bao lâu vợ chồng đã nhìn nhau bằng con mắt khinh miệt và ngờ vực. Mỗi ngày lại thêm những tranh chấp nhỏ nhen, những đụng chạm tự ái, những thái độ hằn học, những mầm mống hận thù. ý muốn có con làm hai người thỏa hiệp được một thời gian chung chạ. Sau đó thằng bé nhanh chóng trở thành một cái cớ cho những mâu thuẫn mới. Em tìm trong hôn nhân một nơi ẩn trú, em gặp ở đó một thứ địa ngục hàng ngày. Lần này phải chịu đựng đến cùng, không thể tai tiếng một lần nữa. Tới một lúc hai vợ chồng đều kiệt sức, mỗi người chỉ còn cách xóa đi sự hiện hữu của kẻ chung sống với mình. Anh Quân đi kiếm những người đàn bà khác. Nói thật với anh, cuộc sống của em cũng dễ thở hơn từ đó. Xã hội thay đổi, những chuyện ngoại tình bây giờ cũng thường. Một ông phó giám đốc xí nghiệp sống công khai với cô nhân tình trẻ đẹp còn là một hình ảnh của sự thành công trong xã hội mới. Anh cũng đừng lo cho em, thời buổi này không ai có thì giờ ngồi chê cười kẻ khác. Vả lại danh giá của em sẽ tùy thuộc vào tiền tài vật chất kiếm được... Anh Dũng, chưa có ngày nào em biết được đời sống bình thường giữa hai vợ chồng... Tại sao cái hỏng nó cứ lan từ chuyện này qua chuyện khác? Làm như em chưa trả nợ đủ...
Hắn ngừng nhìn người đàn bà. Mắt cũng không chịu nổi những đốm màu sắc quá nhiều trên chiếc khăn bàn. Những lời của nàng dần dần bị chặn lại. Hắn tìm kiếm những tiếng động chung quanh thay thế cho lời nói đang tắt lịm. Nhưng quá trễ, chỉ còn im lặng cho một tiếng khóc nhỏ. Thúy khóc như hồi nào, những giọt nước mắt vẫn thế, thời gian đã chẳng làm được gì.
Khi hắn ngẩng mặt lên, thắng bé đã đến cạnh mẹ, nhìn mẹ không hiểu. Thúy ôm con vào lòng, môi nàng lạc trong tóc nó, hai bàn tay run rẩy trên thân thể đứa bé. Hắn muốn những giây phút đi qua thật chậm để tiếng nấc bớt đi, nhịp thở đều trở lại. Hắn ra đứng cửa sổ, nghe sau lưng người mẹ thủ thỉ với con. Cu thấy mẹ khóc xấu không, mỗi lần cu khóc cũng vậy, mắt nhòe, mồm mếu máo, mũi xụt xịt, ai mà thương được, thể nào bác Dũng cũng cười, làm như thời con gái, đụng một tí là nước mắt nước mũi tuôn ra, mẹ khóc cu ngạc nhiên, lâu lắm rồi mẹ không khóc phải không, tại lỗi bác Dũng, không, tại lỗi mẹ, trước đây mẹ làm bác Dũng buồn lắm, bác Dũng buồn ra sao thì mẹ con mình không đoán được đâu. Một lúc sau thằng bé vào lại phòng trong, hắn trở về chỗ ngồi.
- Bây giờ tháng tám, ở Paris chắc dễ chịu lắm anh nhỉ. Xe không còn kẹt trên đường phố, chỗ đậu xe không mất tiền, các xí nghiệp cơ quan vắng người làm việc tà tà.
- Tháng này bên đó những kẻ ngủ đường ngủ chợ bị đuổi ra khỏi trung tâm thành phố, để du khách Mỹ, Nhật, Đại Hàn có chỗ chụp hình. Rạp xi nê và chương trình ti-vi chỉ toàn phim Mỹ hạng bét, đã chiếu cả chục lần.
- Anh đúng là ông Tây, lúc nào cũng càu nhàu.
- Thúy hồi đó cũng chê nước Pháp. Đứng đưới tháp Eiffel nguy nga thì hỏi "Chỉ có vậy thôi à?" Ngồi trước những món ăn tinh tế, rượu nổi tiếng của Pháp lại thèm rau muống xào và nước mía. Đi thuyền ruồi trên sông Seine thơ mộng cứ ngáp ngắn ngáp dài và hỏi giờ.
- Đó là để chọc tức anh đấy! Chứ nước Pháp của anh cũng không đến nỗi nào. Paris của anh là thủ đô văn hóa của cả thế giới. ở đó, anh đã dẫn em đến những mảnh đất nghệ thuật em chưa từng biết. Em không biết chọn giữa cái lãng mạn của nhạc cổ điển và cái huyền ảo của nhạc jazz. Em theo anh đi từ hội họa ấn tượng vào trừu tượng. Em kéo anh vào các nhà thờ cho anh thấy khác biệt giữa những thời đại kiến trúc roman, Renaissance và baroque mới học được. Em chưa khám phá xong các vở opéra muôn thuở thì đã bị quyến rũ bởi những cái đẹp lạ lùng trong lãnh vực múa hiện đại...
- Nhưng ở phố Tàu của Paris nước phở nhạt thếch. Món ăn nào cũng thiếu đủ thứ gia vị.
- Đâu cần, chúng mình có thể đi ăn pizza của ý, couscous của ả Rập, paella của Tây Ban Nha, hưởng chút hương vị của những góc trời xa lạ với em. Paris là một địa cầu thu nhỏ, em nhớ khu Belleville đầy màu sắc, nơi chung sống của người Tàu, người Do thái, người ả rập, người Phi châu...
- ở thành phố đó suốt ngày thần kinh mình căng thẳng. Đến giờ tan sở phải chọn lựa: hoặc ra đường hít vào người không khí ô nhiễm của rừng xe hơi, hoặc chui xuống đất lấy métro với nỗi sợ có bom khủng bố.
- Anh cứ nói vậy! Em còn nhớ chúng mình đón mùa hoa nở ở Jardin des Plantes. Có buổi chiều chúng mình bước theo nắng hạ dọc con kênh Saint-Martin. Khi lá cây đổi màu là lúc đi hái nấm trong rừng Senart. Mùa đông vừa ngồi nhìn tuyết rơi vừa ăn những trái marrons nóng hổi.
Người thiếu nữ hồi đó đến với hắn như một mùa mới lạ. Không gian thu lại ở hiện diện của một người, thời gian ngừng bám vào bước chân của từng ngày. Mùa đó, có lời nói êm dịu hơn im lặng, có đôi mắt dẫn về một vùng trời trong sáng, có những ngón tay biết làm rung động làn da. Quê hương theo Thúy đến tận chỗ sống của hắn, một người khách bất ngờ đã lâu hắn không còn chờ. Đã qua rồi những năm hắn gửi hết đam mê về một đất nước sôi động. Việt Nam chỉ còn ở trong hắn như một ký ức. Một nơi cất giữ tuổi trẻ, những giấc mơ và vết tích của một lý tưởng. Rồi với Thúy, Việt Nam chợt gần gủi như cái giọng con gái Hà Nội gắn bao nhiêu tuyệt vời vào câu nói. Việt Nam thực tế như vui buồn của những con người chung một thân phận. Việt Nam đẹp như một sự thật xác xơ nhưng tinh nguyên ở giữa đất lạnh lẽo của văn minh. Thúy đã vào đời hắn bất ngờ. Nhưng chắc gì cuộc gặp gỡ này là một nhầm lẫn trong sắp xếp của những số phận. Biết đâu ngày đó đã được định từ đầu trong hành trình của hắn. Như những giòng máu trong người từ khi bắt đầu chảy đã tìm lối trở về nơi ra đi.
Người đàn bà và hắn nhắc lại những tháng ngày tưởng như một hạnh phúc. Thời gian độ lượng, trả lại một vài hình ảnh cũ để họ ngồi cười với nhau. Họ giành nhau những câu chuyện chưa quên, mỗi lần lại ngạc nhiên về trí nhớ của người nghe. Họ cười những gì đâu đâu. Hồi đó làm sao con gái trưởng giả của thủ đô Hà Nội mà lại quê mùa như vậy! Và cái anh chàng điệu bộ sành đời sao lại vụng về dại gái đến thế! Ai tham lam đòi cả Paris cho riêng hai người? Ai vô ý để mặt trời quê hương chan hòa vào những giấc ngủ đêm?
Những chuyện để vui thôi. Không có những lần buồn bất chợt, thất vọng, giận ghét, chán đời. Không có cái đêm người thiếu nữ chạy khóc ngoài đường phố. Không có nỗi đau làm người đàn ông một hôm ngồi bất động cả giờ trong xe. Coi chừng đừng ai nhớ những niềm vui từ đâu đến, có một tình cảm ngày hôm nay không được quyền nhắc tới. Cười quá khứ đi để giữ nó xa hiện tại. Bảy năm rồi, Thúy và hắn đã là hai con người khác, chỉ nên vẽ lại một đóa kỷ niệm chọn lọc.
Dù sao, im lặng sau đó có gì như một sự thông cảm giữa hai người đối diện. Một hồi sau người đàn bà nói:
- Có người tả đời sống như một cuộc chạy đua về hạnh phúc. Trong cuộc đua này anh và em khó mà theo kịp số đông! Chúng mình trễ lắm rồi, bỏ cuộc lúc nào không hay.
- Vẫn còn may mắn hơn nhiều người. Đất nước này đã có biết bao nhiêu thảm họa. Có những mất mát tính bằng máu xương, bằng nhân phẩm. Có những tàn tật vĩnh viễn trên thể xác và trong đầu người. Chúng mình đã thoát được tất cả những cái khổ đó.
- Nhưng, anh Dũng, làm cách nào để quen được với ý nghĩ hạnh phúc ở ngoài tầm với?
- Anh không biết. Có lẽ những niềm vui nhỏ kết vào nhau cũng mang lại một ý nghĩa nào đó cho những tháng ngày. Hay những ước muốn khiêm nhượng. Anh nghĩ lúc nào cũng cần tìm cho mình một cái gì để chờ đợi.
Chiều đã muộn, ánh sáng không còn đủ trên khuôn mặt người đàn bà. Hắn nói trước khi về:
- Thúy, chúng mình không hiểu những chuyện đã xảy ra. Có gì dữ dằn ở trong đó. Nhưng nhất định phải tự nhắc nhở một điều, chỉ một điều thôi. Đừng sợ cuộc sống.
Thúy đứng lâu ở cửa khi hắn ra đi. Con ngõ đầy mùi xào nấu, người ta đã bắt đầu chuẩn bị bữa cơm tối.
tháng 1 năm 1997
Vũ Hồi Nguyên
***
Rằm tháng Giêng
GS Hoàng Như Mai
Nhân dân ta có câu : "Đi lễ quanh năm không bằng ngày rằm tháng Giêng", vì ngày rằm tháng Giêng, người ta đi lễ chùa rất đông vui. Theo tục lệ, Tết là mở đầu cho một năm mới, rất quan trọng đối với cả một năm; ngày Tết người ta cầu chúc cho nhau những điều tốt lành với niềm tin là sẽ đạt được những điều ấy. Ngày mồng một tháng Giêng mọi người ở nhà lễ gia tiên, ăn Tết, kiêng không xuất hành. Cho nên, đến ngày rằm người ta đi chùa, lễ Phật, cầu mong Phật phù hộ độ trì để quanh năm bình yên; và cũng tin rằng những lời thành tâm ấy được chứng giám.
Nhà thô Hồ Dzếnh có sáng tác một bài thơ như sau :
Rằm Tháng Giêng
Ngày xưa, còn nhỏ, ngày xưa,
Tôi đeo khánh bạc lên chùa dâng nhang.
Lòng vui quần áo xênh xang,
Tay cầm hương nến, đỉnh vàng mới mua.
Chị tôi vào lễ trong chùa,
Hai chàng trai trẻ khấn đùa hai bên :
"Lòng thành lễ vật đầu tiên,
Cầu cho tiểu được ngoài giêng đắt chồng"
Chị tôi phụng phịu má hồng,
Vùng vằng suýt nữa quên bồng cả tôi.
Tam quan ngoài mái chị ngồi.
Chị nghe đoán thẻ chị cười luôn luôn :
"Quẻ thần thách mách mà khôn,
Số nàng chồng đắt mà con cũng nhiều".
Chị tôi nay đã xế chiều,
Chắc còn nhớ mãi những điều chị mơ.
Hằng năm tôi đi lễ chùa,
Chuông vàng, khánh bạc ngày xưa vẫn còn.
Chỉ hơi thấy vắng trong hồn,
Ít nhiều hương phấn khi còn ngây thơ.
Chân đi đếm tiếng chuông chùa,
Tôi ngờ năm tháng ngày xưa trở về.
Tác giả Hồ Dzếnh là một nhà thơ, nhà văn có tên tuổi. Bài thơ Rằm tháng Giêng chứa đựng một tình cảm trong sáng nhẹ nhàng. Đây là một trong những sáng tác của Hồ Dzếnh được nhiều độc giả thưởng thức và thuộc từ hơn nửa thế kỷ qua.
Giá trị đặc sắc của bài thơ là ở những điểm sau :
1. Bài thơ thể hiện các tục lệ "ăn Tết" nhiều ý nghĩa và đậm đà bản sắc dân tộc của người Việt Nam ta. Đó là một thuần phong mĩ tục. Trong bài thơ này, qua một sự việc giản dị, có tính chất rất phổ thông là việc cô thiếu nữ đi lễ chùa ngày rằm tháng Giêng, tác giả giới thiệu đặc trưng của văn hóa truyền thống và tâm lí con người Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam ưa cuộc sống hiền lương, hướng thiện; họ biết dung hợp với thiên nhiên chung quanh; họ tin cậy ở đức hóa sinh của Trời Đất; họ nuôi trong tâm trí những niềm hy vọng lạc quan và họ theo đuổi những nguyện vọng hợp lí. Câu chuyện dẫn ra trong bài thơ, giống như một bức tranh dân gian đơn sơ, giản dị. Nó nói lên đầy đủ cái tính cách Việt Nam : mùa đông đi qua, mùa xuân vừa tới. Thiên nhiên và con người bước sang một chu kỳ mới, cô thiếu nữ thấy nảy nở trong lòng niềm vui hồn nhiên trong sáng, niềm tin vào tương lai. Cô cùng em nhỏ đi lễ chùa, thành kính cám ơn Trời Phật và cầu nguyện Trời Phật phù hộ độ trì cho cô. Bức chân dung "thiếu nữ ngày xuân đi lễ chùa" ấy đẹp một vẻ đẹp mộc mạc, thanh tú biết chừng nào! Cuộc sống tưởng chừng như đơn sơ, tẻ nhạt ấy thật ra rất thanh khiết và thuần nhã, như hoa sen mọc trong đầm mà toả hương thơm mát lòng người.
2. Đạo Phật từ lâu đã hiện hữu trong xã hội Việt Nam, hòa quyện vào tâm hồn Việt Nam thành một tố chất tự nhiên của cuộc sống. Có lẽ cô thiếu nữ không suy nghĩ toan tính sâu sắc gì nhiều, đứa em nhỏ lại càng không. Ngày xuân, hòa nhịp với cuộc sinh thành vô tận của vũ trụ và nhân sinh, hai chị em khấp khởi niềm vui trong lòng và hớn hở đi lễ chùa cầu Phật.
Ngôi chùa, biểu hiện của đạo Phật, trong ý thức của hai chị em là một nơi đông đúc, vui vẻ, thú vị. Đó chính là hình ảnh của đạo Phật trong dân gian Việt Nam. Đạo Phật không phải là những giáo điều khô khan xa vời, đạo Phật không phải là sự tu hành khắc khổ, công thức, giả tạo; đạo Phật là gần gũi, là thân mật, là ân cần, là bao dung "Khấn sao được vậy như lòng thế gian".
Cái quan niệm dân gian hóa - nếu có thể nói thế được - không sơ lược hóa, không thực dụng hóa đạo Phật mà chỉ tăng tính phổ cập, tăng sức sống cho đạo Phật, như truyện Nam Hải Quan Thế Âm đã nói :
Có thân ngồi núi Phật Đà,
Thân lên trên Phật, thân qua dưới đời.
Thần thông nghìn mắt, nghìn tay,
Phổ môn hiện để độ loài ngu mông.
Đứa trẻ nhỏ "Đeo khánh bạc lên chùa dâng nhang - Lòng vui quần áo xênh xang - Tay cầm hương nến, đỉnh vàng mới mua", cô thiếu nữ "Tam quan ngoài mái chị ngồi - Chị nghe đoán thẻ chị cười luôn luôn" biểu thị sự thuần phác, nhân hậu, lòng mộ đạo hồn nhiên ấy.
3. Đáng chú ý nhất là đoạn kết của bài thơ. Nhà thơ nhớ và kể lại một hồi ức của tuổi thơ. Các hồi ức về quá khứ thường là nhuốm màu u hoài. Nỗi u hoài ở đây là một nỗi buồn man mác. Cô chị thì :
Chị tôi nay đã xế chiều,
Chắc còn nhớ mãi những điều chị mơ.
Còn đứa em - nay là nhà thơ, thì :
Chỉ hơi thấy vắng trong hồn,
Ít nhiều hương phấn khi còn ngây thơ.
Tại sao có nỗi buồn ? Ấy là vì nhớ, tiếc quá khứ.
Cô thiếu nữ đã mơ những điều gì ? Những điều mơ ấy đủ đạt được, đạt nhiều hoặc ít, thì nay cũng qua cả rồi. Chị tôi nay "đã xế chiều" tức là già rồi, tuổi xuân qua rồi nên buồn bã nhớ tiếc.
Chính vấn đề là ở chỗ đó. Bởi vì cô thiếu nữ ngày trước ấy cho mơ là thật, nên cô tiếc. Nếu cô hiểu rằng :
Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không
(Chinh phụ ngâm)
thì cô sẽ bình tĩnh hơn.
Đạo Phật cho rằng : cuộc đời là ảo mộng, mọi sự đều là giả. Cho nên những điều mơ của cô thiếu nữ chỉ là mơtrong mơ . Giả thiết có điều nào thực hiện được thì cũng là thực trong mơ mà thôi.
Tôi còn nhớ một vị Hoà thượng đã nói :
"Từ con người cho đến sự vật chung quang mình đều theo dòng thời gian mà biến đổiẨ Thân mình, và ngoại cảnh là không gian, ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai là thời gian, Tất cả là một dòng mộng có gì đâu thực là mình ?"
Nhưng hiểu như thế có khiến cho người đời hoài nghi bi quan, tiêu cực không ?
Vị Hòa thượng nói tiếp :
"Nhưng nhờ phúc duyên lành, chúng ta được Đức Phật chỉ cho trong cái mộng ấy có cái không phải là mộng. Mà cái đó là cái hiện giờ chúng ta đang trở về, đang theo dõi nó và tìm thấy nó để sống với nó"
".. Nếu chúng ta sống với tâm niệm thiền thì mới thấy rằng trong cái sinh, diệt ảo mộng còn có cái không sinh diệt lẫn trong ấy. Thế nên lòng mình được an ổn, tự tại và vui vẻ. Chỉ thấy được một tí, một khía cạnh nhỏ xiú nào của cái đó, chúng ta cũng cảm thấy hứng khởi, một niềm vui vẻ để xoá được nỗi đau buồn"
Giá trị tích cực, giá trị nhân văn của đạo Phật là như thế. Điều mà hoà thượng nói trên, chúng ta đã thấy được trong bài thơ Rằm Tháng Giêng.
Nhà thơ Hồ Dzếnh, hoài niệm quá khứ, có vương vấn, có bâng khuâng, có nhớ tiếc :
Hàng năm tôi đi lễ chùa,
Chuông vàng, khánh bạc ngày xưa vẫn còn.
Chỉ hơi thấy vắng trong hồn.
Ít nhiều hương phấn khi còn ngây thơ.
Ấy cũng là vì ngộ nhận cái giả là thực. Nhưng, có sự xuất hiện của tiếng chuông chùa :
Chân đi đếm tiếng chuông chùa,
Tôi ngờ năm tháng ngày xưa trở về.
Câu thơ cho thấy sự thư thái, trấn tĩnh trở lại trong tâm hồn nhà thơ. Phải chăng "năm tháng ngày xưa trở về" với nhà thơ ? Làm sao như thế được ! Năm tháng ngày xưa đã đi qua, đã mất, trở về sao được ! Ấy là vì nhà thơ lắng nghe từng tiếng chuông chùa, tiếng chuông đã gợi lại cái Phật tính vốn có trong nhà thơ và cái tâm của nhà thơ trở nên thanh thản, vô tư, hồn nhiên như cái tâm của trẻ thơ đấy thôi.
GS Hoàng Như Mai
***
Nỗi Niềm Xa Quê
Nhiều năm đằng đẵng trôi qua, tôi thực sự xa quê, xa hẳn tình thương gia đình, nhất là tình thương mẹ hiền, khối tình thiêng liêng cao cả đến nỗi nếu thiếu tình thương đó thì tôi không thể sống nổi đến ngày nay.
Quê tôi là một vùng thôn dã nghèo nàn với những mái nhà đơn sơ, cánh đồng lúa, những con đường mòn,... Nhưng ở đó tôi đã lớn lên bằng dòng sữa ngọt ngào của mẹ và tình thân đồng bào bao la. Quê tôi chẳng có gì cao siêu hơn bóng dừa, chùm khế, trái me,... với những con người chân chất, ít học, quanh năm chân lấm tay bùn bên nương khoai, ruộng lúa, tay cày, tay cuốc. Kỷ niệm tuổi thơ của tôi cũng chỉ nhỏ nhoi như viên ô-mai và đơn sơ như những trang viết học trò tim tím một thời dưới mái trường làng.
Tôi bôn ba giữa chợ đời, đi mãi, chẳng trở về quê, nơi đó có mẹ già vẫn mỏi trông đứa con trai đa mang và lận đận. Có về chăng chỉ là dịp tết, vài ngày rồi lại đi. Vô tình mà tôi hóa thành bội bạc. Và rồi... mấy năm qua, tôi không còn thấy bóng mẹ hiền nữa. Mùa xuân mà lòng tôi thật trống vắng, tôi càng ít nói hơn...
Làm sao không nhớ mỗi khi chiều về? Làm sao không buồn khi mưa giăng tầm tã? Làm sao không hoài niệm khi nắng trưa vàng óng? Còn đâu những bữa cơm đạm bạc nhưng mặn nồng tình thương, những ánh mắt trìu mến, những tiếng cười, tiếng dế, tiếng gà,... và tất cả những gì của một vùng quê. Ai đã từng sống ở quê mới khả dĩ hiểu hết chữ "quê" ấy. Chợt nhìn lại kiếp tha phương cầu thực, ăn nhờ ở đậu, sống qua ngày đoạn tháng, tôi thấy chạnh lòng biết bao! Cánh-diều-tuổi-thơ-tôi-mang-những-ước-mơ đâu rồi? Tôi tiếp tục độc hành để sống còn, ít là cho chính mình, vì tôi biết tôi chưa thể làm gì lợi ích cho người khác. Tôi luôn tự trách mình vô duyên và bất tài!
Rộng hơn, tâm trạng người viễn xứ nơi đất khách quê người thì buồn đến chừng nào nữa! Xưa nay, quê hương Việt Nam mến yêu của tôi hãnh diện với bốn ngàn năm văn hiến, là con Rồng cháu Tiên, chinh Nam phạt Bắc, nhỏ người nhưng chí lớn, vươn mình lên từ muôn gian lao. Quê hương tôi thắm tình từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau, suốt dòng chữ S duyên dáng. Ðơn giản và "khó ngửi" như mùi mắm tôm, mắm ruốc lại là "vị" người ta không thể quên. Thế thì ai có thể quên được những danh lam thắng cảnh khác trên khắp quê hương Việt Nam? Là người "bạc" nhất cũng có một thoáng nhớ - dù là nỗi nhớ vu vơ!
Tôi luôn nhớ những gì của quê hương tôi, cả niềm vui lẫn nỗi buồn. Tôi nghẹn ngào khi gặp lại người thân mà không thốt nên lời, cho nên tôi vẫn bị coi là khó hiểu và khó tính. Xin đừng trách tôi, thật lòng tôi không muốn làm phiền ai hết. Xin cho nhau hạnh phúc ngọt ngào để được nói câu: "Buồn ơi, ta chào mi!".
Trầm Thiên Thu