5 - Làm Sao Cắt Nghĩa......Hồ Thị Mỹ Hạnh 6- Nghề Mọn ......Quý Thể 7- HỢP ... Quý Thể 8-
7- HỢP
Truyện ngắn Quý Thể
Ngồi trên xe Hợp tính, đến nơi, xách hành lí vô nhà. Việc đầu tiên là thay quần áo và đi gội đầu ngay. Mấy ngày đi chơi với anh Quan ở Sài gòn nàng đều có tắm rửa song gội tóc thì chưa. Thời gian của những kẻ đang yêu ngắn ngủi gấp rút lắm. Chương trình du hí thì nhiều, cái thời khoá biểu gần như đầy kín, không trống giờ nào để đến tiệm gội đầu. Hợp định, nếu khi bước chân vào nhà, hắn mà lộ vẻ nghi ngờ có "mùi đàn ông" trong tóc, trong người vợ, nàng sẽ nói... Nói gì thì chưa nghĩ ra. Hợp còn đang loay hoay tìm lý do.
Nàng đưa mắt nhìn ra cửa xe, cánh đồng lúa xanh mơn mởn chuyển động như bức tranh gắn trên chiếc đĩa quay khi chiếc xe chạy rất nhanh trên đoạn đường êm. Màu lúa xanh êm dịu vô cùng, thật dễ chịu sau bao ngày chìm đắm trong cái thành phố năm triệu con người. Hợp thấy lúc này ngồi một mình trên xe mà không nghĩ ra được cách nói láo thì khi về nhà trước mặt hắn, biết đối đáp làm sao? "Hắn" gọi nơi đây là chồng nàng. Hợp nhớ lại trước đây có lần hắn đi làm về, vừa bước chân vào nhà, hắn hít không khí trong phòng khách, giống như chó đánh hơi, lên tiếng:
- Sáng nay thằng nào đến đây?
- Ai đâu!
- Sao có mùi thuốc lá thơm?
Hợp thầm phục cái mũi hắn. Phải hồi lâu Hợp mới nhớ ra, lúc sáng có người đến thu tiền điện, anh ta phì phèo điếu thuốc.
Chuyến này đi chơi với Quan, lúc nào cũng thấy anh ta hút thuốc. Thế nào trong quần áo tóc tai mình lại chẳng thấm đẫm cái mùi thuốc lá, mùi đặc trưng của bọn đàn ông. Vậy thì hãy nghĩ cho ra cái lý do nói láo. Trong xe có tiếng phụ nữ càu nhàu :
- Ngột quá! Làm ơn tắt thuốc đi.
Có tiếng đàn ông:
- Tắt sao được? Người ta mới đốt, cả ngày thèm thuốc muốn chết.
Lại có tiếng phụ nữ than phiền:
- Xe đông khách, cửa kính quay lên kín mít, ngồi trong xe hút thuốc, người khác thở sao nổi. Chỗ đông người phải biết lịch sự chớ.
Có người thuộc phái chống thuốc phụ hoạ:
- Ở nước ngoài người ta cấm hút thuốc nơi công cộng, trên tàu xe, rạp hát, cơ quan, có luật hẳn hoi, thiệt đúng.
Có ai đó ở cuối xe kêu lớn:
- Quay cửa kính xuống cho thoáng!
Lại có người la:
- Mở cửa thì còn chi là xe có máy lạnh?
Mẩu đối thoại giữa hai nhóm hút thuốc và chống hút thuốc gợi cho Hợp ý kiến tuyệt vời. Nếu hắn có nghi ngờ, Hợp sẽ nói, ngồi trong xe ai cũng hút thuốc, khói thuốc bay đầy, nó nhiễm vô tóc tai quần áo. Nhất là tóc, vì tóc có bôi dầu, dầu mỡ là thứ dễ nhiễm mùi. Không thấy người ta thu mùi hoa hồng bằng cách bôi mỡ heo trong lòng cái cốc thuỷ tinh úp lên những đoá hoa hàm tiếu đó sao? Với lý lẽ hùng hồn đầy tính chất khoa học đó, thế nào cũng thoát hiểm.
Nhưng đó cũng chỉ là cách hoá giải cái mùi lạ, còn về thời gian thì thể nào hắn cũng hỏi tại sao nói đi ba ngày lại đi đến mười ngày. Hợp chẳng lo. Có cả triệu lý do để giải thích việc này. Mấy anh công nhân, binh lính, học sinh, công chức, có anh nào đi phép về đúng thời hạn ghi trong giấy phép đâu, nhưng cũng không có ai không có lý do, người thì đau ốm, trễ tàu xe, người thì lí do này nọ. Còn Hợp, nàng sẽ nói nhà giữ lại thêm mấy ngày để ăn lễ hỏi con Tâm. Má biểu ở lại thêm mấy ngày kỵ giỗ ông nội. Để tiễn gia đình chú Thu đi Pháp. Để chờ thằng Nga đi thi... nhưng Hợp nghĩ lại, những cách nói láo đó rất xoàng, thiếu tính sáng tạo, thiếu chi tiết, thiếu cụ thể. Nói tóm lại là thiếu tính thuyết phục. Đã nói láo thì phải hay ho hơn. Nhưng đó là con dao hai lưỡi. Nếu bị bắt mà cung khai kiểu này, người ta kiểm chứng từng chi tiết, sẽ lộ ngay. Vậy tốt nhất vẫn là cách nói mơ hồ, vu vơ, ỡm ờ. Nếu hắn hỏi vì sao về trễ, cứ nói:
- Thì bao nhiêu là công chuyện.
Hắn hỏi: "Chuyện chi?", lại ỡm ờ.
- Đủ thứ chuyện lặt vặt ai mà nhớ.
Nhưng nếu hắn chưa chịu dừng, cứ hỏi tiếp: "Lặt vặt là chuyện gì?". Thì mình làm bộ gắt: " Đàn ông hỏi chuyện lặt vặt của đàn bà làm cái chi?". Nói xong mình giả bộ bực tức bỏ đi. Chắc hắn cũng chẳng dám làm khó mình nữa.
Mình đã đọc biết bao nhiêu tiểu thuyết trinh thám của những nhà văn lừng danh trên thế giới họ luôn dựa vào những chi tiết cụ thể, rõ ràng, mạch lạc để rút ra kết luận. Không ai dựa vào những lời nói, sự suy luận, phán đoán viễn vông. Vậy thì phải kiểm soát thực kỹ từng chi tiết trước khi trở về nhà. Hợp đã bỏ ra cả một buổi chiều sau cùng để lục tung túi xách quần áo. Xem túi áo, túi quần, lấy ra giũ từng cái thử có vật gì là tàng tích của cuộc đi chơi với người tình. May quá, còn một tí nữa thì chết vì hai cái vé xem phim nằm trong quần Jean. Lai quần còn dính đầy cỏ may. Về Sài Gòn thì cỏ may đâu, chỉ có nước kéo nhau vào bụi vào bờ. Hợp thấy cổ nhân nói rất đúng : "Cư an tư nguy" nghĩa là muốn an ổn phải lo nghĩ đến sự nguy nan. Nếu không có việc tái kiểm soát này đã nguy to rồi.
Lâu nay hai người đã có quy ước, không viết lách thư từ gì cho nhau, dù là một chữ. Đó là nguyên tắc. Lời nói gió bay. Lời nói là kẻ thù của ngành điều tra vì nó chẳng để lại vết tích gì. Dù có "bắt" được lời nói bằng cách ghi âm thì lời nói cũng không được coi như bằng chứng được pháp luật công nhận. Người bị kẻ khác thu thanh, khi ra toà họ phản bác, không công nhận đó là tiếng nói của mình thì cũng chẳng có cách gì chứng minh ngược lại.
Đã kỹ lưỡng đến thế nhưng phút chót Hợp vẫn lo lo, không biết còn sai sót gì không? Nàng tính chuyến trở về này mình sẽ tự giặt quần áo, không sai bảo ai cả.
Xong vật chứng rồi còn phải lo đến nhân chứng. Hợp cố nhớ lại thử chuyến phiêu lưu vừa rồi có gặp người quen nào không? Rõ ràng là không gặp ai, gặp người quen sao được trong cái thành phố xa lạ này. Mình chỉ là hạt cát giữa bãi sa mạc. Nhưng ở đời chẳng thiếu sự ngẫu nhiên. Bao nhiêu cuộc toan tính, bao nhiêu mưu đồ đại sự, do những bộ óc siêu việt vẫn cứ bị đổ bể vào phút chót chỉ bằng những cái cớ rất nhỏ, gọi là "sự ngẫu nhiên chết người!". Ngẫm nghĩ lại. Hợp thấy sợ hai hạng người này nhất. Hạng thứ nhất gồm những người họ biết mình mà mình chẳng biết họ. Đã có khi Hợp gặp một người, kẻ đó hỏi han niềm nở, tỏ ra biết Hợp với gia đình nàng rất rõ, thế nhưng Hợp nghĩ ngợi nát óc vẫn không nhớ họ là ai, quen nàng trong trường hợp nào ? Còn hạng người thứ hai cũng thật nguy hiểm, đó là những người trông thấy mình mà mình không thấy người. Về trường hợp nhân chứng Hợp đã có đối sách: Nếu có kẻ nào đó nói lại với hắn đã gặp Hợp đi chơi với một người đàn ông xa lạ khác thì nàng sẽ chối, chối tận cùng. Trước tiên làm bộ kinh ngạc, hỏi:
- Sao?
Hắn sẽ lặp lại câu hỏi: "Có người nói...". Hợp quyết liệt:
- Tầm bậy!
Hắn lại nói: "Người ta nhìn thấy...". Hợp làm như tìm ra chân lý:
- À, người giống người ấy mà, họ lầm cũng phải.
*
Suy nghĩ vẫn vơ đủ thứ chuyện, con đường về nhà như ngắn lại. Lúc xách va-li vào nhà nàng nghĩ, thôi tới đâu hay tới đó. Tính toán mãi thêm mệt óc. Rồi trong một phút bốc đồng Hợp lại thách thức, không cần theo đúng kịch bản nào, cứ "hát cương".
Hợp bước chân vào nhà thấy mặt chồng rất bình thản, hiền lành, quen thuộc như mọi khi, nàng rất yên tâm, tự nhủ: Ôi thế mà cứ nghĩ ngợi lung tung. Hãy xem " nghệ sĩ nhân dân " Ngọc Hợp biểu diễn đây! Trước tiên nàng tỏ vẻ mệt nhọc sau một chuyến đi dài vất vả. Tất cả nàng đổ tội cho... Nhà nước.
- Có mấy trăm cây số đi cả ngày mới tới. Xe cộ chậm như rùa. Tiền của đổ vào đâu chẳng chịu sửa chữa mấy con đường. Giao thông là huyết mạch mà chẳng chịu lo...
Hợp liếc mắt, thấy hắn ta loay hoay tìm kiếm cái. À thì ra hắn nghe mình than mệt, làm nước cam cho mình giải khát. Hợp nói:
- Đường xá xấu, xe cộ lại hư hỏng đủ thứ...
Rồi đột nhiên nàng cao hứng hư cấu, sáng tác ra câu chuyện trở về nhà thăm gia đình rất sinh động và rất nhiều chi tiết: "Lúc đầu mình tính chỉ ở lại vài ngày, không ngờ cả mười ngày sau mới về được, nhớ nhà muốn chết!". Anh ta không nói gì cả. Hợp nói tiếp: "Trong nhà vui vẻ lắm. Ngày đầu chẳng việc gì, ngày sau má đổ bệnh. Em tưởng bệnh xoàng, sai con thu ra Phắc-ma-xi mua thuốc. Ngày sau trở nặng phải nhập viện. Người ta theo dõi hai ba ngày chưa biết nguyên nhân. Hôm nay mới khá khá nhưng cũng chưa xuất viện về nhà được...". Hợp cũng chẳng nghe anh ta nói năng gì. Nàng tiếp: "Muốn bỏ về sớm nhưng không được, bà già trách chết. Sau đi liều, đi xa mới thấy không nơi nào bằng nhà mình...". Hợp còn ngồi nơi ghế sa-lông, chưa chịu xách hành lí vào phòng. Ý nàng còn muốn huyên thuyên diễn xuất thêm một lúc nữa một lúc nữa. Hắn làm xong hai cốc nước cam, mang đến đặt trước mặt nàng một cốc nước cam. Còn cốc nữa hắn đặt phía đối diện rồi bỏ đi. Hợp kêu lại:
- Ngồi xuống đây uống chớ, bỏ đi đâu? Tôi còn phải hỏi công việc nhà, có làm đúng những lời tôi dặn trước khi đi hay không?
Hắn ta vẫn bước ra nhà sau. Hợp kêu giật lại:
- Không nghe người ta nói sao lại bỏ đi?
Hắn quay lại:
- Chờ một tí để anh mời má em ra uống nước, rồi muốn nói gì thì nói.
!!!
Quý Thể
***
6 - Nghề Mọn
Quý Thể
Mỗi lần về quê tôi không quên diện bộ đồ chiến, quần áo ka ki vàng đội nón cối đánh phấn trắng, mang giày Ba-ta. Thời ấy công chức đi đâu cũng ăn mặc theo lối này và được bà con gọi bằng cái tên chung la " Thầy Hai". Họ tưởng tôi làm cái ông gì to lớn lắm ở trển ( trên Sài Gòn ). Sự thực tôi cũng là công chức hẳn hoi. Công chức chính ngạch, hạng C, chỉ số lương tập sự 180, ngang một người tốt nghiệp đít-lôm. Tôi làm việc cho sở vệ sinh đô thành. Ngành dọc của tôi là bộ Y Tế, ngành ngang là tòa Đô Chính. Chỉ riêng cái nghề của tôi thì tôi chẳng muốn nói với ai, cũng chẳng muốn nghe ai nói: Tôi làm nghề bắt chó chạy rông!
Mỗi tổ có hai người. Một lo đẩy chiếc xe nhốt chó, tương tự như xe cải tiến bây giờ trên có chuồng sắt nhốt chó. Một người nữa có nhiệm vụ bắt chó. Nghề này chẳng qua trường lớp hay khóa đào tạo nào, kẻ sau bắt chước người trước, thực tế trên đường phố vài ba tháng và thế là thành nghề. Nhà nước trang bị cho chúng tôi cây gậy dài thước hai, đầu có dây thòng lọng, Gọi theo từ kiếm hiệp là "kéo cẩu bổng". Mỗi năm chúng tôi được phát hai bộ áo quần, trông cũng oai ra phết, bọn cảnh sát thấy tưởng lính thiệt, không đến đòi xem giấy tờ bắt lính hay làm khó dễ. Đi đâu tôi có bộ kaki vàng bốn túi. Thường ngày, trước khi đến cơ quan công tác tôi diện áo quần sang trọng giày da, mũ phớt, cỡi chiếc xe đạp đơ-luých. Thấy thì oai lắm nên người trong xóm, tôi ở mấy chục năm, chẳng ai biết tôi làm nghề gì. Tới cơ quan tôi mới thay bộ đồ "tác chiến" vào. Ra đường, tôi xấu hổ, chỉ sợ gặp người quen, tôi sắm cái mũ tai bèo, kéo sập xuống che hơn nửa mặt, khó ai nhận ra tôi.
Đối với chúng tôi bắt một con chó dễ như lấy cây kẹo trong túi. Tôi cứ việc giấu cây gậy sau lưng, giả bộ "vô tư" tới gần, xuất chiêu, chỉ trong vài giây đã kéo cổ con cẩu nhắc bổng cho vào chuồng. Chúng tôi là công chức cho nên mỗi nhóm đều có cái gọi là "Thẩm quyền quản hạt" nghe rất oai, gọi theo từ ngữ bây giờ là địa bàn hoạt động, có ranh giới rõ ràng không ai xâm phạm của ai. Ai làm việc tốt được tăng lương, ai xấu bị kỉ luật, thuyên chuyển.
Tôi là một anh công chức tận tụy mẫn cán, đi về đúng giờ . Tôi là người làm việc nổi tiếng nguyên tắc, theo đúng phương châm" Pháp bất vị thân" Chó ông to bà lớn cách mấy cũng mặc kệ! Hễ để chạy rông thì tôi tóm! Tôi chẳng ngán ai cả! Ngòai ra, tôi còn là một công chức thanh liêm. Tôi không ăn của đút lót bao giờ. Đừng tưởng nghề này không ai hối lộ, có đấy mà lại còn nhiều nữa. Đây là niềm tự hào của anh công chức quèn như tôi. Có nhiều lần thấy tôi bắt con chó cưng của họ, họ liền đem tiền đến xin tha, còn hứa sẽ hậu tạ. Tôi nghiêm sắc mặt, nói như quát: "Coi chừng tôi lập biên bản về tội đưa hối lộ!" Thế là họ rút lui, sau đó rôi ôn tồn giảng giải : "Chó chạy rông rất tai hại, nó cắn truyền bệnh dại, chúng còn gây ra nhiều tai nạn giao thông, phải nuôi chó trong nhà và đem chó đi tiêm ngừa. Chó bị bắt về sở vệ sinh không phải bị giết ngay. Ba ngày sau, chủ nhà không đến lãnh thì giết!". Hồi ấy tôi cũng không biết mấy con chó bị giết, loại "chiến lợi phẩm" quí giá cho bọn ghiền thịt cầy nầy đi về đâu? Tôi được người thương nhưng chó thì rất ghét.
Năm tôi hai mươi hai thì xảy ra biến chuyển lớn trong đời. Như mọi thanh niên khác, tôi yêu ! Tôi yêu con nhỏ Lài ở chợ Bàn Cờ, con này làm đủ thứ nghề hạ tiện, dơ dáy và hôi hám song nhờ tình yêu, tôi thấy mọi hoa hậu trên thế gian này không ai đẹp bằng nó. Tôi rút ra triết lí : Người phụ nữ đẹp dần lên dưới con mắt người đàn ông yêu họ, thành ra ông bà ta có câu "Cái nết đánh chết cái đẹp" Cái nết quá tệ làm người ta không yêu thì có đẹp cách mấy đi nữa cũng vất! Tôi đã rủ con nhỏ đi coi cải lương mấy lần, đối với con gái thời ấy chịu đi coi cải lương với ai là được rồi. Con Lài thích tôi cũng chỉ vì cái mác công chức chính ngạch, tôi có tương lai, một tương lai do tôi vẽ ra, tôi tha hồ thêu dệt bao nhiêu điều tốt đẹp cho ngày mai. Nghe tôi nói, đứa con gái quê mùa này chắc cũng tưởng tôi đang giữ trọng trách gì to lớn lắm trong chính phủ ở cái xứ Sài gòn hoa lệ này.
Như tất cả mọi người đang yêu, tôi mơ mộng. Lâng lâng bay bổng, cả thể xác lẫn tâm hồn phút chốc hóa ra nhẹ hơn không khí, quả đất không còn sức hút tôi được nữa và thế là tôi...làm thơ !!! Ban đêm tôi cũng thao thức khó ngủ, ban ngày công tác uể ỏai, vì thế thành tích giảm sút thấy rõ, năm sau không bằng năm trước, chớ đừng hòng cao hơn năm trước! Khổ nổi, cái thằng đẩy xe phụ tôi, thấy tôi yêu nó cũng bắt chước yêu. Nó yêu một con bán nước mía và nó cũng... làm thơ !!! Vì thế hai đứa tôi lang thang suốt ngày chẳng bắt được con cầy nào. Chiều lại thằng nầy góp ý, kiểu hai tên lính mã tà Min-on, Min-đơ của Vũ Trọng Phụng: "Hay tao mầy đẩy xe về nhà tao mày câu cổ con chó Ky, mầy về câu cổ con vện nhà mầy ?" Không bắt được chó cũng vì suốt ngày chúng tôi tìm đến gốc cây bằng lăng trong sở thú, ngồi trên bãi cỏ xanh lấm tấm nắng vàng, mơ mộng rồi làm thơ. Chiếc xe bắt chó trống trơn dựng bên cạnh. Mấy con chó quanh vùng này thản nhiên đi lại chung quanh hai vị hung thần giờ đây trở thành hai nhà thơ rồi!!!
Trước đây tôi là một công chức tận tụy, yêu nghề. Nay tôi thấy cái nghề này tệ hại hèn mọn quá. Không hiểu sao giờ đây tôi thấy thương mấy con chó lang thang, chúng nó cũng cần tình yêu , cũng cần bắt bồ với nhau. Thời kì tôi yêu chính là giai đoạn " bùng nổ" của nạn chó chạy rông. Trong cuộc tình của tôi, chính mấy anh chàng tam khoanh tứ đốm, mấy nàng đầu đường xó chợ là được lợi nhất. Một hôm đang dạo chơi với con Lài tôi mới giật mình phát hiện ra điều này. Ngòai đường chó chạy rông nhiều quá. Chúng còn ngang nhiên ân ái với nhau giữa thanh thiên bạch nhật, kéo lê ra giữa đường làm xe cộ tắc nghẽn, khiến mấy cô gái đỏ mặt vì cái cảnh đoàn kết, đại đoàn kết... bất đắc dĩ này. Ôi tình yêu tai hại thật, nó làm cho một anh công chức chính ngạch chễnh mảng công vụ, thực đáng trách.
Người chuyên bắt chó như tôi thì hình như cái mùi chó nó nhiễm tận xương tủy, tới đâu chó đều xúm vô sủa. Con nhỏ Lài thấy lạ hỏi :" Bộ anh Hai mới ăn thịt cầy hả?" Tôi tuy là hung thần của chó nhưng lại chẳng biết ăn thịt cầy. Lần này tôi nhận có ăn, vì dù sao ăn thịt cầy còn "nhẹ tội" hơn cái nghề bắt cầy chạy rông. Từ ngày biết yêu tôi chỉ sợ một điều, sợ điều này còn hơn là cái chết. Tôi sợ sẽ làm cho con Lài thất vọng khi nó phát hiện ra người hùng của nó, một công chức chính ngạch làm cái nghề mọn này. Tôi xin thuyên chuyển qua tốp khác để tránh cái quận ba, có cái chợ Bàn Cờ, nơi thường có chó chạy rông và cũng là nơi người yêu tôi ngồi bán rau hành và mơ mộng về đấng lang quân. Tôi đi về quận năm bắt chó.
Nhưng rồi cuộc tình này cũng chẳng xuôi chèo mát mái như tôi tưởng. Tôi ở trong ngành hơn năm năm, bắt hàng trăm con chó to lớn hung dữ, không con nào chạm được da thịt tôi. Thế mà nay tôi bị con chó con, một con chó cò nhỏ bé, ghẻ lở cùng mình, tôi xem thường nó nên không dùng kéo cẩu bổng mà tóm bằng tay không, tôi bị nó táp một miếng đau điếng ! Thực đúng là đi năm sông bốn biển không chết lại chết đuối trong vũng trâu dầm ở đầu làng, sinh nghề tử nghiệp. Tôi bị con chó cắn vào tay cũng chỉ vì mơ mộng, lơ là công vụ, mất cảnh giác, thực đáng đời ! Hơn ai hết tôi rất lo sợ bệnh chó dại. Tôi xin giấy đi bệnh viện tiêm thuốc ngừa. Thời này phải tiêm 21 mũi vắc-xin quanh rốn. Tiêm thuốc xong tôi vô ý bỏ quên tờ giấy giới thiệu của cơ quan trong túi. Tai hại thay, công tác hành chính thời trước rất lỹ lưỡng, nên dù chỉ là một tờ giới thiệu cũng ghi đủ tên họ, chức tước và nhất là cái nghề tệ hại, nguyên văn: Bắt chó chạy rông! Khổ nỗi con nhỏ Lài cũng muốn thể hiện tình yêu bằng cách săn sóc cho tôi. Nó lấy quần áo tôi về giặt, nó lôi tờ giấy ra ê a đánh vần, phơi khô và ủi phẳng trả lại tôi. Thế là tôi xấu hổ quá trốn luôn. Lâu đài tình ái sụp đổ !
Tôi nghe nhiều người nói: "Không có nghề xấu chỉ có người xấu" Tôi chắc những người nói câu ấy chưa bao giờ làm các công việc hạ tiện như tôi, họ mới làm bộ nói năng đạo đức giả thế. Nếu họ đi bắt chó một ngày họ sẽ biết thế nào là cái nỗi cực nhục của "nghề mọn". Có nhiều cái nghề nó hại mình suốt đời. Chính quyền trước đây biết bao nhiêu ông to bà lớn sao không bị bắt đưa đi cải tạo, có người được hưởng chính sách khoan hồng hòa hợp hòa giải dân tộc. Còn tôi thằng công chức quèn, lại phải đi trình diện chính quyền quân quản với cái lí lịch mới nghe qua đã thấy nó ghê gớm : Công chức chính ngạch, hạng C, chỉ số lương...tôi được đưa đi cải tạo. Cải tạo xong tôi trở lại đời sống thường dân.
Bây giờ ra đường chỗ nào cũng thấy chó chạy rông nhiều quá. Tại sao nhà nước không lập đội bắt chó, bổ nhiệm một người đầy năng lực, liêm khiết như tôi lo gì không tận diệt được cái nạn chó chạy rông?
Quý Thể
***
5 - Làm Sao Cắt Nghĩa
Hồ Thị Mỹ Hạnh
Thế là chúng tôi giận nhau, à không! Phải nói rằng tôi giận họ mới đúng, mặc dù tôi là người "chủ động" trong việc giận hờn này, tôi vẫn thấy rằng tôi là người buồn nhất, bởi vì tôi trở nên lẻ loi trong khi họ có đôi. Họ là ai ư?
Đây, ảnh của họ đây, các bạn hãy xem. Người đứng bên trái có mái tóc dài mượt mà ấy là Lan. Người đứng bên phải có nụ cười duyên dáng với chiếc răng khểnh là Hương .Còn người đứng giữa, ấy chết! Không phải là con trai đâu, tôi. . .đấy!
Không nói các bạn cũng đoán biết chúng tôi thân nhau lắm. Sự thân thiết lâu dài do nơi chúng tôi sống cùng một khu phố, lớn lên bên nhau, học cùng một lớp, biết bao là kỷ niệm. Rồi không biết từ lúc nào tôi nảy ra một ý nghĩ, tôi không thích một kẻ nào chen vào giữa chúng tôi, nói trắng ra là không đứa nào được có người yêu. Vâng! Không ai có thể san xẻ tình cảm mà chúng tôi đã có công xây dựng . . . lâu đời như vậy .Chưa nói vướng vào yêu đương phức tạp lắm. Tôi nói điều này với Lan và Hương, họ cùng nghĩ như tôi, vậy là chúng tôi cùng nhau "tuyên thệ". . .
Thi đại học cả ba đều . . . "Out". Tôi chọn cách nhanh gọn là đi học nghề. Còn Lan và Hương tiếp tục ôn tập chờ năm sau thi lại.Vì phải lên đường tầm sư học nghề nên tôi phải đi xa.
Trong một lần về thăm nhà tôi thấy họ không còn quấn quít với tôi như trước nữa, phải chăng vì xa mặt nên cách lòng? Thay vì phải khắn khít với nhau sau những ngày không gặp thì họ lại có vẻ như thờ ơ với tôi.
Không chần chờ, tôi vội tìm hiểu nguyên nhân. Đầu tiên tôi đến nhà Hương, vừa đến nơi tôi đã biết ngay điều tôi muốn biết khi thấy Hương đang ngồi tiếp bạn trai (tim tôi nhói lên) một gã mà thoạt nhìn tôi đã mất cảm tình, quần áo thẳng nếp, tươm tất trông thật "mướt", ồ! Tôi không nói rằng tôi thích những anh chàng ở . . . bẩn! Song mày râu nhẵn nhụi như vậy thường "đểu" lắm, đàn ông con trai phải "bụi" một chút. Anh ta là sinh viên ư ? Sinh viên càng phong trần càng hay chứ sao!
Tôi khựng lại trước hình ảnh đó. Trao cho Hương một cái nhìn mà chỉ có nó mới hiểu ý nghĩa, tôi quay đi thật nhanh trước khi nụ cười xã giao của gã kia kịp tắt trên môi.
Chả lẽ mà tôi khóc? Nếu ai đã từng bị phản bội thì sẽ hiểu tâm trạng của tôi lúc đó.
Không vội về nhà, tôi thẳng đến Lan để trút sự bực tức này cho nó. Nhà Lan cách nhà tôi mấy căn nhưng bức tường cao và cánh cửa sắt làm nên sự cách biệt với các nhà trong xóm. Tôi bấm chuông, Lan ra mở cổng, Tôi nhíu mày nhìn nó, một vẻ khác thường nào đó ở bạn tôi, khuôn mặt đã được trang điểm nhẹ, tóc xỏa buông thay vì buộc gọn gàng như thói quen, quần áo cũng kiểu cách hơn, tôi nghĩ bụng "Lan đẹp làm sao. . ."
Tôi bèn hỏi ngay :
-Mày đi đâu mà maquiller đẹp vậy?
Lan cười bẽn lẽn :
-Ở nhà sửa soạn một chút không được sao?
Tôi lách người qua cổng, vừa buộc miệng :
-Tao mới đến nhà Hương .
Lan bước sau tôi :
-Có nó nhà không? Sao mày không rủ nó tới đây luôn?
Câu hỏi "trúng tủ", tôi đáp ngay :
-Nó có bồ mày ạ! Tao thấy tên ấy đang ở đó (Tôi gừ trong cổ họng ) . . . hừm ! Quá thật …
-Ồ! Chuyện nhỏ, đó là quy luật, ai lớn lên mà lại chẳng . . .
Tôi quay phắt lại, hơi lớn tiếng :
-Mày nói sao? Thế mày đã quên lời "tuyên thệ" xưa kia của tụi mình rồi ư?
Lan xoay vai tôi đẩy đi :
-Cần khai tử lời thề trẻ con ấy đi.
Tôi tức tối, vùng vằng :
-Tao tưởng nói ra mày sẽ nghĩ như tao, ai ngờ . . .
-Thật ra tình yêu có gì xấu?
-Không xấu mà chín mươi chín phần trăm cứ yêu là đau khổ.
-Tại vì có kẻ lạm dụng tình yêu để làm chuyện không tốt, chứ thực chất của tình yêu không phải vậy, thật ra . . .
Câu nói của Lan chưa dứt thì bàn chân tôi đã đặt vào bục cửa, tôi tròn mắt lên nhìn về phía bộ ghế salon màu đỏ thẩm sang trọng. Trời ạ! Không phải một mà đến . . . hai gã con trai đang ngồi ở đó. Một gã đang ôm đàn rải những âm thanh trầm vào không gian vốn rất yên tĩnh của căn phòng. Một gã ngồi ngả đầu trên yên ghế nhả những vòng khói tròn nối nhau loang ra như một tên sành điệu, ăn chơi thứ thiệt . Lan mỉm cười (chắc là ngượng) nhìn tôi. Còn tôi do dự không biết có nên vào hay không, thì Lan đã đẩy tôi đến ghế, rồi giới thiệu:
-Anh Tuấn, anh họ của Lan. Còn đây là anh Vĩnh, bạn của . . . Lan ở Sài Gòn lên chơi, đây là An Thy bạn học của em . . .
Tôi nhếch môi cười lấy lệ chào họ. Thôi vậy là hết thật rồi! Hương và Lan đã có người yêu. Thảo nào . . . tôi than thầm . Vậy mà lúc nào tôi cũng tưởng họ chỉ nghĩ đến tình bạn của chúng tôi thôi. Tôi liếc nhanh gã có tên là Vĩnh, thấy ghét chi lạ . Quần jean bạc, áo khoác rộng thùng thình, ngón tay vàng vì nhựa thuốc lá, lại còn thêm bộ ria mép nữa chứ, nhìn cái mặt sao mà . . . đểu! Anh ta là nghệ sĩ điêu khắc ư? Nghệ sĩ là phải làm ra vẻ phong trần sao? Cứ tươm tất, mày râu nhẵn nhụi thì càng hay chứ sao. Còn gã anh họ của Lan nữa. Gớm! Đeo kính trắng làm ra vẻ trí thức đấy. Gã đang kể chuyện khôi hài làm Lan và Vĩnh cười thoải mái, còn tôi cứ bậm môi, cố nín không thèm cười .
Tâm trí bận suy nghĩ nên tôi không biết rằng tôi cứ nhìn chằm chằm vào đĩa bánh ngọt trên bàn, đến khi nó chuyển động và tiếng của Tuấn làm tôi giật mình đánh thót một cái:
-An Thy ăn bánh đi chứ . . .
Tôi nhát gừng đáp ;
-Cám ơn, tui hổng ăn.
-Tên An Thy nghe lạ và hay
-Tại lúc nhỏ tui đen nhẻm y than, nên má tui nói lái luôn lại là An Thy!
Vĩnh xen vào :
-Con gái nước da bánh mật thường có duyên .
Tui liếc xéo hắn, không thèm hưởng ứng câu nói, mãi một lúc lâu tôi mới kiếm được lý do để rút lui. Từ giã ra về, lòng tôi nặng trĩu một nỗi buồn.
OoO
Tôi lánh mặt Hương và Lan từ hôm đó với sự giận dỗi khó giải tỏa. họ cứ đến tìm tôi, lại còn dắt cả Tuấn và Vĩnh theo như cố tình trêu tức tôi. Đã thế còn giả vờ như hối hận lắm, lần nào cũng viết để lại mấy dòng giải thích, phân trần mong tôi hãy hiểu họ.
Lòng tôi cũng có phần dịu lại, song cứ nghĩ đến tình bạn của chúng tôi đã bị hai tên đáng ghét kia xen vào san xẻ, thì tôi lại hậm hực.
Lan và Hương vẫn kiên trì tìm tôi, và một lần bất ngờ nên tôi đã không kịp lánh đi:
-Còn tìm tao làm gì nữa?
Hương khoe răng khểnh ra ;
-Tao cho là giận chừng đó đủ rồi .
Lan ôn tồn hơn:
-Cứ cho là tụi tao có lỗi đi (Lan chìa tay ra) bắt tay hòa nhé, coi như tụi tao đã xin lỗi mày . . .
Tôi giấu tay ra sau lưng, im lặng. Hương xen vô:
-An Thy làm mặt "ngầu" xinh chẳng kém. . . làm mặt " kênh" Lan nhỉ?
Tôi nén cười :
-Tao không giỡn với tụi mày đâu nghen.
-Tui tao cũng không đùa. Anh Tuấn nhận xét về An Thy cũng y như mày vậy đó Hương.
Hương hỏi, vẫn giọng cợt đùa :
-Ảnh nhận xét sao? Nói lẹ nghe coi.
-Ảnh nói bạn của Lan nhìn ngổ ngáo vậy nhưng ảnh cho rằng bản tính của cô bé rất . . dễ thương!
-Rồi sao nữa?
-Ảnh hỏi sao An Thy giận tụi mình, tao bèn kể vậy . . . vậy đó .
-Rồi ảnh nói sao?
-Ảnh lăn ra cười, nhưng đây mới là điều tao muốn nói. Có vẻ anh chàng " để ý" An Thy hay sao ấy, cứ hỏi thăm nó hoài . . .
Nghe vậy tôi la toáng lên:
-Tao ứ thèm nghe chuyện bịa.
-Vậy thì nghe chuyện thật đây, mày sắp hết hạn thăm nhà, tụi tao sẽ đãi mày một chầu vào ngày mai. Xin trân trọng thông báo với mày, đó là nhã ý của anh Tuấn .
Tôi chớp mắt:
-Lại bịa, "ông" Tuấn sao biết tao sắp đi?
-Có quan tâm, có biết! (Lan cong môi lên)
Hương chậc lưỡi:
-Tao nghi anh Tuấn mày bị coup de foudre quá .
Lan nháy mắt, gật gù:
-. . . đâu đó! tao cứ nghe ổng hát "I love you more than I can say . . .", rồi còn cái vụ cứ rủ tao qua nhà An Thy chơi nữa chớ, tao đòi hối lộ, ổng nói . . .
Tôi cảm thấy nóng bừng hai má, bèn ngắt lời Lan:
-Tao hổng giống tụi mày, vắt mũi chưa sạch mà bày đặt.
Hương cười rũ rượi:
-Mặt đỏ lên rồi kìa , tín hiệu khá đấy. Đừng vội tuyên bố, trời sẽ trả báo khi gặp đối tượng nghe chưa .
Tôi nguýt mắt:
-Hổng sợ đối tượng, đối voi gì ráo.
-Điều đó cứ chờ khắc biết .
Trêu tôi chán, hai đứa mới chịu về. Màn đêm ôm trùm khu phố nhỏ, những vì sao lấp lánh như những viên kim cương trên nền trời đen thẳm. Không gian yên ắng, tôi hướng mắt sang nhà Lan, đêm nay sao tôi không nghe tiếng đàn văng vẳng? Lòng chợt thấy bâng khuâng, khắc khoải, không biết bao giờ Tuấn về thành phố nhỉ ? À! Có gì đâu, vì tôi thích . . . nghe tiếng đàn ấy thôi mà.
Hồ Thụy Mỹ Hạnh
***
Hữu Duyên Tương Ngộ...
Truyện ngắn
Hồ Thụy Mỹ Hạnh
Nhìn vẻ mặt bơ phờ của Nga tôi thương nó quá, nếu hậu quả của...việc ấy xảy ra thật, thì chính tôi cũng có một phần lỗi đã đẩy cho Nga cái rủi ro mà lẽ ra là của...tôi. Dù rất thương và cảm thông với tâm trạng của Nga, tôi vẫn rất sợ gặp mặt nó vì tôi có cảm giác nó oán tôi lắm qua những lời than thở mà nó bắt tôi phải lắng tai nghe một cách thành khẩn.
Nếu cái điều nó (và cả tôi) đang lo sợ đó có thật thì thay vì tìm gã trai kia để ăn vạ, tôi chắc chắn Nga sẽ trút hết lên đầu tôi những gì mà nó không thể phân bày cùng người khác. Xét cho cùng tôi là người chứng kiến sự việc từ đầu đến cuối nên chỉ có tôi mới làm chứng rằng Nga hoàn toàn vô tội. Trong khi Nga đang xanh mặt vì lo lắng, thì tôi chỉ còn biết tỏ sự nhiệt tình quan tâm đến Nga bằng cách bỏ công truy tìm tông tích gã trai kia. Dù chưa biết tôi sẽ dám làm gì gã, nhưng tôi cần phải nắm rõ lý lịch của gã đã, chờ khi Nga cần đến là tôi chìa ra liền, cũng xóa bớt một phần lỗi của tôi trong sự "thiệt hại" của Nga. Tôi sắm một cái kính đen, thêm cái mũ to vành đội sùm sụp để bắt đầu những buổi la cà làm thám tử ở bến xe trong giờ mà tôi đoán là gã sẽ đi học về trên một chuyến xe chiều...
Không khó khăn lắm trong việc tìm hiểu về một ai đó trong cái thị trấn nhỏ bé này. Tôi chỉ cần đầu tư thời gian một buổi chiều chủ nhật là biết tên gã ấy. Đỗ Hào Quang! Mới nghe cái tên đã thấy chói loá rồi (Còn hành vi của gã thì tối om, thật là trái ngược...)
Ngoài lúc gặp nhau ở trường, tan học về nhà là tôi trốn biệt sợ gặp Nga, nhưng nó đâu dễ tha cho tôi, nó đến nhà tôi là chuyện không lạ, huống chi giờ đây tôi là người mà nó bắt phải đồng cam cộng khổ với nó.
Nga đẩy cửa bước vào, mắt lấm lét nhìn quanh vừa hỏi:
-Có ai ở nhà không mày?
-Đi vắng hết rôì, có gì không?(Tôi hỏi lại nó)
Tôi nhìn Nga chờ đợi điều nó sắp nói. Dù chắc chắn không có ai ngoài tôi nhưng nó vẫn thì thầm:
-Tao mới nghe nói nếu...nếu "bị" thì lông mày dựng đứng lên còn cổ thì giựt giựt...
Tôi ngờ vực:
-Thật vậy sao? Tao hổng nghe vậy bao giờ.
Nga gật đầu vừa vén tóc trên trán ra rồi chồm trước mặt tôi:
-Mày dòm giùm xem chân mày tao có dựng lên không?
Tôi dồn hết thị lực vào đôi chân mày mọc không trật tự mà chưa biết tỉa tót của Nga, chúng không có gì khác lạ.
-Bình thường mày à, tao hổng thấy có vẻ gì nó muốn báo tin vui...
Nga nhăn mặt:
-Đó là tin vui sao?
-À xin lỗi! Tao quên, vì nghe người ta hay hỏi nhau là "Có tin vui chưa?" khi muốn nói đến chuyện con cái nên tao lộn...
Nga không chờ tôi nói hết câu, nó vạch cổ áo rồi rướn cổ bảo tôi:
-Mày dòm cổ tao thử .
Tôi lại chăm chăm nhìn vào ngấn cổ thon của Nga, chẳng thấy gì ngoài làn da trắng mịn màng. Tuy nhiên tôi không rời mắt khỏi cổ của Nga vì muốn tỏ ra rất "thành tâm" chia sẻ với bạn. Nga sốt ruột nhắc khi chờ hơi lâu:
-Lẹ lên mày, không có gì chứ?
Trong khi Nga hỏi thì tôi thấy cổ nó... rung rung, và tất nhiên tôi bật kêu lên:
-Có...có thấy rồi mày ơi!
Nga giật thót người, đưa tay sờ lên cổ:
-Sao? Mày thấy nó giựt hả?
Tôi không muốn nhưng đầu phải giật để trả lời cho câu hỏi của Nga. Lập tức miệng nó mếu xệch như cái thuyền úp ngược, nó nói mà gần khóc:
-Tại mày hết, tao đang ở phía ngoài mày đẩy tao vô trong nên tao mới "bị"...như vậy là tao không dám về nhà đâu...tao sẽ nghỉ học bỏ nhà đi luôn...
-Bình tỉnh đã, mày có chỗ nào ở mà đòi bỏ nhà đi?...
Nga thút thít:
-Tao tới ở với...mày!
Tôi nghĩ nhanh đến việc nếu Nga làm thật như lời nó nói thì trước nhất tôi phải chia bớt phần ăn của tôi cho nó khi nó đến ở với tôi. Cái vụ này tôi hổng...quen! Vì vậy tôi bỗng thông minh hẳn ra khi nghĩ được cách giải quyết:
-Mày đi với tao, đến nhà chị Mai con bác của tao nhờ chỉ cho ý kiến, dù sao chỉ cũng có gia đình rồi nên biết hơn tụi mình...
Nga do dự:
-Tao sợ lắm, lỡ chị Mai mắng tao ngu thì sao..
-Không đâu, có tao làm chứng là mày hổng muốn vậy, tao sẽ nói việc ngoài ý muốn của...tụi mình! Đến đó nếu mày sợ cứ im để tao nói ...
Chẳng còn cách nào khác là Nga phải riu ríu đi theo tôi.
Chị Mai cứ tủm tỉm cười khi nghe hai đưa tôi tranh nhau phân trần:
-Khi lên xe, em đã ngồi ở ghế ngoài phía cửa rồi, tự nhiên con Khanh giành chỗ đẩy em vào ghế trong...
-Tao giành thì mày đừng nhường chỗ. Chỉ tại cái số của mày nên mới...
-Khi thằng cha đó bước lên thì xe đã đầy khách, thấy chỗ cạnh em còn trống chả liền tới ngồi... sát em, không còn chỗ nào tránh nên em vội lấy cuốn truyện chắn vào giữa em với thằng chả...
Tôi nhanh nhẩu cướp lời Nga nói tiếp:
-Xe chạy được một hồi, gã đó có "ý đồ đen tối" nên bèn làm bộ mượn cuốn truyện của Nga đang chắn giữa...chỗ...
Chị Mai nghiêm mặt lại:
-Thôi vậy là chết rồi...nó rút cuốn truyện đi phải không?
Cả hai đứa tôi giật mình,cùng hỏi lại :
-Sao hả chị?
-Và bây giờ tụi em đang sợ "hậu quả" của việc ấy?
Tôi ngập ngừng:
-...Dạ!Vừa nảy em cũng thấy cổ Nga rung rung, người ta nói như vậy là đã...
-Có ai đã nói với tụi em rằng ngồi gần con trai là...có bầu phải không? (Chị hỏi xong phá lên cười)
Nga cúi mặt nhìn xuống đất có lẽ muốn giấu đôi mắt đỏ hoe, lí nhí đáp:
-Bà cố em đã dạy rằng không được nhìn những cảnh tầm bậy con mắt sẽ bị ...mọc mụt lẹo.Không được ngồi gần con trai sẽ bị...bị...
-Chị hiểu rồi. Người già thường tránh nói rõ ràng những chuyện mà họ nghĩ trẻ con chưa cần hiểu rõ nên cứ nói đơn giản để "ngăn ngừa" vậy thôi, thật ra trong một chừng mực nào đó tụi em cũng nên biết những gì cần tránh và những gì không đáng sợ...
Chị kéo hai đứa tôi lại gần giản giải một hổi một hồi về những điều mà chị nói có viết trong những cuốn như là "Tuổi dạy thì cần biết", "Tuổi Cài Trâm". Vẻ mặt Nga từ bí xị chuyển sang hân hoan, hai má từ trắng chuyển sang đỏ.
Còn tôi thì cũng nhẹ cả người vì từ nay Nga sẽ không còn theo tránh móc tôi đã đẩy nó ngồi gần "thằng cha" đó.Tôi cũng hiểu hơn ngụ ý những lời dạy bóng gió của các bà cố, bà nội để "nhập kho" thêm những điều chị Mai nói. Có thế chứ! Từ nay tôi không dại gì nhường chỗ cho bọn con trai vì không dám ngồi gần. Trước khi bọn họ có cơ hội xáp lại gần, tôi sẽ xáp lại gần họ trước mà không còn sợ những điều như bà cố chúng tôi dạy. Nhiều trò chơi vui nhộn ở trường từ bấy lâu nay bọn con gái không dám tham gia như trò chia thành hai phe, một đứa cõng một đứa chạy tông vào nhau, phe nào té hoặc làm...rớt "đồng đội" nhiều hơn thì phe đó thua. Ở trò này con gái tụi tôi dĩ nhiên được con trai cõng , tụi tôi chỉ việc bám chặt cổ "đồng đội" để không bị rớt là được họ cho tham gia chơi. Mới nghĩ đã thấy vui rồi. Bọn con trai! Hãy đợi đấy...
Rời nhà chị Mai, giải tỏa được gánh nặng tâm lý, Nga vui quá nên nói cười luôn miệng. Lợi dụng tình hình có lợi, tôi kể công:
-Hôm đó tao nhìn thấy tên đó đeo phù hiệu trường Nam Trung học Trần Hưng Đạo vậy là tao tìm hiểu mới biết được tên tuổi của hắn...
Nga có vẻ không quan tâm đến lời kể của tôi:
-Giờ thì hắn là ai mặc kệ, lần sau nếu còn gặp lại hắn trong trường hợp đó, tao sẽ ngồi ép sát vào hắn để trả thù!
Tôi tiếp tục "công việc" của mình:
-Nhưng trước khi mày mặc kệ thì tao đã phải dầm mưa dãi nắng để theo dõi hắn..
-Mấy hôm nay trời dịu mát, có mưa hay nắng gì đâu mà dầm.
-Là tao muốn ví von sự vất vả mà tao đã vì mày. Đáng nói là trong lúc như thế tao phải ăn uống để có sức nên...nên tao hết cả tiền để dành!
Nga gật gật đầu có vẻ xởi lởi:
-Tao hứa khi nào có tiền tao sẽ bù lại cho mày bằng một chầu gấp mấy lần mày đã tốn.
Tôi chỉ chờ có thế:
-Thật nhé! Vậy mày định khi nào?
-Khi tao học xong và đi làm kiếm tiền...
-Trời! Bây giờ tụi mình mới mười lăm tuổi, đợi đến lúc đi làm được thì mày quên tuốt lời hứa rồi.
-Nếu tao quên thì mày nhắc là được chứ gì.
Tôi bắt Nga ngoéo ngón tay trỏ vào ngón tay tôi để cam kết. Lời hứa đó phải qua nhiều năm sau khi Nga trở thành cô giáo của một trường tư thục mới được thực hiện. Khi Nga lãnh tháng lương đầu tiên là tôi lập tức nhắc lại "kỷ niệm xưa". Làm sao tôi có thể đợi cái ngày ấy lâu hơn được cơ chứ. Nga luôn hiểu ý và chìu tôi, khi hai đứa vào tiệm ăn, Nga nói một câu mà tôi rất thích nghe:
-Mày cứ chọn món nào mày thích, tao không ăn được thì mày ăn, không sao đâu...
Được khuyến khích, nên tôi không khách sáo, hơn nữa đàng nào cũng mang tiếng Nga khao, phải ăn cho đáng. Tôi đang thả hồn vào mùi thơm hấp dẫn của các món ăn và đang ngấu nghiến ngon lành thì nghe Nga nói:
-Chết rồi! Tao quên cầm theo tiền...trong xách không thấy có Khanh ơi!
Tôi bàng hoàng trước một thông báo không gì tệ hơn:
-Mày xem lại kỹ kỹ một chút...
Nga lắc đầu:
-Kỹ rồi, tại lúc đi mày hối tao quá nên tao quên, bây giờ mày ngồi đây chờ tao về nhà lấy tiền rồi quay lại trả..
Tôi chồm sang chụp lấy tay Nga vì sợ nó đứng lên đi bỏ tôi lại:
-Không được! Lỡ mày đi lâu họ biết tao ngồi làm tin thì mắc cở lắm.
-Vậy tao chỉ chỗ cho mày về nhà tao lấy...còn tao thì ở đây chờ.
Tôi bối rối;
-Cũng không được, nhà mày còn có bao nhiêu là người, tao làm sao dám tự do vô phòng mày lục lọi.
-Vậy tao biết làm sao đây?
Tôi muốn khóc, không nuốt nổi miếng đang ngậm trong miệng:
-Kiểu này còn hơn là mày vừa cho tao ăn vừa muốn móc họng tao ra, biết vậy thì tao...cầm tiền trước!
Nga vỗ về tôi:
-Nói nhỏ thôi, bàn sau lưng mày có người kìa, mày để tao nghĩ cách.
Tôi gợi ý:
-Trong ví mày có mang theo căn cước thì đem tới quầy nói rõ lý do xin để lại làm tin, nếu họ cho thiếu thì về lấy tiền chuộc lại sau?
-Có thể phải làm vậy (Nga thở dài cái thượt) nhưng tao cũng ngại quá...
Hai đứa ngồi như bị dính vào ghế một lúc lâu, cuối cùng Nga cũng phải quyết định vào nói thật việc quên không mang theo tiền để chủ tiệm thông cảm. Tôi đẩy Nga đi trước còn tôi thì đi nép sau lưng nó "yểm trợ" trong... im lặng. Chúng tôi chưa kịp mở lời thì chị chủ cười tươi như hoa nói ngay:
-Có người đã thanh toán bill của hai cô rồi.
Chưa kịp ngạc nhiên thì chị đưa cho Nga mảnh giấy gấp tư:
-...người đó còn gởi cho hai cô giấy này...
Tôi chồm giật mảnh giấy trên tay Nga và hấp tấp mở ra:
-Hả!!!
Đập vào mắt tôi là cái tên mà tôi nhớ như nhớ..."lời hứa năm xưa"của Nga, cả hai châu đầu vào nhau đọc:
"Gởi hai cô bạn ngồi bàn trước.
Vô tình tôi nghe nên biết hai cô đang gặp chuyện ngoài ý muốn, tôi giúp hai cô giải quyết việc đó.Xin lỗi vì không hỏi ý trước.Hai cô có thể hoàn lại cho tôi số tiền này sau khi về nhà. (Tôi còn 2 ngày ở đây trước khi trở về đơn vị).
Đỗ Hào Quang - 20/5 Nguyễn Công Trứ."
Cám ơn chị chủ, hai đứa bước ra khỏi tiệm ăn mà tâm trạng cứ ngỡ ngàng. Đọc thấy tên anh ta là mắt tôi đổ hào quang, nghĩ đến cuộc tái ngộ đầy... "huyền bí " này làm tôi không hiểu nổi. Tôi ...thều thào:
-Trong mười bảy triệu dân, tao cá với mày không ai có cái tên đặc biệt như thế nên tao chắc chắn là gã đó...
-Ai?
-Gã con trai hồi xưa ngồi cạnh mày trên xe bus,cũng nhờ gã mà tao mới có bữa ăn mày khao hôm nay. Đúng là hữu duyên thiên lý năng tương tự!
-...năng tương ngộ chứ!
Tôi nộ Nga vì nó dám sửa sai tôi:
-Thì tương ngộ hay tương tự gì chả là tương! Hồi đó mày nói nếu gặp lại gã đó, mày sẽ ngồi ép sát vào gã để trả thù, thì bây giờ có cơ hội rồi đó, nhớ mà thực hiện cho... thỏa lòng mong ước đi nhé...hihihi...
0O0
...Vì muốn có "điều kiện" để "trả thù" dài lâu nên sau khi hội ngộ một thời gian, Cung Thị Hằng Nga đã chấp nhận đồng ca với Đỗ Hào Quang "...cuối năm trời lạnh gió đông , mười lăm hôm nghỉ phép là ta in thiệp hồng.". Mối lương duyên của họ có được là nhờ...tôi! Thật đấy, cứ nhớ lại từ đầu mà xem...
Đó là chuyện ngày xửa ngày xưa, còn chuyện ngày nảy ngày nay thì Nga đã lên chức bà ngoại của mấy cô cháu xinh như búp bê và "bà ngoại" đang ra sức sao y bản chính những gì được dạy khi xưa mà truyền đạt lại để ...hù dọa các cháu gái của mình. Chỉ có điều tôi không biết trong thời hiện đại này với vô số thông tin "trung thực", các cô bé có để những điều bà ngoại Nga dạy lọt vào tai và dễ dàng tin như chúng tôi đã nằm lòng lời dạy của bà cố hồi xưa.
(Đơn Dương 17.1. 2012)
Hồ Thụy Mỹ Hạnh
&&&
Chuyện Tết Ngày Xuân
"Anh cho em mùa Xuân, nụ hoa vàng mới nở, chiều Đông nào nhung nhớ. Đường lao xao lá đầy, chân bước mòn hè phố, mắt buồn vin ngọn cây. Anh cho em mùa Xuân, mùa Xuân này tất cả, lộc non vừa trẩy lá. Lời thơ ru cõi đời, bầy chim lùa vạt nắng, trong khói chiều chơi vơi..." (Anh Cho Em Mùa Xuân - nhạc: Nguyễn Hiền, thơ: Kim Tuấn).
Tiết tấu nhẹ nhàng mà vẫn rộn ràng đưa hơi thở mùa Xuân vào cuộc sống. Đây là một ca khúc Xuân rất quen thuộc và dễ thương, ca từ đẹp và giai điệu cũng đẹp. Trong ca khúc này có động từ "cho" được lặp đi lặp lại, nói lên lòng quảng đại chứ không ích kỷ chỉ muốn "nhận", vì "cho" (tặng, biếu) là một động từ quan trọng trong cuộc sống thường nhật.
Khi có chuyện gì phấn khởi, người ta thường nói "vui như Tết" hoặc "Tết nhất". Điều đó chứng tỏ là Tết rất vui, luôn được mong chờ, luôn là ngày "nhất" trong năm. Ngày Tết, với trẻ em là niềm khao khát và vui mừng, với người lớn là trách nhiệm và bổn phận - và đôi khi có người không mong Tết, vì Tết đối với họ có thể buồn hơn ngày thường.
Đông lạnh qua, Xuân ấm đến, đó là quy luật tự nhiên của đất trời. Mùa Xuân là mùa của sự sống, cây cối nảy lộc, đơm bông, thể hiện tính trẻ trung và đổi mới. Mùa Xuân còn là dịp đoàn tụ, yêu thương, tha thứ, cùng tận hưởng và chia sẻ niềm hạnh phúc. Gặp nhau, ai cũng tay bắt mặt mừng, có gì sai sót trong năm cũ cũng bỏ qua hết, và trao nhau những lời chúc tốt đẹp nhất. Đó là "tống cựu, nghinh tân", đặc biệt trong giây phút thiêng liêng nhất: Giao thừa. Ngày xưa, đêm giao thừa còn được gọi là đêm trừ tịch - khoảng thời gian thiêng liêng nhất trong năm, khi các gia đình sum họp, chuẩn bị đón năm mới với những điều tốt lành sẽ đến và tiễn trừ năm cũ với những muộn phiền đã qua.
Trong giây phút giao thừa, các gia đình lập bàn thờ cúng tổ tiên, khói nhang nghi ngút, bánh trái đầy bàn. Người ta thường đặt trên bàn các loại trái cây như: Mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài; theo phát âm tiếng Nam bộ là "cầu vừa đủ xài". Như vậy, kể ra người ta cũng không tham lam, còn giữ được "nhân chi sơ tính bổn thiện". Người có máu khôi hài thì nói là bày trên bàn 4 thứ: Chôm chôm, xoài, cái líp, cái gác baga; nghĩa là "chôm chỉa để xài líp baga" (xài líp baga là xài thoải mái). Dù chỉ đùa vui, nhưng chứng tỏ con người đã... biến chất "thiện". Người ta còn bói Kiều và làm những nghi lễ trừ ma quỷ. Người Việt có tục lệ tốt đẹp:
Xuân về, mồng Một tết Cha
Mồng Hai tết Chú, mồng Ba tết Thầy
Mồng Một tết Cha - Người Á Đông nói chung và người Việt nói riêng, truyền thống "uống nước nhớ nguồn" được tôn trọng, đó một truyền thống tốt đẹp đầy tính nhân bản. Tổ tiên, ông bà, cha mẹ là những người thân có công lao lớn đối với chúng ta, thế nên chúng ta phải dành "ưu tiên số một". Thật vậy, đó là nghĩa vụ của mọi người, vì "chim có tổ, người có tông, cây có cội, nước có nguồn", và đó cũng là đạo làm người.
Mồng Hai tết Chú - Đó là các thân bằng quyến thuộc, là họ hàng Nội Ngoại, là xóm giềng, là bạn bè, là ân nhân,... Sống trên đời không ai có thể là một ốc đảo, vì cuộc sống là một xã hội, không trực tiếp liên hệ thì cũng gián tiếp liên hệ bằng nhiều cách. Người này có liên đới với người kia, dù có thể chỉ là một ánh mắt hoặc thái độ, thậm chí có thể chỉ qua ý nghĩ. Người này có trách nhiệm và bổn phận với người kia, dù là người dưng nước lã, dù là người chưa biết mặt quen tên. Hãy tết nhau bằng cách luôn triệt để tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền của nhau.
Mồng Ba tết Thầy - Thời phong kiến áp dụng trật tự xã hội: Quân - Sư - Phụ. Ở đây chúng ta không nói chuyện "thứ tự trước sau" mà chú trọng tầm quan trọng của 3 cấp bậc. Trong đó người thầy được đề cao theo tinh thần "tôn sư trọng đạo", và người Việt cũng khuyên: "Muốn con hay chữ hãy yêu lấy thầy". Hán Việt dùng từ Sư Phụ, người thầy không chỉ là người dạy mà còn được coi như "phụ mẫu". Thế nhưng ngày nay người ta không còn coi trọng lòng "tôn sư trọng đạo", đó là dấu hiệu sa sút đạo đức!
Tết nhau không hẳn là món quà cáp bằng vật chất, có "khả năng" tết nhau một chút lễ vật thì cũng tốt, nhưng đừng câu nệ "quà cáp" mà "biến chất", quan trọng nhất là cởi mở gặp gỡ nhau với cả tấm lòng, tết nhau bằng những ước muốn tốt đẹp, những lời cầu chúc chân thành, những lời cầu nguyện thành tín. Tiếng Việt thật thú vị khi dùng từ "gặp gỡ": Gặp nhau thì phải "gỡ bỏ" mọi vướng mắc, không "gỡ" thì không thể nào "gặp" được. Đó là cách sống tích cực theo đạo làm người và theo tôn giáo của mỗi người.
Bình an là điều luôn cần thiết đối với mọi người trong mọi thời và mọi nơi. Muốn sống bình an thì bạn phải tạo hòa bình xã hội, bạn không thể bình an khi xã hội rối loạn hoặc tinh thần chán nản. Bình an trước tiên là sức khỏe - tinh thần và thể lý. Đúng như tục ngữ nói: "Sức khỏe là vàng". Đó là hệ lụy tất yếu vậy!
Sống không thể chỉ hít thở khí trời và uống nước lã, vì thế con người cần mưu sinh. Muốn mưu sinh thì phải có nghề nghiệp, có công ăn việc làm. Công việc lại có liên quan và tùy thuộc thời tiết. Mùa màng bội thu thì con người hạnh phúc phấn khởi, mùa màng thất bát thì con người đói khổ. Nói vậy không có nghĩa là thời tiết chỉ quan trọng đối với nông dân, không có nông dân thì "kẻ sĩ" cũng không sống nổi. Mọi người đều liên đới với nhau về nhiều phương diện, không thể nói "nhất sĩ, nhì nông" hoặc "nhất nông, nhì sĩ". Giới nào cũng có cái "nhất" và cái "nhì", không ai "ưu thế" hơn ai.
Nhớ đến người còn sống và chúc họ được an khang hạnh phúc là chuyện dĩ nhiên, chúng ta còn có bổn phận tưởng nhớ những người đã vào cõi vĩnh hằng. Xuân về Tết đến, mọi người sum họp hữu hình, còn tổ tiên không thể sum họp hữu hình với đàn con, lũ cháu, nhưng họ vẫn khả dĩ sum họp vô hình với chúng ta.
Mùa Xuân là dịp nghỉ ngơi, vui chơi, cho phép người ta có thể tiêu xài "rộng tay" một chút. Tuy nhiên, đôi khi có thể người ta muốn chứng tỏ "đẳng cấp" của mình mà "chơi nổi" kiểu công tử Bạc Liêu, chưa tới mức "lấy tiền nấu trứng" nhưng cũng có vẻ muốn tỏ ra "đại gia". Năm ngoái, có những người không ngần ngại chứng tỏ "bản lĩnh" đó: Có người mua cặp dưa hấu với giá 900.000 VNĐ, có người mua bộ phản gỗ (bộ ngựa) 100.000 USD, có người "khoe" là bỏ ra 20 triệu VNĐ để sắm tết,... Và còn nhiều "cách chơi" khác nữa.
Trong khi có những người "vung tay quá trán" như vậy thì vẫn có những con người chưa hưởng trọn vẹn mấy ngày Tết hoặc không hề có mùa Xuân. Một cậu bé 10 tuổi ở Đồng Tháp, ở với bà ngoại ngoài 80 tuổi, em chỉ mong Tết đến để được ăn món "khổ qua xào với trứng". Được hỏi sao em ước mơ như vậy, em cười hồn nhiên và cho biết: "Vì chỉ có ngày Tết ngoại mới để dành đủ tiền để làm món đó". Câu nói của em thật hồn nhiên nhưng sao nghe lòng nhói đau quá! Một ước mơ quá bình dị như vậy mà sao khó với em bé này đến vậy? Quả thật, cuộc đời còn biết bao con người khốn khổ, họ không mong Tết, mà có mơ cũng không thấy!
Xã hội khó có thể trở thành thế giới đại đồng, nhưng cũng có thể tương đối, nếu người giàu biết bớt phần lãng phí để chia sẻ với người nghèo. Thực ra, đó là trách nhiệm và bổn phận của đạo làm người.
Chuyện giàu - nghèo là lẽ tất nhiên ở đời, nhưng vẫn là một ẩn số vô cực. Mùa Xuân là mùa của ngàn hoa tươi sắc, lòng người cảm thấy rạo rực khó tả, có những khuôn mặt rạng rỡ nụ cười và cười "hết cỡ thợ mộc", nhưng cũng có những khuôn mặt còn ủ rũ, đôi môi khô héo, lòng luôn trĩu nặng...
"Ngôn hành" phải song hành, NÓI thì phải LÀM, không thể nói suông, không được hứa lèo, không chỉ cần mở lòng mà còn phải mở đôi tay và mở hầu bao. Không cần nói đâu xa, xung quanh chúng ta vẫn còn rất nhiều người nghèo khổ, không thể làm ngơ. Thật chí lý khi một danh nhân nói: "Chỉ những ai có lòng yêu thương mới xứng đáng nhận danh hiệu con người".
Xuân về, Tết đến, đó là mùa yêu thương, mà yêu thương thì phải chia sẻ, chia sẻ cả vật chất lẫn tinh thần. Hãy chân thành tặng nhau một mùa Xuân tươi đẹp nhất, rộn rã nhất và trọn vẹn nhất!
Mùa Xuân thắm sắc mai vàng
Bình minh tỏa ánh nắng vàng lung linh
Quây quần hạnh phúc gia đình
Nhịp tim hòa khúc ân tình tháng năm
Thương yêu nở giữa mùa Xuân
Đẹp từng lời chúc chứa chan tình người
Cầu mong cho xã hội luôn biết tôn trọng công lý để xã hội có nền hòa bình đích thực. Cầu mong cho mọi người biết yêu thương nhau bằng tình đồng loại trọn vẹn để ai cũng được tôn trọng nhân quyền đúng nghĩa và có thể tận hưởng mùa Xuân viên mãn nhất!
Trầm Thiên Thu
&&&
TRẦM THIÊN THU
GIẤC MƠ
Dzu Sa
Suốt cuộc hành trình từ Nha Trang đến Vũng Tàu tôi cứ lơ mơ ngủ, mắt không nhướng lên được, dù rất muốn ngắm nhìn quang cảnh đang chạy vụt qua ngoài khung cửa.
Cả đêm tôi không chợp mắt, không phải vì hồi hộp cho chuyến đi sắp đến, mà vì chồng tôi! Đã lâu rồi chúng tôi không còn nói chuyện cùng nhau, ba năm, bốn năm hay năm năm gì đó... Lần này cũng vì "di chứng" của những năm tháng tôi ra "làm ăn" bị vỡ nợ, tôi nhờ anh giúp đỡ.
Anh bảo tôi đừng mơ và phải có một chút lòng tự trọng để không nói với anh điều đó. Đã nhiều năm qua vậy mà câu nói ấy của anh vẫn làm tôi đau đến nhói lòng. Tôi thao thức, trăn trở, đau đớn vì sự mơ mộng hão huyền của mình. Đúng là hão huyền. Nhưng tất cả những nghiệt ngã của cuộc sống vẫn không làm cho tôi chấm dứt những cơn mơ...
Đến Vũng Tàu với tâm trạng u uất, tôi muốn vào phòng nằm một mình để chiêm nghiệm nỗi buồn mà mình đã mang theo. Tuy nhiên, với sinh hoạt của Nhà Sáng tác, của những người bạn lớn tuổi nhưng vui nhộn trong đoàn đã làm tôi quên đi sự phiền muộn của riêng mình.
Buổi tối đầu tiên tại Vũng Tàu, tôi cùng mọi người dạo trên con đường đẹp nhất của thành phố, một đoạn ngắn thôi, đường Thuỳ Vân! Tôi thắc mắc không hiểu Thuỳ Vân là tên của một nhân vật nào trong lịch sử, hay của một nữ anh hùng nào trong hai cuộc chiến tranh? Nhưng không, chỉ là , ở đây chiều đến thường có những đám mây sà xuống bay bềnh bồng trên mặt biển, tạo nên một khung cảnh thật thơ mộng, lung linh và huyền ảo, nên người ta đặt tên cho bãi sau của Vũng Tàu là bãi Thuỳ Vân, bãi mây buông. Và con đường chạy bọc theo bờ biển cũng cùng mang tên Thuỳ Vân.
Đường Thuỳ Vân của Vũng Tàu không như đường Trần Phú của Nha Trang, không ồn ào, náo nhiệt, hàng hoá xa hoa, du khách tấp nập. Nó rộng thênh thang nhưng nhẹ nhàng và tĩnh lặng, lác đác vài ba du khách dạo phố đêm, còn biển thì cứ lao xao lao xao với những con sóng cưỡi lên nhau chạy mãi vào bờ.
Trên vỉa hè, những gánh hàng rong bán hải sản mực, ốc, tôm nướng ướp với xã, ớt và gia vị thơm lừng cả một đoạn đường. Tôi lại nhìn thấy một chiếc xe đẩy bán khoai lang nướng. Mùi khoai nướng và không khí se lạnh làm tôi nhớ đến đêm Sapa sương mù giăng kín với những người đàn bà ngồi bán khoai lang nướng nóng hổi, bên cạnh chiếc đèn dầu tù mù trong công viên chính của thành phố Sapa năm nào.
Đi một đoạn nữa lại thấy những chiếc xe đẩy bán hàng mỹ nghệ trên hè phố. Những sợi dây chuyền bằng ốc biển đầy màu sắc, những chiếc kẹp tóc bằng sà cừ lóng lánh... và những tiếng kêu lanh canh lanh canh, âm thanh của những chiếc vỏ ốc va vào nhau từ những chiếc chuông gió treo bên trên...
Phố đêm trên đường Thuỳ Vân thâm trầm hơn, vài khách bộ hành đi ăn khuya, xe cộ thưa thớt và vài tiếng nhạc vang vọng từ những quán bar nho nhỏ nép dưới những rạng thuỳ dương rậm rạp. Tuy nhiên tôi vẫn cảm nhận một sức bật đang tiềm ẩn bên trong của thành phố trẻ trung này.
Sáng ra tôi và người bạn cùng phòng đi dạo trên bãi biển. Một cảnh tượng mà tôi chưa từng gặp ở Nha Trang. Ban đêm, bước vài bước chân xuống bãi cát là gặp ngay mép nước. Vậy mà sáng nay thật bất ngờ, những con sóng rút tít ra xa, để lại một bãi cát mịn phẳng lì, rộng mênh mông, thoáng đạt.
Có rất nhiều người đi tới đi lui, cào cào một cái gì đó dưới mặt nước. Đến gần tôi mới biết họ đang cào ốc. Cả một bãi ốc lộ ra lấp xấp. Đàn ông, đàn bà hì hục cào. Dụng cụ họ cào là một cái bàn cào có răng như răng lược, rộng khoảng 50cm, gắn phía sau là một cái bao hình phểu dài hơn 2m. Họ cứ đi dọc theo mép sóng, đè mạnh cái bàn cào xuống mặt cát, loáng cái đã thấy đầy một bao. Tôi tò mò đi theo hỏi, đó là ốc gì và để làm gì. Họ bảo đây là ốc ruốc (tôi lại thấy nó giống con hến nước ngọt hơn) và đem về bán làm thức ăn cho vịt. Một bao khoảng 35 ngàn đồng. Mỗi buổi sáng từ 4 giờ đến 6 giờ họ có thể cào được 3 đến 5 bao. Buổi chiều nghỉ vì thuỷ triều lên và sóng to. Gần đó có 2 thanh niên cầm hai đầu chiếc lưới, rộng bằng cái võng nằm, kéo giăng ra và chưa đầy 5 phút sau họ đưa lưới vào bờ, những con cá mắc lưới tươi ròng , vảy óng ánh bạc bị vứt ra dãy dụa trên mặt cát. Và kia nữa, vài chàng trai, tay cầm một ống nhựa dài, đầu có ngoàm, lom khom cào cào mặt cát rồi chọc chọc cái ống nhựa xuống, vài con vật gì đó bị kéo lên theo. Tôi lại chạy đến xem. Hoá ra các chàng trai này đi bắt con tôm tít (một loại giống con bàn chải ở Nha Trang).
Ôi thật là ngạc nhiên! Và tôi nhận ra, với bộ mặt giận dữ gầm gào sóng, biển ở đây thật hào phóng với con người.
Một buổi sáng khác tôi lại ra biển. Bất ngờ tôi ngẫn người, hàng đàn hàng đàn con dã tràng đang xe cát trên bãi biển. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy nhiều dã tràng đến thế. Ở bãi biển Nha Trang thỉnh thoảng mới thấy vài con chạy vội vàng trên cát. Ở đây , hàng ngàn hàng ngàn con dã tràng đang điềm nhiên xe cát, thực hiện ước mơ của mình, Ước mơ lấp được biển đông, mặc cho mọi người qua lại, vô tình dẫm đạp lên những viên cát được vo tròn như hàng vạn hàng vạn viên ngọc láp lánh dưới ánh sáng mặt trời.
Đột nhiên tôi lại chợt nhớ đến những giấc mơ của riêng tôi. Liệu có viễn vông lắm không, liệu có như giấc mơ không bao giờ thực hiện được, giấc mơ của dã tràng?
Và 12 ngày đêm ở Vũng Tàu trôi qua, đối với tôi giống như một giấc mơ tôi chợt gặp.
Gần đến ngày về. Vội vàng gọi vài cuộc điện thoại. Nhận được vài câu trả lời. Lòng chợt chùng xuống rồi lại bùng lên sự nghi ngại về tất cả mọi điều. Giấc mơ tan biến!
Một lần nữa sự nghiệt ngã và niềm ưu ái lại luôn luôn xen kẽ nhau trong cuộc đời tôi. Trên đường về gần đến Nha Trang, tôi nhận được tin nhắn của bạn tôi. Người bạn mà chỉ khi nào thật sự khó khăn, đơn độc, không nơi bám víu, tôi mới nhớ đến. Và cái tin nhắn ấy đã làm cho những giấc mơ của tôi trở lại...
DZU CA
&
Cảm Xuân
Trầm Thiên Thu
Xuân đến nhanh quá khiến đất trời như ngợp Xuân.
Xuân tươi đẹp và nhẹ nhàng. Thật vậy, Xuân đẹp với ngàn sắc hoa, những màu áo rực rỡ, và nhẹ nhàng với làn gió thoảng đưa nhẹ mát rượi. Nhưng tôi vẫn thấy Xuân ồn ào với những tiếng cười vui vẻ. Xuân còn ồn ào với cõi lòng rạo rực, một loại ồn ào mầu nhiệm, một dạng ồn-ào-tĩnh.
Đất trời vào Xuân, hoa lá reo vui nhảy nhót trong nắng vàng ươm như những lời tỏ tình dễ thương. Mọi vật dù quen thuộc nhất, thì với mùa Xuân cũng trở nên tuyệt mỹ trong vẻ diệu huyền. Viên sỏi nhỏ vẫn nằm im trên đường xuyên suốt thời gian, thế mà giờ đây hình như cũng vui vẻ và nhí nhảnh như cố bé lanh chanh đang đùa vui với mùa Xuân.
Đây hàng mứt, đó hàng dưa, kia hàng hoa,... Người qua, kẻ lại, việc mua bán tấp nập. Tiếng nhạc Xuân ùa ra đường, quyện vào không khí. Ngoại cảnh bắt buộc Xuân đến? Có thể là một phần. Và một phần do chính Xuân tự nguyện đến. Xuân phải là Xuân, Xuân luôn là Xuân, Xuân mãi là Xuân. Mỗi khi vui sống là Xuân hiện diện, như người ta thường nói: "Vui như Tết".
Xuân gợi nhiều suy tư dù Xuân không nói. Để có được mùa Xuân tươi, phải có cuộc sống đẹp và được trang điểm bằng những hạt-ngọc-yêu-thương. Má đỏ, môi hồng, còn cần phải có một trái-tim-hồng biết chia sẻ hạnh phúc và cảm thông nỗi bất hạnh của tha nhân. Cuộc đời còn đau khổ thì chưa có mùa Xuân trọn vẹn. Hãy cố gắng biến những lời chúc Xuân thành sự thật. Đừng để chúng đơn thuần chỉ là những lời chúc phát ra từ đầu môi, chót lưỡi!
Niềm vui và hạnh phúc của chúng ta ở ngay trong niềm vui và hạnh phúc của người khác - dù người đó là người chưa hề biết mặt, chưa hề quen tên.
Trầm Thiên Thu
Tình Đầu
Trầm Thiên Thu
Tình đầu quá mong manh nên tình đầu dễ hóa tình sầu!
Chiều nắng nhẹ. Chiều vừa động vừa tĩnh. Bâng khuâng. Em chợt nghe câu ca của nhạc sĩ nào đó đã viết và đưa em lạc vào khu vườn kỷ niệm: "Cây lớn, cây trổ bông. Em lớn, em theo chồng. Anh viết văn thật hay, anh viết thư rất dài. Lời yêu em, anh để đâu?". Lời ca nghe buồn quá! Vô tình đến thế sao?
Ngày ấy, em còn là cô bé mười tám, một cô bé nhõng nhẽo. Con gái mà anh, ai chẳng vậy? Ước mơ đầy tràn, đơn sơ và trong trắng như tà áo nữ sinh. Chợt một hôm, em đã đánh mất thơ ngây khi nhận ra miønh biết buồn vu vơ, biết giận hờn, và biết nhung nhớ. Còn anh cứ mặc cảm nghèo, chưa hề dám công khai hò hẹn, vì sợ không có xe đưa đón em tan trường.
Anh còn nhớ không? Buổi chiều của bảy năm về trước, anh đứng đón em xa xa. Thế là, vâng, lần đầu tiên em đi chơi với bạn trai. Bồi hồi và bối rối. Những rung động đầu đời vừa êm ả vừa dữ dội, vừa vui mừng vừa lo sợ. Cứ như là huyền thoại vậy. Ôi, nó làm sao ấy, khó tả lắm! Ánh mắt anh vừa buồn vừa "đuối", cứ cuốn hút em. Anh trầm lặng không nói nhưng em vẫn đọc được ánh mắt anh muốn nói điều giø. Trái tim luôn có lý lẽ và sứ điệp riêng của nó. Khi yêu, người ta thông minh đột xuất và khác thường. Ước mơ em đơn giản, không cao xa đâu. Nhưng, anh ơi, con gái không có quyền nói trước, dù quan niệm thời nay đã thoáng hơn xưa rất nhiều. Nghèo không là tội. Em sẵn sàng chấp nhận những gì ở anh, kể cả sự lãng mạn và đam mê thi ca trong con người anh. Có lần anh đọc bài thơ "Hai Sắc Hoa Ti-gôn" của nữ sĩ T.T.KH. cho em nghe mà không ngờ đó lại là sự thật chia ly: "...Anh bảo hoa dáng như tim vỡ, anh sợ tình ta cũng vỡ thôi...".
Nỗi nhớ như kim đâm xoáy vào tim em, anh ạ! Xa quá rồi còn đâu. Lạc mất nhau nên còn đầy nuối tiếc. Là con người nên không tránh được những phút hoài niệm, xao xuyến...
Đôi mắt em sè cay. Những giọt buồn không tên và vô tình lăn dài xuống. Em đưa tay nhấn quạt quay xua tan nỗi nhớ. Gió tung bay tóc em mà ngỡ tay anh âu yếm vuốt. Em giật mình khi chợt thấy khách bộ hành nào đó chậm bước ngang qua cổng, có mái tóc bồng bềnh nghệ sĩ trong dáng vẻ trầm mặc. Anh đó sao? Nhưng bóng dáng ấy lại hờ hững đi qua. Ray rứt lòng em. Hình như em đã mặc lấy vẻ u trầm của anh rồi. Em luôn hy vọng anh mà anh lại chẳng nói gì với em. Em đếm kỷ niệm qua những bài thơ anh làm tặng riêng em, vẫn đậm nét và chưa phai màu mực.
Ngày ấy, nghe mẹ nói có người đến đặt trầu cau, lòng em hoang vu lạ thường. Anh biết em buồn như thế nào không? Em gặp anh như hỏi lại lòng anh khi em báo tin em sắp theo chồng. Em nhìn anh thật sâu. Anh im lặng hồi lâu, rồi để rơi ánh mắt xuống chân và nói: "Chúc em hạnh phúc". Trời ơi! Em không chờ đợi câu nói đó. Câu nói của anh như tiếng sét ngang tai em. Anh vô tiønh và tàn nhẫn lắm, anh biết không? Anh không hiểu hay có tình không hiểu?
Chồng em thương em và hiểu em. Có khi em kể cho chồng em nghe những kỷ niệm ngày xưa. Có khi em thấy mình có lỗi với chồng mỗi khi em chợt nghĩ đến anh. Và chồng em vẫn thông cảm. Em vẫn còn may mắn. Sự rộng lượng và sự hiểu biết của chồng đã giúp em có hạnh phúc thực sự.
Em vừa có con. Những ngày nuôi con nhỏ, em có thời gian nhớ về ngày xưa. Có thể anh cũng buồn không ít. Chỉ vì anh mặc cảm mà anh phải xa em. Và chỉ vì em không dám "cách mạng" mà em phải chịu mất mối tình đầu thơ mộng. Dù sao tất cả cũng đã qua. Kỷ niệm đẹp thiø ai cũng có quyền giữ lại miễn là không làm nó hoen ố. Đóa hồng nào cũng còn vương lại chút hương thơm, phải không anh? Em vẫn nhớ anh, yêu anh mãi, một tình yêu trong sáng, một nỗi nhớ như pha lê, không chút tham vọng xấu xa - dù chỉ trong tư tưởng. Em phải tự trọng và tôn trọng tình yêu ấy. Vì vậy, em có bổn phận phải yêu chồng và thương con trong hiện tại. Có mộng thì có thực. Giữ mối tình đầu trong tim là sống thực tình yêu hôm nay. Vâng, em hiểu. Cuộc đời như bèo giạt mây trôi mà rất kỳ lạ.
Ngoài kia, chiều đang xuống và đêm đang lên. Thân phận con người nhỏ nhoi mà tình yêu mênh mông quá! Con người cứ mải miết đi tìm chính mình mãi mà chưa gặp được chính mình. Nỗi buồn dàn trải qua năm tháng. Nuối tiếc để mà cố vươn lên, vươn lên khỏi nỗi buồn, vươn lên khỏi vũng lầy trần tục, vươn lên khỏi chính mình, vươn lên không ngừng. Câu hát vang lên từ bên nhà hàng xóm, ca khúc Một Cõi Đi Về của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn:
Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vầng Nhật, Nguyệt
Dọi suốt trăm năm một cõi đi về...
Anh có nghe không? Trăn năm em đã thuộc về người khác. Còn trăm năm anh? Chẳng lẽ anh cứ loanh quanh đời nghệ sĩ vậy mãi sao? Rồi ai cũng mỏi mệt và cần có một bến cho trăm năm riêng mình, sỏi đá cũng cần có nhau kia mà!
Em vẫn luôn cầu nguyện cho anh, hy vọng Nàng Thơ của anh cũng yêu anh như em đã yêu anh ngày ấy để bù đắp những gian truân anh phải trải qua, khoảng trống anh đã có, và lấy lại được những gì anh đã mất.
Sau mùa Hạ nóng bức là mùa Thu êm dịu, sau mùa Đông là mùa Xuân ấm áp và rực rỡ ngàn hoa. Và trong Vườn Xuân ấy hẳn vẫn có một nụ hồng e ấp cho anh và cho em. Kỷ niệm tình yêu luôn tuyệt vời và mãi mãi trong veo!
Trầm Thiên Thu
&
Mùa Hè Dễ Thương
Truyện Ngắn của Hồ Thị Mỹ Hạnh
Thế là chấm dứt tuần lễ tôi du lịch thành phố. khi chuyến xe bắt đầu rời bến, bỏ lại tiếng rao hàng ồn ào phía sau, gió sớm thổi vào xe mát lạnh, đến chừng ấy tôi mới thấm buồn. Chuyến đi hoàn toàn không đạt mục đích. Gục đầu xuống đôi tay khoanh tròn lên yên ghế trước, tôi nhớ lại hôm chuẩn bị đi, cả nhà ngạc nhiên khi nghe tôi tuyên bố :
-Hè này Vân sẽ đi Sài Gòn .
Chị tôi tròn mắt rồi trêu tôi :
-Vân dám rút tiền tiết kiệm thật sao?
Anh trai tôi thêm vào :
-Chà ! Cuối cùng thì Vân cũng chịu... đổi mới.
Em trai tôi thè lưỡi tỏ ý không tin :
-Có thể ghi vào chuyện khó tin nhưng có thật.
Mẹ tôi từ tốn :
-Chúng mày cứ trêu nó, thì phải đi cho biết đó biết đây với người ta chứ.
Em trai tôi lại chen vào :
-Thì do chị ấy thôi , đi đâu cũng sợ tốn tiền.
Tôi cãi lại :
-Tại không có tiền chứ không phải sợ tốn tiền.
Tuy nói thế nhưng mãi đến khi tôi sắp xếp quần áo vào túi xách thì cả nhà mới tin rằng tôi đã quyết định. mẹ tôi dúi cho tôi gói thuốc đau răng, đau bụng, dầu gió vào túi tôi. Anh tôi cho thêm ít tiền và dặn "Đi Sài gòn mà không đến Thảo Cầm Viên là một thiếu sót, đến Thảo Cầm Viên mà không chụp một tấm hình ngay chuồng con cù lần lại là một thiếu sót hơn".Chị tôi dặn xuống xe phải cẩn thận giữ đồ đạc kẻo kẻ gian cuỗm mất như chơi. lớ ngớ như Vân thì không chừng "Mẹ mìn" dắt đi luôn.
Em trai tôi cũng tranh thủ truyền "Kinh nghiệm". Đọc báo chị thấy đấy, chuyện gì cũng phải đề phòng,cảnh giác, đừng tin người lạ, và bao nhiêu là chuyện trên đời, cứ nghe xong là tôi muốn chết khiếp. Nhưng cái lý do thúc đẩy, làm tôi quyết không bỏ qua ý định thì không ai biết được, chỉ nghĩ rằng tôi không bao giờ đi xa thiø hôm nay muốn thay đổi, vậy thôi.Thành phố ấy mới ồn ào, náo nhiệt làm sao.
Đường phố xe cộ dập dìu, người thì đông đúc không êm đềm như xứ lạnh của tôi, cái giø cũng lạ làm tôi cứ đảo mắt nhìn quanh quất, tay ôm mấy thứ linh tinh, vai đeo giỏ hành lý. Trống ngực tôi cứ đánh loạn xị không cần trật tự giø cả. Cứ thấy ai nhìn là tôi ôm chặt hành lý cho . . .chắc ăn! Tôi cứ hỏi chừng bác cyclo sắp đến nhà chưa? Bác hỏi lại "Cô mới vào thành phố lần đầu à ?" Tôi sực nhớ đến chuyện. . . cảnh giác! "À dạ không, đi nhiều lần rồi nhưng hôm nay tại cháu quên đường ".Cuối cùng thì sự lo lắng của tôi cũng chấm dứt, tôi đã đến nhà dì tôi bình an vô sự, chẳng thấy ai theo dõi, hay có vẻ muốn cướp giựt hành lý, đồ đạc của tôi.
Những ngày sau đó Quỳ Hương, con của dì tôi đưa tôi đi chơi cùng khắp, nhưng khi chuẩn bị ra đường y rằng tôi được dặn :
-Muốn ngắm gì cứ ngắm tự nhiên, đừng trố mắt ngạc nhiên cũng đừng xuýt xoa, người ta cho mình là . . .nhà quê lên tỉnh đấy. Người Đà Lạt "Tây" lắm chứ. còn chị sao . .
Tôi hỏi lại :
-Nhìn chị quê mùa lắm sao ?
- Xinh ra phết chứ lị, chỉ có cái tội ngơ ngác của chị, buồn cười thí mồ.
Tôi thở dài :
-Tại chị ít giao thiệp, mà cũng chẳng đi đâu ngoài con đường từ nhà đến trường . Nhưng nếu gặp chị lần đầu có thể . . . cảm tiønh được chứ?
-Chị có vẻ lo lắng ngộ ghê. Dĩ nhiên là có thể "Cảm" ngay chứ nói gì là cảm tình.
Những câu hỏi của tôi đã khiến Quỳ Hương nghi ngờ, và do sự điều tra khéo léo của nó, tôi đã phải khai ra chuyện mà tôi định giấu kín để âm thầm thực hiện. Tôi có một người quen...Chuyện bắt đầu từ người bạn gái cùng trường với tôi đăng lời rao tiøm bạn trên báo, thư bốn phương bay về tới tấp, cô không hồi âm hết, chỉ chọn một số, còn bao nhiêu . . .bỏ ! Trong số thư đó tôi vô tình đọc thấy thư của Tâm. Lời lẽ ý nhị và nét chữ đẹp làm tôi có thiện cảm, vậy là tôi mang về hồi âm. Thư đi, tin lại . . .Người bạn à không, người anh tinh thần kia dù chưa biết mặt mũi ra sao, nhưng đã gây cho tôi một ấn tượng đẹp, tôi cảm thấy những lá thư của Tâm không thể thiếu trong cuộc sống ít giao thiệp bạn bè của tôi.
Quỳ Hương nhún vai khi nghe tôi kể xong :
-Chuyện xưa như trái đất í, có giø ngại mà giấu? Đưa địa chỉ đây, ngày mai em sẽ đưa chị đến trúng phóc.
Không đơn giản như là tôi tưởng, cuộc đi thăm không hẹn trước ấy đã làm tôi muốn hụt hơi, đổ mồ hơi giữa cái nóng của Sài Gòn. Sau khi đi vào một con hẻm dài, cua phải, quẹo trái, dò dẫm ra địa chỉ thì Tâm lại đi vắng không biết bao giờ về, gia điønh anh tiếp chúng tôi vui vẻ.Không đợi được, tôi ghi vội mấy dòng gởi lại "Duyên có đến thăm nhân dịp vào Sài Gòn mà không gặp anh Tâm, có lẽ Duyên phải về Đà Lạt ngay nên không quay lại thăm anh được" (Duyên là tên người đăng lời rao tiøm bạn mà khi viết thư tôi chưa tiện đổi lại tên tôi )
Hôm nay tôi đang trên đường trở về, biết bao giờ có cơ hội để trở lại thành phố, bất giác tôi thở dài .
Mùi xăng bốc lên làm tôi choáng váng, thực sự mệt mỏi vì không quen đi xe. Bên phải là một bà cụ to béo, bên trái là một anh thanh niên cùng chật chội trên một băng ghế bốn người, tôi mong xe chạy nhanh hơn cho mau về đến nhà.Khi xe dừng lại để ăn trưa, tất cả hành khách xuống xe, tôi vội tìm nước rửa mặt, nước mát làm tôi tỉnh táo hơn, trong khi chờ mọi người ra, tôi đứng tựa vào xe, cặp giò được phóng thích khỏi sự gò bó trong xe tha hồ nhịp gót.Tôi lại nghĩ đến tuần lễ vừa qua, những cuộc rong chơi không có giø thú vị, biết thế thì chẳng đi làm gì khi mục đích chính không đạt được. Tâm sẽ nghĩ sao? khi nghe tôi đến nhà bất ngờ như thế . . .
-Cô không vào dùng cơm trưa sao?
Tôi ngẩng lên nhìn, anh bạn đồng hành ngồi bên cạnh tôi trên xe đang đứng trước mặt. Bây giờ tôi mới chú ý, một người người trạc tuổi ba mươi, ăn mặc giản dị, lịch sự. tôi mỉm cười đáp :
-Dạ không, tôi không quen ăn khi đi xe.
Anh ta tự nhiên :
-Vậy mời cô vào uống nước, đứng đây nắng lắm .
Tôi lắc đầu từ chối :
-Cám ơn anh, xin anh cứ tự nhiên . . .
Người ấy quay đi, tôi mơ mộng nhìn những đám mây lơ lững trên bầu trời. Thử hình dung xem Tâm như thế nào nhỉ? Giá mà tôi có một tấm hình của anh, sao tôi lại nghĩ đến điều này muộn thế kìa? Nhưng chắc Tâm không đến nỗi . . .xí ! Dân mô phạm mà lị , một người văn hay chữ tốt.Mọi người lần lượt ra xe, tôi lại thu người vào chỗ ngồi chật ních, hơi nóng làm tôi khó chịu. Bà cụ ngồi bên phải cứ ép tôi vào anh thanh niên bên trái. Thân hình thuộc loại gầy của tôi càng co dúm lại. Hiểu được sự ngột ngạt của tôi, anh bạn đồng hành bèn tỏ lòng tốt của mình :
-Cô có thể đổi chỗ cho tôi, ngồi phía cửa có lẽ thoải mái hơn .
Tôi mừng rỡ :
-Ồ! Thế thì cám ơn anh nhiều quá .
Lách sang chỗ ngồi mới, gió lồng lộng thổi vào mặt, càng lúc không khí càng dễ chịu. Đoạn đường thu ngắn dần. Một số khách lần lượt xuống xe, chỗ ngồi rộng hơn, bấy giờ tôi mới quay sang hỏi chuyện người bên cạnh :
-Hình như anh không phải dân Đà Lạt?
-Sao cô nghĩ vậy? (Anh ta hỏi lại )
-Nghe tiếng nói của anh !
Anh ta cười hiền lành :
-Vâng! Tôi ở Sài Gòn lên đây thăm bà con, còn cô ?
Tôi hóm hỉnh cười :
-Còn tôi thì lại xuống Sài Gòn thăm bà con.
Bà cụ kế bên liếc mắt nhìn sang tôi vẻ soi mói, thế là tôi im tịt, cắt ngang câu chuyện, cho đến khi xe về đến bến, anh bạn đồng hành hẳn phải ngạc nhiên vì thái độ của tôi.
O0O
-Có người mới đến đây hỏi thăm Duyên, sao không đến nhà nó mà lại đến nhà mình?
Tôi giật thót người khi nghe mẹ tôi nói :
-Hỏi thăm Duyên ? hỏi sao hở mẹ?
-Anh ta nói ở Sài Gòn mới lên, chưa kịp báo tin trước . Mẹ nói Duyên là bạn của Vân nhà này nhưng không có ở đây .
Tôi bối rối :
-Duyên là con, chứ không phải là . . .Duyên đâu !
Mẹ tôi trố mắt không hiểu :
-Cái gì ? Sao con mà lại là Duyên ? chúng mày hôm nay làm sao vậy nhỉ ?
Không tiện giải thích cho mẹ tôi hiểu được. Tôi quay về phòng, cảm thấy không yên, lẽ nào Tâm đã có mặt ở thành phố này, từ bao giờ? Chúng tôi đang chơi trò cút bắt đây sao? Rồi anh có trở lại không khi nghĩ đây không phải là nhà của người anh quan hệ thư từ? Bao nhiêu là câu hỏi cứ lộn xộn trong đầu, không thể viết thư cho tâm kịp nữa rồi. Tôi muốn kể cho anh nghe về chuyến vào Sài Gòn của tôi. Tâm trạng của tôi lúc này và không quên giải thích cho anh hiểu, người viết thư cho anh tên thật là Vân.
Thời gian trôi qua trong sự ngóng đợi, tôi không thấy bóng dáng Tâm . Buổi chiều quay quần bên mâm cơm, chị tôi lên tiếng trước :
-Nhỏ Vân đi Sài Gòn về chợt trầm tư mặc tưởng.
Tôi nhướng mắt lên nhìn, anh trai tôi nhận xét :
-Đôi mắt bồ câu của Vân hôm nay con đậu, con . . . bay !
Em trai tôi bổ khuyết :
-Cánh cửa sổ tâm hồn của chị Vân hôm nay bị. . . sút bản lề ! Em nghi có "vướng" đề giø đó xảy ra rồi .
Tôi phản đối :
-Đừng đón mò rồi nghĩ bậy bạ . .
Cả nhà cười ồ, lại giọng của thằng em tôi :
-Hí . . .hí . . .người ta có nói gì đâu mà vội . . .có tật giật mình.
Mẹ tôi kết luận :
-Tụi mày sao cứ nhè vào nó mà chọc ghẹo hoài vậy nhỉ ?
Buổi chiều trôi qua trong điệu Slow.
O0O
Buổi sớm Đà Lạt vẫn còn gai lạnh dù sương mù đã tan trên đồi cây, tôi ra vườn ngắt một đóa hồng nhung cắm nơi bàn, sửa lại bức rèm nơi cửa sổ, quét dọn kỹ phòng khách . Trong lòng tôi cứ nôn nao.Mẹ tôi ra chợ từ sớm, anh chị tôi đi làm, em trai tôi xách cặp vợt phóng đi hoang phí cho hết những ngày hè của nó, chỉ còn mình tôi ở nhà vì tôi tin rằng Tâm sẽ trở lại.
Mặt trời đã ngả bóng ngang sân. tôi chán nản vì không thấy người khách tôi đang mong.
Tôi mang cây đàn ra đàn cho đở sốt ruột, cảm giác bâng khuâng lần đầu tiên trong đời mà tôi có, cũng thú vị lắm, tôi hình dung Tâm đến nhà không gặp tôi, dĩ nhiên anh sẽ buồn. Đêm qua có khi anh không ngủ được, với điếu thuốc trên tay anh thì thầm gọi Vân à quên, Duyên chứ! Và cũng có khi anh một mình lang thang giữa thành phố lạnh, đi ngang qua. . . nhà tôi, ánh đèn đã tắt, anh thở dài.
Ồ! Thật là một hình ảnh lãng mạn. Lần đầu tiên tôi để cho trí tưởng tượng của mình làm họa sĩ, thật hứng thú nên tôi hát to lên :
- Một đàn kiến nhỏ, chạy ngược chạy xuôi. chẳng ra hàng một cũng chẳng hàng đôi, đang chạy bên này liền sang bên nọ, cắm cổ cắm đầu kia trông xấu quá, chúng em vào lớp sóng bước hai hàng chẳng như kiến nọ rối tinh cả đàn . . .Tôi đàn loạn xị, bởi vì tôi có biết đàn đâu, còn giọng ca thì tôi yên chí vì ngày nào mà tôi chẳng ca cho mấy cháu mẫu giáo ở hàng xóm nghe, tôi cứ hát đi hát lại khúc hát trên, đến khi giật mình vì tiếng động ngay cửa, tôi mới ngẩng lên, buông cây đàn ra trong sự ngỡ ngàng. Người đứng trước mặt tôi cũng không kém vẻ ngạc nhiên .Đó là anh bạn đồng hành của tôi trên chuyến xe hôm trở về, cuộc hội ngộ cứ như là mơ, một giấc mơ tuyệt đẹp. Nắng mùa hè ở cao nguyên bao giờ cũng dễ thương !
Hồ Thị Mỹ Hạnh
&
Một Thời Đỏng Đảnh
Dzu Sa
Ngày xưa tôi là một con bé đỏng đảnh, hời hợt và luôn mơ những giấc mơ hoang tưởng. Và cũng vì điều đó, đã làm cho cuộc đời tôi trở nên nghiêng ngã...
Khi còn nhỏ tôi ở Liên Khương, một ngôi làng cách xa thành phố Đà Lạt ba mươi cây số đường đèo, hẻo lánh, hoang sơ. Chung quanh làng vẫn còn những cánh rừng rậm rạp, phía trước mặt nhà tôi cũng thế, là một cánh rừng nhỏ, gió ngút ngàn bay. Vườn nhà tôi rất rộng, mẹ tôi trồng đủ thứ cây trái. Phía hông nhà là một vườn cam, cam xã Đoài, mẹ trồng để cho ba đỡ nhớ quê hương . Gần Tết, cam chín rộ, lúc lỉu dưới ánh mặt trời, vàng rượm cả một góc vườn. Trong sân, Mẹ để ra một khoảng rộng trồng những cây mận, cây đào Đà Lạt và đủ các loài hoa. Phía sau là một vườn ổi rộng mênh mông, ổi xá lỵ. Cả làng chỉ riêng nhà tôi có giống ổi này. Đến mùa, hương ổi chín thơm bay ngào ngạt
Nhà tôi ở gần Sân bay Liên Khương, đó là một sân bay nhỏ, xinh xắn. Mỗi ngày chỉ có vài chuyến bay từ Sài Gòn lên, ở Đà Nẵng hoặc Huế vào. Dì tôi hàng ngày đem những trái cây trong vườn nhà vào sân bay để bán cho khách ngồi chờ bay. Những hôm được nghỉ học tôi thường đi theo dì. Vào đây là cả một thế giới khác đối với tôi. Trước mắt tôi là những tiểu thư con nhà giàu, óng ả trong những bộ áo váy sang trọng, những quý bà, quý ông, lịch lãm, bóng bẩy. Họ nói chuyện với nhau từ tốn, thầm thì, kiểu cách đi tới đi lui trông thật là tao nhã. Mọi cái ở họ đều khác xa với chúng tôi, những cư dân ngoài làng. Tôi say sưa ngắm nhìn rồi ước ao lớn lên mình cũng được như thế. Cũng lịch lãm, sang trọng, kiểu cách và điệu đà như họ.
Mỗi khi máy bay hạ cánh, trong khi chờ đến giờ bay, cả đội bay thường leo lên chiếc xe jeep chuyên dụng của phi trường chạy ra nhà tôi, thích thú dạo quanh vườn. Họ ngạc nhiên trước giàn thanh long, thân như những con rồng xanh nhỏ, uốn lượn từ trên cao thòng xuống những trái chín mọng đỏ thắm (hồi đó thanh long chưa có nhiều, chỉ có Nha Trang mới có giống cây này, và ở làng cũng chỉ có mỗi nhà tôi trồng thanh long). Họ thích thú tự tay hái những trái ổi chín, thơm sà ngang trước mặt, nói cười ríu rít. Đứng gần bên những cô tiếp viên hàng không xinh đẹp, hương nước hoa toả ra dịu dàng , quyến rũ. Nhìn họ tôi lại ước mơ sau này mình cũng thế, cũng sẽ làm tiếp viên hàng không, cũng thướt tha trong chiếc áo dài màu thiên thanh, dịu dàng đi trên những đôi giày cao gót và bay trên những chuyến bay đến những vùng trời xa lạ...
Sát nhà tôi là nhà của Cu Thuần. Cu Thuần lớn hơn tôi một tuổi. Trắng trẻo, bợt bạt, ẻo lả còn hơn con gái. Suốt ngày ba má nó không cho nó ra khỏi nhà, chỉ đứng bên trong cái lan can nhà thèm thuồng nhìn bọn chúng tôi chơi đùa, nghịch ngợm. Ba nó làm ở văn phòng sân bay, còn má nó không làm gì ngoài việc nấu nướng, đánh bài tứ sắc với mấy bà vợ công chức ở sân bay và đọc những trang tiểu thuyết diễm tình đăng trên những tờ báo thời bấy giờ. Cả hai ông bà đều là dân Sài Gòn, sống có vẻ kiểu cách, ít hoà đồng với những người dân trong làng. Cu Thuần không có bạn nên nó hay rủ tôi qua nhà nó chơi. (Tôi và nó là đôi bạn thân từ thời thơ trẻ vậy mà không hiểu vì sao từ ngày tôi về Nha Trang học mãi cho đến bây giờ , mặc dù mỗi năm tôi đều về nhà vào dịp nghỉ hè và Tết, chúng tôi vẫn chưa hề giáp mặt nhau). Cu Thuần thích chơi bán hàng, chơi nấu cơm..., còn tôi lại thích những trò chơi của đám con trai: đánh trổng, u mọi, quay vụ...nhưng vì mê cái đống sách báo của mẹ nó mà tôi phải chìu lòng nó, chơi với nó những trò chơi của đám con gái, chơi xong tôi bắt nó lấy những tờ báo của mẹ nó đọc, cho tôi xem. Mẹ nó là đọc giả thường niên của tờ Báo Phụ Nữ Ngày Mai, trong đó có đăng những thiên tiểu thuyết diễm tình dài kỳ của bà Tùng Long. Tôi say sưa đọc những câu chuyện này, thút thít khóc khi đọc đến cảnh đời éo le và bắt đầu mơ mộng lớn lên sẽ trở thành những nhân vật trong đó. Sẽ có nhà lầu, xe hơi, có những buổi tiệc sang trọng và những mối tình bi thảm...
Sau, tôi chán thành những nhân vật trong tiểu thuyết diễm tình của bà Tùng Long Tôi lại thấy thích mình là một Kiều Giang, hiền lành, ngoan ngoãn, nhân hậu trong Đồi gió hú (truyện phóng tác in thời bấy giờ). Nhưng nghĩ lại, tôi không thể nào trở thành một nàng Kiều Giang được. Tôi không ngoan hiền, mà lại lém lỉnh, tinh nghịch và bướng bỉnh. Tôi nghĩ mình sẽ là một Scarlett trong Cuốn Theo chiều gió. ƯØ nhỉ. Tại sao không? Tôi có đủ phẩm chất và tư cách để trở thành một nàng Scarlett kiều diễm. Tôi đẹp, xinh xắn, bướng bỉnh và cũng thông minh. Và nhà Ba tôi, tuy không phải là một đồn điền rộng lớn như O�Hara, nhưng lại có một vườn cây trái xum xuê, bát ngát, có những cánh đồng rộng mênh mông chạy dọc theo hai bên đường băng của sân bay; cũng có một chị giúp việc (chị Sáu) mập không thua gì bà Vú da đen của nàng Scarlett. Và thay vì chở chúng tôi trên những chiếc xe song mã đến dự những buổi tiệc sang trọng trong vùng, Ba tôi, sáng sáng lái chiếc xe "tắc xông" đen bốn chỗ , chở chị em tôi xuống chợ Tùng Nghĩa ăn bánh "giò chéo quảy" chấm sữa đậu nành nóng của mấy bà Ba Tàu bán. Thế thì tại sao không?
Tôi quyết định mình sẽ là một nàng Scarlett và bắt đầu mơ tới một Red Butter. Tôi sẽ không bao giờ bỏ chàng Red Butter hào hoa, đa tình, đỏm dáng và giàu có như nàng Scarlett nông nỗi. Tôi sẽ giữ chặt chàng trong suốt cả cuộc đời tôi.
Năm 1969 tôi về Nha Trang học...
Một hôm, tan học về, tôi cùng các bạn tung tăng dạo phố, gió biển lồng lộng thổi tung bay những tà áo dài của chúng tôi trong buổi chiều nhạt nắng và phố xá xôn xao. Chúng tôi dạo khắp các cửa hàng trên con phố chính. Xin thử cái kẹp tóc, ướm lên người những chiếc áo lụa xinh xinh, xức một chút nước hoa rồi rúc rích cười đi ra trước cái tặc lưỡi và huơ tay bất lực của những anh chàng Chà Và (Ấn Độ - Nha Trang lúc đó có rất nhiều cửa hàng của người Ấn Độ trên phố chính). Đang đi, nói cười rôm rả, bỗng "phựt", chiếc quai guốc của tôi đứt rời ra. Bàn chân tôi rơi ra khỏi chiếc guốc cao gót, trật qua một bên, đau điếng, tôi "á" lên, ngồi phịch xuống, không làm sao bước tiếp được.
Thế rồi chàng đến. Red đến. Một Red Butter hào hoa phong nhã nhưng không có hàng "ria con kiến" như chàng Red trong "Cuốn theo chiều gió" xuất hiện trước mặt tôi, xin phép được sửa cái bàn chân nhỏ nhắn xinh xắn của tôi. Chàng nâng bàn chân tôi lên, xoa xoa nhè nhẹ, rồi "rắc" một cái, nước mắt tôi ràn rụa, miệng méo xẹo đi vì đau. Chàng cười, bảo tôi đứng lên đi thử, đưa tôi chiếc khăn mùi xoa thơm phức từ trong chiếc túi quần của chàng cho tôi lau nước mắt. Tôi cười, mấy con nhỏ bạn tôi cũng cười.
Chàng xin phép được đưa tôi về. Rồi cười cười xách đôi guốc đứt quai của tôi lên và lặng lẽ đi bên cạnh. Ngày thường tôi là một con bé lém lỉnh, nghịch ngợm vậy mà giờ đây không nói nên lời, e thẹn bước thấp bước cao bên chàng với đôi chân trần và tà áo dài tung bay trong gió, lâu lâu lại tinh nghịch quấn lấy chân chàng trên con phố chiều đông người qua.
Chàng vẫn mỉm cười, im lặng đi bên tôi. Tôi làm bộ đi chậm lại, tụt về phía sau để lén nhìn chàng! Ôi! Red của tôi! Chàng mới đẹp làm sao. Giữa đám đông người qua lại, chàng nổi bật lên như một thiên thần; dáng cao ráo, mái tóc bồng bềnh, mũi thẳng, mắt sáng và nụ cười dịu dàng như mời gọi. Tôi đi bên chàng mà lòng bồi hồi, xao động, nhưng vẫn cố làm như xa cách, hững hờ.
Đi một đoạn, quay lại nhìn, tôi không thấy đứa bạn nào cùng đi, thấp thoáng thấy bóng chúng nó từ xa đưa tay vẫy vẫy, miệng cười đễu cáng.
Đưa tôi đến đầu con hẻm nhỏ dẫn vào nhà, tôi dừng lại từ chối không cho chàng đi theo nữa. Nhưng Red không chịu, nói phải đưa tôi về đến tận nhà chàng mới yên lòng. Đến cổng nhà, Red trả cho tôi đôi guốc chàng cầm trên tay và bảo: "Lần sau đi, nhớ cẩn thận!" rồi mỉm cười quay bước.
Tối đến, tôi học mãi mà không sao thuộc được một bài văn ngắn. Tôi cứ mỉm cười nghĩ về Red, hình ảnh của một Red hào hoa len vào giấc ngủ dẫn dắt tôi đi đến những giấc mơ đầu đời của thời thiếu nữ.
Chiều hôm sau, tan học, đang chạy ùa ra khỏi lớp cùng mấy đứa bạn, tôi chợt khựng lại, ngạc nhiên vì thấy chàng đang đứng tựa gốc bàng gần cổng trường, ánh mắt nhìn tôi vừa âu yếm vừa giễu cợt. Tôi ngại ngùng bước tới và bối rối hỏi vì sao chàng lại biết trường tôi học. Red không trả lời mà chỉ vào bản tên trường tôi đang đeo trên ngực áo.
Từ đó, cứ mỗi chiều thứ bảy, tan trường tôi lại thấy chàng đứng đón tôi nơi cổng trường, bảnh bao và phong nhã. Tôi kiêu hãnh đi bên chàng, mặt nghếch lên, không quên hé mắt liếc nhìn những ánh mắt trầm trồ của đám bạn gái, những bộ mặt thụng ra vì ghen tỵ của mấy đứa bạn trai.
Và hàng tuần, chiều thứ bảy, sáng chủ nhật là chàng đến đón tôi, đưa đi ăn kem, uống nước mía và coi xinê. Những lần như thế tôi không quên nháy cho lũ bảy tám đứa bạn gái quỷ sứ của tôi đi theo. Nhìn thấy thế, chàng lắc đầu vô vọng, rồi âu yếm cốc vào đầu tôi như trách móc, giận hờn. Mặc, tôi và lũ bạn cứ điềm nhiên chè chén...
Qua những lần nói chuyện, tôi biết Red vừa tốt nghiệp trường Luật, dân Sài Gòn , ba má có một cửa hiệu buôn đồ gỗ lớn ở đường Yên Đỗ, ra đây tập sự ở văn phòng luật sư của ông chú. Ngay ngày đầu tiên đến Nha Trang, Red gặp tôi cùng lũ bạn đang phá những anh chàng Chà Và, chủ các cửa tiệm trên phố, đã thích thú đi theo cho đến khi tôi bị trẹo chân và quyết định làm quen với cô bé lém lỉnh, tinh nghịch là tôi...
Một hôm, Red đến nhà rủ tôi đi dạo phố. Chàng ăn mặc thật bảnh bao, chải chuốt đúng một công tử con nhà giàu, quý phái. Bộ đồ tây màu sáng ôm sát người, mái tóc thường ngày bồng bềnh, nay chải ngược ra sau bóng bẩy, và dưới chân là một đôi giày màu đen bóng lộn. Chàng nói, hôm nay chàng muốn nói với tôi những lời đặc biệt, và tôi không được dẫn đám bạn đi cùng, bởi những lời đặc biệt chỉ nên nói khi chỉ có hai người, tôi và chàng.
Tôi bồi hồi, xúc động như lần đầu gặp chàng. Tôi đã đợi chờ ngày này và tưởng tượng ra đó sẽ là một đêm huyền dịu trên bãi biển, trong tiếng sóng lao xao và dưới ánh trăng sáng lung linh rơi trên đầu những con sóng, Red tỏ tình cùng tôi. Sao Red lại chọn một ngày nắng nóng như thế này... nhưng thôi, đành vậy. Tôi tung tăng chạy vào thay một bộ váy thật đẹp, chuẩn bị nghe những lời đặc biệt. Nhưng... hỡi ôi! Khi cúi xuống mang đôi giày cao gót, lúc ngước nhìn lên, tôi chợt thấy một sợi râu đen nhánh mọc ngược dưới cằm chàng, trông thật là phản cảm. Và trong đầu tôi bật ra ngay ý nghĩ "Ôi! Sợi râu mọc ngược trong nỗi oan Thị Kính" và liên tưởng nhanh đến việc "đêm đêm tôi ngồi cầm con dao nhíp bổ cau nhổ râu cho chồng". Eo ôi! Tôi thả đôi giày ra, chạy vào buồng đóng cửa lại trước sự lúng túng và ngạc nhiên của chàng. Chàng đập cửa, kêu gọi thảm thiết tôi vẫn nhất định không ra. Và tôi bỏ chàng. Bỏ Red đẹp trai và giàu có của tôi.
Tội nghiệp, Red sẽ chẳng bao giờ hiểu lý do vì sao.
Scarlett bỏ Red Butter vì sự nông nổi của mình. Còn tôi , tôi bỏ Red vì sự đỏng đảnh của tôi. Sau này nhớ đến tôi lại rúc rích cười và tiếc nuối.
Bẵng đi một thời gian, tôi lại cho phép mình mơ mộng. Lần này là Bá tước Montơ Critxtô. Thông minh, dũng cảm, giàu có và nhân hậu.
Chưa kịp gặp Bá tước, một buổi chiều (lúc này tôi đang bán sách trong hiệu sách của thành phố), đang sắp xếp lại mấy cuốn sách trên giá, tôi chợt bắt gặp một ánh mắt nhìn tôi. Một thoáng qua thật nhanh, nhưng tôi kịp nhìn thấy ánh reo vui và bồi hồi trong đôi mắt đó. Tim tôi đập mạnh, cố gắng đưa mắt nhìn đi nơi khác để giấu sự xao động của mình.
Một ngày, hai ngày rồi nhiều ngày qua, dù nắng, dù mưa, cứ đúng giờ anh lại đến hiệu sách, lật tìm những quyển sách trên giá và lâu lâu đưa mắt nhìn tôi đắm say. Đến khi tôi đã quen với sự hiện diện của anh, anh không đến nữa. Tôi bỗng hụt hẫng, thấy mình giống như con cá chết - Con cá trong câu chuyện "Có một người đàn ông nọ, nuôi một con cá, thay vì để nó trong bể nước bơi lội, vẫy vùng như những con cá khác, mỗi ngày một chút, ông đưa nó ra khỏi bể nước, để xuống sàn nhà, ra sân. Lâu dần nó đã quen ở trên cạn, quấn quýt bên ông, ông đi đâu nó nhảy lách tách theo bên cạnh. Một hôm vì bận việc đi xa, ông để con cá lại trong bể nước, con cá chết vì bị ngộp nước!"
Tôi cũng vậy, vắng anh mới có vài hôm tôi đã thấy mình gần chết ngộp như con cá nọ.
Rồi anh lại đến, nhìn thấy anh, tôi không giấu được sự mừng vui. Tôi vội vã sà đến bên anh, nói với anh những lời trách móc, nhớ nhung; điều mà tôi chưa nói cùng ai. Nhìn lên tôi thấy anh mỉm cười đắc ý. Mặc kệ, tôi tha thứ cho anh vì anh đã quay trở lại.
Tôi như con thiêu thân lao vào anh. Bất chấp việc anh không là một ai trước đây tôi từng mơ tưởng. Bên cạnh những người đàn ông hoàn hảo, anh xù xì như một con cóc xấu xí. Nhưng bù lại, anh thuộc rất nhiều bài thơ tình nổi tiếng, anh hát những bản tình ca thật là sâu lắng và biết làm cho tôi cười với những câu nói dí dỏm, thông minh.
Cùng với những món quà nho nhỏ, xinh xinh, anh luôn dùng những lời bay bổng lòng người nói với tôi:
-Em là niềm hạnh phúc của đời anh. Em là giọt sương long lanh rơi trên áo anh mát lạnh. Em là vầng dương, là tinh tú trên trời cao toả sáng. Em là mây, là gió ngàn bay thổi vào hồn anh niềm đam mê cháy bỏng. Ôi! Tình yêu của anh... Rồi anh đọc cho tôi nghe những câu thơ xa lắc của Vũ Hoàng Chương:
" Anh biết em từ độ
Em mới tuổi mười hai
Anh yêu em từ thuở
Em tóc còn xoã vai"
Tôi nghệt mặt ra, say sưa uống từng lời mật ngọt anh rót vào tai, và vô thức đưa đôi bàn tay nhỏ nhắn của mình cho anh dắt vào mê lộ của tình yêu...
Đó là những đêm huyền diệu trên bãi cát mênh mông rượm vàng dưới ánh trăng mười sáu và tiếng những con sóng vỗ lao xao, ve vuốt những đôi chân trần của chúng tôi; Đó là những ngày mùa đông chúng tôi dìu nhau đi dưới cơn mưa phùn buốt giá, là những buổi sáng rực rỡ nắng trên con đường đầy hoa mimôsa vàng thơm ngát trên bầu trời Đà Lạt. Và đó là những đêm hoan lạc đến ngất ngây trong tiếng thông reo xào xạc trên đỉnh đồi.
Bước ra khỏi cơn mê, mặc nhiên tôi trở thành cô nhân tình bé nhỏ của anh. Anh đã có gia đình, vợ và ba con, các con anh còn nhỏ, anh không thể bỏ vợ và các con để cùng tôi chung sống. Nhưng anh luôn bảo, tôi mới chính là tình yêu, là nỗi khát khao cả đời anh nay mới gặp. Anh luôn tìm mọi cách, mọi lúc, mọi nơi để gặp tôi. Vồn vã yêu, vồn vã nhớ mong... Nhưng tình yêu và sự khát khao ấy cũng dần lụi tắt, khoảng cách giữa những cuộc gặp mỗi ngày một cách xa, lâu dần chỉ còn là những cuộc gặp chớp nhoáng, hối hả, không một lời yêu, không một món quà nho nhỏ, xinh xinh. Chỉ còn một thoáng chau mày, không vừa ý, cái lắc đầu và những lời từ chối khéo léo khi tôi nũng nịu yêu cầu anh làm một điều gì đó cho mình... Tuy vậy anh vẫn giam hãm tôi trong sự ngờ vực, ghen tuông đến vô lý của mình. Anh ghen với tất cả những ai tôi từng quen biết, ghen cả với ánh mắt tôi vô tình nhìn những người đàn ông khác đi trên đường mà anh thoáng bắt gặp. Nhưng trên tất cả đó là tính keo kiệt, bủn xỉn mà mãi đến bây giờ tôi mới nhận ra: chỉ có những lời tán tỉnh, yêu đương anh dành cho tôi là hào phóng, còn tất cả những món quà mà anh tặng cho tôi chỉ là những vật hào nhoáng, lấp lánh đầy màu sắc nhưng không có một chút giá trị nào.Vậy mà trước đây tôi đã nâng niu, trân trọng và yêu quý nó như những báu vật trên đời. Và tôi nhận ra anh cũng chỉ là một gã đàn ông ích kỹ, tham lam, keo kiệt giống như lão "Acpagông" trong "Lão hà tiện" của Môllier: luôn luôn nghi kỵ và sợ người ta dòm ngó túi tiền của mình. Nhưng sao tôi vẫn cứ đắm đuối, si mê.
Đến khi tôi nhận ra chính những giấc mơ hoang tưởng, tính đỏng đảnh, hời hợt của mình từ thời con gái đã làm tôi đánh mất mối tình non trẻ mà Red định dành cho tôi. Giờ đây Red Butter đã không còn. Bá tước Montơ Critxtô cũng không có. Chỉ còn mỗi tôi, đang dãy chết trong vòng tay "Lão hà tiện" của Mollier vì sự đỏng đảnh xuẫn ngốc của mình...Và mối tình của tôi cũng có kết cục bi thảm như những mối tình trong tiểu thuyết của bà Tùng Long mà ngày xưa tôi đã đọc và từng ao ước. Tôi chia tay anh...
Nhiều năm sau tôi gặp chồng tôi, anh là một người đàn ông chân chất, bao dung, anh không có những lời bóng bẩy, đẩy đưa nhưng anh thật lòng yêu thương tôi. Sống với anh, tôi luôn luôn có cảm giác bình an và tín cẩn. Anh biết và không bao giờ nhắc đến qua khứ của tôi. Chúng tôi đã có với nhau hơn hai mươi năm hạnh phúc, hai cô con gái của chúng tôi giờ đây đã lớn, cũng xinh đẹp, duyên dáng như mẹ chúng ngày xưa.
Mới đây, cô con gái lớn của chúng tôi đã dẫn người yêu về ra mắt ba mẹ. Đó là một chàng trai, cao lớn dễ thương, có đôi mắt trong sáng và thông minh. Khi nhìn chúng ríu rít bên nhau ngoài sân vườn, tôi chợt thấy thấp thoáng đâu đó bóng dáng của Red năm nào trong con người của chàng trai, tự nhiên tôi cầu mong đừng cho con gái tôi nhìn thấy có sợi râu mọc ngược nào dưới cằm của chàng trai rồi bật cười khúc khích, làm hai đứa ngạc nhiên hỏi:
- Gì thế mẹ...?
Dzu Sa
&
Tâm sự với thời gian
Trầm Thiên Thu
Đêm tĩnh mịch. Thi thoảng gió lùa qua cửa sổ phả vào khiến tôi thu mình lại như để né tránh. Vầng trăng khuyết e ấp từ xa nhìn hờ hững. Vạt sương bâng khuâng lờ lững giữa bao la. Tôi ngồi lặng thẫn thờ nghe xa vắng... Không dưng chợt thèm ngụm cà-phê. Khoảng lòng vời vợi. Tiếng côn trùng hòa tấu nhạc-khúc-bí-ẩn. Trang viết bất động và lạnh cóng như chiếc độc bình đứng lặng ở góc bàn phủ đầy bụi thời gian, thiếu vắng một cành hoa!
Đêm. Lạnh. Vắng. Lòng tôi vẫn từng đợt sóng xô mãi đến cõi vô biên. Sóng không tên. Nhớ và quên. Quên và nhớ. Tôi không thúc thủ mà vẫn khoanh tay. Hàm số buồn chưa tìm được ẩn số. Quỹ tích đam mê và lũy thừa gian truân vô cực. Số phận con người bọt bèo và khoảng trăm năm nghiệt ngã quá!
Tôi là ai mà còn trần tục quá? Phải chăng hạt-bụi-tôi kết tinh bằng tội lỗi và đam mê nên cứ đắm chìm trong dòng lãng mạn? Tôi hoài vọng tìm thấy mình và nhận diện chính mình. Chưa gặp hay không nhận ra mình vì mù quáng? Giai điệu âm u nào đó cứ mênh mang, và vần điệu không tên nào đó cứ níu kéo tôi mãi mà không chịu buông tha. Người ta trẻ mãi, chỉ có thời gian mới già nua. Vâng, già đến nỗi quên cả chính mình, ngỡ mình là ai đó. Ai cũng có những lúc "điên"!
Ký ức và hoài niệm cứ giành với kỷ niệm. Nỗi nhớ vu vơ, đằng đẵng, nhức buốt, vút cao như ngọn tháp chót vót, vừa mầu nhiệm vừa hư ảo. Cuộc đời như kim tự tháp, càng muốn thoát ra càng lạc sâu vào mê cung. Vòng đời lẩn quẩn như tấm lưới, con cá giẫy giụa tìm lối thoát đến đuối sức. Không bi quan mà vẫn ôm nỗi sầu tưởng chừng vô vọng. Vết thời gian hóa thành trầm tích!
Một tờ lịch rơi xuống. Thời gian giảm bớt 24 giờ. Tiếng thời gian vẫn vô tình đều nhịp. Không giờ. Những cái mới đang khởi đầu mà những cái cũ chưa muốn chia tay. Bịn rịn và nuối tiếc những gì còn dang dở. Động từ khiếm khuyết và còn sử dụng ở thì tương lai xa...
Thời gian ơi! Đừng bao giờ nỡ vùi dập ước mơ tôi. Hãy cứ để tôi khát vọng không ngừng - dù có thể hy vọng tôi không viên mãn, thậm chí có thể không hiện thực, nhưng xin cho tôi cảm nhận và hiểu rằng thành công LÀ và TÙY vào mức độ vươn lên từ đống-xà-bần hoài bão, từ những gì chưa trọn vẹn, để khả dĩ ngay trong bất khả dĩ.
Tôi ơi! Dẫu thất vọng nhưng đừng tuyệt vọng. Hãy giữ tâm hồn luôn thanh thản, bình an. Chưa viết xong trang đời nhưng đừng hạn hán hy vọng và thiện chí. Hãy SỐNG CHO, SỐNG VỚI và SỐNG VÌ... Dấn thân vô vị lợi, cảm thông và vị tha để có niềm hạnh phúc sống động. Vâng, "chỉ có cuộc sống luôn sống cho người khác mới đáng sống" (Einstein).
Viên-đá-cuội-tôi đã và đang lăn mòn trên những con dốc đời, đừng lo có lăn hết hay không, quan trọng là còn lăn hay không. Tôi muốn hoàn tất hồ-sơ-cuộc-đời dù nhiều trang chưa thể hoàn tất, đầy trăn trở, bao băn khoăn chất chồng. Cũng là một hệ lụy, một phạm trù riêng trong triết-lý-khổ-đau. Tôi muốn sử dụng nó có ý nghĩa bằng cách đi xuyên suốt nó dù đi một mình. Thiết tưởng, khổ đau là con đường dẫn đến hạnh phúc, vì có khổ đau thì người ta mới cảm nhận thế nào là hạnh phúc và mức độ hạnh phúc. Văn hào Victor Hugo nói: "Đừng khi nào cười kẻ đau khổ, và đôi khi nên đau khổ với kẻ đã cười".
Thời gian không thuộc quyền hạn con người, nhưng ai cũng được hưởng quỹ thời gian đồng đều - không thiếu một phút, không hụt một giây. Với quỹ thời gian đó, có người dùng làm điều ác, có người dùng làm điều thiện, có người dùng lãng phí, có người dùng làm sinh lợi, có người muốn "giết" thời gian, có người lại tranh thủ,... Mức độ và cách thức khác nhau. Phúc và họa là do chính mình sử dụng thời gian!
Xuân đi, Hạ về, Thu tới, Đông sang. Thời gian luôn có những khoảng giao mùa. Lòng người cũng có những khoảng riêng. Có khởi đầu và có kết thúc, đó là quy luật tự nhiên muôn thuở. Giã từ cái cũ để đón nhận cái mới. Đất Trời giao thoa và lòng người cũng giao thoa. Nắng Mưa luân phiên. Nhật Nguyệt xoay vần. Hạnh phúc và đau khổ luôn đan xen, hòa quyện, không thể không chia sẻ cho nhau tâm sự và nỗi niềm. Đó là xã hội, là cuộc sống, là cộng đồng...
TRẦM THIÊN THU
&
Hương Cát
Dzu Sa
Năm 12 tuổi, tôi được Ba cho về Nha Trang để học cấp II.
Mặc dù được sinh ra ở Nha Trang, nhưng từ khi Mẹ đưa tôi về Liên Khương -Đà Lạt - ở với Ba, tôi chưa một lần về lại Nha Trang.Những ngày đầu tiên ở Nha Trang tôi thấy mình lạ lẫm . Tôi nhớ nhà, nhớ bạn bè, nhớ tiếng gió hú và tiếng xào xạc của rừng cây.Ở đây không có tiếng thông reo, không có những giọt sương long lanh đọng trên những chiếc lá non tơ khi ban mai vừa đến. Trong con hẻm nhỏ chỉ có cát và cát - cát đầy ăm ắp và ở khắp mọi nơi. Nhà ngoại tôi rộng.
Cả một khoảng sân rộng mênh mông chỉ có vài ba cây dừa và một cây ổi sẻ - còn lại toàn cát.Ban đầu tôi rất ghét, vì cứ bước chân ra sân, trở vào nhà là cát lại theo vào, dính vào kẻ chân, ram ráp, khó chịu. Bà ngoại cứ bắt tôi quét nhà cả ngày, công việc mà trước đây khi ở với Ba tôi chẳng làm bao giờ. Tôi vùng vằng, ngúng nguẩy, mong được về lại nhà để có thể tự do bay nhảy trong vườn cây, chân dẫm lên những đám cỏ xanh mượt mà, mát rượi.Ít lâu sau tôi đã quen dần. Không thấy khó chịu nữa mà còn thích thú nghịch ngợm với nó.
Tôi thích đi chân không trên cát, xọc bàn chân thật mạnh cho lún sâu vào trong cát, bước những bước nặng nề , tinh nghịch, hoặc ngồi bệt xuống mặt cát, hai tay vốc từng vốc cát đưa lên cao để cho nó chảy dài xuống , qua ánh nắng, trông như một tấm lụa vàng óng ả.Sân nhà ngoại tôi rộng nên bọn trẻ con trong xóm thường rủ nhau qua đùa nghịch và chơi những trò chơi con trẻ trên cát.. Bọn tôi thường xô nhau ngã nhào xuống cát, la hét vang trời, có khi mồm dính đầy cát, ráng sức phun phù phù ra, mặt mũi đỏ bừng rồi nhìn nhau cười nắc nẻ..
Trong một lần vui đùa như thế, b?ng tôi nhận được một mùi hương lạ lẫm. Thoáng qua thôi, phớt nhẹ thôi nhưng nó thật dịu ngọt, làm tôi ngỡ ngàng, lay động. Nhìn quanh sân nhà tôi làm gì có cây hoa nào để có thể toả ra một hương thơm nhẹ nhàng đến thế. Chỉ có cây ổi sẻ nơi góc tường rụng hết lá và những tàu dừa ở trên cao đang xạc xào trong gió.Đêm đến khi học bài xong, tôi ra ảng nước ở đầu hè (ở Nha Trang thời ấy nhà nào cũng có một ảng nước to đúc bằng xi măng hoặc một cái lu sành đựng nước để ở đầu hè) rửa mặt.
Đang cúi xuống khoả nước lên mặt, chợt mùi hương ban chiều lại thoảng qua - nhẹ thôi, nhưng tôi vẫn cảm nhận được. Nó lạ lắm. Không giống bất cứ mùi hương nào của cỏ hoa, cây lá mà trước đây tôi đã nhận được ở quê nhà. Hình như đó chỉ là một chút hương của gió, của nắng, của cát và của biển trời quyện vào nhau, tinh tế đến không ngờ.
Không phải khi nào cũng có, thi thoảng thôi, phớt nhẹ thôi, nhưng bao giờ bắt gặp cũng làm tôi ngạc nhiên đến xao lòng.
Lâu dần tôi phát hiện: hương thơm ấy chỉ chợt thoảng qua khi đêm đến tôi ngồi một mình sau sân nhà, hai tay vọc từng nắm cát vứt ra xa, khi sáng sớm ra biển, bơi một vòng, lên bờ nằm úp mặt trên bãi cát mênh mông; khi trưa nắng tôi ra đường, hai bàn chân xủi vào cát, hất lên tung toé: HƯƠNG CÁT. Hương cát mới của đêm khuya, của biển sớm và của những con đường đầy cát trưa hè nắng bỏng ở Nha Trang.Tôi tự hỏi, Không biết có ai đó ở Nha Trang, một lần nào đó nhận ra mùi hương Cát như tôi? Hay chỉ một mình tôi - mùi hương cát của riêng tôi!Nhiều năm sau Nha Trang đông dần lên.
Những con đường đầy cát không còn nữa. Sân sau nhà ngoại tôi cũng đã lát những viên gạch nâu hồng. Biển Nha Trang vẫn đẹp, nhưng đã lâu rồi tôi không còn xuống biển để vùi mình và lăn tròn trên cát như xưa. Hương cát vẫn còn đó - trong tâm tưởng tôi, một mùi hương dịu ngọt. Có những phút hiếm hoi khi tâm hồn được rỗi rãi, tôi chợt nhớ về nó và mong gặp lại xiết bao.Đêm nay cũng vậy, chợt nhớ đến và mong gặp lại. Bỏ hết những giận hờn của cuộc đời đang thít chặt hồn tôi.
Tôi lấy xe chạy lòng vòng quanh những con phố vắng, cuối cùng tôi tìm đến biển. Biển khuya thật đẹp, yên tĩnh, với những ánh đèn nhấp nhoá ngoài khơi xa và tiếng những con sóng xô nhau vỗ nhè nhẹ vào bờ. Tôi ngồi xuống, yên lặng lắng nghe và chờ đợi ...
Bất chợt một cơn gió nhẹ thoáng qua - một mùi hương nhè nhẹ thoáng qua nhưng sâu lắng.
Sau nhiều năm, tôi chợt thấy lòng mình nhẹ nhàng rung động. Vẫn còn đâu đó mùi hương cát của riêng tôi.
Hương của cát mới, của gió khơi và biển lộng.
Dzu Sa
Nha Trang
Lẵng Hoa Ngày Sinh Nhật
Minh Hương
Ngỡ ngàng trước lẵng hoa hồng tươi thắm trên bàn, chị thẫn thờ sau khi đọc dòng chữ trên tấm bưu thiếp: "Mừng sinh nhật em, chúc em mãi mãi xinh tươi và hạnh phúc". Chị thấy nôn nao cái cảm giác lần đầu chị nhận hoa anh tặng.
Kỷ niệm Ngày mùng tám tháng ba năm ấy, chị đang là cô sinh viên năm thứ nhất. Tất cả còn rất mới mẻ vì thời gian bước vào môi trường Đại học chưa lâu. Lớp chị tổ chức 'HÁI HOA' tìm hiểu về ngày Quốc tế Phụ nữ. Ban Giám khảo đều là những nam sinh viên của lớp chọn ra. Mỗi câu hỏi thi được cài làm nhị của một bông hoa. Các nữ sinh của lớp đều phải dự thi...
Đến lượt chị lên trả lời. Bông hoa mà chị chọn là một bông hồng mang câu hỏi: "Bạn hiểu gì về ngày 8-3?". Chị trả lời khá lưu loát, hấp dẫn. các vị giám khảo gật đầu lia lịa. Chị định về lại chỗ ngồi sau khi hoàn thành xong phần thi của mình thì một vị Giám khảo khá điển trai vội đứng lên nói:
- Bạn Hồng Minh trả lời rất hay, rất đúng, nhưng với riêng bạn thì... chưa đủ.
Vị Giám khảo vừa nhìn chị nháy mắt, vừa quay lại phía dưới nói:
- Ngày mùng tám tháng ba còn là ngày sinh nhật bạn Hồng Minh, hôm nay bạn vừa tròn mười tám tuổi. Cả lớp ta cho một tràng pháo tay chúc mừng bạn...
Tiếng vỗ tay và tiếng cười nói rào lên. Thật bất ngờ và quá ngạc nhiên, chị không hiểu vị Giám khảo này làm thế nào lại biết được điều riêng tư của mình. Vào lớp được mấy tháng, chị còn ngại chưa nói chuyện với ai về sinh nhật của mình... Khi tiếng vỗ tay vừa dứt, vị giám khảo tiến đến gần chị nói tiếp:
- Thay mặt Ban giám khảo và nhân danh cá nhân, tôi xin tặng bạn một bông hoa. Chúc bạn mãi mãi xinh tươi và hạnh phúc.
Anh rút bông hồng trên túi áo ngực không biết đã cài sẵn từ lúc nào trao cho chị. Chị bối rối, hai má nóng bừng, tay run run đón nhận bông hoa từ tay anh, miệng lí nhí nói lời cảm ơn rồi lao đầu về chỗ ngồi gục đầu xuống bàn, tim đập loạn xạ bởi ánh mắt cháy bỏng của anh. Tiếng vỗ tay reo hò của cả lớp lại rào lên:
- Hoan hô Giám khảo Tuấn..., Một Giám khảo tuyệt vời...!
Kể từ ngày ấy, sinh nhật nào Tuấn cũng tặng hoa cho chị, không phải một bông mà cả một lẵng hoa với số bông bằng tuổi của chị, trong đó bao giờ cũng có một bông hồng nhung đỏ thắm cài thiệp chúc mừng ghi dòng chữ "bông hồng 8-3, chúc em mãi mãi xinh tươi và hạnh phúc!"...
Họ đến với nhau như thế. Thật ngọt ngào, êm dịu! Theo thời gian, tình yêu của hai người cứ đầy ắp kỷ niệm. Nhưng cuộc đời thật éo le! Có những con sóng bất ngờ đưa ta dạt vào bến bờ xa lạ... Sau khi tốt nghiệp, để có việc làm theo nghề đã được học, anh phải tạm xa thành phố lên một tỉnh miền núi công tác. Chị chần chừ không muốn đi xa, nằm lại thành phố chờ một dịp may. Anh không thể chần chừ vì hoàn cảnh gia đình anh rất khó khăn, chỉ mong anh chóng ra trường có việc làm để đỡ gánh, có điều kiện cho các em của anh được học tiếp như anh. Thời gian đầu, chị vẫn nhận được thư của anh. Chị viết thư trả lời với bao tâm sự nhớ nhung và đầm đìa nước mắt. Sau đó, đột nhiên chị không trả lời thư anh nữa mặc dù anh vẫn có thư về đều đặn. Gần một năm xa nhau, anh nóng lòng không hiểu sao chị bặt tin. Sắp xếp mãi, anh mới dứt ra khỏi công việc về thăm nhà và chị. Quá ngỡ ngàng và đau khổ trước sự thật, chỉ còn ba ngày nữa là chị lấy chồng. Không kịp nghỉ ngơi, không cần tìm hiểu, anh quay trở lại nơi công tác ngay hôm ấy...
Chồng chị là một giảng viên Đại học mới ở nước ngoài về. Nhờ chồng, chị được nhận vào làm việc ở phòng thí nghiệm của trường, nơi anh đang giảng dạy. Cuộc sống đang rất khó khăn khi đất nước vừa dứt chiến tranh, được sống giữa Thủ đô đối với chị thật là may mắn. Chị đã đạt được điều mình mong muốn. Chỉ có một điều chị đã day dứt và cả đời đau khổ đó là chị đã phải chấp nhận và lựa chọn đánh đổi tình yêu của mình. Rồi cuộc sống vẫn là cuộc sống, như bao nhiêu người đã thở dài chép miệng: vợ chồng là duyên nợ trời định... Chị làm vợ, làm mẹ trong một gia đình mà theo chuẩn mực lúc đó là gia đình "lý tưởng". Nhưng những bạn bè biết rõ mối tình của chị với Tuấn trước đây thì chỉ im lặng lắc đầu.
Sinh nhật nào chị cũng nhận quà của chồng. Khi là một chiếc khăn choàng, khi thì đôi bông tai, chuỗi hạt cườm, rồi một cái trâm cài áo... tất cả đều rất "mốt", rất đắt tiền vì toàn là "đồ xịn" anh sắm từ nước ngoài. Nhưng chưa bao giờ là một lẵng hoa hồng có số bông bằng tuổi của chị. Sinh nhật này, chồng chị đang công tác nước ngoài lại vừa gửi về cho chị một bộ trang sức bằng bạch kim, mà dân chơi vẫn gọi là "vàng trắng". Để khỏa lấp nỗi nhớ "Người xưa" mỗi khi nhận quà tặng sinh nhật của chồng, chị thường đem khoe với chị em bạn gái. Họ cứ xuýt xoa khen đẹp, khen chồng chị biết chọn quà hợp với chị... Mỗi lần như vậy, chị biết mình đã lầm, càng phô trương những thứ hàng hóa mình đang có, lòng chị càng thêm xót xa. Những tiếng thở dài thường cứ lặng lẽ theo chị bao nhiêu lần rồi và hình như mỗi lần tiếng thở ấy càng dài hơn, nặng hơn...
Thấm thoát thế là đã hơn mười lăm năm, đứa con trai duy nhất của vợ chồng chị đang học lớp mười. Dù rất yêu vợ, song công việc và những chuyến công cán nước ngoài đã chiếm gần hết thì giờ và tâm huyết của chồng chị, vì bây giờ anh đã chuyển về Bộ công tác, có vị trí rất quan trọng trong công cuộc Cải cách giáo dục của Nhà nước. Còn chị, từ phòng thí nghiệm chị đã được chuyển lên đứng lớp và trở thành giảng viên của Trường. Theo trào lưu đương thời, chị cũng đang theo học Thạc sĩ... Cuộc sống giàu sang, nhung lụa của chị hiện giờ khó có ai bì kịp. Chị gần như toại nguyện về tất cả. Vậy mà chị vẫn cảm thấy thiếu hụt một thứ gì đó. Rồi chợt chị giật mình nhận ra cái cảm giác cô đơn, lạnh lẽo trong tâm hồn mình. Nó âm ỉ, lặn sâu vào tâm não chị suốt bao nhiêu năm qua. Chị càng muốn dìm sâu nó xuống tận đáy tâm hồn thì nó lại cứ muốn trào lên, vây hãm, day dứt chị. Chao ôi! Người ta có thể tạo dựng một cuộc sống đủ đầy, nhưng không bao giờ có thể vắt nặn được tình yêu...
Nhìn lẵng hoa để trên bàn, không đếm chị cũng biết tất cả có bao nhiêu bông. Ôi, cái tuổi mười tám ngày nào... Bây giờ chị đã là một thiếu phụ... Không biết Tuấn hiện đang ở đâu, bằng cách nào anh gửi đến chị lẵng hoa này. Bông hồng nhung thắm đỏ cùng dòng chữ nắn nót của Tuấn cứ nhòe dần, nhòe dần... Chị đã có một tình yêu như thế! Nhưng tất cả đều là quá khứ, dĩ vãng đã xa rồi. Có một lần chị gặp cô bạn gái học cùng lớp. Cô bạn cho chị biết Tuấn đã chuyển về miền Nam công tác, làm giám đốc một công ty dịch vụ kỹ thuật điện máy. Chị rất muốn hỏi thêm về Tuấn nhưng cứ thấy bối rối, ngại ngùng bởi lẽ thời gian gặp cô bạn thì quá ngắn ngủi mà sự thẹn lòng thì cứ trào dâng. Rồi cuộc sống lại cứ thế trôi đi... Căn phòng lặng ngắt trong hương thơm nhè nhẹ của những bông hồng làm thức dậy trong chị bao nhiêu kỷ niệm. Chị với tay cầm tấm thiếp đọc lại thật chậm rãi lời chúc của Tuấn. Thật là thân quen mà sao xa vời vợi. Bất chợt, chị đọc được dòng chữ rất nhỏ phía dưới cùng của tấm thiếp: ... Phòng số... Khách sạn...
Không kịp nhìn lại dung nhan, diện mạo của mình, chị vội vàng cầm túi xách, dắt xe máy ra khỏi nhà... Khách sạn Thiên Thanh đây rồi. Dựng xe xong chị đi thẳng đến phòng lễ tân. Cô gái trực mặc bộ áo dài màu thiên lý giở sổ xem và trả lời chị.
- Phòng số 6 hiện đang có vị khách tên là Trần Tuấn đang nghỉ. Ông ở Cần thơ mới đến sáng nay...
Chị cảm ơn cô gái rồi xin phép được lên phòng. Đứng trước cửa phòng, tim chị dập thình thịch. Sau khi vuốt lại mái tóc đang đổ xòa trước trán, chị giơ tay lên, những ngón tay co lại trong tư thế gõ cửa run run...
- ... Cốc, cốc ... Không phải tiếng gõ cửa vì những ngón tay co lại kia chưa chạm đến cánh cửa. Tim chị muốn nổ tung ra. Chị cố trấn tĩnh, giơ tay một lần nữa, nhưng không thể!...
Đột nhiên chị quay lại chạy thẳng ra cổng khách sạn như có ai đuổi. Cô gái trực lễ tân ngơ ngác. Không kịp chào cô, chị lập cập lên xe, loạng choạng lao ra đường phố. Không chủ định mà xe đã rẽ lối qua Hồ tây. Tự nhiên xe chạy chậm lại, chị thả ga mặc cho xe lăn bánh từ từ. Nơi đây có biết bao nhiêu kỷ niêm của anh và chị. Chị thấy môi mình mặn chát, rồi cảm giác ấm nóng, ướt đẫm khuôn ngực đang thổn thức của mình. Không dừng xe, chị cố chạy về nhà.
Căn nhà thanh lặng dưới ánh sáng leo lét của những ngọn nến đang cháy gần hết. Chỉ có mùi hương của hoa hồng đã tỏa lan khắp nhà, không còn thoảng nhẹ nữa mà đã trở nên nồng nàn như muốn nói với chị bao điều. Lòng chị lắng xuống. Lấy tấm thiếp của Tuấn ra đọc lại một lần nữa, chị với cây bút trên bàn và ghi vào đó vài dòng, sau đó xếp lại và cho vào một cái phong bì mới. Việc còn lại là của ngày mai... Chị lặng lẽ bước đến bên cửa sổ nhìn xuống đường. Phố phường cũng đang bắt đầu vào sự yên tĩnh của đêm. Thế là ngày mai, tất cả lại diễn ra bình thường theo guồng quay cuồng nhiệt của cuộc sống, chẳng cần biết đêm nay, có mấy ai như chị đã phải vật lộn, chao đảo trước sóng gió của cơn bão lòng.
Nha Trang
&&&
Dấu Chân Trên Cát
Truyện ngắn - Trần Văn Khang
(Danh tánh các nhân vật trong câu chuyện nếu có sự trùng hợp ngoài đời,
chỉ là do ngẫu nhiên, ngoài ý muốn của người viết
Anh là một họa sĩ nghèo, 23 tuổi, mới tốt nghiệp trường Mỹ Thuật được một năm. Anh chưa có tác phẩm nào được sự chú ý của những người sưu tầm tranh hay của giới hội họa. Những bức tranh anh vẽ, được bán với giá khiêm tốn tại các tiệm tranh, các phòng trưng bày tại Sàigòn. Anh sống trong một xóm nghèo thuộc thị xã Biên Hòa.
Anh tên Triều, yêu mến biển cả, nên dùng bút hiệu Hải Triều ghi dưới những bức tranh của mình. Mùa Hè năm ấy, anh dùng chiếc xe gắn máy đã cũ, mang theo hành trang nhẹ, thêm dụng cụ cùng giá vẽ loại có thể xếp gọn, một mình đến Bãi Sau của Vũng Tàu. Anh mướn một góc nhỏ trong căn nhà đơn sơ của một ngư phủ nghèo, rồi hàng ngày ra bờ biển, vẽ tranh... Anh chú ý đến một thiếu nữ, nàng hay đi biển với mấy người em. Đôi khi vào buổi chiều, nàng thong thả dạo bước một mình trên bờ cát.
Là một họa sĩ, anh quan sát nhân dáng nàng. Khuôn mặt thanh tú, ngây thơ học trò. Chiếc cổ dài và thon. Đôi chân đẹp, hai bàn chân gót nhỏ. Anh liên tưởng đến thơ văn người xưa, thường ví bước đi của người phụ nữ đẹp là những bước trổ ra những đóa hoa sen. Với chân không, cô gái đi với dáng đẹp dịu dàng trên bờ cát, rồi trên vùng cát nhỏ bên ghềnh đá. Anh thầm ước ao được nàng làm người mẫu cho một bức tranh của mình.
Thế rồi một buổi còn chút nắng chiều, nàng dạo biển. Một làn gió làm bay chiếc nón rơm rộng vành che nắng của nàng. Chiếc nón đẹp tình cờ dừng ngay bên giá vẽ của anh. Vì thế anh và nàng quen nhau. Nàng ngắm nhìn bức tranh đang được anh phác họa và khen tranh đẹp. Nàng hỏi, giọng ngây thơ:
- Là họa sĩ, anh thích vẽ những gì?
Anh trả lời, thật vui vì có dịp nói về lãnh vực của mình với một cô gái đẹp dễ thương, anh may mắn được quen:
Tôi yêu mến biển, mùa hè ra đây để vẽ tranh. Vẽ cảnh biển lúc sáng ban mai. Vẽ dân chài thuyền lưới ra khơi. Ghềnh đá xanh, với mây trời, chim hải âu... Cảnh sinh hoạt nơi bờ biển. Một hai em bé chơi cát. Vài thiếu nữ dạo biển đó đây. Hoàng hôn trên biển... Nhưng nơi phòng vẽ tranh tại nhà, tôi vẽ cả tĩnh vật và chân dung... Tôi không có xu hướng vẽ tranh trừu tượng, tranh lập thể hay
tranh theo trường phái tượng trưng.
Anh khen nàng có dáng đi và đôi chân thật đẹp.
Quen nhau ít ngày, Triều được biết nàng có tên là Ngọc Quỳnh. Cha nàng là một doanh nhân ở Sài Gòn. Nàng mới đậu xong Tú Tài, được cha mẹ cho đi nghỉ Hè cùng các em một tháng tại đây. Mấy chị em đang cư ngụ tại một phòng rộng có bếp núc, trong một khách sạn của một người bạn cha nàng. Có cả một chị giúp việc tin cậy đi theo, nấu ăn và săn sóc cho mấy chị em. Mấy ngày sau, anh dùng bút than đen, nhanh chóng vẽ tặng nàng một phóng ảnh chân dung, và vẽ sơ một bức nữa, hình ảnh nàng, anh giữ để làm kỷ niệm. Anh ngỏ ý, có dịp về Sài Gòn, xin nàng làm người mẫu cho anh vẽ một bức tranh thiếu nữ, tranh sẽ công phu hơn. Nàng nhẹ nhàng:
- Ba mẹ em nghiêm túc lắm, ít muốn em quen với bạn trai. Anh lại để tóc dài, hút thuốc lá hoài, em không dám để cha mẹ biết đâu, nói gì đến việc em làm người mẫu. Em hẹn anh, bỏ tóc dài đi, đừng hút thuốc nữa. Hè sang năm vào đầu tháng bảy, em sẽ gặp lại anh ở đây. Ba Mẹ nói có thể cả nhà sẽ cùng ra đây nghỉ Hè năm tới.
Hôm chia tay, anh và nàng dùng nước dừa trong một quán nước bên bờ biển. Một đôi vợ chồng người Âu, còn trẻ tuổi ngồi một bàn gần bên. Họ có hai đứa con, còn nhỏ chừng bốn năm tuổi, đang đùa chạy quanh mấy bàn trống trong quán. Ông chồng dáng dấp thể thao, gọn gàng. Bà vợ khuôn mặt đẹp nhưng khá đầy đặn, mập mạp, bà phải cân nặng trên 80 ki lô. Ngọc Quỳnh nói rỡn với anh:
- Anh Triều, nếu cô này làm người mẫu, anh có chịu không?
Triều kín đáo nhìn người phụ nữ ngoại quốc rồi nói:
Nhiều người mập cũng có những nét đẹp riêng, như Dương Quý Phi của Đường Minh Hoàng ngày xưa. Nhưng cho hình ảnh phụ nữ đẫy đà, đem vào tranh nghệ thuật, khó có thể hấp dẫn người thưởng ngoạn.
****
Nàng không cho anh địa chỉ hay điện thoại để liên lạc, lấy cớ gia đình rất khó. Anh về Biên Hòa, cắt tóc ngắn, bỏ thuốc hút. Anh đổi bút hiệu là Triều Hoài Ngọc. Tranh anh vẽ ngày càng tiến bộ và bán khá hơn. Trong ba năm liền, vào tháng bảy Mùa Hè, anh lại ra Bãi Sau Vũng Tàu một tháng, vẽ tranh. Anh vẫn trông tìm lại hình bóng người thiếu nữ đẹp, gặp gỡ mùa Hè năm ấy. Nhưng ba năm qua rồi. Chờ mong, mỏi mòn. Anh không gặp lại nàng!
Ngọc Quỳnh sau mấy tuần nghỉ Hè thật vui năm ấy, nàng về Sàigòn, ghi danh vào Đại Học Khoa Học. Nửa năm sau, nàng được cha mẹ sắp xếp cho đi du học tự túc tại Pháp Quốc, cùng với một người chị họ. Sau một năm sống tại Pháp Ngọc Quỳnh quen rồi được gia đình đồng ý, cho phép thành hôn với một kỹ sư cơ khí trẻ tuổi, cũng người Việt, đang làm việc cho một hãng sản xuất xe hơi tại Pháp. Hôn lễ tổ chức tại Paris. Song thân Ngọc Quỳnh và các em đều sang Kinh đô Ánh Sáng tham dự. Trong gần bốn năm, nàng sanh được hai em bé rất dễ thương. Nàng sống thật hạnh phúc bên chồng, bên con.
Nhưng cuộc đời "không đẹp mãi như thơ". Gặp rủi ro trong một tai nạn xe hơi, Ngọc Quỳnh thoát chết nhưng bị tàn tật, hư hại nhiều nơi chân trái. Nàng đi đứng không bình thường nữa!
Sáu năm sau dịp gặp và biết Ngọc Quỳnh, Triều đã trở thành một họa sĩ có tên tuổi. Tranh của anh được trưng bày và bán với giá cao tại nhiều phòng triển lãm. Khách mua họa phẩm của anh thường là những người giàu có trong nước và cả khách ngoại quốc. Những nhà sưu tầm thường tìm kiếm tranh có những đường nét sáng tạo mới lạ. Triều chỉ ra Bãi Sau Vũng Tàu vào ba mùa Hè kế tiếp, sau khi quen biết Ngọc Quỳnh, để vẽ tranh. Không gặp lại người xưa. Những mùa Hè sau đó, một phần vì thất vọng, một phần muốn tìm quên lãng và tìm cảnh vật khác, anh ra Nha Trang, Mũi Né và Phú Quốc...
Hè năm nay, anh dự định đi Đà Nẵng vẽ những cảnh biển đẹp tại đây và vùng phụ cận như Lăng Cô, Sơn Trà, Mỹ Khê, Hội An... Mấy ngày trước khi lên đường, anh ghé lại một phòng bán tranh đường Lê Lợi, rồi qua một cửa tiệm trưng bày khác tại đường Lê Thánh Tôn, hai nơi có nhiều họa phẩm của anh. Cô Bích Liên, người tiếp viên duyên dáng của phòng tranh sau, vừa gặp anh đã vui mừng báo tin:
- Anh Triều! Hôm qua có một bà từ nước ngoài mua luôn hai bức tranh của anh. Bức Bên Ghềnh Đá và bứcTrên Bờ Cát. Bà ấy có vẻ ngưỡng mộ tranh của anh lắm. Bà còn định mua thêm bức họa Hoa Quỳnh. Ông chồng bà có lẽ không phải là dân sưu tầm tranh. Ông ấy nói hành lý nhiều rồi, đem theo tranh nặng nề thêm. Ngày mai hai vợ chồng còn đi Vũng Tàu.
Triều vội hỏi:
- Bà ấy người ra sao?
- Bà ấy đẹp, đi cùng với chồng, có cả hai đứa con còn nhỏ, thêm một bà giữ trẻ đi theo.
****
Từ khá lâu Triều biết Bích Liên, cô tiếp viên phòng triển lãm tranh này, có nhiều cảm tình với anh. Mấy tháng trước, anh vẽ tặng cô bức họa Thiếu Nữ Bên Hồ bằng phấn màu. Bức tranh có cô gái, bên một hồ sen, rất nghệ thuật. Bích Liên hãnh diện trưng bày bức họa tại phòng tranh này. Vài người hỏi mua, nhưng cô không bán, vì là tranh kỷ niệm.
Triều bỏ dự định đi Đà Nẵng, Hội An. Ngay hôm sau anh đi Vũng Tàu. Bây giờ Triều đã có chiếc xe hơi nhỏ. Anh vẫn ở Biên Hòa nhưng đã có nhà, khang trang hơn trước nhiều. Tới Vũng Tàu, anh mướn phòng ngắn hạn tại một khách sạn, gần bên biển, tại Bãi Sau.
Triều đặt giá vẽ ở nơi có kỷ niệm gặp gỡ năm xưa. Anh vừa phác họa tranh, thỉnh thoảng lại nhìn biển khơi, nhìn bờ cát. Anh lại có ý trông tìm một hình bóng..., tuy biết có thể là vô vọng. Đây là bờ cát, với nhiều dấu chân mới. Kia là ghềnh đá quen, chênh vênh, vẫn "trơ gan cùng tuế nguyệt". Chỉ khác là cảnh cũ, nhưng không thấy hình bóng người xưa.
Khá đông người đứng phía sau Triều, coi anh vẽ tranh. Vài người bàn tán nhỏ, đôi lời khen ngợi. Triều không phân tâm nhìn về phía sau. Chuyện những người du khách, dừng chân, xem họa sĩ vẽ tranh, đối với anh thường rồi. Nhưng Triều không biết rằng trong đám đông đang theo dõi đường nét vẽ của mình, có vợ chồng Ngọc Quỳnh. Bây giờ Ngọc Quỳnh chợt nhớ lại cuộc gặp gỡ người họa sĩ năm xưa. Ngày ấy, vì bận chuẩn bị gấp đi du học, rồi lấy chồng, Ngọc Quỳnh đã vô tình quên người họa sĩ và quên lời hẹn năm nào! Lời hẹn mà nàng đã vô tâm coi như một chuyện thoáng qua. Nàng thích tranh đẹp, yêu mến nghệ thuật hội họa nên ngày đó có đôi chút cảm tình với người nghệ sĩ tình cờ gặp gỡ. Năm xưa ấy, nàng chưa có một lời nói, một cử chỉ nào xa hơn tình bạn. Nhưng là con gái, thường rất tinh tế, nàng cảm nhận được tình cảm có vẻ thiết tha của Triều . Ngày đó, nàng còn quá trẻ, mới mười tám tuổi, chưa muốn vướng bận, phân tâm về
tình yêu, khi chưa gặp "đối tượng" làm mình rung cảm, chưa gặp "người trong mộng". Sau này, nàng được những người bạn yêu hội họa ca tụng những tác phẩm của họa sĩ Triều Hoài Ngọc. Nàng chợt nghĩ tới người họa sĩ. Hôm qua, khi tìm mua tranh, Ngọc Quỳnh được cô bán hàng cho biết người họa sĩ Hải Triều, tác giả mấy bức tranh, đã đổi bút hiệu cả năm, sáu năm về trước. Nàng thấy bồi hồi. Nhưng nàng không hỏi thêm nhiều về người họa sĩ. Ngọc Quỳnh cũng không kể chuyện quá khứ, đã sáu năm qua đi, với chồng. Giờ đây, thấy người nghệ sĩ, tóc hết để dài, không còn hút thuốc, thoáng có nét phong trần già dặn hơn xưa, cô đơn ngồi vẽ, nàng bồi hồi hơn! Ngọc Quỳnh định đến hỏi han và trò chuyện ít câu cùng người quen ngày trước. Nhưng nàng ngập ngừng, suy nghĩ. Rồi nàng lặng lẽ cùng chồng, chậm chạp tiếp tục đi trên lối nhỏ, bên cạnh các hàng quán. Ngọc Quỳnh tự nhủ thầm. Bây giờ đã có gia đình. Một chân vì tai nạn, khiến đi đứng không bình thường. Còn đâu nữa dáng đẹp ngày xưa! Sanh đẻ hai lần, lại ít vận động vì tai nạn, hiện tại nàng đã nặng trên 60 ki lô. Thôi, chuyện xưa đã qua rồi! Nên để cho người nghệ sĩ giữ nguyên vẹn những hình ảnh đẹp, còn mãi trong tâm hồn...
Ánh sáng quan trọng trong hội họa. Khi mặt trời đã khuất, sau những hàng cây xa xa phía sau, Triều thu xếp giá vẽ và dụng cụ. Anh trở về khách sạn của mình.
Chiều tối hôm đó trời mát. Ngọc Quỳnh gửi con cho người giúp việc. Nàng vịn một bên tay chồng, đi chậm chạp từng bước bên bờ biển. Những dấu chân trên cát của nàng không còn đều đặn như xưa, không đẹp như xưa. Vì tật nguyền, lại thêm cân nặng, những dấu ấn của bàn chân bên phải sâu và đậm hơn bên trái...
Khoảng chín giờ sáng hôm sau, Triều lại ra chỗ cũ vẽ tranh. Thỉnh thoảng anh nhìn ra bờ cát xưa. Những dấu chân hôm qua đã được sóng biển và thủy triều ban đêm dâng lên, xóa hết. Lại có những dấu chân mới, sáng hôm nay, in trên cát. Rất vô thường. Đẹp hay không đẹp, vui hay buồn, hạnh phúc hay đau khổ..., trong cuộc sống "chuyện gì rồi cũng qua đi", như những dấu chân trên cát. Triều nhìn những làn sóng lớn nhỏ, hàng hàng lớp lớp, hết đợt này tới đợt kia, xô vào bờ cát, rồi tan! Kể cả những bọt nước trắng xóa tung lên cao hay rất li ti dưới chân ghềnh đá. Anh tự triết lý với mình: những chuyện to tát hay nhỏ bé trong cuộc đời, cũng như những đợt sóng kia, rồi cũng vào quá khứ, vào quên lãng...
Triều chợt nhìn thấy Bích Liên, cô tiếp viên của tiệm trưng bày tranh đường Lê Thánh Tôn Sàigòn. Cô đang cùng bà mẹ và người em gái nhỏ đi bên bờ biển.
Anh nhận ra Bích Liên cũng có thân hình và dáng đi đẹp, đôi chân thon gót nhỏ...
Triều qua cơn mê tình cảm. Ít nghệ sĩ như anh,"si" lâu đến thế. Anh đã ngộ, nhận ra hạnh phúc nhiều khi ở gần bên, trong tầm tay, đâu cần chờ mong tìm kiếm xa xôi...
Trần Văn Khang
*****
Những nốt trầm
trong giai-điệu-tôi
Ngay từ thuở thiếu thời, cuộc sống tôi đã không suông sẻ chút nào. Ít nhiều gì cũng khiến tôi "sốc". Việc học hành đứt đọan, tôi phải cố "bơi" tiếp để vươn lên chứ không đành chấp nhận số phận. Nhiều khi cũng cảm thấy mệt mỏi, nhưng không thể thúc thủ trong bất kỳ nghịch cảnh nào. Có lẽ bao mơ ước không trọn mà tôi trở nên "đa sầu đa cảm", nhất là những khi ngồi trầm tư một mình...
Nhưng nỗi buồn không chịu buông tha tôi. Mênh mang cõi lòng. Miên man dòng nghĩ. Nhìn lại những chặng đường chông gai, hầu như không thấy gì "thuận buồm, xuôi gió". Quả là "ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh", và bao nhiêu gập ghềnh nữa? Phận gái có 12 bến nước, còn đời trai có bao nhiêu bến?
Tôi chợt rùng mình ngao ngán. Một thời xe đạp ngược xuôi khắp thành phố, tôi cứ phải "mặt dày" trong khi mọi người xung quanh ai cũng "tươm tất". Những ngày đi may công nghiệp cho một cơ sở tư nhân ở Cầu Bông (Bình thạnh), tưởng tạm ổn, nhưng "số con rệp" nên lại… thất nghiệp vì cơ sở giải tán. Rồi những ngày vừa đi bỏ yaourt vừa đi học Anh văn, vào trường mà thấy "ngại" với cái giỏ đệm treo trên tay lái. Nhưng không thể không học. Hình như cuộc đời luôn khe khắt với tôi, vì không có gì bền lâu với tôi. Càng nghĩ càng thấy ngán!
Vì buồn và muốn giết thời giờ, tôi giải sầu bằng cách mày mò đến với báo chí. Không hiểu vì lý do gì đó, một tờ báo tiếng Anh ở TPHCM lúc đó (1992-1994) mời tôi cộng tác bằng cách hàng tuần đến tòa soạn nhận bài về dịch. Nhưng rồi họ không "chơi đẹp", đăng bài tôi dịch mà lại ký tên người khác. Và điều tất nhiên xảy ra là tôi phản ứng, thế là tôi lại thất nghiệp. Đời tôi quá vô duyên!
Sau đó, tôi nhờ người quen giới thiệu, tôi trở thành gia sư Anh ngữ và Organ. Công việc gia sư cũng nhiêu khê và chông chênh chẳng khác đi trên cầu khỉ chút nào. Thầy chỉ như người làm bài tập cho học sinh. Họ cứ tưởng trả lương sòng phẳng cho thầy hàng tháng là xong, thầy không được ý kiến gì khác. Cho chúng cả bầy thiên nga (điểm 2) hoặc cả rổ trứng (điểm 0) cũng vô hiệu, không hề có chút "ép-phê". Chúng thích thì học, không thích thì nghỉ. Đó là chưa nói đến chuyện "ma chê, cưới trách". Gia sư lúc nào cũng ngay ngáy lo "mất dạy" nên đôi khi hóa thụ động và "nhu nhược" trong việc giáo dục. Luôn phải "chiều chuộng" học trò.
Con nhà giàu mới đủ khả năng "rước" thầy về nhà dạy kèm, mà người giàu thì vốn dĩ chi li, tính kỹ. Bản chất trực tính, không kham nổi kiểu đài các của người khác, bao lần tôi đã từ giã "sàn gạch bông" nhà học, giã từ "lầu cao" và các "cậu ấm" hay "cô chiêu" như vậy. Thậm chí có khi còn phải ngậm bồ hòn làm ngọt khi các "cô", các "cậu" nói với thầy không khác gì mệnh lệnh.
Vô tình tôi đến với nhạc và thơ văn. Công việc này chỉ là "mua vui" cho khuây khỏa và là ngu lạc trường (đam mê riêng) mà thôi. Nào mấy ai đã sống sót với "nghề" viết lách, chẳng qua là nghiệp dĩ! Cuộc sống tự lập và độc thân không dễ chút nào. Không thể sống nhờ vào nhuận bút, đó là chưa kể đến chuyện "vai vế" và "phe cánh".
Cuộc đời thì ngắn, nghệ thuật thì dài. Mà con đường nghệ thuật quá đỗi nhiêu khê và chông gai hơn mình tưởng nhiều. Cái gì cũng có giá riêng. Tôi không được học hành có bài bản về nhạc và thơ văn, chỉ là tay ngang, tự học hỏi thêm và phát triển bằng cách viết nhiều, nghe nhiều và tự đúc kết khi "quan sát" tác phẩm của người khác để rút ra "cái riêng" cho mình.
Tình cờ gặp anh bạn cũ. Thấy hòan cảnh tôi khó khăn, anh giới thiệu tôi với một trung tâm Tin học và Ngoại ngữ. Và trong khỏanh khắc, tôi quyết định ngay. Thật sự cuộc đời có những điều không thể cưỡng lại - dù mình không thực sự muốn.
Có lớp hay không còn tùy nhiều nguyên nhân. Thật khó xác định. Không như các lớp phổ thông, thầy "có quyền" hơn. Cuộc sống vẫn khó khăn nhưng dù sao cũng an tâm hơn. Ngoài giờ lên lớp, tôi lại viết lách như để trải tâm sự mình. Vả lại, đó cũng là niềm vui riêng. Có lẽ chính hòan cảnh đã thúc đẩy và giúp tôi viết nhiều. Nhưng chuyện "viết" là một chuyện, còn chuyện "lách" là chuyện khác!
Trên đường mưu sinh lập nghiệp, tôi luôn gặp nhiều buồn hơn vui, khác chi một đoản khúc mà giai điệu chỉ là những nốt trầm. Đó là giai-điệu-tôi. Thất vọng nhưng không tuyệt vọng, tôi vẫn hy vọng nó đủ sức vang ngân giữa đời. Tôi cũng cầu mong không ai phải gian nan như tôi đã và đang đương đầu với cuộc sống. Tôi hy vọng khả dĩ làm được điều gì đó hữu ích hơn cho cuộc đời và cho người khác - dù điều đó nhỏ nhoi thôi.
Cánh diều bay lên nhờ ngược chiều gió chứ không xuôi theo chiều gió. Tôi hiểu và tôi cố gắng, vì "nỗi khổ ngày nào đã đủ cho ngày ấy" rồi!
Trầm Thiên Thu
&&&
XIN HÃY GIÚP TÔI !
truyện ngắn của P S
Lặng người , lá đơn trên tay tôi chưa ráo mực. Lẽ nào một chuyện rất bình thường theo cách nghĩ của tôi. Có thể đưa chúng tôi đến ly hôn ư?
Sao anh không cố hiểu tôi một chút, không thông cảm cho tôi một chút...nước mắt tôi trào tuôn không dứt trong nỗi xót xa.
- Cô hãy chọn lựa đi, Một là tôi , hai là bạn cô!.
Thái độ lạnh lùng và cương quyết đến không ngờ. Nói xong anh quăng lá đơn trên bàn rồi bỏ đi . Không muốn nghe bất cứ lời giải thích nào của tôi. Theo anh, lời giải thích nào cũng không có giá trị, không đủ thuyết phục . Quan điểm của anh. Khi phụ nữ lập gia đình thì không được xem ai quan trọng bằng chồng , con . Tôi thật may mắn đã lấy được người chồng mẫu mực , không quan trọng ai bằng vợ , con. Chỉ biết vợ con là trên hết!
Còn tôi , tôi chưa thể hiện như vậy được, chưa làm đúng như ý nguyện vọng của chồng:Vì một trường hợp đặc biệt buộc tôi phải có trách nhiệm cộng với tình nghĩa trời biển tôi không thể bỏ mặc làm ngơ .
Đã nhiều lần tôi bỏ gia đình chạy đến chăm sóc chị. {Thùy người bạn gái hơn tôi vài tuổi} mỗi khi chị ốm. Cho dù lúc ấy chồng và con cần có tôi bên cạnh.Sự việc lập đi lập lại gây khó chịu cho anh , cho mọi người thân của tôi, ai cũng phản đối đồng thời lên án tôi gay gắt, khi thấy tôi càng ngày càng lún sâu vào mối thâm tình đặc biệt với người bạn gái mà theo anh là hết thuốc chữa.
- Cô đi hỏi tất cả mọi người , có ai như cô không. Cô có thể bỏ con cô trong lúc ốm đau để lo cho người khác. Cái đó là tình gì? Cô nói cho tôi nghe!
Trong cơn nóng giận anh hét toáng lên . Từ đó mọi người đã bàn tán xôn xao Thùy và tôi là một cặp đồng tính.
"Đồng tính" từ này tôi nghe hoài , nhưng với tôi thật sự xa lạ. Để hình dung một cặp cùng phái yêu nhau tôi không mường tượng hình dung ra nổi. Chắc chắn tôi không va vào vấn đề éo le này. Nhưng tôi lại gặp phải một éo le khác. Tôi cho là có thể còn khó giải quyết hơn nhiều . GIỮ KÍN đó là trách nhiệm và bổn phận của tôi. Tôi phải bảo vệ cho Thùy , bảo vệ người ơn của mình cho đến chết. Vì vậy tôi không bao giờ nghĩ sẽ kể với ai, kể cả với chồng mình . Sự khó hiểu một mối thâm tình "dị biệt" của tôi đã dẫn đến lá đơn tôi đang cầm trên tay. Hạnh phúc gia đình tôi đang trên bờ vực!
Trước đây, Thùy và tôi nghèo lắm. Không vốn liếng. không nghề nghiệp.Tìm công việc làm thuê cũng không ra. Lúc nghèo khó ai bày biểu gì cũng làm. Có người chị cùng xóm hay đi buôn bán. Thấy chị có đồng ra đồng vào chúng tôi cũng muốn mua bán như chị. Khi được chị gợi ý cho đi theo chúng tôi mừng lắm. Nhưng thời bao cấp nói đến đi buôn thì mọi người hiểu là đi buôn lậu . Vì khi đó cái gì cũng do nhà nước quản lý . Không có tiền chúng tôi đi vay mượn khắp nơi. Cuối cùng cũng có số vốn kha khá.Chọn một ngày đẹp trời chúng tôi ra quân.
Tay chân thì cứ run bần bật. Khi xe ngừng trạm để kiểm soát . Tôi cố nhắm mắt làm như đang ngủ để tránh phát hiện. Nếu ai có bệnh đau tim thì chết như chơi.Tôi nói nhỏ vào tai Thùy khi xe bắt đầu chạy tiếp:
- Em mà biết vầy , chắc em không đi ... chị ơi!
Mỗi lần xe chạy đi qua các trạm kiểm soát, chị em chúng tôi mặt cắt không còn chút máu. Thùy cố giữ vẻ bình tình trấn an tôi:
- Không sao đâu, còn hai trạm nữa thôi. Mà hai trạm này dễ lắm!
Nghe chị nói vậy tôi cảm thấy an tâm một chút. Nhắm mắt hình dung nghĩ chuyến đi này suôn sẻ, nhất định có lời. Tôi sẽ chạy ra chợ mua ít cá nấu canh chua cho ba. Kho một ít thịt thật kẹo quẹo cho mẹ... Lâu lắm rồi chỉ toàn rau muống luộc với nước mắm mà cũng thiếu lên hụt xuống. Còn thằng Tí , thằng Tèo em tôi. Suốt cả năm rồi chưa biết ăn sáng là gì . Đi học lúc nào bụng cũng trống trơn. Đã nhiều lần không chịu nổi tụi nó đã xỉu trên lớp.Nghĩ đến đó nước mắt tôi cứ ứa ra, ứa ra.cảm thấy sao mà buồn tủi cho sự nghèo hèn của mình quá. Thương cha , thương mẹ , thương em muốn đứt cả ruột , gan. Mãi chìm trong nỗi đau... Giật thót mình khi nghe tiéng quát tháo
-Mấy thùng gì đây, hàng của ai?
Tiếng của gã đàn ông mặc đồ giống bộ đội. nhưng sau này tôi biết họ là quản lý thị trường.
Chị Thùy và tôi không khác gì nhau. Ngồi im như tượng .Tay nắm chặt tay mà như lên cơn sốt. Tiếng của một hành khách thúc dục:
- Của ai thì nhận đi cho xe chạy chứ trễ lắm rồi!
Chưa biết làm gì thì bác tài nhìn chị em chúng tôi , như muốn sự việc cho mau, ông ta chỉ điểm:
- Hai cô xuống nhận đi, có gì năn nỉ người ta . Xong việc đón xe sau về . Xe không đợi được.
Không thể làm khác . Bước xuống xe mà như người bị mộng du. Xe chạy lúc nào không hay. Khi tỉnh hồn thì mấy thùng hàng đã đưa vào trạm. Trạm nằm một nơi hoang vu vắng vẻ chung quanh là đồng hoang bạt ngàn cỏ dại , thỉnh thoảng mới có một vài chiếc xe xuôi , ngược.Bên trong khỏang chừng bốn mét vuông .Ngoài những thùng phân thuốc trừ sâu của chúng tôi ra thì có một cái bàn làm việc, bên cạnh có một cái giường cá nhân bằng sắt... Bây giờ tôi mới biết, không phải một gã quản lý thị trường mà là hai. Trên túi áo có bảng tên. Gã lớn tuổi tên Quân và gã nhỏ tuổi hơn tên Hòa . Hai chị em khúm núm. Co ro, răng va vào nhau không kiểm soát được hành vi của mình, sợ sệt tột độ, cảm giác như tên tội phạm sắp đưa ra pháp trường . Gã lớn tuổi có bộ mặt hung dữ cất lên giọng lạnh lùng :
-Chuyến này là chuyến bao nhiêu rồi ?
Thùy bình tỉnh hơn tôi líu ríu:
- Dạ thưa chú... chuyến đầu tiên !
Gã quắc mắt :
- Mấy con buôn lậu . con nào cũng vậy, lần nào cũng là lần đầu.
Thùy tỏ ra dạn dĩ hơn :
- Con nói thiệt mà chú
- Ai mà tin nổi tụi mày, Tụi mày có khác gì mấy con bia ôm, gái làm tiền. Lúc nào cũng nói hoàn cảnh nên mới thế này , thế nọ. Ngủ cả trăm thằng đàn ông ... chứ đụng tới hả... « Em mới lần đầu » nghe phát ói !
Gã đang đại diện cho pháp luật, cho nhà nước quản lý hàng hóa, gã có quyền sinh sát những con buôn lậu, huống chi là nhục mạ họ. Chúng tôi hiện giờ là người có miệng ăn chứ ko có miệng nói. Nghĩ đến số nợ , nghĩ đến nỗi đau ê chề của gia khi bị mắng mỏ của những chủ nợ. Tôi không còn tâm trí để nghĩ đến những lời xúc phạm của gã. Chị Thùy bấm vào tay tôi như ngầm an ủi « kệ gã , đừng để ý »
- Bây giờ đưa hàng đi đâu xếp ?
Gã nhỏ tuổi hỏi sau khi lập xong biên bản
- Chờ xe xuống đưa người và hàng về thị xã . Bao nhiêu hàng này cũng đủ đi tù...
Tên vừa được gọi bằng xếp trả lời
Không biết đó là lời nói thật hay cố tình hăm dọa. Nhưng cũng đủ tôi bấn loạn. Không giữ được bình tĩnh ,tôi bật khóc kèm theo lời van xin. Bao nhiêu từ ngữ dùng mong một sự thương cảm ,tôi đã xử dụng hết nhưng không hề lay chuyển. Họ là ai ? Con người chân chính có trách nhiệm giữ gìn sự bình yên cho đất nước. Quyết diệt trừ những thói hư tật xấu của xã hội trong đó có những kẻ buôn lậu, để nền kinh tế không bị suy thoái ,cho đất nước giàu mạnh ư ? Vì vậy. họ không thể mềm lòng trước hoàn cảnh của chúng tôi. ? Nếu quả thật họ là những con người như thế thì đã không đưa đến cho chúng tôi sự bất hạnh và nổi đau xé lòng như ngày hôm nay .
Chạng vạng tối, bóng đen mỗi lúc mỗi gần hơn. Cái gì nói mãi cũng nhàm., hơn nữa hai chúng tôi cũng đuối lắm rồi, không còn sức lực để van xin . Trời tối như mực mà xe... {Theo lời gã lớn tuổi lúc nảy là sẽ đến đón} nhưng không thấy. Lúc này hai gã chụm vào nhau to nhỏ , như đang hội ý điều gì. Một chút hy vọng mong manh lóe lên, biết đâu có tín hiệu vui cho chúng tôi . Nét mặt gã nhỏ tuổi cười cười pha một chút bẽn lẽn vui vui dưới ánh đèn dầu chập chờn , từng cơn gió nhẹ từ cánh đồng lùa về lành lạnh nhưng người tôi như người xuất hạn, mồ hôi ướt đẫm quần áo
- Này hai em !
Giọng gã lớn tuổi . không còn bẳn gắt, to tiếng hay xỉa xói như ban đầu mà ngược lại , gã ngập ngừng như đang khó nói điều gì. Gã đưa mắt nhìn chăm chăm từ trên xuống dưới , từ đầu đến chân chúng tôi như đang thẩm định một món hàng
- Hai em có muốn mang hàng về không ?
Sắp chết trôi mà quơ được tấm phao. Không còn cơ hội nào tốt hơn, không kìm được niềm vui Chị Thùy nhào tới nắm tay gã lắc lắc :
-Chú nói thiệt hả chú ?
Gã hất tay chị Thùy ra quát nhẹ một cách thân thiện
-Thiệt , nhưng không được gọi anh bằng chú !
Trời Ơi !lúc này gã bắt chị em chúng tôi gọi gì cũng gọi , chứ sá gì tiếng anh.
-Dạ được , anh thả tụi em nha anh . Tụi em mang ơn anh suốt đời.
Vừa nói Thùy vừa nắm tay gã nhỏ tuổi hơn như tiếp cứu
Gã lớn tuổi đặt thẳng vấn đề :
- Mang ơn chi cho nặng vậy em . Trả... bây giờ phải hay hơn không. ? Ở đây đồng không mông quạnh, lạnh lẽo buồn quá, chỉ có bốn người ... sao không biến thành một đêm ấm áp vui vẻ... sau đó các anh sẽ đưa hai em đi đến nơi về đến chốn mà không sợ ai quấy rầy.
Đang toát mồ hôi, giờ thì người tôi muốn xuất hạn, ướt đẫm như tắm. Tay chân tôi run như đang bị co giật.
-Tội nghiệp tụi em mà anh, Tha cho tụi em ... Tụi em xin đội ơn hai anh mà...
Choáng váng, tôi như người mất hồn, không còn cảm nhận điều gì khác ngoài sợ hãi, tiếng van xin của chị Thùy mỗi lúc mỗi yếu và thưa dần, thưa dần vì sự quyết liệt của hai gã. Hình như không được đáp ứng, hai gã có thái độ gay gắt khó chịu hung dữ hơn.
- Được rồi, hai đứa mày uống rượu mừng không uống mà chịu uống rượu phạt. Tịch thu hàng còn bị tù là cái chắc. Đồ chó cái ngu xuẩn.
Nói xong, gã lớn tuổi bỏ ra ngoài. Gả nhỏ tuổi cũng đi theo.chị Thùy nắm tay tôi bóp nhẹ trấn an:
- Không sao đâu, đừng sợ. Làm gì mà run dữ vậy em, phải bình tĩnh hơn, để sáng suốt chứ em!
- Biết làm sao giờ hả chị?
Thùy quyết định:
- Chị không còn chọn lựa nào khác. Bằng mọi giá chị phải giữ lại vốn liếng lại, không thể chết đói, không thể nợ nần. Chị đồng ý ngủ với hắn .
Vừa nói nước mắt chị vừa lăn trên hai má bầu bỉnh xinh đẹp của một thiếu nữ vừa mới tuổi hai mươi lăm. Còn tôi, tôi phải làm sao? Tôi cần tiền còn hơn bất cứ điều gì. Nhưng mới lớn chưa qua mối tình nào, tôi chưa biết cảm giác đôi lứa ra sao tôi e ngại quá... tôi rụt rè :
- Còn em thì sao hả chị?
- Biết làm sao bây giờ hả em. Tụi mình nghèo quá, không có sự chọn lựa nào tốt hơn đâu.
Nói đến đây chị ngưng với vẻ bối rối, ái ngại:
- Cái này tùy em , chị không kêu đâu nhen!
Tôi muốn đem về cho gia đình một nụ cười, chứ không phải tiếng than khóc của mẹ. Không muốn mặt cha hằn nét khắc khổ hơn. Thằng Tí , Tèo không phải thường xuyên xỉu trên lớp và nhất là không có chủ nợ nào đến nhà chửi bới, nhục mạ... Chỉ cắn răng nhắm mắt một tí là được việc thôi mà...Chị Thùy làm được , mình cũng sẽ được!
- Chị sao em vậy đi. Em muốn về nhà ngay. Ở đây em sợ quá chị ơi!
Chị vui ra mặt vì sự đồng ý của tôi . Chị bước vội ra ngoài tìm hai gã thương lượng .
Không lâu, gã lớn tuổi bước vô cùng chị Thùy với nét mặt cởi mở, vui vẻ:
- Em ra ngoài nói chuyện với thằng Hòa đi. Nhường hotel này cho tụi này nha.Tí nữa thì là của tụi mày.
Bước ra ngoài. Bầu trời tối mịt . Những áng mây đen che phủ những vì sao. Gió lồng lộng rít lên kêu như ma quái. Tôi sợ đêm đen, bóng tối... bây giờ kèm theo nổi hải hùng . Một chút nữa thôi ,tôi sẽ chôn đời con gái mình tại đây, với một người không quen biết, không một mảy may yêu thương. Nhưng tôi sẽ có được cái tôi đang cần... tôi giật mình khi bàn tay gã nắm tay tôi. Phản ứng tự nhiên tôi rụt tay lại. Ít ăn , ít học tôi không biết triết lý với gã như trong tiểu thuyết tôi đã từng đọc "Vui sướng gì khi anh quan hệ với một người không yêu thương mình mà gần như anh đã cưỡng bức họ?" "Có phải anh là người không? Là người sao anh có thể chà đạp lên con người để thỏa mãn những nhu cầu tầm thường như vậy?" nhiều câu để hỏi lắm , nhưng trước mặt tôi giờ này có lẽ họ không là người rồi. Một con thú chờ ăn thịt tôi. Nghĩ đến chị Thùy ... Nổi uất ức và nhục nhã tôi muốn bỏ chạy biến vào đêm đen...
- Em bao nhiêu tuổi?
Giọng gã nhỏ nhẹ và ấm. Nếu không ở vào hoàn cảnh này . Gã thuộc phần dễ thương , đẹp trai . Biết đâu gã cũng làm cho tôi xao xuyến!
- Em vừa hai mươi.
- Có người yêu chưa?
Tôi nghĩ mình nói có , biết đâu gã tha cho mình
- Dạ, có rồi!
- Vậy người yêu em cho em cảm giác "yêu" là thế nào chưa?
Tôi thấy bối rối và xấu hổ trong nỗi nhục nhã ê chề. Tôi lắc đầu .
Đưa tay kéo tôi vào lòng, gã sờ mó bỡn cợt:
- Vậy hôm nay anh dạy cho em biết nha.?!
Gả hôn thật nhanh vào má tôi.. Sự đụng chạm của gã làm tôi thấy tởm lợm . Giây phút này đối với tôi quá khó khăn. Chuyện gì sẽ xảy ra khi tí nữa đây tôi phải hiến dâng thân xác cho hắn. nghĩ đến đó , gai gốc nổi khắp người...Chuyện gì đến sẽ đến. Tiếng của gã đàn ông lớn tuổi sang sảng khác thường. { Bây giờ có gia đình rồi tôi mới biết đàn ông họ là vậy. Sau khi được thoả mãn họ phấn chấn hưng phấn trong lời nói và hành động.}
- Hai cưng vào đi, thiên đường ở đây chứ không phải nơi nào khác.
Vừa nói, gã vừa cười hô hố , thật nham nhở đến bẩn thỉu.
Tôi như người sắp bị đưa lên máy chém. Nỗi sợ hãi ngập tràn ,tôi vụt chạy đến ôm Thùy thật chặt như cầu cứu. Thùy cũng ôm lấy tôi không buông .Chị cũng muốn bảo vệ cô em gái mong manh bé bỏng của mình. Hai chị em khóc ngất. Bỗng dưng chị buông tôi ra và quỳ xuống hai tay chấp lại lạy lia, lạy lịa như tế sống về phía gả trẻ tuổi:
- Em lạy anh! Anh tha cho nó đi, nó còn khờ dại lắm. hơn nữa nó sắp lấy chồng rồi., anh tha cho nó ... nếu cần giải quyết anh hãy vào đây với em ... anh tha cho nó... hãy tha cho nó... tiếng chị van xin văng vẳng bên tai.Tôi ngất đi vì sợ hãi, vì xúc động trước tấm chân tình của chị khi nào rồi.
Tôi tỉnh lại, cũng là lúc chị hoàn thành xong công việc thương lượng với gã trẻ tuổi .. Chỉ khác một điều là chị đã thay tôi làm điều đó!
Lá đơn ly hôn ướt đẫm nước mắt trên tay tôi....
Làm sao để anh hiểu ? Làm sao cho gia đình không tan nát. Không muốn con tôi thiếu cha hay mẹ. Không muốn mất đi người chồng tốt mà tôi rất yêu thương và tôi càng không muốn xa chị .Chị Thùy ơi! "Em đã thề, đã hứa không bao giờ em thố lộ với ai điều bí mật này và em sẽ mãi giữ lời thề cho tới hơi thở cuối cùng... Người mà tôi mang ơn suốt cuộc đời này!" , Nhưng gia đình tôi thì sao? Làm sao để chồng tôi hiểu ??? Tôi phải làm sao đây? Xin hãy giúp tôi!!!
P S
***
Riêng một khoảng chiều
Trầm Thiên Thu
Buổi chiều, sau cơn mưa, tôi lặng đứng nhìn dòng người qua lại trên phố, chợt nghe lòng mình thánh thót những giọt ưu tư rỉ ra từ vết trầm bâng khuâng không tên. Rất lạ. Thứ cảm giác khó tả như những sợi nhỏ, dài, đan quyện nhau, chằng chịt như mạng nhện trong căn nhà bỏ hoang.
Con tim mặc vẻ bí ẩn. Con người đôi khi trở nên mâu thuẫn, một loại mâu-thuẫn-hợp-lý. Thật vậy, đôi khi ta không hiểu hết chính mình. Những câu hỏi tưởng chừng đơn giản mà thành như vấn nạn. Miệt mài đi tìm mình mà vẫn không gặp, chênh vênh một cõi về. Đam mê và hoài bão cứ giằng co đêm ngày.
Những năm gần đây, việc hiến xác cho khoa học trở nên phổ biến hơn, nhiều người đă tình nguyện làm việc này. Từ tháng 10/1997, tôi là người mang số thẻ 119. Từ khi thực hiện ý định này, tôi thấy mình có chút gì đó hữu ích hơn, giảm bớt ích kỷ đáng kể, cái TÔI trong tôi bớt "hung hãn" hơn xưa.
Đời người một khoảng trăm năm
Tưởng dài mà ngắn - Nhiều buồn, ít vui
Khi đă trưởng thành tâm lý, chắc hẳn ai cũng đã từng hơn một lần suy tư về thân phận con người để khả dĩ nhận ra nó nhỏ nhoi vì bọt bèo. Theo quy luật, ai cũng có một ngày hóa thành cát bụi, trở về nơi mình xuất xứ.
Nói vậy không có ý bi quan yếm thế, nhưng để nhận diện mà cố vươn lên và sống hữu ích hơn, không chỉ cho chính mình mà còn cho mọi người. Sống trong thời đại bůng nổ thông tin, không ai lại không biết ít nhiều về thế giới. Một trong những điều khiến chúng ta quan tâm chắc phải là sự bất công giữa con người với nhau, sự bạc đãi và lạm dụng trẻ em, chiến tranh,... Tất nhiên chỉ vì thiếu tình yêu thương đích thực.
Các nhà lãnh đạo đã và đang tìm mọi biện pháp hữu ích khả thi nhất để vãn hồi hòa bình, tìm hạnh phúc cho con người, xoa dịu vết thương cuộc đời vốn dĩ không ít đau khổ. Vì đời người ngắn ngủi nên cần phải làm "cái gì đó" cho đáng sống. Cần chau chuốt và nuôi dưỡng những tư tưởng vĩ đại, vì chỉ cần một bề ngoài giản dị mà không quê mùa.
Những đám mây làm buổi chiều xuống thấp. Thấp dần. Đang chạm vào đêm. Khoảng chiều thật kỳ lạ. Ngôn từ chiều cao siêu như thầm nhắc tôi lời của Pithagore: "Đừng thấy bóng měnh to mà tưởng mình vĩ đại".
Trầm Thiên Thu
Chiều Tím
Người ấy đã xa, xa lắm khỏi thềm đời tôi, mà tôi không hề biết được nguyên nhân.
Khi hoàng hôn rũ xuống, gió trong vườn mơn man thổi bồng tóc rối, khi những cánh hoa e ấp chợt vỡ nát trong tay tôi lúc nào không hay trong những buổi đợi chờ.
Và cứ thế, thời gian lặng lẽ. Khi những cơn mưa mùa thu đã qua. Sương mù làm lạnh ngắt không gian mùa đông. Cái gì đẹp người ta lại chẳng nhớ nhiều, kỷ niệm của mình, tôi cho là quá đẹp nên tôi cứ mãi buồn và ôm ấp giữ gìn nó trong suốt mười năm. Ngỡ sẽ mãi mãi theo tôi suốt dọc đường dài năm tháng, nếu không có cái ngày gặp lại.
Người ấy và tôi, ngỡ ngàng nhìn nhau, giữa ranh giới là một mối tình đã vỡ. Giọt nước mắt mừng, tủi không thể nào ngăn lại. Môi nào tíu tít mỗi lần gặp gỡ ngày xưa, bây giờ bỗng im lặng không thốt được lời :
- Quỳnh!
Không gian chùng hẳn lại, cánh cửa tâm hồn tôi từ lâu đóng kín một quá khứ, chợt mở ra đánh thức trong tôi những hình ảnh muốn được ngủ yên. Đoàn đó, vâng! Làm sao tôi có thể quên được dù nhớ trong những tủi hờn vô cớ, mặc cho thời gian mang những dấu chân chim đặt vào đuôi mắt .
Người ấy có thay đổi gì không? Mà trong mắt tôi vẫn là chàng sinh viên nho nhã ngày nào mà một thuở mơ mộng tôi đã đắm chìm trong tiếng đàn, tiếng hát của chàng.
Thoáng về rất nhanh trong trí nhớ tôi những buổi hẹn hò, những chiều đưa đón. Tình yêu của tôi cuồn cuộn như dòng thác Cam Ly, êm đềm như mặt hồ Than Thở, làm tôi mỏi bước rong chơi những chiều trên Vallée d'amour.
Nhưng bất chợt chàng rời xa cao nguyên, bỏ lại nơi đây giảng đường mà đúng nghĩa với lòng tôi, thật là hoang vắng :
- Sao nhìn anh lâu thế ? Đã quên rồi sao ?
Tôi lắc đầu, vừa lúc một giọt nước mắt trong veo nhỏ xuống bàn tay:
- Thời gian ngần ấy năm mà anh cũng có thay đổi bao nhiêu đâu. . .
Đoàn bước vào, tiếng giày nghiến những viên sỏi trên khuôn viên đầy hoa trước nhà. Tôi lặng lẽ đi bên cạnh, bức rèm được vén lên trên cánh cửa vẫn thường hay buông kín, đón lấy ánh nắng vàng hoe sắp cuối ngày:
- Bây giờ em sống ra sao? Gia đình ta có gì thay đổi ?
- Con bé út ngày xưa hay vòi quà anh, nay đã tốt nghiệp đại học. Những người khác đã có gia đình riêng. . .
- Còn Quỳnh ?
Tôi thay lời trách cứ :
- Khi chưa biết rõ nguyên nhân tan vỡ trong cuộc đời của mình, thì em chưa thể thay đổi được. . .
- Vậy có nghĩa là Quỳnh vẫn. . .
Tôi cố thật thản nhiên tiếp lời Đoàn :
- Cũng có thể xưa kia em đã lạc đường và bây giờ vẫn chưa tìm được hướng đi.
Hoàng hôn se lạnh, tách trà bốc khói thơm ngan ngát trên tay Đoàn, chàng lặng im, tôi nhìn thấy đuôi mắt của Đoàn đã có những lằn nhăn của tuổi tác :
- Còn anh, chị ấy đâu rồi ?
Chàng cười nhẹ khoe chiếc răng khểnh, ngập ngừng :
- Biết nói thế nào nhỉ? Anh và cô ấy không còn sống với nhau mấy năm rồi.
Tôi bất ngờ trước điều vừa nghe thấy, đầu óc tôi chợt trống rỗng, không nghĩ ra điều gì. Một cái vòng lẩn quẩn. Tại sao ngày xưa Đoàn bỏ đi không một lời. Rồi bây giờ trở lại thì cũng vừa từ giã một người?
Tôi kéo cao cổ áo, những ngón tay cô đơn lùa vào mớ tóc dài. Sương mù là đà ngoài cửa kính, Đoàn khẽ khàng :
- Một chút nông nổi có khi người ta phải trả giá bằng cả cuộc đời!
Ngón tay đoàn run run mồi thuốc, làn khói như ảo ảnh loang ra :
- Nếu . . .nếu ngày xưa chuyện của mình anh nghĩ sâu hơn.
Một tiếng vỡ nào đó khô khan trong lòng, tôi nhún vai :
- Nếu là em, em sẽ lấy sự vấp ngã để nhắc mình thận trọng hơn chứ không bao giờ hối tiếc và quay lại để bắt đầu một câu chuyện đã kết thúc.
- Đã nhiều lần anh cố tìm dịp để trở về đây, ít nhất là để nghe em trách hờn anh…
Tôi nhìn Đoàn như nhìn một khối vô nghĩa. Bây giờ trong tôi chỉ còn một thắc mắc, lý do nào đã gây nên sự gãy đổ của mối tình mà ngày xưa tôi vẫn cho là rất đẹp, và cho đến hôm nay vẫn không ai có thể biết được, ngoài Đoàn :
- Còn em cũng mong gặp lại anh, nhưng không phải để trách hờn, mà để nghe anh giải thích tại sao ngày xưa anh lìa xa nơi này. . .
- Nếu nói rõ ra, em đừng cho là anh cố ý phân trần, thật sự thì do gia đình anh. . .muốn vậy!
- Anh định nói rằng anh phải chấp nhận những chuyện ngoài ý muốn?
Đoàn bối rối :
- Không phải vậy. . .ồ. . .có thể lúc ấy anh vì bồng bột và anh nghĩ mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp thôi, nhưng anh và cô ấy không hợp nhau . Những mâu thuẫn thường xuyên xảy ra và sự nông nổi của anh đã kết thúc như thế.
Tôi thở dài ngao ngán:
- Dẫu sao người phụ nữ kia cũng thiệt thòi hơn anh.
- Những ngày sau đó đối với anh là niềm hối tiếc vô hạn, anh nghĩ đến em, giá như ngày xưa em giữ anh. . .
Tôi sững sờ giây lâu và nỗi thất vọng về Đoàn dấy lên trong tôi. Một kỷ niệm mà tôi yêu quí giữ gìn trong suốt mười năm dài vụt tan vỡ:
- Anh thật là một ngưới ích kỷ, anh quá yêu bản thân mình và anh cho rằng tất cả mọi người phải. . .
- Đừng nghĩ về anh như thế, em không cho anh một cơ hội để anh chuộc lại lỗi lầm của anh sao ?
- Có những việc em vẫn muốn bắt đầu dù rất muộn, nhưng chuyện của mình thì không thể. Em chỉ muốn biết một sự thật chứ không hề có ý định níu kéo . . .
Đoàn thảng thốt :
- Quỳnh !
- Em đã bị loại ra khỏi cuộc đua trong tình cảm của anh, có nghĩa là em đã thất bại, nhưng em không hối tiếc, bởi từ lâu em đã và vẫn sống trung thực với lòng mình, em không quen lọc lừa, cân đo trong tình cảm. Em rất tôn trọng tình yêu của em và em không muốn nó bị xúc phạm.
- Em không còn muốn em là một người bạn, một người chia sẻ niềm vui, nỗi buồn của anh nữa rồi sao?
Tôi tưởng như người ngồi trước mặt tôi không phải là một người đã làm tôi một thời có thể quên đi niềm tin của cuộc đời :
- Ngày xưa em đã từng mong như thế, nhưng ngày xưa đã hoàn toàn không giống hôm nay. Vai trò của em, anh đã phủ nhận, đã hất hủi. Chúng ta chẳng nên trách nhau. Anh cứ hãy đi theo con đường của anh và dĩ nhiên nó đã không còn có em từ lâu . . .
- Thật sự chúng ta không còn gì để nói với nhau nữa sao Quỳnh ?
Tôi lắc đầu, một hình ảnh quá đẹp vừa vỡ nát trong tôi. Tiếng chân Đoàn rời xa. Một đóa hoa vừa rũ úa trong vườn. Giàn hoa tím càng làm cho hoàng hôn sẫm lại. Tôi nhìn qua cửa kính, một cánh chim lẻ loi vừa vụt qua tầm mắt .
Thật sự mối tình đã xa cách hơn mười năm, tôi ngỡ đã tuyệt vọng, chết đi vì nó, nhưng khi gặp lại thì thực tế lại làm thay đổi. Bây giờ thì tôi hiểu rằng, tất cả những gì thường trở nên đẹp đẽ chỉ vì người ta chỉ nhìn một góc cạnh mà tôn vinh nó và mong mỏi một lần gặp lại, có khi chỉ để thất vọng vì lần gặp gỡ đó mà thôi . . .
Hồ Thụy Mỹ Hạnh
****
Nỗi Niềm Xa Quê
Nhiều năm đằng đẵng trôi qua, tôi thực sự xa quê, xa hẳn tình thương gia đình, nhất là tình thương mẹ hiền, khối tình thiêng liêng cao cả đến nỗi nếu thiếu tình thương đó thì tôi không thể sống nổi đến ngày nay.
Quê tôi là một vùng thôn dã nghèo nàn với những mái nhà đơn sơ, cánh đồng lúa, những con đường mòn,... Nhưng ở đó tôi đã lớn lên bằng dòng sữa ngọt ngào của mẹ và tình thân đồng bào bao la. Quê tôi chẳng có gì cao siêu hơn bóng dừa, chùm khế, trái me,... với những con người chân chất, ít học, quanh năm chân lấm tay bùn bên nương khoai, ruộng lúa, tay cày, tay cuốc. Kỷ niệm tuổi thơ của tôi cũng chỉ nhỏ nhoi như viên ô-mai và đơn sơ như những trang viết học trò tim tím một thời dưới mái trường làng.
Tôi bôn ba giữa chợ đời, đi mãi, chẳng trở về quê, nơi đó có mẹ già vẫn mỏi trông đứa con trai đa mang và lận đận. Có về chăng chỉ là dịp tết, vài ngày rồi lại đi. Vô tình mà tôi hóa thành bội bạc. Và rồi... mấy năm qua, tôi không còn thấy bóng mẹ hiền nữa. Mùa xuân mà lòng tôi thật trống vắng, tôi càng ít nói hơn...
Làm sao không nhớ mỗi khi chiều về? Làm sao không buồn khi mưa giăng tầm tã? Làm sao không hoài niệm khi nắng trưa vàng óng? Còn đâu những bữa cơm đạm bạc nhưng mặn nồng tình thương, những ánh mắt trìu mến, những tiếng cười, tiếng dế, tiếng gà,... và tất cả những gì của một vùng quê. Ai đã từng sống ở quê mới khả dĩ hiểu hết chữ "quê" ấy. Chợt nhìn lại kiếp tha phương cầu thực, ăn nhờ ở đậu, sống qua ngày đoạn tháng, tôi thấy chạnh lòng biết bao! Cánh-diều-tuổi-thơ-tôi-mang-những-ước-mơ đâu rồi? Tôi tiếp tục độc hành để sống còn, ít là cho chính mình, vì tôi biết tôi chưa thể làm gì lợi ích cho người khác. Tôi luôn tự trách mình vô duyên và bất tài!
Rộng hơn, tâm trạng người viễn xứ nơi đất khách quê người thì buồn đến chừng nào nữa! Xưa nay, quê hương Việt Nam mến yêu của tôi hãnh diện với bốn ngàn năm văn hiến, là con Rồng cháu Tiên, chinh Nam phạt Bắc, nhỏ người nhưng chí lớn, vươn mình lên từ muôn gian lao. Quê hương tôi thắm tình từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau, suốt dòng chữ S duyên dáng. Ðơn giản và "khó ngửi" như mùi mắm tôm, mắm ruốc lại là "vị" người ta không thể quên. Thế thì ai có thể quên được những danh lam thắng cảnh khác trên khắp quê hương Việt Nam? Là người "bạc" nhất cũng có một thoáng nhớ - dù là nỗi nhớ vu vơ!
Tôi luôn nhớ những gì của quê hương tôi, cả niềm vui lẫn nỗi buồn. Tôi nghẹn ngào khi gặp lại người thân mà không thốt nên lời, cho nên tôi vẫn bị coi là khó hiểu và khó tính. Xin đừng trách tôi, thật lòng tôi không muốn làm phiền ai hết. Xin cho nhau hạnh phúc ngọt ngào để được nói câu: "Buồn ơi, ta chào mi!".
Trầm Thiên Thu
&&&
Sóng ngầm
Bà Hiền cúi xuống đặt tay vào quai chiếc va li đã được khóa cẩn thận. Bằng động tác dứt khoát, bà nhấc hẳn chiếc va li lên khỏi nền nhà, nhưng rồi lại đặt vào chỗ cũ. Có một sức nặng nào đó níu kéo, bà không thể đứng thẳng lên được. Bà ngồi gục xuống ghế... Thế là từ sáng đến giờ đã ba lần rồi, bà vẫn không thể nào bước chân ra khỏi nhà.
Trong nhà im lặng, trống vắng quá. Trên gác, chồng bà vẫn đang mải miết với những bức họa đủ màu sắc. Cuộc sống gia đình bà từ hôm con Hòa, đứa con gái út của ông bà đi học đại học xa đến giờ vẫn thế, lằng lặng trôi đi. Bà lo thu dọn nhà cửa, cơm nước. Ông suốt ngày trong phòng vẽ. Con Hòa đã mang theo cả tiếng nói, tiếng cười trong cái nhà này đi rồi. Trước đó bốn năm, thằng Thuận, anh nó đi du học, nhà có lắng xuống, tiếng cười nói ít đi, nhưng không đến nỗi thanh lặng thế này. Đã từ lâu, ở nhà bà chỉ cười nói, chuyện trò với con gái. Giờ nó đi rồi, bà cũng muốn đi luôn. Bà muốn sống những ngày cho riêng mình. Vậy mà điều bà tưởng làm được ngay đã không dễ gì thực hiện được. Sau khi đưa con Hòa đến nhập trường, ổn định chỗ ăn ở cho nó xong, bà đã định ra đi ngay, nhưng bà còn nấn ná để biết tình hình học tập bước đầu của nó thế nào. Một tháng trôi đi nặng nề, chậm chạp. Hôm qua nhận được thư Hòa, con bé có vẻ rắn rỏi, hòa nhập nhanh với môi trường mới, nó vui vẻ lắm. Bà thấy yên tâm, con bé luôn làm cho bà vui, bà đã viết cho nó một lá thư, định đến nơi ở mới sẽ gửi.
Giờ thì Bà biết, Bà không thể đi được. Nỗi cô đơn, mòn mỏi vẫn đang gào thét trong lòng bà, dục dã bà, chất vấn bà tại sao lại thế. Bà đã đem hết tình thương cùng bổn phận của mình để làm tất cả những gì có thể cho các con bà được như hôm nay. Và cũng là để giải thoát cho bà khỏi sự ràng buộc duyên nợ với chồng mà không phải vấn bận lương tâm. Đã mười năm rồi, kể từ khi đau xót nhận ra rằng cái gia đình mà bà đang sống có đầy đủ gần như tất cả nhưng thiếu một điều. Đó là sự giao hòa trong cảm nhận cuộc sống, thiếu một tình yêu tâm linh giữa hai người. Bà luôn đắm chìm trong đau khổ. Ý muốn "Ra đi" của bà cứ len lỏi, khắc khoải trong thâm tâm, ngày một lớn dần. Bà mong đợi ngày con Hòa đi học đại học... Thế mà bây giờ thì... không thể được rồi!
Trước đó, bà đã cố gắng làm tất cả để mong muốn có sự hòa hợp, cùng chia sẻ vui buồn trong cuộc sống tinh thần của hai người. Song, càng ngày bà càng thất vọng. Cuộc sống của vợ chồng bà chỉ là bản năng, là thói quen với sự chấp nhận nghiệt ngã. Bà thèm khát được một lần ông hiểu bà nghĩ gì mà không cần nói bằng lời. Ông thì cứ im lặng nặng nề, đôi khi bất chợt nổi nóng khiến các con hoảng sợ, bà thì đau thắt tim. Gắn bó với nhau đã ba mươi năm, đến giờ bà vẫn không thể hiểu và lý giải nổi vì sao, một người như ông, một họa sĩ tài hoa, đa cảm lại có cuộc sống tình cảm đối với gia định lạnh lùng đến như vậy. Ông làm việc say mê, cho ra đời nhiều bức họa đắt giá. Ngoài những lúc đắm chìm trong phòng vẽ, ông giành thời gian giao tiếp bạn bè, rất ít thời gian chăm sóc vợ con. Tranh của ông thiên về mô tả, phác họa những xung đột trong cuộc sống. Tuy vậy, một số bức trang vẽ về đàn bà hết sức tinh tế. Có một điều, tuyệt nhiên chưa bao giờ ông giành dù chỉ là một vài nét phác họa về cuộc sống gia đình, một bức chân dung về bà và các con. Nhưng dù sao, ông đã là một họa sĩ có tiếng, những bức vẽ của ông ngày càng mang lại thu nhập đáng kể cho gia đình. Bà biết thế, tại sao bà vẫn...? Bà gục đầu xuống bàn, đôi vai nhẹ rung trong tiếng nấc...
Bà choàng tỉnh. Ông đang ngồi trước mặt bà, chỉ cách một cái bàn nhỏ, bàn tay phải với những ngón thon dài, trắng xanh đang vê mấy sợi râu lởm chởm trên cằm. Hình như ông ngồi như vậy đã lâu, mắt đăm đăm nhìn về phía bà. Khi bà ngẩng đầu lên, ông giật mình, nhìn vào khuôn mặt còn đang thảng thốt của bà, luống cuống hỏi:
- Mình làm sao thế, Mình định đi đâu đây?
Môi bà run run nhưng không nói được thành lời. Có cái gì đó đang dồn nén, chẹn ngang cổ. Bà ngước mắt nhìn ông rồi lại nhìn xuống đất, chỗ đặt chiếc va li, từ trong khóe mắt, hai dòng lệ lặng lẽ chảy dài trên gò má đã gợn những nếp nhăn. Ông vẫn kiên nhẫn với dáng ngồi không thay đổi, nét mặt thể hiện sự nhẫn nhịn bà chưa thấy bao giờ. Thường ngày với bà, ông luôn là người nóng nảy. Sự nhẫn nhịn của ông lúc này giúp bà mau trấn tĩnh lại. Bà nói ngắt quãng:
- Mình ạ, con Hòa đi rồi, tôi thấy buồn quá. Tôi định về quê sống với người bạn từ hồi còn học phổ thông. Bà ấy bây giờ đang sống một mình, chồng chết sớm ở vậy nuôi con. Bây giờ con cái đều có vợ, có chồng và ở xa. Bà ấy không chịu ở với đứa nào vì không muốn xa nơi chôn rau cắt rốn của mình... Còn tôi, ngần ấy năm cũng đã sống cho chồng, cho con. Bây giờ chúng nó đi hết rồi, Mình thì cứ suốt ngày bên giá vẽ... Tôi muốn có ít thời gian cho riêng mình. Ở quê, tôi không còn ai ruột thịt, về ở với bà bạn già chắc sẽ khuây khỏa phần nào...
Một cơn đau nhẹ thít vào tim, bà đưa tay phải xoa vào vùng ngực trái, hít một hơi thở thật sâu, bà chậm chãi nói tiếp, giọng nói đã đều đều trở lại.
- Tôi định ra đi lặng lẽ, không cho Mình biết. Tôi đã để lại vài dòng trên giấy kia. Tôi nghĩ, việc tôi đi hay ở đối với Mình không quan trọng gì, dù sao tôi cũng đã làm xong bổn phận của mình, các con rồi đây chúng cũng có cuộc sống riêng. Nhưng tôi đã không thể bứt được mình ra khỏi nhà. Các con sẽ nghĩ sao? Nay mai thằng Thuận sẽ về. Rồi chẳng mấy chốc con Hòa cũng sẽ tốt nghiệp đại học. Còn Mình nữa, nếu tôi đi thì mình sẽ sống thế nào?... Thế mới biết, để sống cho riêng mình thật là khó, tôi đã quen lo toan, thu vén cho gia đình rồi, vậy nên cứ luẩn quẩn mâu thuẫn với bản thân mình đến là khổ... Mình ơi! Tôi thật sự mệt mỏi và cô đơn...
Nước mắt bà lại chảy dài, nhỏ xuống vạt áo màu tím cẩm. Ngay lúc này, bà cũng không hiểu sao bà lại nói được nhiều thế, hình như là nói cho ngần ấy năm bà thường nín lặng. Hai tay bà run run nắm chặt vào nhau. Gian phòng im phăng phắc, có lẽ cả ông và bà chỉ nghe tiếng đập thình thịch của tim mình. Ông vẫn ngồi bất động, nét mặt không biểu lộ cảm xúc... Rồi bất chợt, ông nhỏm dậy với tay nâng tách trà rót vào ly, bưng ly nước hớp một ngụm, nuốt từ từ. Một tiếng thở dài nhè nhẹ hắt ra từ lồng ngực của ông. Giơ tay vuốt nhẹ mái tóc đã có nhiều sợi bạc, để lộ một vầng trán thanh cao, ông nhíu mày nói rất nhẹ, nhẹ lắm, hình như là nói với lòng mình. Bà hơi ngỡ ngàng, giọng nói của ông lúc này thật lạ, chẳng bù cho thường ngày luôn gay gắt, khó chịu.
- Tôi biết, tôi đã không dành được cho Mình tình yêu trọn vẹn. Đó là điều day dứt tôi suốt mấy chục năm chung sống với Mình. Tôi cũng đã cố gắng nhiều lắm để bù đắp cho Mình và các con, đó là cần mẫn, chăm chỉ làm lụng, lo cho gia đình ta có được cuộc sống đủ đầy. Tôi nghe được những tiếng thổn thức, cảm được nỗi xót xa thầm lặng trong lòng Mình mà không làm thế nào để an ủi, xoa dịu và biết rằng nếu có làm cũng chỉ làm cho tôi và Mình càng thêm đau khổ... Thế nhưng, tôi chưa bao giờ nghĩ mình lại có ý muốn ra đi lạ thường như thế!? Mình hãy nghe tôi nói đây, và đừng cho là tôi muốn huyễn hoặc Mình. Tôi thật sự cảm ơn sự hy sinh, nhẫn nhịn, phụng sự chồng con của Mình. Tôi giờ đây được công thành danh toại một phần không nhỏ là nhờ có Mình chăm sóc tôi và các con chu toàn. Nhưng Mình ạ, điều mà tôi cứ âm thầm chịu đựng, không muốn chia sẻ với Mình vì sợ Mình buồn lại chính là nguyên nhân dẫn đến bi kịch của chúng ta hôm nay. Bây giờ đã muộn, dù không muốn, tôi cũng phải nói ra mong có thể vớt vát được những gì cho những tháng năm còn lại chăng?!... Ngày ấy, khi mười tám tuổi, như bao chàng trai khác, tôi vào bộ đội. Chiến tranh đang trong thời kỳ ác liệt. Ngày nhập ngũ, người bạn gái thân thiết của tôi đã tiễn tôi với đôi mắt đẫm đầy nước mắt. Một chiếc khăn tay có thêu đôi chim đang quấn quýt bên nhau và dòng chữ thêu chỉ đỏ "Son sắt thủy chung" được trao từ tay nàng sang tay tôi khi xe chở tân binh chuyển bánh. Nàng nói với theo trong tiếng nấc: "Em chờ anh...". Tôi đã mang trong tim mình hình ảnh người yêu như thế ra chiến trường. Trong túi áo ngực của tôi lúc nào cũng ấp ủ, gìn giữ chiếc khăn tay nàng tặng. ở chiến trường, người lính phải chịu đựng gian khổ, thiếu thốn, bom đạn, thương vong nhưng tôi vẫn hy vọng. Tôi luôn nhớ về nàng. Những lúc tạm được nghỉ ngơi, tôi thường phác họa chân dung của nàng, khi thì trên mặt đất, lúc thì mặt trong của bao thuốc lá. Đôi khi có được trang giấy với cây bút chì mộc tôi đã vẽ đi vẽ lại nàng đang đứng trước cổng, bên hàng rào dâm bụt, tóc xõa dài vương theo chiều gió, mắt xa xăm đang dõi về phía trước ngóng đợi... Chiến tranh kết thúc, tôi cũng không hiểu do số phận hay nhờ niềm tin về tình yêu mà mình đã may mắn còn lành lặn trở về. Trong túi ngực vẫn ấp ủ chiếc khăn tay nàng tặng đã chuyển màu cùng thời gian, từng thẫm đẫm mồ hôi, nước mắt của tôi hơn sáu năm trời. Nhưng tất cả, mãi mãi chỉ là những kỷ niệm... Nàng đã lấy chồng, có con... Tôi cay đắng, đau khổ, điên loạn và thù hận. Trái tim tôi gào thét... Thật lạ lùng là tôi không thể oán giận nàng để kết tội nàng đã phản bội tình yêu. Chiến tranh mà, nàng là phận gái... Thế nên, âm hưởng của nàng, hình bóng của nàng không thể xóa nhòa trong tâm khảm của tôi...
Ông lại giơ tay vuốt ngược mái tóc để lộ vầng trán thanh cao. Nhìn sâu vào mắt bà. Bà cúi xuống, tránh cái nhìn của ông, như muốn giục ông nói tiếp.
- Cho đến khi gặp Mình, qua ánh nhìn trực diện của cô gái mười chín tuổi có đôi mắt đen sáng long lanh khiến tôi có dự cảm đó sẽ là điểm tựa cho một cái gì đó... Chúng mình yêu nhau, rồi cưới nhau như có một định mệnh. Lúc đó tôi lại thấy ngập tràn hạnh phúc. Tôi nghĩ cuộc đời đã đền bù cho tôi lấy được Mình. Thâm tâm tôi muốn đem lại cho Mình thật nhiều hạnh phúc. Xót xa thay, tôi sống bên Mình, muốn toàn tâm toàn ý chăm lo hạnh phúc gia đình mà hình ảnh người yêu xưa không thể phai mờ, cứ sống động trong tôi. Những bức tranh về đàn bà tôi vẽ, không ít thì nhiều đều có hình bóng nàng trong đó. Chúng đều được bạn bè tán thưởng. Tôi cũng đọc được ánh mắt thán phục, xen lẫn hờn ghen của Mình khi ngắm những bức tranh đó. Sự mất mát của mối tình đầu đã làm tâm tính tôi đổi khác. Nó khắc nghiệt, khô khan, nhiều lúc trở nên vô tình với cuộc sống xung quanh. Tôi cũng không hiểu nổi bản thân mình, cứ mãi đắm chìm trong cái ham muốn ích kỷ của mình là vẽ và vẽ...
Bàn tay với những ngón thon dài, trắng xanh của ông lại với về phía giữa bàn, từ từ nâng ly nước. Nuốt nhẹ ngụm nước chè, ông xoa tay lên vùng ngực trái rồi dịu giọng nói tiếp:
- Tôi thật có lỗi với Mình. Việc Mình sửa soạn định lặng lẽ ra đi hôm nay đã thức tỉnh tôi. Mình nói về quê sống với người bạn gái, nhưng tôi biết Mình về đó còn vì một người. Người đó hơn ba mươi năm trước đã yêu Mình lắm. Nhưng sự dun dủi của số phận đã đẩy Mình đến với tôi làm bạn trăm năm. Điều khiến tôi phải day dứt là đã không yêu Mình được như Người ấy. Phải chăng giờ đây Mình muốn đi tìm một thứ quý giá mà biết rằng sẽ không thể tìm được...?
Bà giật mình khi nghe ông hỏi đúng điều mà bà cũng đã nhận ra từ lâu. Bà nhìn ông thăm dò, nước mắt lại tuôn rơi, bà không thể kìm được những nỗi niềm đang trào dâng lên trong lòng. Ông im lặng để bà khóc, khóc được sẽ vợi đi nỗi buồn, nỗi đau trong sâu thẳm trái tim mình. Mãi rồi bà cũng lặng dần. Bà hít một hơi dài, chậm rãi nói:
- Hôm nay Mình đã giúp tôi hiểu được ngọn nguồn để lý giải về cái vách ngăn vô hình giữa chúng ta. Lâu nay, tôi chỉ biết thầm trách cho số phận của mình duyên thì có mà tình thì không. Thật lạ là những lúc hờn tủi như thế, kỷ niệm xưa của tôi với Người ấy hay dội về bất chợt, khiến tôi có những liên tưởng vu vơ. Như có một tiếng gọi thiết tha từ một miền sâu thẳm trong tâm thức cứ thôi thúc tôi. Tôi thấy mình được an ủi phần nào, nỗi buồn trong tôi dịu lại. Đã bao lần tôi tự hỏi mình, chẳng lẽ hơn nửa đời người còn đi tìm cái không thể tìm lại được sao?...
Một nụ cười thoảng qua trên môi bà, đôi mắt buồn chớp nhẹ. Ông chợt nhận ra bà còn rất trẻ so với tuổi năm mươi của bà. Ông quả đã không lầm khi cảm nhận ánh nhìn trực diện từ đôi mắt đen sáng long lanh của bà ngay lần đầu mới gặp, sẽ là điểm tựa cho một cái gì đó. Ngày ấy, ông không phân định được. Còn bây giờ, ông hiểu đó là điểm tựa cho cả cuộc đời và sự nghiệp của ông.
Bà nhẹ nhàng đứng dậy, không nhìn ông, bà nói nhỏ:
- Tôi thấy đau đầu, muốn đi nằm một chút. Mình cất giùm tôi va ly vào buồng nhé.
Bà Hiền nằm liền một tuần. Ông lóng ngóng lo cơm nước cho mình và thuốc thang cho vợ. Tạm thời dứt mình khỏi giá vẽ, ông tất bật ra vào thật tội nghiệp. Đã lâu rồi, gần như là từ khi lấy bà, bây giờ ông mới lại phải làm những việc quá thường nhật này. Cũng may, bà có nhiều bạn bè, họ thường đến thăm hỏi, đỡ đần...
Đúng ngày rằm tháng đó, bà Hiền thấy người tỉnh mỉnh hơn. Khi hoàng hôn xuống, bà nói với ông:
- Ngần ấy năm chúng mình lấy nhau, sống giữa thành phố biển nên thơ như thế này mà chưa một lần cùng nhau ngắm biển. Mình thấy có lạ không? Hôm nay, tôi muốn chúng mình ra với biển, được không Mình?
Ông lặng lẽ nhìn bà rồi gật đầu...
Gió từ biển thổi vào bờ mát lạnh làm bay bay chiếc khăn màu tím bà quàng ngang cổ. Chiếc khăn này ông tặng bà hồi mới quen nhau, thi thoảng bà mới lấy ra quàng. Khi hai người ngồi xuống dải cát mịn màng còn mang hơi mặn của sóng thủy triều, cũng là lúc trăng từ từ nhô lên khỏi mặt biển. Tiếng sóng vỗ nhè nhẹ. Một vùng sáng lóng lánh như dát bạc lan tỏa trên mặt biển tạo khoảng không vừa lung linh, vừa huyền ảo. Hai người cùng im lặng, mải đắm chìm với suy nghĩ của riêng mình, Hình như lúc này đây, trước cảnh đẹp kỳ diệu của biển trong đêm trăng tĩnh mịch, họ mới cùng cảm nhận hết được hàm ý của câu ngạn ngữ "Biển lặng thường có sóng ngầm". Phải chăng cuộc đời mỗi người cũng như mặt biển kia, ngay cả khi phẳng lặng, hiền hòa, nên thơ là thế, mà sâu thẳm trong lòng nó vẫn tiềm ẩn những con sóng ngầm bớt chợt có sức tàn phá khôn lường. Bất giác, bà Hiền cảm thấy trong người nhẹ nhõm lạ thường, những đợt sóng dữ dội trong lòng đang dần dần lắng lại. Bà nhìn sang bên cạnh, ông đang hít sâu hương vị mặn nồng của biển, lặng lẽ nắm tay bà xiết nhẹ ...
Nha Trang – 10/8/1996
Minh Hương
&&&
Mùa Hoa Loa Kèn
Tháng tư, tháng tôi sinh, mùa hoa loa kèn nở. Loài hoa khi nở cánh có màu trắng trong thật lạ, nhưng lúc chúng còn đương nụ, những nụ hoa phớt xanh nằm trong đám lá bồng bềnh như những cái đầu của một đàn khủng long thời tiền sử đang bơi lội. Nhìn gần hơn, những nụ hoa loa kèn nhòn nhọn trông rất giống trái đạn B.41 thu nhỏ, có màu xanh phớt, lúc nở hoa lại giống một quả chuông, chúng cứ nhằm thẳng vào, xoáy vào, để làm rung lên trái tim đa cảm của anh.
Một ngày tháng tư, cha tôi đi phố về, nói với mẹ tôi "Anh Liên mất rồi đấy !". Tôi đi dự đám tang nhìn thấy xung quanh linh cữu người quá cố xếp kín những vòng hoa kết toàn bằng hoa loa kèn trắng, chắc là hoa theo mùa, bởi vào tháng tư hoa loa kèn chỉ rộ khoảng hai, ba tuần lễ rồi thôi.
Bác Liên là người bạn thân suốt đời của cha tôi dù bác hơn cha tôi vài ba tuổi. Tôi nhớ dáng vẻ ngoài của bác : tầm vóc nhỏ nhắn, tóc chải mượt, lúc nào cũng ăn vận quần áo chững chạc. Giọng nói bác trong, giống như giọng thầy giảng lễ trong các nhà thờ Thiên chúa giáo. Hơn ba mươi năm trước, còn là một cậu bé, tôi được thấy bác lần đầu. Hôm đó sau nhiều năm xa cách cha tôi ngẫu nhiên gặp bác ở ngoài phố, vồn vã mời về nhà. Tôi đứng dậy cúi chào khách, trong lòng thoáng một chút ngạc nhiên : thời bấy giờ ra ngoài đường ít người mặc quần áo tây cả bộ, đi giày da, lại thắt cravát gọn ghẽ bên trong chiếc cổ áo sơ mi hồ cứng, nhất là người đó lại là cán bộ ở vùng kháng chiến mới trở về. Tôi ngồi học bài bên cửa sổ, quay lưng lại bộ sa lông. Câu chuyện của cha tôi với người khách cứ câu được câu chăng lọt vào tai để đến bây giờ những câu nói đó thức dậy trong trí nhớ tôi :
... Tiếng khách hỏi thăm cha tôi :
- Cậu vẫn làm ở tòa án đấy chứ ?
Cha tôi đáp :
- Vâng, thẩm phán lưu dụng anh ạ. Còn anh, tôi nghe nói anh đi kháng chiến, vào bộ đội đóng đến thiếu tá rồi phải không ?
- Quân đội bấy giờ chưa phong hàm, chưa có lon. Tôi chuyển sang bộ đội với hàm thiếu tá để vào phái đoàn đi họp liên hiệp với tụi nhà binh Pháp trước Genève. Giờ tôi chuyển "về vườn" rồi cậu ạ ! Tôi ốm yếu quá.
Từ buổi ấy thỉnh thoảng bác Liên lại tới nhà tôi chơi.
Có một lần mẹ tôi bảo cha tôi : "Anh Liên thật gàn bát sách, đến bây giờ vẫn chưa chịu lấy vợ. Cô Lệ Lý đã lên chức "bà" rồi còn đợi chờ gì nữa ! Đi bộ đội đóng chức to như thế đến lúc về lại không đòi hỏi lấy một xu hưu trí hỏi anh ấy sống thế nào ?".
Qua câu chuyện của song thân tôi được biết bác Liên là con nhà giàu sang, trước cách mạng bác học trường "lít xê" rồi trường luật, nổi tiếng ăn chơi công tử : một ngày thay ba bộ áo sơ mi, giày có vài chục đôi, khăn mùi xoa dùng xong là bỏ. Lúc bác Liên xin nghỉ, Nhà nước chưa ra chế độ hưu trí, sau này có chính sách bác cũng không đòi hỏi. Bác Liên có một người chị gái cũng không chồng con gì. Hai bác sống ở hai buồng trên gác trong một căn nhà hương hỏa gần phố nhà tôi. Tầng dưới có một hộ dân thuê. Khoản thu nhập chính thức của bác Liên và người chị gái là cuốn sổ trích lợi tức tiền nhà cho thuê được trả mười lăm đồng một tháng.
- Vậy thì anh ấy ăn bằng gì ?
Mẹ tôi nhắc lại.
- Anh ấy gần như ăn chay : rau với muối vừng - cha tôi đáp. Hai chị em anh ấy có quyển sổ gạo hai suất mười ba cân rưỡi. Bà chị bán bớt tem gạo đi đủ tiền mua gạo, mua rau ăn. Với số tiền nhà mười lăm đồng kia ông ấy vẫn sống phong lưu lắm : vẫn hút thuốc lá cuốn Lạng sơn, uống chè Hồng Đào ướp hoa sen, vẫn đọc sách. Vẫn đi chơi... thú lắm.
Trong nhà tôi con cái không được phép góp chuyện cùng bậc cha mẹ. Khi ấy tôi cũng hơi lớn, bắt đầu có cảm nhận riêng. Thực ra tôi không thích bác Liên lắm nhưng không dám nói ra : người gì cứ hay đến chơi ngồi nói chuyện rì rầm hàng buổi. Xung quanh hàng xóm tai vách mạch rừng người ta không biết cho là tụ tập bất mãn thì ảnh hưởng lắm.
Tôi để ý nghe chuyện, hóa ra các cụ toàn nói chuyện tào lao, xen cả tiếng Pháp, tiếng Tàu, cả Phật, cả thiền, Lão, Trang, Khổng Tử rồi cả mác xít nữa. Có một việc cho đến bây giờ tôi vẫn ân hận : tối hôm ấy gần bảy giờ bác Liên và cha tôi còn ngồi đàm đạo. Mẹ tôi ngồi may, thỉnh thoảng lại ngước nhìn đồng hồ. Tôi thổi cơm, sửa soạn mâm bát xong xuôi đã lâu, sốt ruột muốn ăn cơm nhanh để đi chơi. Nhà tôi có cái bàn ăn dài kê cạnh bộ sa lông tiếp khách. Nghĩ ra một cách, không hỏi ý kiến ai tôi chủ động bê mâm bát, nồi niêu ra dọn loảng xoảng trên bàn ăn. Đang trò chuyện, bác Liên ngước nhìn mâm cơm tôi dọn, sực nhớ giờ đã muộn. Cha tôi lúng túng nói mấy câu mời cơm bác nhưng bác xin phép ra về. Khi khách về rồi cha tôi gọi tôi lại, không nói không rằng giáng cho tôi một cái tát. Từ khi học lên cấp ba tôi không hay bị đòn nữa. Lần ấy là lần cuối cùng cha tôi đánh tôi, nhưng cái đau lần ấy còn mãi trong đời tôi.
Có một khoảng thời gian dài dễ đến hơn mười năm tôi không gặp bác Liên. Tôi lớn đi làm xa nhà, rồi lấy vợ, có con bận bịu muôn chuyện đời thường. Mãi đến khi cạy cục xin chuyển được về Hà Nội thì lại bập vào thời kỳ kinh tế thị trường, lao vào cuộc mưu sinh tất bật.
Tôi không ngờ khi nghe cha tôi báo tin bác Liên đi tu. Mẹ tôi bảo "thì anh ấy sống cũng gần như đi tu còn gì : ăn chay, không vợ, chỉ chưa xuống tóc, niệm Phật mà thôi".
Thực ra bác Liên nghiên cứu Phật pháp đã lâu. Bác đi tu chỉ là tu tại gia, có lập bàn thờ Phật, đọc kinh, đọc sách và thỉnh thoảng ăn chay. Như hồi còn nhỏ, tôi lại được hóng nghe câu chuyện đạo lý giữa bác và cha tôi trong lúc tôi lúi húi vẽ vời mạch điện hay chữa cái quạt được bác Liên mời một điếu thuốc lá cuốn Lạng sơn với câu khen "anh này được" và nếu thích thì tôi ngồi ghé một bên ghế nghe chuyện. Câu chuyện thường xoay quanh nỗi thống khổ của nhân gian. Có lần cha tôi hỏi :
- Đức Phật có từ hai ngàn năm trăm năm nay, hỏi ngài đã cứu được ai ra khỏi cảnh khổ chưa ?
Bác Liên có giọng nói trong, nhẹ, hơi du dương nhưng vì là con nhà luật nên bác cũng khá hùng biện. Bác đáp ngay :
- Người ta có nhiều hạng, cảnh khổ có nhiều mức. Thuở xưa Đức Phật thương từ con giun bị cắt đứt dưới lưỡi cày, con chim bị mèo ăn, con nai bị hổ vồ. Tôi với cậu đều học khoa học : tôi có "phi lô" cậu có "mát" (1) ta hiểu loài vật phải đau, phải chết để cân bằng sinh thái. Còn loài người, cái loài duy nhất có tinh thần ấy, để cân bằng xã hội người ta rất khổ. Có nhiều loại khổ. Phật giác ngộ được chúng sinh ra khỏi cảnh khổ vì Phật nhìn thấy cái sức mạnh tâm thức tiềm ẩn ở loài người...
Cứ sau ngày rằm, mùng một, bác Liên lại mang đến nhà tôi cho khi thì quả dưa, khi thì cái oản xôi đóng lấy, gọi là lộc Phật. Bàn thờ nhà bác : hoa hái ở trong các chậu bác trồng trên mảnh sân thượng, quả mua ngoài chợ. Sau này đồ lễ có rôm rả hơn bởi mấy bà cụ trong phố thấy bàn thờ nhà bác thanh
tịnh hay đến lễ cho gần. Đặc biệt có một bà sang trọng lắm, đi xe con, mỗi năm cứ vào tháng tư dương lịch lại đến cùng đứa cháu nội đưa lễ một bó hoa loa kèn to.
Có đôi lần tôi được gặp bà. Phải công nhận bà đẹp dù đã ở tuổi ngoài năm mươi. Trông bà không có dáng của một tín đồ đạo Phật chút nào, mỗi lần đến nhà bác Liên, bà dắt đứa cháu đi nhanh qua cửa như không muốn để ai chú ý. Thông thường hai bà cháu chỉ lưu lại nghe kinh khoảng ba mươi phút rồi về.
Sầm uất được vài năm, các phật tử cúng lễ ở bàn thờ nhà bác Liên rút lui dần. Thì ra có một biến chuyển quan trọng trong "đạo" của bác. Bác Liên kể lại với cha tôi rằng trong giấc ngủ bác mơ thấy Đức Phật. Không phải Đức Thích Ca Mâu Ni, cũng không phải Phật Bà Quan Âm hay Di Lạc, Kim Cương gì. Hình dáng Đức Phật trong giấc mơ giống hệt một hình người sắp xếp ngẫu nhiên trên bức tường loang lổ vôi vữa rêu phong ở góc sân thượng nơi bác hay ngồi đọc sách và suy ngẫm. Sẵn khả năng hội họa, bác chụp ảnh bức tường rồi vẽ lại, rồi lấy một hòn đá đục đục đẽo đẽo lấy thành pho tượng Phật. Pho tượng này bác thay vào ngôi tam thế trên bàn thờ. Xung quanh tường bác treo khung kính tranh các Đức Phật riêng của bác. Tôi cũng đã được nhìn thấy pho tượng ấy. Thú thực cũng khá đẹp mặc dù không ra hình thù gì. Bác Liên nói rằng "Phật ở trong tâm mình, hình hài chỉ là cái vỏ để làm đối tượng cho tín ngưỡng". Cha tôi lại hỏi :
-Như vậy anh đã từ bỏ đạo của Đức Thích Ca Mâu Ni. Tại sao anh còn tụng kinh Phật ?
Một nét sáng tươi ngời trên gương mặt bác :
- Tôi tụng kinh cho toàn thể nhân dân. Hàng ngày tôi còn cầu nguyện riêng cho cậu nữa. Chúng sinh ai cũng có thể thành Phật, đấy là ý niệm của Thích Ca. Trong cõi thế, mỗi người đều có thể tìm thấy hình ảnh Đức Phật riêng của mình để hướng tới. Đối với tôi, từng chữ Phạn trong kinh sách không có ý nghĩa nhưng lúc ngồi tụng kinh, chúng giống như những cọc tiêu hướng dẫn trên con đường thiên lý, tôi cứ nương vào đó để chuyển động tinh thần tôi. Bây giờ, tôi có Đức Phật riêng của tôi rồi, tôi ngồi thiền định nhìn sự vật đã thấy trong ra, trong suốt từ ngoài vũ trụ đến cõi lòng tôi, cậu ạ.
Mấy năm cuối đời bác Liên yếu hơn, cha tôi phải đến thăm bác. Rằm, mùng một nhà tôi vẫn có lộc oản do cha tôi mang về, nhưng lại oản cơm bác đóng lấy bằng cơm tẻ thổi nát. Hồi đầu năm người chị gái bác qua đời. "Tín đồ" chỉ còn một bà cụ ở thuê tầng dưới kiêm việc mua hộ gạo, dầu cho bác. Còn bà sang trọng phải đến tháng tư mới tới.
Một lần, khi đặt cái oản cơm của bác Liên lên bàn thờ ở nhà mình, mẹ tôi chợt nghĩ ra :
- Ông Liên tiêu bằng gì ? Bây giờ không còn sổ gạo, bìa, tem phiếu, lấy gì mà bán ? Tiền lợi tức nhà cho thuê mười lăm đồng một tháng nhân lên được nghìn rưỡi, chưa đủ mua bát phở - Bà nói với cha tôi - ông xem có cách nào kheo khéo giúp anh Liên khéo anh ấy không có gì ăn ?
Cha tôi ngẫm nghĩ một lát :
- Để rồi tôi liệu xem. Tính anh ấy khái lắm, không muốn phiền ai bao giờ.
Cha tôi dẫn thêm dẫn chứng. Bác Liên có người cháu họ xuất dương vẫn gửi thư về yêu cầu được giúp bác, nhưng chỉ có một lần bác bảo gửi cho bác ba cuốn sách khảo cứu Phật giáo in ở Mỹ, giá bìa mỗi cuốn ba trăm đô la. Trong nhà bác Liên có nhiều đồ quý : sập gụ, sa lông tàu, lọ cổ, bát giang tây...đặc biệt bác có một bức tranh Phật Bà Quan Âm bằng ngọc từ đời Thanh. Từ khi thay tranh Phật, bác hạ bức Phật Bà Quan Âm xuống, dân đồ cổ Hà Nội xô đến hỏi mua nhưng bác không bán thứ nào.
Trước tết âm lịch mấy ngày, cha tôi đèo đến cho bác Liên một yến gạo nếp ngon. Khi về ông kể "Anh ấy gầy lắm, nhưng vẫn nhanh nhẹn, phần lớn thời gian là ngồi thiền. Hôm nay tôi ngồi với anh ấy rất lâu tự dưng anh ấy bảo :
- Tôi tu đã thành chính quả rồi. Tôi đi lúc nào thì đi không báo trước được đâu. Chỉ với riêng cậu tôi báo tin. Sang năm, Đức Phật Di Lạc về. Thế giới bước vào thời kỳ thịnh vượng, an lạc, nhân gian thảy đều sung sướng.
Quý một gần hết, tháng tư sắp sang. Tôi đang cố gắng nhặt nhạnh tiền nong hoàn thiện một cái "toalet" tạm gọi là đời mới cho cha mẹ tôi dùng. Nhà tôi ở trung tâm Hà Nội nhưng tiện nghi cổ lỗ. Trời lạnh, các cụ già ra sân dễ bị cảm đột ngột lắm. Gạch men Trung Quốc đang rẻ. Chậu sứ Trung Quốc vừa túi tiền. Tôi thú vị nhất cái máy đun nước tắm bằng điện của Liên Xô có hai vòi nước nóng lạnh thật tiện lợi. Từ nay không phải một tay xách ấm một tay xách phích quây cái ni lông ra máy nước để tắm nữa. Tôi đang hào hứng đấu điện cho buồng tắm mới thì cha tôi bước vào nói "Bác Liên mất rồi. Đi với bố đến xem thế nào".
Nhà bác Liên ở không xa nhà tôi, khi cha con tôi đến sáu bảy người bạn cũ đã đến rồi. Chính quyền phường đang làm thủ tục kiểm kê và niêm phong tài sản của bác theo đúng luật để chuyển giao cho người thừa kế hợp pháp. Tang lễ bác được địa phương đứng ra lo theo tiêu chuẩn dành cho người cô đơn không nơi nương tựa. Việc khâm liệm bác được gia đình hộ ở tầng dưới lo chu tất. Tôi lặng nhìn : một cụ già nhỏ thó, da trắng, mỏng như giấy nằm tĩnh lặng trong bộ comlê (đoóc mơi) màu ghi sáng. Mái tóc bạc thưa lộ ra phía trên tấm vải điều phủ mặt.
Tất cả những người dự viếng ngồi im lặng xung quanh một cái bàn mộc, vừa uống nước vừa bàn công việc tang lễ ngày mai. Bà cụ ở hộ thuê tầng dưới không khóc nhưng mắt đỏ hoe. Bà cụ kể :
- Các ông các bà đừng tưởng là cụ bị đói, bữa nào tôi cũng thổi cơm bưng lên nhà cho cụ. Gạo của cụ còn đầy hai nồi kia : gạo ngon cụ đóng oản thờ, gạo hẩm cụ xơi. Nhưng mấy hôm nay cụ không ăn, cụ mang cơm lên sân thượng cho đàn chim sẻ. Mấy lần tôi để ý, rón rén trèo lên sân thượng xem. Lạy giời, lạy Phật các ông các bà ạ, giời rét thế mà chim sẻ, chim gì ở đâu nó cứ bay về ràn rạt mỗi con ngậm một hột cơm nơi tay cụ rồi lại bay đi. Tôi cứ cầu được đứng nhìn cụ mãi vì nom cụ đẹp như ông bụt ấy. Sau thấy cụ chỉ phong phanh manh áo lụa, sợ cụ bị cảm lạnh tôi phải thỉnh cụ xuống nhà. Sáng hôm nay trời giở gió, cụ bảo tôi xách cho cụ một xô nước lên sân thượng, tôi không biết cụ định làm gì nên vẫn xách lên. Hóa ra cụ tắm. Lúc tôi nghe tiếng ngã chạy lên, cụ đã hóa rồi. Cụ nằm trên sân ấy, thân hình nguyên vẹn như lúc cha mẹ mới sinh. Không cầm được lòng, tôi chạy xuống nhà mở rương lấy xấp vải trắng tôi vẫn dành dụm cho tôi để quấn quanh hình hài cụ rồi tôi mới đi báo phường.
Nghe chuyện của bà cụ xong mọi người chia tay nhau ai về nhà nấy. Trên đường về đi giữa phố phường nhộn nhịp còi xe, tâm trí tôi cứ bị xúc động mãi về cái chết của bác Liên qua câu chuyện vừa nghe. Như thế, giữa Hà Nội đông đúc ồn ào này có một ngôi nhà, có một góc sân thượng thật thanh khiết. Trong ngôi nhà ấy có một cụ già suốt cả đời sống hiền lương. Trên mảnh sân thượng ấy hàng ngày cụ đứng, ngồi, đọc sách, suy ngẫm, vui vầy với đám chim bé nhỏ và mây trời, cây lá. Không biết có lúc nào bác Liên nhìn xuyên qua thành phố để đến bên cạnh, thật gần với những kiếp người cơ khổ không ? Không biết có lúc nào bác Liên nhìn xuyên qua được khoảng không đầy mây vần vũ kia để đến được tầng trời vô sắc giới, nơi chói lòa ánh sáng vĩnh hằng không ?
Về đến nhà tôi giục cha tôi đi tắm ngay với ý muốn ông là người "cắt băng khánh thành" cho cái công trình "toalét" hiện đại của tôi. Tắm táp xong tôi thấy cha tôi khóc. Mắt người đỏ hoe, ông bảo :
- Tắm nước nóng ở cái Sốpphơbanh của mày thú thật. Còn bác Liên thì chết rét sáng hôm nay.
*
Tôi ngậm ngùi không biết nói sao.
Đêm ấy, gia đình tôi thức khuya, tôi, lúc này là một người đàn ông có tuổi, còn cha tôi đã làm ông nội từ lâu. Tôi nói :
- Con muốn viết ít dòng về bác Liên. Mọi chuyện về bác mấy chục năm qua con đã biết kỹ, riêng còn một khoảng trống : cuộc sống tình cảm, tình ái của bác ở thời tráng niên. Vì sao một người đàn ông, một người thanh niên ăn chơi nhất hạng Hà thành như bác lại không có bóng dáng một người phụ nữ nào trong cuộc đời ?
Đột nhiên cha tôi nổi cáu lên :
- Tao không nói bác ấy là người ăn chơi nhất hạng mà là ăn diện nhất hạng. Mày cứ liệu hồn với những từ ngữ nói ẩu với bố như thế.
Tôi biết lỗi, nín lặng. Mẹ tôi thấy thế thương hại kể :
- Thời trước cách mạng, có cô Lệ Lý học trước mẹ mấy năm ở trường Đồng Khánh nổi tiếng đẹp và ngổ ngáo. Trong khi các cô khác đi học còn phải có anh xe nhà đưa đi, đón về thì cô Lệ Lý dám mặc quần soóc, đi xe đạp đến trường. Bác Liên mê cô này lắm. Bác Liên là con giai cả ông Tuần phủ, khi
ấy đã đỗ cử nhân luật rồi nhưng bác khinh nghề quan lại, không thèm đi thi tri huyện. Còn cô Lệ Lý là con ông Hàn ở gần nhà bà ngoại mình ấy. Nhà ông Hàn có mở xe đòn đám ma. Gia đình ông Tuần có ý chê nhà ông Hàn hạ lưu, giàu sổi, không môn đăng hộ đối. Thế rồi bà Tuần bị bệnh chết đột ngột, câu chuyện đành gác lại ở đấy. Ngày ấy sắp sửa cách mạng, Hà Nội cứ ầm ầm cả lên, rồi cách mạng thành công, rồi kháng chiến, rồi tản cư mỗi người mỗi ngả không biết sau này ra sao ?
Lúc này cha tôi bớt nóng, ông hứa sẽ hỏi thêm mấy người bạn của bác Liên cùng đi tham gia kháng chiến rồi sẽ kể cho tôi.
Nhờ cha tôi giới thiệu, tôi chịu khó đi hỏi han nhiều người chắp lại, được câu chuyện này. Vì câu chuyện kéo dài suốt cả một đời người nên tôi dùng đại từ "ông" và "bà" để chỉ bác Liên và cô Lệ Lý. Như cha mẹ tôi đã kể thoáng qua. Dự định của ông muốn hỏi bà bị gia đình cụ Tuần ngăn trở. Ngày
ấy làm gì có tự do hôn nhân mặc dù anh là người văn minh âu học đến đâu chăng nữa. Ông và bà chỉ biết đưa mắt nhìn nhau mỗi buổi tan học, khi ông đứng đợi bà ở xa xa cổng trường. Suy đi tính lại, cuối cùng ông nhờ một bà bác họ xa ở tận Thành Nam có quen biết cả hai nhà lên Hà Nội đưa ông đến ra mắt nhà gái. Bữa ấy thật rộn ràng. Nhà cụ Hàn đèn nến sáng choang như ngày tết, kẻ ăn người làm đi lại nhộn nhịp. Khi ông đến, nơi này chào, nơi kia chào "Lạy quan cử ạ ! Lạy quan cử ạ !" Tiếng các cụ tấm tắc "Cậu cử con cụ lớn Tuần nom tuấn tú quá !" Chuyện vãn một tuần trà, cụ Hàn nổi cơn thèm "ù chi chi, bát sách" lên, vẫy tay gọi ông :
- Này cậu cử. Mời cậu vào một chân.
Ông đứng dậy, lễ phép :
- Bẩm các cụ, xin mời các cụ, con không biết chơi xin kiếu ạ !
Cụ Hàn cười khà khà.
- Cậu cử há lại chẳng biết câu này sao :
"Làm trai biết đánh tổ tôm
Uống chè mạn bảo, xem nôm Thúy Kiều..."
Cũng may vừa lúc đó cô Lệ Lý bưng khay nước tha thướt đi lên. Cụ Hàn bảo :
- Này cô, cậu cử không thích đánh tổ tôm, cô mời cậu cử vào phòng trong uống nước.
Bữa ấy tháng tư, trong phòng của bà có một bình hoa loa kèn đang nở. Lần đầu tiên ông được ngồi gần bà đến thế.
Mùi vị và hương sắc thấm đẫm trái tim lãng tử của ông. Ông ví bà với cô gái trong họa phẩm "Thiếu nữ bên hoa huệ" của Tô Ngọc Vân. Ông nhấn mạnh hoa ấy không phải hoa huệ mà là một loài hoa gốc châu Âu tên là lis tiếng ta gọi là hoa loa kèn hay hoa huệ Tây. Hoa ấy là hoa biểu trưng của đoàn hướng đạo sinh thể hiện tính ngay thẳng và lòng trong trắng. Bà ngồi yên nghe, e lệ chứ không dạn dĩ như ông tưởng.
Vài tháng sau ông còn được đứng gần bà thêm một lần nữa khi bà cùng đoàn nữ sinh áo dài trắng trường Đồng Khánh lên sân khấu Nhà hát lớn thành phố hát ra mắt ca khúc "Đàn chim Việt" của Văn Cao : "Về đây khi gió mùa thơm ngát ơi cánh chim giang hồ..."
Lần này ông mạnh dạn mời bà đến thăm nhà ông, như bạn bè. Bà ngước mắt lên rồi nhìn xuống :
- Thôi, anh ! Quan Tuần nghiêm lắm. Em sợ.
Việc bà cụ Tuần mất đột ngột làm ông khuỵu xuống. Nỗi buồn riêng cộng với nỗi đau tang chế khiến ông nằng nặc đòi về quê ở để trông nom phần mộ mặc dầu cụ Tuần năn nỉ ông ra ứng thi tri huyện kỳ này : "Anh ra làm quan cho tôi lấy một ngày cũng được". Ông sống hơn một năm ở quê nhà. Đến lúc khởi nghĩa tháng Tám bùng nổ, ông tham gia cách mạng ở làng rồi làm công tác xã hội cho đến ngày Toàn quốc kháng chiến ông không có dịp gặp lại bà nữa. Tây đánh lên, ông đi thẳng vào cuộc trường kỳ kháng chiến với tấm lòng của một người thanh niên trí thức hào hoa, hồn nhiên và ngay thẳng. Ông làm việc kháng chiến nhưng ông vẫn ăn diện, vẫn có người bõ già đi theo hầu như thuở nào. Ông được cử làm thanh tra tuyên truyền một tỉnh miền trung du. - đấy, ông được biết tin bà đi tản cư và đã lấy chồng. Chồng bà là một chỉ huy quân sự xuất sắc vùng chiến khu với dáng vẻ ngang tàng trận mạc : bộ quần áo kaki Mỹ, khẩu súng lục trễ bên hông, vị chỉ huy bộ đội đã nhanh chóng chiếm được cảm tình của cô nữ sinh đẹp lẫy lừng Hà Nội. Làm quen nhanh rồi đám cưới cũng nhanh vì cuộc chiến không trùng trình đợi ai. Sau khi lấy chồng bà thoát ly làm cán bộ phụ vận.
Kháng chiến khói lửa ngút trời nhưng những dịp tình cờ vẫn có. Đoàn công tác phụ nữ của bà đi sang tỉnh ông. Hai người gặp nhau bên một hẻm đồi khi ông đi một mình về cơ quan, vừa đi vừa nghêu ngao:
"Những chàng trai chưa trắng rợ anh hùng
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm..."
Chuyện trò, khai hội suốt cả buổi chiều, họ gặp nhau vào buổi tối. Đêm ấy có trăng, không khí thoáng đãng của vùng tự do xóa tan lễ giáo nghìn xưa. Hai người ngồi bên cạnh nhau dưới một gốc cây cọ, những tán cọ xòe to che chở họ. Bà nghẹn ngào vì đau khổ : một bên là ông hào hoa phong nhã, người bà từng ước mơ ngày xưa, một bên là người chồng anh hùng đang xả thân nơi chiến địa. Ngồi nói chuyện, hai người cứ xích lại gần nhau rồi bà nằm trong tay ông lúc nào không biết. Đến khi hai vạt áo của bà rơi ra, người ông run bắn lên. Ông cảm thấy thân thể bà cũng đang run trong tay ông. Một thoáng qua, ông rùng mình hiểu tất cả. Cặp mắt bà kinh hoàng hệt như cặp mắt của một con nai sắp bị đem đi giết thịt. - đấy có hai giọt lệ rơi ra trong tiếng nấc : "Không, không được đâu anh ơi !" Thêm một phút nặng nề nữa, ông và bà cùng đứng dậy, nhọc nhằn. Xa xa, trên những con đường nhỏ ngoằn ngoèo ven đồi thấp thoáng ánh đuốc của những người đi học bình dân học vụ trở về.
*
Sau ngày kháng chiến thắng lợi, cùng trở về thủ đô bà vẫn biết tin tức ông nhưng bà cố gắng không tìm gặp ông. Chuyện chưa có gì cả, vả lại bụi thời gian đã phủ mờ. Những năm hòa bình mới lập lại có nhiều vấn đề phức tạp lắm. Hơn thế, chồng bà đã được phong tướng bà còn bận bịu với biết bao công việc.
Đến khi nghe một bà bạn nói chuyện ông tu hành theo Phật, bà sửng sốt, thoạt đầu không tin : "Ai đấy chứ, người ấy thì có bao giờ..." Bà suy tính rồi quyết định đến thăm ông. Tình cờ, hôm ấy cũng là một ngày tháng tư. Bà cho cậu lái đỗ xe xa xa phố nhà ông ở. Bà dắt theo đứa cháu nội, tha thẩn vào chợ tìm mua một bó hoa loa kèn thật đẹp, bọc cẩn thận bằng lá rồi mới lên nhà ông "Hai mươi chín năm trời..." bà lẩm bẩm. Khi bước lên cầu thang bà bỗng thấy bối rối như bà không phải là bà bây giờ mà vẫn là cô nữ sinh Lệ Lý ngày nào. Xưa kia bà đã không dám tới nhà ông dù bà rất muốn, nếu bà lên nhà ông hôm ấy, cuộc đời ông chắc khác... chẳng đến nỗi như bây giờ.
- Quý bà vào lễ Phật.
Tiếng nói của ông có già đi nhưng vẫn trong trẻo nhẹ nhàng. Bàn thờ Phật ông bày gọn, không u tịch mà vẫn nghiêm trang. Thoáng chút rùng mình trong khói hương, bà thốt lên lời đáp "Mô Phật" ông vừa châm xong cây đèn ở phía cuối bàn thờ khoan thai bước ra. Ông không mặc áo tu hành, không đeo tràng hạt, không gọt tóc. Ông mặc áo sơ mi vải phin xanh da trời, quần âu kaki Nam Định, đều là thẳng nếp, có đủ măng sét gài ở cổ tay áo. Tóc ông thưa, hói đến nửa đầu, ngả bạc gần hết. Ông đã nhận ra bà, bước chân ông chỉ hơi chững lại một phút rồi ông khoan thai đi tiếp đến bên bàn nước, nhấc chiếc ghế mây :
- Mời bà ngồi xơi nước.
Ông chậm rãi súc ấm, chén pha trà. Bà ngồi lặng đi, cầm chặt tay đứa cháu nội, nhìn ông, nhìn xung quanh nhà ông :
- Ông Liên... anh Liên, anh sống thế này ư ?
Ông đưa chén nước cho bà bằng hai tay. Cái chén sứ rất mỏng, đặt trên cái đĩa chén cũng rất mỏng, nắng quái từ cửa sổ chiếu vào in rõ ngấn nước chè vàng đậm trong lòng chén. Mùi hương trà ướp hoa sen thoang thoảng theo làn hơi trắng cứ vẩn vơ mãi trên cái màu óng ả của nuớc trà loại một. Ông chậm rãi :
- Từ năm một nghìn chín trăm năm mươi bảy, tôi thấy yếu sức, tôi xin nghỉ. Bây giờ thì... ông đưa mắt nhìn xung quanh gian phòng mình : bàn thờ, giá sách, lọ hoa, ngọn đèn... bà thấy đấy, tôi đọc sách, chăm cây cảnh và đi thăm thú bạn bè.
Ông không hỏi thăm gì về đời riêng của bà. Bà cũng biết những nét chính về cuộc sống của ông qua lời bà bạn kể lại. Thời giờ ít, bà muốn đi ngay vào việc cụ thể. Bà hỏi :
- Anh Liên, anh ăn chay có thấy người mệt lắm không ?
- Tôi không ăn chay - Ông đáp ngay - tôi thích những thức ăn thực vật : lạc, vừng, rau tươi, hoa quả, chúng hợp với tạng tôi.
Bà không chịu :
- Em hiểu. Phiếu thực phẩm của anh là phiếu nhân dân loại N, thịt ướp đá, bạc nhạc, nước mắm loại ba. Em sẽ lấy được cho anh sổ hưu trí. Với mức lương của anh, anh sẽ có phiếu cán bộ bìa C. Anh xứng đáng được hưởng như thế.
Ông khoát tay :
- Đừng !
Bà im bặt. Lời đáp của ông nhẹ nhàng nhưng đanh làm tan biến bao dự định bà toan tính làm cho ông mà chắc chắn bà làm được. Ngồi một lát, bà cố vớt vát lần cuối cùng.
- Dù sao anh cũng phải ăn đủ chất để giữ sức khỏe. Em không dám đến thăm anh luôn, sợ phiền anh. Em sẽ cho chú lái xe hàng tháng mang những thực phẩm tốt lại cho anh dùng. Em có sổ cung cấp riêng, anh Liên ạ !
Đôi mắt ông ánh lên một tia giễu cợt :
- Nuôi tăng tức là kính Phật, xin bà cứ tùy tâm. Tôi nguyện hàng ngày cầu Đức Phật phù hộ cho bà.
Bà không giận ông vì câu nói ấy. Bà giữ đúng lời hứa. Ngay tháng sau bà cho người đến biếu ông hai bộ quần áo may bằng lụa Ấn Độ, hàng tháng bà gửi thực phẩm đến cho ông đều đặn còn ông dùng hay cho đi, bà không biết. Phần bà, mỗi năm cứ vào khoảng tháng tư dương lịch bà lại dắt theo đứa cháu nội đến thăm ông. Lúc đến, bà cho xe đỗ ở xa xa nhà ông, bà dắt đứa cháu vào chợ mua một bó hoa loa kèn to mang lên cắm đầy các bình hoa trên bàn thờ Phật. Những năm về sau ông thường ngồi thiền định lâu hơn, hầu như có lúc ông không để ý đến khách vào. Dù ông có tiếp hay không tiếp, lần nào bà cũng ngồi lại nhìn ông khoảng ba mươi phút rồi mới về. Lúc lên xe, lòng bà nặng trĩu...
*
Sáng hôm sau tôi đến đám tang thật sớm vì cha tôi dặn đến sớm xem có việc gì thì giúp. Thật ra tôi không phải làm gì. Hội thọ đứng ra làm thủ tục còn hội Phật giành quyền tổ chức nghi lễ. Đám tang của bác Liên đông lắm, đông nhất là Phật tử, các bà, các cụ thường ngày mỗi người một việc, có bà buôn bán ngoài chợ, làm chủ cửa hiệu, có bà là cán bộ về hưu, có bà làm mướn, làm công... đủ cả. Nhưng hôm nay trông bà nào cũng như nhau : áo dài nâu sồng màu đất, chuỗi tràng hạt đen huyền và gương mặt sùng kính. Tôi biết rằng một chữ Phạn in trong cuốn kinh cầm trên tay kia các bà cũng không biết. Tôi biết rằng một bụng chữ của các kho tàng Phật pháp mà bác Liên đã mang theo kia, các bà không hiểu rõ lấy một phần. Tôi còn biết rằng nhiều năm nay các bà không tới lễ ở bàn thờ nhà bác Liên nữa vì bác đã thay ngôi tam thế bằng pho tượng Đức Phật riêng của bác. Vậy mà những tà áo dài nâu vẫn lặng lẽ trôi đi bên xe tang, trôi đi rất lâu. Tiếng tụng kinh vẫn lan đều từ những bàn tay lần tràng hạt. Cờ phướn bay trên khuôn mặt đoàn người.
Phía dưới cùng đám tang là các cụ cựu sinh viên trường luật : bạn học của bác Liên và của cha tôi. Các bác đều đã trên bảy mươi cả, có bác bảy ba, có bác bảy tám, một thời chưa xa, các bác còn là đàn chiến mã tung hoành trên những lĩnh vực cao, xa nhất của đất nước : ngoại giao, thương mại, pháp luật, giáo dục... Nay, các bác đã về hưu cả. Có bác trông hồng hào nhưng mang bệnh huyết áp, có bác rắn rỏi nhưng bị khối u trong dạ dày, có bác đeo máy điếc. Tôi cũng có hân hạnh được biết gần hết các bác trong một số buổi họp lớp thường được tổ chức luân phiên ở nhà nhau, có mấy lần ở nhà tôi, thú thực, tôi rất mê phong cách tư duy của các bác : mỗi vấn đề, dù nghiêm chỉnh đến đâu đều được các bác nhìn nhận dưới góc độ hài hước và nhân bản. Trong những buổi liên hoan ngọt đơn sơ đó, nghe tiếng cười của các cụ già trí thức thật sảng khoái, vô tư lự, khác hẳn tiếng cười hô hố của bọn phàm phu mà đôi ba lần, do công việc làm ăn, tôi được dự tiếp ở các nhà hàng sang trọng. Giờ đây, các cụ đi bên nhau bình thản để tiễn đưa một người bạn "về" trước. bác Tuấn, bảy mươi sáu tuổi, nhà nghiên cứu Hán Nôm có tiếng, cất giọng bùi ngùi.
- Năm một chín bốn mươi, đỗ tú tài toàn phần trường Bưởi được hai mươi anh, cả nhóm kéo nhau đi chùa Trầm chơi hôm ấy Liên hát bài "Biệt ly" của Doãn Mẫn nghe cảm lắm.
Bác Ngữ, tiến sĩ luật, bảy mươi nhăm tuổi, đi lui lại nói nhỏ với cha tôi :
- "Me sừ" Liên thành Phật thật chứ không phải bỡn. Chúng ta không thể so với "lúy" được, "lúy" trong sáng quá. Khi xưa, biết "toa" bị nạn "moa" không dám đến thăm vì sợ liên lụy. Lúc bấy giờ ai cũng sợ. Cánh ta chỉ là lũ chúng sinh muôn đời lẩn quẩn trong kiếp luân hồi, không bao giờ lên được cõi Niết bàn là phải.
Cha tôi chưa kịp trả lời thì bác Cơ đã kéo lại rủ bàn về cuộc họp lớp sắp tới.
Cuộc đi đưa tiễn người quá cố đã dài, đoàn người và xe tang dừng lại. Bà cụ ở tầng dưới nhà bác Liên đi mời trầu cau cho khách đàn bà và mời thuốc lá cho đàn ông. Hôm nay trông bà cụ khác hẳn : đôi môi cụ quết trầu đỏ tươi, tà áo dài nâu vải mới sột soạt, chuỗi tràng hạt lủng lẳng nơi bụng. Gặp khách hỏi thăm nói phải tiếng "chết" bao giờ cụ cũng nhắc nhở :
- Ấy bác đừng nói thế, phải tội, cụ hóa đấy. Các bác đừng tưởng tôi để cụ đói nhé. Hàng ngày tôi thổi hai bữa cơm dâng lên, cụ truyền mang lên sân thượng cho đàn chim sẻ. Cụ muốn thanh tịnh. Hôm qua trời trở gió, cụ bảo tôi mang nước lên sân thượng cho cụ tắm. Lúc cụ hóa tôi nghe thấy có tiếng đàn, tiếng sáo trên trời...
Bà cụ ngước lên trời. Tôi cũng ngẩng đầu nhìn theo tay bà cụ chỉ, đau đây như nghe tiếng vỗ cánh của hàng vạn, hàng vạn đàn chim sẻ. Tôi không biết tôi đã đủ đức tin chưa nhưng tôi thấy lúc này lòng tôi trong trẻo lạ, cái thiện tràn ngập tâm hồn tôi. Còn gì nữa... Những toan tính đời thường hôm qua đối với tôi là vô cùng quan trọng thì hôm nay trở nên nhỏ bé và chìm đi đâu hết cả. Còn gì nữa...? Bất giác, như bị ám thị tôi nhìn về phía sau : một chiếc xe Nhật đời mới màu ghi, kính thẫm đi từ từ và dừng lại ở phía cuối đoàn người đi bộ đưa tang. Cửa xe mở, một bà cụ trông hồng hào phúc hậu nặng nhọc bước ra. Chính là bà, bà sang trọng, tháng tư, hoa loa kèn, bà Lệ Lý. "Sao đến bây giờ bà mới tới ?"
Tôi muốn kêu to lên nhưng cổ nghẹn cứng không thốt nên lời.
Bà cụ nặng nhọc bước ra, phải vịn vào vai một cậu trai chừng mười chín tuổi, chậm chạp từng bước tới gần xe chuyển cữu. Một tay đỡ bà, một tay chàng trai xách cái làn to, bên trong làn đầy những hoa loa kèn còn ương nụ, những nụ hoa nhòn nhọn, màu phớt xanh...
Nguyễn Hoàng Huy