Truyện 1 - 8
Chương 9......Chuẩn Bị Chương 10 .....Những Trở Ngại....1....2 Chương 11.....Một Người Bạn....1....2 Chương 12.....Vài Mẫu Chuyện....1.....2 Chương 13.......Một Tai Nạn.....1....2..... Chương 14 .......Phơi Lúa 15 - Vài Tin Tức Mới ...1...2..... 16 - Việc Bình Điểm....1....2....3 17 -Một Chuyến Đi Củi .....1.....2...3.. 18- Những Cố Gắng.....1....2....3 19 - Cuộc Thi Cấy Lúa.....1....2
CHƯƠNG 19: MỘT CUỘC THI CẤY LÚA -- 1
Chiều đó ông Phước đã thông báo cho mọi người biết trong cuộc họp đúc kết công việc hôm ấy sẽ có một việc quan trọng cần bàn. Theo cách sinh hoạt quen thuộc của tập đoàn 9, bất cứ cuộc họp nào đã được thông báo nhấn mạnh như vậy ít ai dám không dự vì sợ bị phê bình. Tất nhiên, cuộc họp đã diễn ra với số người tham dự đông hơn thường lệ.
Tới mục bình điểm, ông Nhiêu vẫn là người đưa ra nhận xét của ông trước tiên:
- Thưa tất cả bà con, theo tôi nhận xét thì hôm nay công việc cũng chẳng khác mọi ngày. Về công điểm, tôi thấy cũng chẳng có gì để thay đổi!
Mọi người chưa kịp vỗ tay như thường lệ anh Sự đã chận lại:
- Khoan, tôi nghĩ có thể có một ít thay đổi. Thưa bà con, theo lệ từ trước, chúng ta có nhiệm vụ phải khuyến khích những người làm việc tiến bộ để làm gương cho kẻ khác. Trong thời gian nhổ mạ vừa qua tôi nhận thấy chị Diệu Ngọc đã tỏ ra rất xuất sắc, tôi nghĩ việc này tốt thì việc khác cũng có thể tốt. Xin bà con cho biết trong việc cấy lúa chị ấy đã làm việc như thế nào?
Bà Dục nghe hỏi liền đứng dậy phát biểu ngay:
- Thưa tập đoàn, bà Diệu Ngọc quả thật rất xuất sắc trong việc nhổ mạ. Nhưng bà ấy đã được cho ăn điểm cao hạng nhất, đó cũng là sự khuyến khích rồi! Còn việc đi cấy, tôi thấy bà ấy vẫn bình thường, không tiến bộ bao nhiêu.
Ông Nhiêu tiếp lời:
-Là người thường theo dõi việc làm của các đoàn viên, tôi cũng có nhận xét giống như chị Dục, nghĩa là việc cấy lúa của cô Diệu Ngọc có thể có tiến bộ nhưng không đáng kể. Tôi nghĩ cô Diệu Ngọc cần cố gắng thêm nữa trong việc ấy, bao giờ thấy cô tiến bộ tập đoàn sẽ đề nghị tăng công điểm cho cô.
Ông Nhiêu nói xong thì ông Phước hỏi:
- Bà con còn ai có nhận xét nào khác không?
Quá bất ngờ trước cách làm việc của tập đoàn, tôi cảm thấy mình quê hết sức. Tôi rất lo sợ những người cùng cánh với bà Dục sẽ đưa ra thêm những nhận xét tán trợ bà ta làm tôi quê thêm. Nhưng may không có ai đưa tay phát biểu nữa. Anh Sự lại lên tiếng:
- Nếu không còn ai có ý kiến nữa, xin chị Diệu Ngọc cho biết ý kiến!
Anh Sự cố ý giúp tôi hay định đem tôi ra làm trò hề? Lâu nay khi đi cấy người ta thường cắt tôi cấy chung với mấy người bạn mà người ta cho là vụng về chuyên cấy những miếng ruộng chẹo hoặc những khoảnh ruộng cấy hôm trước còn thừa lại. Những mảnh ruộng thừa ấy trông qua tưởng chẳng bao nhiêu nhưng kỳ thật có khi lại rộng hơn người ta ước đoán nhiều. Điểm công thì cứ áp đặt trước. Tôi biết rõ những thiệt thòi đó nhưng vì muốn yên thân nên tôi vẫn cúi đầu làm việc. Thỉnh thoảng tôi mới được đứng cấy chung với những người được coi là cấy giỏi. Những lúc ấy tôi đã ngầm nhận xét, so sánh. Tôi biết chắc những người tiêu biểu ấy cấy cũng chẳng hơn tôi bao nhiêu! Bây giờ nghe bà Dục cũng như ông Nhiêu đều phát biểu những lời cố tình dìm tôi, thấy không thể nhịn được nữa, tôi bèn nói toạc ra:
- Thưa bà con, tôi đã cố gắng hết mình rồi làm sao cố gắng thêm nữa? Dĩ nhiên, tôi tự thấy mình làm việc tiến bộ lắm chứ. Sở dĩ các người không thấy tôi tiến bộ vì các người cứ bắt tôi cấy những miếng ruộng còn sót lại, chỗ này một khoảnh, chỗ kia vài ba lối làm sao các người ước tính cho chính xác? Xin tập đoàn cử những người mà tập đoàn cho là cấy giỏi ấy đi cấy những mảnh ruộng thừa đó một vài lần thử xem sao?
Nhiều người thấy tôi phản ứng mạnh thì ngạc nhiên lắm. Chờ tôi nói xong anh Sự tiếp lời:
Như vậy là chị Diệu Ngọc không đồng ý với số điểm khi đi cấy mà tập đoàn đã bình cho chị phải không? Tôi nghĩ dưới thời đại dân chủ này, việc gì chúng ta có thể làm sáng tỏ được nên làm ngay. Tôi đề nghị tập đoàn tổ chức một cuộc cấy thi để phân định cao thấp giữa các thợ cấy. Nếu quả thật chị Diệu Ngọc cấy không thua sút những người cấy giỏi tập đoàn sẽ nâng công điểm của chị lên. Có thể không phải chỉ có một mình chị Diệu Ngọc ấm ức mà còn nhiều người khác cũng ấm ức như vậy. Tôi đề nghị những ai cảm thấy mình bị bình điểm bất công cứ tham dự cuộc thi này. Dĩ nhiên là phải thi với những người cấy giỏi. Bà con đồng ý không?
2
Nhiều người hô đồng ý và vỗ tay bôm bốp. Mới nghe nói đến chuyện thi cấy tôi cũng hơi nhợn nhưng thấy nhiều người ủng hộ đề nghị ấy tôi lại vững tâm.
Ông Nhiêu liền đứng lên phát biểu:
- Thưa bà con, tôi thấy tổ chức một cuộc thi cấy lúa không phải dễ dàng gì! Nào lựa người chấm thi, ít lắm cũng phải ba người, nào những đoàn viên khác ham theo dõi sẽ mất công bỏ việc... Chỉ vì muốn vừa ý một cá nhân mà phải làm mất nhiều công sức của tập đoàn thì thật không nên. Lúc này tập đoàn đâu có rảnh rang để làm những chuyện tào lao đó? Tôi khuyên cô Ngọc nên tin tưởng vào sự sáng suốt của ban tự quản. Nếu thấy cô làm được việc tự nhiên người ta sẽ nâng điểm cô lên chứ đâu cần đòi hỏi vu vơ như vậy?
Anh Sự nói:
- Ý kiến của của bác Nhiêu cũng có lý. Nhưng tôi nghĩ cuộc thi có thể không làm mất bao nhiêu thì giờ đâu! Lại tạo thêm nguồn hào hứng cho các xã viên làm việc nữa! Bây giờ tôi hỏi, có bao nhiêu người muốn thi để biết rõ năng lực của mình, để được nâng công điểm?
Tưởng như lúc anh Sự mới đưa ra đề nghị thi cấy, tôi nghĩ chắc vì quyền lợi, sẽ có rất nhiều người dự thi. Nào ngờ nghe hỏi xong nhìn lại chỉ có một mình tôi đưa tay! Tôi cảm thấy quê quá! Có lẽ những người khác nghe phải thi với mấy tay cấy nhà nghề thì mất hết tinh thần nên rút lui. Ông Nhiêu thấy tôi có vẻ lúng túng bèn nói:
- Cô Ngọc đã tự cho mình là cấy lúa không kém ai, vậy tôi đề nghị chị Dục và chị Nghĩa cấy thi với cô xem mèo nào cắn mỉu nào? Bà con có đồng ý không?
Mọi người lại vỗ tay vang lên. Rõ ràng là ông Nhiêu cố ý uy hiếp tinh thần tôi. Ông muốn tôi phải cấy thi với hai người cấy giỏi nổi tiếng! Mặt khác ông lại gán cho tôi câu "tự cho mình là cấy lúa không kém ai" để khích hai bà kia thêm tự ái, họ sẽ cố sức để hạ tôi. Tôi cũng thấy mất tinh thần thật. Nhưng đã lỡ phóng lao phải theo lao chứ biết làm sao? Thấy tôi nhận lời cấy thi, nhiều người trong tập đoàn đã hết lời động viên tôi. Nhất là chị Lâm và chị Hiền cứ quả quyết rằng tôi sẽ thắng. Khi đã về tới nhà chị Lâm còn nói:
- Cô Ngọc đừng sợ! Tôi tin chắc cô sẽ thắng! Tôi hay cấy gần cô tôi biết mà!
Những lời động viên ấy đã khiến tôi càng tự tin.
Sáng hôm sau, vừa ra ruộng đã thấy ông Phước, ông Nhiêu và anh Sự cắm nọc giăng dây sẵn sáu lối cấy trên một thửa ruộng. Những bó mạ cũng đã được rải ra sẵn trên các lối cấy đó. Những thợ cấy khác đều đứng quanh đấy để xem. Khi ba thí sinh đã bước xuống ruộng trong tư thế sẵn sàng, ông Phước tuyên bố:
- Ba bà nghe cho rõ đây. Chúng tôi đã phân sẵn một lối cấy sáu hàng lúa. Mỗi người sẽ cấy hai lối. Các bà phải gắng đạt các tiêu chuẩn sau đây: cấy nhanh, cấy thẳng hàng ngang cũng như hàng dọc, cây lúa phải được bám chặt vào bùn, không bị nổi lên khi nước xao động mạnh. Chuẩn bị sẵn sàng: Bắt đầu!
Thế là ba người chúng tôi ra sức trổ tài trước sự chứng kiến của mọi người. Kết quả bất ngờ là tôi và bà Nghĩa đã về đích cùng lúc, bà Dục chậm hơn ba hàng lúa chiều ngang, tức 18 bụi lúa. Sau khi quan sát khá kỹ sáu luống cấy ông Nhiêu, ông Phước và anh Sự tụ lại bàn bạc với nhau một hồi. Cuối cùng ông Phước tuyên bố:
- Sau khi nhận xét kỹ, chúng tôi xin đưa ra kết luận như sau: Về mặt cấy nhanh, bà Nghĩa và bà Ngọc đã về đích trước một lượt, bà Dục chậm hơn một chút. Nhưng về mặt kỹ thuật chúng tôi thấy các luống cấy của bà Dục lại thẳng, đều đặn hơn các luống cấy của bà Nghĩa và bà Ngọc. Lấy ưu và khuyết bù đắp nhau, ban giám khảo đã nhất trí chấm ba người được điểm ngang nhau! Xin bà con biểu dương ba thí sinh một tràng pháo tay!
Tiếng vỗ tay lại vang lên một loạt. Thế rồi mọi người ai trở lại công việc nấy.
Khi nghỉ giải lao, nhiều người đã xúm lại vui vẻ chúc mừng tôi. Tôi hỏi chị Lâm:
- Tại sao chị Lâm và chị Hiền lại dám tin chắc em cấy không thua các bà ấy?
Chị Lâm lắc đầu cười:
- Tin gì nổi mà tin! Thật sự tôi và cô Hiền sợ cô mất tinh thần nên cứ nói đại như vậy để khích lệ cô thôi! Không ngờ cô lại cấy kịp họ thật! Huề như vậy cũng là thắng lợi lớn cho cô rồi!
Ông Phước gặp tôi cũng kể công:
- Cô Ngọc thấy tôi bày cho ông Sự cái mẹo hay không? Tôi chỉ muốn giúp ngầm cô Ngọc nên cứ để ông Sự làm sao thì làm. Chắc cô hiểu ý tôi chứ!
Dĩ nhiên tôi hiểu. Hiểu cả trong bụng ông muốn gì nữa. Tôi trả lời:
- Cám ơn ông trưởng, thế từ nay tôi có được nâng công điểm lên không?
- Tôi sẽ lo giúp cô điều đó!
Kể từ ngày ấy tập đoàn thường bình công điểm của tôi ngang ngửa với hạng lao động tốt như chị Lâm, bà Huy... Ông Nhiêu cũng như những bà kia có lẽ không vui lắm nhưng kết quả hiển nhiên như vậy họ làm gì được? Dần dần những người trước kia hay chê bai, mai mỉa tôi cũng đổi thái độ cởi mở với tôi hơn. Chính ông Nhiêu cũng quên dần việc khuyến khích tôi đi vùng kinh tế mới như trước.
Nói chung, lúc này làm việc với tập đoàn tôi đã thấy có phần nào dễ chịu...
Thấm thoát mùa cấy đã qua, tập đoàn bắt đầu việc chăm nước, bón phân, làm cỏ. Chẳng bao lâu sau xã Thiện Trường đã có một cánh đồng lúa mênh mông xanh rờn trông rất ngon mắt. Nông dân ai nấy đều phấn khởi đợi lúa trổ đòng...
Ngô Viết Trọng
June 23 - 2025
***
CHƯƠNG 18: NHỮNG CỐ GẮNG ĐỂ TÌM MỘT LỐI THOÁT
1
Khi chúng tôi rời khỏi nhà anh Hoành mặt trời đã hạ thấp. Chị Hiền nói:
- Lo việc người cho bưa giờ tới việc mình mới búi!
Chị Lâm cười:
- Nhưng cũng tốt thôi, mình làm việc nghĩa mà!
Chị Hiền lại nói:
- Bây giờ nghĩ tới việc gánh rơm nản lắm. Hay để liều đó ngày mai gánh?
Chị Lâm nói:
- Gắng mà còng về cho rồi! Mai đi cấy rảnh đâu mà gánh? Người ta ăn cắp hết mình lấy chi để dùng? Nhưng tùy mấy cô. Tôi thì nhất định đi gánh ngay tối nay!
Về nhà thấy cơm đã dọn sẵn, tôi định rửa lại tay để ăn thêm vài miếng trước khi đi nhận rơm. Vừa lúc ấy thằng Tí thằng Sửu cũng dắt tay nhau chạy vào. Cao hứng sao đó chúng hớn hở đồng loạt lớn giọng đọc: "Bác Sáu nuôi được bốn con heo. Một lần bọn ngụy đi lùng bắt mất hai con. Lần kế chúng lại cướp mất một con nữa. Hỏi bác Sáu còn mấy con heo?" Nghe bài toán đố kỳ cục đó tôi đã sùng gan lên. Không ngờ thằng Sửu lại sấn đến gần tôi hỏi:
- Bọn ngụy là nước nào mà gian ác dữ vậy mẹ?
Không dằn nổi cơn giận, tôi tát nó một bạt tai:
- Ngụy là thằng cha mày đó chứ ai!
Thằng Tí thấy em nó bị đánh hoảng sợ lủi mất. Thằng Sửu hai tay ôm má rồi nhổ ra một ngụm máu lẫn một cái răng. Một con gà nhỏ đang ăn quanh quẩn đó liền tha cái răng rụng ấy chạy biến. Sửu mếu máo:
- Bài toán thầy giáo ra như thế sao mẹ đánh con?
- Mày không lo đi súc miệng còn đợi ăn đòn thêm à?
Nạt nộ thằng Sửu xong tôi bỏ đi rửa ráy. Sau đó tôi gọi nó lại banh miệng ra coi. Nhưng tôi lại ngạc nhiên thấy thằng nhỏ lắc đầu nhoẻn miệng cười:
- Cái răng ấy đã chuyển rụng mấy ngày rồi, bây giờ mẹ đánh nên nó rụng luôn!
Tôi nghe nó nói cũng không khỏi tức cười:
- Vậy thì kêu mấy đứa vào ăn cơm kẻo bà nội chờ!
Bọn nhỏ nghe tôi nói không chờ kêu đã xúm lại quanh mâm cơm rồi. Nhưng nhìn quanh không thấy bà nội đâu cả, tôi hỏi:
- Sao tụi bây không mời bà nội ăn luôn?
Thằng Tí nói:
- Bà nội đi nằm rồi!
Mấy khi bà nội đi nằm sớm thế? Tôi đoán ra ngay bà nội đã giận vì việc tôi đánh thằng Sửu. Bình thường bà rất cưng chiều lũ nhỏ. Tôi lật đật vào giường của bà nội nói:
- Dậy ăn cơm mẹ à!
- Bây cứ ăn đi, tao đau bụng không ăn được!
Tôi giải thích thằng Sửu chỉ bị rụng cái răng sắp rụng nhưng bà nội không nghe. Bà nói với vẻ giận hờn:
- Cha nó đã bị tật nguyền lại còn lâm cảnh tù tội! Nó chỉ còn bộ xương chứ được chi mà con còn hành hạ?
Nghe bà nội nói tôi nghẹn họng luôn. Há lẽ tôi lại không thương con tôi? Cả bà nội cũng không hiểu tôi nữa! Tôi cũng đang khổ hết mức chứ sung sướng gì! Bây giờ lại còn cả khối rơm đang đợi tôi gánh về! Thôi, ai trộm c(a)́p chi mặc họ! Vừa mệt vừa tủi thân, tôi cũng bỏ lên giường nằm. Ba đứa nhỏ gọi tôi không được bèn tự ăn uống với nhau.
Tôi cứ nằm trằn trọc, nước mắt tôi cứ tuôn ràn rụa. Chốc chốc tôi lại nghe tiếng thở dài của bà nội. Chắc hẳn bà nội cũng đang trằn trọc. Đã hai đêm mất ngủ, thế mà nằm gần hai tiếng tôi vẫn không sao chợp mắt được. Sau một hồi suy nghĩ, tôi nhận ra sự giận lẩy chỉ gây thiệt hại cho chính mình thôi. Phần rơm của tôi phó cho trời như vậy làm sao khỏi thất thoát? Ngày mai tôi lại phải đi cấy còn thì giờ đâu để chuyển? Nhà nào cũng cần rơm để đun nấu, để lót chuồng súc vật, cứ hở ra là có người sớt ngay! Nghĩ thế nên tôi lại gắng vùng dậy ăn mấy miếng rồi lo đi chuyển rơm về.
Bình thường mỗi lần chia rơm, thiên hạ nhà nào cũng cha con, vợ chồng, người gánh kẻ đội xôn xao, không bao lâu là xong cả. Còn tôi, vòng lui vòng tới cũng một mình. Bó, gánh gì cũng tôi, canh giữ cũng tôi! Lần này lại càng thê thảm hơn. Khi đèn đuốc thiên hạ đã tắt ngấm hết, tôi vẫn một mình vừa làm vừa khóc! Những giờ phút ấy phải nói tôi đã làm việc bằng ba bằng bốn, vượt hẳn cả cái khẩu hiệu "một người làm việc bằng hai" mà nhà nước cổ động. Tới khi chuyển hết phần rơm của mình về nhà, tay chân tôi tưởng như đã rụng khỏi thân xác. Thế là tôi lại ăn sơ vài miếng rồi sà xuống giường làm một giấc.
Hôm sau, khi nghe kẻng thúc, bà nội phải lay gọi nhiều lần tôi mới dậy nổi. Tay chân tôi vẫn còn rã rời. Tôi định nói vài lời nhưng bà nội đã lên tiếng trước:
- Hồi hôm mẹ có lỗi với con, chỉ vì mẹ thương lũ cháu quá, con bỏ qua cho mẹ!
Tôi tức cười trả lời:
- Há lẽ con lại không thương chúng? Cũng tại cái bài toán kỳ cục làm con nổi giận, rủi gặp lúc nó xơn xơn lại gần con mới xảy ra chuyện đấy chứ!
Bà nội cũng phì cười:
- Thầy cho bài răng nó đọc lại rứa chứ nó biết chi!
Thế rồi mẹ con lại xuề xòa với nhau. Bà nội lại giúp tôi bới cơm nước để đi cấy.
2
Đêm ấy tập đoàn 9 lại họp để đúc kết thành quả toàn vụ và hoạch định phương hướng làm việc cho thời gian tới. Dù người tôi vẫn chưa lại sức, nhưng một cuộc họp quan trọng như thế muốn tránh cũng không được. Lơ mơ không chừng bị gán cho cái tội có tư tưởng bất mãn lại thêm r(a)́c rối. Thế là tôi cố g(a)́ng đi họp. Đến chỗ họp, việc đầu tiên là lựa một vị trí thuận lợi để ngồi. Lợi dụng một cái cột nhà và cái lưng to lớn của chị Vàng che chắn tầm mắt của ban tự quản, tôi úp mặt trên đầu gối ngủ một giấc. Tới khi có người nắm vai lắc lắc tôi mới giật mình tỉnh dậy. Chị Vàng nhìn tôi cười:
- Làm một giấc đã dữ hả! Dậy mà về chứ còn muốn ngủ thêm nữa à?
Cô Ánh cũng đùa:
- Xã sắp tổ chức buổi tiệc mừng trúng mùa lần thứ hai cho toàn bộ hợp tác xã chị Ngọc nghe chưa? Vài bữa đi dự nhớ mang theo bát đũa, ai quên mang bát đũa phải ráng ăn bốc đó!
Chị Vàng nghe vậy liền cười:
- Con nhỏ mày ăn ong vò vẽ chưa đã sao bây giờ lại muốn ra thăm ủy ban xã nữa?
Chị Lâm cũng cười:
- Thấy người ta tiệc tùng liên miên nó thèm, cho nó nói mơ một chút cho đỡ ghiền!
Ra khỏi phòng họp mấy bước Ánh nói với tôi:
- Chị Ngọc vậy mà hên, em bây giờ chẳng biết tính làm sao đây?
Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
- Ánh nói chị hên cái gì?
- Thì chị đào cái cầu tiêu trong vườn đó!
Tôi lại càng không hiểu, hỏi lại:
- Đào cái cầu tiêu trong vườn thì có gì mà gọi là hên?
- Trời đất! Chị thật tình không nghe gì hết sao? Xã ra lệnh từ nay hằng năm mỗi xã viên phải nộp cho hợp tác xã 3 tạ phân bắc và 3 tạ phân chuồng. Ngoài ra, những khi rảnh việc, tập đoàn sẽ điều động đoàn viên đi cắt cây cắt cỏ làm phân xanh. Chị có sẵn cái cầu tiêu trong vườn là khỏi lo nguồn phân bắc rồi, không phải là hên à?
Tôi giật mình:
- Trời ơi, tôi ngủ cả buổi có nghe gì đâu! Hằng năm mỗi xã viên phải nộp cho hợp tác xã cái gì Ánh lập lại cho tôi nghe một lần nữa được không?
-Người ta họp bàn sôi nổi vậy mà chị ngủ được cũng hay thật! Này nhé, từ nay hằng năm mỗi xã viên phải nộp cho hợp tác xã 3 tạ phân bắc và 3 tạ phân chuồng. Ngoài ra, khi nông vụ rảnh rỗi tập đoàn sẽ điều mình đi cắt cây cắt lá để làm phân xanh, rõ chưa?
- Chết tôi rồi! Chuyện phân tro xưa nay tôi nào có biết gì! Ánh nói phân bắc, phân chuồng và phân gì nữa?
Cô Ánh cười nửa miệng:
- Em đã tệ mà chị còn tệ hơn em! Cái mà mình phải nộp cho hợp tác xã là phân bắc, phân chuồng! Phân bắc là phân người, phân chuồng là phân lấy từ chuồng trâu, chuồng bò, chuồng heo. Còn phân xanh ở xứ mình còn gọi là bổi, tức là phân lá cây. Sắp tới đây các tập đoàn sẽ đào nhiều hố lớn để ủ phân xanh và chứa phân bắc đấy. Về phân xanh em không lo mấy vì chẳng dơ bẩn gì. Còn hai thứ kia em ớn quá, nhất là phân bắc! Em nói chị hên vì dù sao chị cũng có sẵn một số phân bắc rồi, còn em giờ mới bắt đầu kiếm, nhưng chưa biết kiếm bằng cách nào đây?
Khi Ánh đang nói chuyện tôi nghe mấy người đi đằng sau cũng đang bàn chuyện phân tro. Ánh đi chậm lại để nghe. Lát sau Ánh bước nhanh lại gần tôi và nói:
- Em nghe bà Dục bà Huy bà Nghĩa bàn nhau ngày mai lên cồn mồ để hốt phân bắc đấy. Có thể em cũng phải bắt chước mấy bà ấy đi hốt chứ kiếm đâu ra!
Một người đi gần đó nói vào:
- Hốt như vậy bao giờ mới đủ ba tạ?
Một người khác:
- Đâu phải chỉ nộp rặt phân bắc? Nói là phân bắc nhưng cũng độn rơm độn rạ hoặc cỏ lá vào chứ! Cả tro bếp nữa! Có người còn xúc cả bùn đổ thêm vào nữa đó.
-Ừ, có thế chứ. Nếu tính ròng phân b(a)́c thì bao giờ mới được một tạ?
Vì không theo dõi được lúc tập đoàn truyền lệnh nên tôi lại hỏi:
- Nếu như mình không nộp đủ số phân xã ấn định thì sao?
Cô Ánh trả lời:
- Ai không nộp đủ thì phạt trừ vào phần lúa của họ. Ông Phước nói rõ như vậy rồi. Chị có cái cầu tiêu trong vườn rồi cũng đỡ, tụi em giờ cũng phải làm cầu tiêu trong vườn để giữ nguồn phân bắc thôi!
3
Chị Lâm cũng nói chen vào:
- Khi nãy tôi cũng nghe có mấy ông rủ nhau thuê xe cải tiến và dùng thùng phuy lên An Tân xin xúc phân ở các cầu tiêu chở về nộp đó! Trên đó thuộc thành phố người ta không biết dùng phân bắc làm gì cả. Nhưng việc đó gớm ghiếc quá mình làm không nổi đâu. Tôi định lợi dụng thời gian nào rảnh rỗi đi buôn năm ba ngày có khi kiếm được chút tiền lời mua mà nộp hay hơn! Ai muốn đi buôn với tôi không?
Thời gian này, mặc dù chính quyền rất hạn chế sự buôn bán của tư nhân, nhưng ở xã tôi vẫn có một số người bám riết nghề buôn. Đó là những người từng buôn bán có sừng có sỏ từ thời miền Nam chưa sụp đổ. Tất nhiên họ có đủ bản lãnh để ứng phó với những trở ngại. Phần nhiều con buôn vẫn núp bóng ở những hộ đang tham gia làm việc trong hợp tác xã. Như chồng làm việc với tập đoàn, vợ đi buôn hoặc con làm việc với tập đoàn, mẹ đi buôn chẳng hạn. Mỗi khi hợp tác xã hoặc tập đoàn kêu gọi đóng góp về chuyện gì các hộ trong diện này thường hưởng ứng nhậm lẹ hơn các hộ khác nên các viên chức hữu quyền ở địa phương cũng hài lòng. Ngoài ra, còn một số khác buôn bán chắp vá, xen kẽ, như bình thường họ vẫn làm việc trong hợp tác xã, nhưng khi có cơ hội thuận tiện, hoặc được năm ba ngày rảnh rỗi, họ lại nhảy đi buôn. Nhìn chung bên ngoài, tôi thấy những hộ có người đi buôn đều có cuộc sống khá thoải mái. Đã nuôi sẵn ý định rời khỏi tập đoàn, nay nghe chị Lâm rủ khi rảnh đi buôn vài ngày, tôi nghĩ mình cũng nên liều thử lửa một phen. Biết đâu mấy chỉ vàng bà ngoại mới cho lại chẳng giúp tôi đổi đời? Tôi hỏi chị Lâm:
- Mình cần cỡ bao nhiêu vốn chị Lâm?
- Có nhỏ buôn nhỏ, có lớn buôn lớn, chừng nào mà chẳng được!
- Nhưng nghe nói công an bắt bớ dữ lắm phải không chị?
- Tất nhiên, nhưng mình cũng biết cách thu giấu chứ! Nghề dạy nghề thôi cô Ngọc! Có mấy người đã theo nghề buôn mà bỏ cuộc hẳn đâu?
- Vậy bao giờ đi buôn chị kêu em đi với!
- Được, cô cứ chuẩn bị sẵn. Có lẽ phải đợi xong vụ cấy đã! Khi nào đi tôi hú ngay!
Hẹn đi buôn với chị Lâm xong, tôi cứ thấp thỏm chờ đợi ngày thực hiện ý muốn.
Hôm sau tập đoàn điều tôi đi nhổ mạ. Việc nhổ mạ gần như là việc dành riêng cho đàn bà. Đàn ông ít ai muốn làm việc này vì ngồi lâu đau lưng họ chịu không nổi. Đây là lần đầu tiên từ khi làm ruộng tôi vớ được một công việc hợp với khả năng của mình. Nhổ mạ được tính công điểm theo số lượng mạ nhổ được ít hay nhiều nên không ai ngại khi gắng sức. Trong dịp này tôi đã phát huy được cái ưu điểm bẩm sinh: vừa nhuyễn tay, vừa có khả năng ngồi dai. Ngày đầu tiên nhổ mạ tôi đã đạt được số công điểm tối đa trước sự ngạc nhiên của nhiều người. Chỉ mấy ngày sau, tôi đã nổi danh quán quân về việc nhổ mạ, qua mặt hết thảy mọi người.
Thấy tôi làm được việc quá, ban tự quản muốn giữ tôi luôn ở công việc này.
Việc nhổ mạ có cái hay là trẻ con cũng làm được. Nhiều người vẫn hay kéo trẻ con ra đồng giúp sức. Có đứa còn nhổ nhanh hơn cả người lớn. Những đêm trời mát người ta cũng rủ nhau thắp đèn để nhổ. Tôi cũng chẳng bỏ lỡ những cơ hội đó. Hễ gặp ngày thằng Tí nghỉ học là tôi kéo nó đi nhổ phụ. Có lúc tôi dắt luôn cả thằng Sửu theo nữa. Thằng Tí cũng khéo tay, cũng ham thích việc nhổ mạ lắm. Nó khoái nhất là nhổ đua với người này người khác. Nhiều lần nhổ đua với nó tôi cố ý nhổ chậm lại để nó theo kịp - nó mừng lắm. Những lần đốt đèn nhổ đêm nó lại càng khoái. Chỉ tội nghiệp mỗi lần nhổ đêm như vậy, sáng hôm sau nó hỉ mũi thấy nước mũi đen ngòm cả mụi khói đèn. Tuy vậy, thấy con tìm được niềm vui trong công việc tôi cũng đỡ áy náy vì mình đã ép buộc nó. Tôi đã được nhổ mạ liên tục một thời gian khá dài. Với sự giúp sức của thằng Tí, thời gian này tôi đã kiếm được khá nhiều công điểm.
Nhưng rồi những người ganh ghét tôi đã không để tôi yên. "Bà ta nhổ mạ giỏi bà ta ăn điểm cao, người khác nhổ chậm người ta ăn điểm ít. Bộ bà ta nhổ không công cho tập đoàn sao mà dành ưu tiên cho bà ta?". "Sao có người cứ ngồi trên khô mãi, người khác là thứ gì lại phải khom gẫy lưng lội dưới nước?". Ngoài những câu thuần túy ganh tị trên còn có cả những câu hết sức cay độc như: "Nó dùng sắc đẹp chài được con dê già rồi, muốn gì mà chẳng được?". "Nay mai lên được hợp tác xã nó tha hồ mà đì tụi mình!"... Những lời nhỏ nhen ấy đã làm tôi rất khó chịu. Cuối cùng tôi đành xin làm việc luân phiên như mọi người cho yên thân...
Nhờ cái tài nhổ mạ nổi bật trước mọi người, tôi dần lấy lại được lòng tự tin. Từ đó tôi để ý nhận xét kỹ tất cả các công việc khác. Nhìn chung, tôi tự thấy mình làm việc chẳng thua kém ai mấy. Thế mà những ngày đi cấy, tôi dò biết tập đoàn vẫn bình công điểm tôi ở mức thấp nhất làm tôi rất buồn! Thả liều thì bị phê bình chỉ trích phủ đầu, gắng sức thì chỉ khổ thân thêm chứ chẳng được gì hơn! Cứ chịu nỗi uất ức mãi thế này làm sao tôi sống? Thế rồi một hôm tôi liều đến gặp anh Sự và nói:
- Chắc anh thấy rõ tôi làm việc đâu thua gì mấy bà kia. Tại sao trong thời gian tôi đi cấy tập đoàn cứ chấm điểm tôi ở mức thấp nhất? Sao bất công đến thế? Anh làm tập đoàn phó ít nhất anh cũng có chút trách nhiệm trong việc này chứ?
Anh Sự suy nghĩ một lát rồi nói:
- Được rồi. Chị để tôi bàn lại việc này với ông Phước rồi cho chị hay.
Nói xong, anh Sự liền đến gặp ông Phước. Một lát sau anh Sự trở lại nói với tôi:
- Được rồi! Tối nay chị Ngọc hãy đến dự buổi họp bình bầu, tôi sẽ có cách.
- Dạ được, tối nay tôi sẽ đi họp.
Anh Sự nhấn mạnh:
- Chị nhớ chắc chắn phải đi họp tôi mới giúp chị được đấy!
- Dạ, chắc chắn!
June 12 - 2025
****
CHƯƠNG 17: MỘT CHUYẾN ĐI CỦI RỪNG ĐẦY RỦI RO 1
Theo lệnh của xã, các tập đoàn phải giải quyết xong các vấn đề tồn đọng của vụ gặt đầu trong năm vào ngày thứ bảy để ngày chủ nhật xã sẽ tổ chức tiệc liên hoan trúng mùa. Nhờ sự cố gắng của toàn thể xã viên, tập đoàn 9 đã hoàn tất việc đó đúng vào buổi trưa thứ bảy, trước dự tính nửa ngày. Ai nấy đều vui vẻ vì được rảnh rỗi một ngày rưỡi để nghỉ ngơi và lo công việc nhà. Một số người thấy thì giờ còn rộng đề nghị tập đoàn chia rơm cho bà con luôn nhưng lại có một số không chịu. Ông Phước nói:
- Chia rơm phải báo trước cho người ta chuẩn bị. Chia bây giờ hơi đột ngột. Nôn gì, chiều thứ hai chúng tôi sẽ để bà con nghỉ sớm mình chia luôn! Bà con nhớ đấy, thứ hai tới cứ năm giờ chiều thì ngừng hết mọi công việc để lãnh rơm. Ai không lãnh kịp bị thất thoát đừng phàn nàn!
Thấy chưa được chia rơm, chú Tấn nói:
- Chưa có rơm để đun bếp thì mình đi củi. Ngày mai có ai đi đốn củi với tôi không?
Lâu nay cứ chúi đầu vào vụ gặt, nhà nào mà chẳng cần củi? Ở vùng quê rất ít ai chịu bỏ tiền ra mua củi. Phần đông người ta chỉ bòn cây gẫy cành khô để chụm. Thiếu củi người ta chụm rơm do hợp tác xã chia hoặc gốc rạ do họ tự cắt lấy. Nhưng chụm rơm rạ hoài cũng ngán. Khi đang nấu nướng người chụm rơm ít dám rời xa bếp l(a)́m. Vì vậy nên gặp ngày rảnh rỗi, nghe ai xướng lên chuyện kiếm củi là có người hưởng ứng ngay.
Thế là chú Tấn, anh Lưu, anh Phát, anh Hải, chị Hoành, chị Hoạt, cô Ánh và tôi hẹn nhau tập trung ở nhà chú Tấn trước 6 giờ sáng chủ nhật để cùng đi.
Trong tám người đã hết bảy người đi củi lần đầu. Chú Tấn đương nhiên được coi như trưởng toán. Thời trai trẻ chú đã từng làm nghề đốn củi nhiều năm. Mãi tới lúc vùng núi rừng này mất an ninh chú mới bỏ đi làm việc khác. Sau ngày thống nhất thỉnh thoảng chú lại đốn củi đem bán như trước. Theo chú vùng có nhiều củi nhất mà lại gần làng là vùng "độn ông Hoàng". Ở Huế có nhiều nơi người ta dùng tiếng "độn" để thay tiếng núi. Nhưng cái tên "độn ông Hoàng" tôi không biết xuất xứ từ đâu.
Trước khi đi, chú Tấn dặn mỗi người chuẩn bị một chiếc đòn xóc, một cái rựa sắc, hai cặp lạt bó, bới theo cơm trưa với một bình nước. Chú nhấn mạnh: "Đi rừng làm việc dễ mệt, nhất là gặp trời nắng, thường phải tiêu thụ rất nhiều nước. Nước bới theo phải nấu chín, không nên dùng nước suối gặp dọc đường vì rất dễ sinh bệnh".
Đòn xóc với lạt bó tôi đã có sẵn. Đây là những thứ vẫn dùng trong mùa gặt. Chỉ có cái rựa tôi hơi lúng túng. Nhà tôi có đến ba cái rựa. Cái rựa con tôi vẫn dùng trong nhà không thể đốn củi rừng được. Hai cái rựa lớn thì đã lâu chẳng có ai đụng tới, chẳng biết cái nào còn tốt. Tôi bèn chọn đại một cái ít rỉ lại cầm vừa tay nhất.
Nhờ chiều thứ bảy nghỉ sớm nên tôi ngủ được một giấc khá dài. Trước khi đi ngủ tôi cẩn thận dặn bà nội khoảng năm giờ sáng đánh thức tôi dậy. Nhưng có lẽ vì nôn nao, chính tôi đã thức dậy khoảng bốn giờ nên việc lo cơm nước cũng thong thả. Tôi đến nhà chú Tấn gặp lúc chú đang mài rựa. Thấy tôi, chú nói:
- Cô Ngọc đi sớm thế à! Rựa cô đâu đưa tôi xem thử!
Tôi đưa rựa cho chú xem. Chú sờ lưỡi rựa rồi kêu:
- Rựa cùn thế này làm sao mà đốn củi?
Nói xong chú đặt xuống hòn đá mài giúp tôi. Tôi mừng lắm vì tôi có bao giờ biết mài giũa gì đâu. Khi chú Tấn trả rựa lại cho tôi thì cô Ánh đến. Thấy tôi, Ánh tươi cười:
- Em tưởng em đến sớm nhất, không ngờ chị Ngọc còn đến sớm hơn em.
- Cô cứ ở nhà đợi khi bọn này đi ngang nhà kêu đi cũng được chứ sao lại đi ngược ra cho mất công thế này?
- Ở nhà đợi em thấy nôn quá, lại sợ ngủ quên không ai kêu thêm lỡ cuộc ra nữa!
Chừng mười phút sau thì bảy người đã có mặt, chỉ còn thiếu chị Hoành. Anh Phát là người duy nhất trong toán có đồng hồ, anh nói:
- Sáu giờ rồi, không lẽ bà Hoành hẹn rồi không đi?
- Có đồng hồ đâu mà đi đúng giờ? Chắc bà cũng sắp tới! - Chị Hoạt nói.
Năm phút, mười phút, mười lăm phút lại trôi qua... Mọi người đều tỏ vẻ sốt ruột:
- Nếu không đi thì cũng phải báo cho người ta biết chứ, năm phút nữa nếu bà Hoành không đến thì mình đi thôi!
Năm phút nữa lại trôi qua. Chú Tấn cười nói đùa:
- Ra quân lần đầu sao mà không suôn sẻ chi hết! Thôi, chúng ta lên đường!
Mọi người đi được một đoạn bỗng nghe tiếng đàn bà kêu chéo véo đằng sau:
- Đợi tôi với! Đợi tôi với!
Đúng là tiếng chị Hoành. Chúng tôi đi chậm lại để chờ. Khi chị Hoành vừa theo kịp chị Hoạt trách:
- Sao không lo đi sớm để mọi người đợi dữ vậy?
Chị Hoành thở hổn hển phân trần:
- Buổi sáng tôi chuẩn bị xong thì thằng nhỏ nó kêu đau bụng. Tôi phải lo xoa bóp, cạo gió cho nó rồi tìm mấy viên xuyên tâm liên dặn bố nó khi cần thì cho nó uống. Giờ đi đây mà không yên tâm tí nào hết!
Đi được khoảng nửa cây số chị Hoành lại kêu lên:
- Chết bố, tôi lại quên mang lạt để bó! Thôi tôi trở lui cho xong!
- Đừng lôi thôi nữa bà ơi, tôi có đem trừ hao mấy cặp đây! - Chú Tấn nói.
- Thế thì may quá, cám ơn ông Tấn!
Từ khu gia cư Thiện Trường đến nơi đốn củi tức vùng độn ông Hoàng xa cả mười cây số đường chim bay. Đường đi là một lối mòn băng qua nhiều đồi dốc, khe suối. Mọi người vừa đi vừa nói chuyện với nhau cho quên mệt và đỡ buồn ngủ. Chị Hoành đi cạnh tôi kể lể:
- Hôm kia tôi kể chuyện em Tài cho chị và chị Lâm nghe, chị còn nhớ chứ? Không hiểu sao sau đó tôi lại mộng thấy nó mấy lần nữa. Lần nào cũng thấy cảnh nó đang bò lê trên đống rác hôi hám tìm kiếm thức ăn. Có lần tôi đã khóc nấc lên. Tôi đâm ra lo sợ cho thằng Dần quá. Không hiểu sao trông nó giống cậu út nó lạ lùng! Vì thế thấy nó bệnh tôi cứ bần thần không sao yên bụng.
2
Nghe chị Hoành nói tự nhiên tôi thấy rúng động trong người. Hình như trong giọng nói của chị Hoành có một cái gì lạ lạ. Tôi vụng về tìm mấy lời để trấn an chị:
- Khi máu huyết trong cơ thể chạy không đều thì hay sinh mộng mị thôi. Có mộng mị lại sinh bần thần, lo âu... Nhưng có anh Hoành ở nhà chị còn lo gì nữa!
Chị Hoành lắc đầu:
- Nhà tôi đâu có biết gì về chuyện săn sóc con cái! Cũng vì sự vụng về của anh ấy mà thằng con đầu của tôi mới mười sáu tuổi đã tình nguyện đi bộ đội rồi bị hi sinh lãng nhách. Tôi sẽ kể cho chị Ngọc nghe chuyện đó. Khi gặp rắc rối anh ấy không ứng biến xoay xở được đâu! Nói dại, nếu không có tôi, sợ anh ấy dù thương con mấy cũng khó lòng bảo bọc chúng trôi tròn...
- Chị nói sao vậy chứ theo tôi anh ấy cũng sắc sảo lắm chứ! Hôm rồi ở nhà chị tôi thấy anh ấy nói chuyện khôn ngoan quá chừng!
- Khôn ngoan cái gì! Ngang tính, nóng nảy thì có. Anh ấy không hề biết mềm mỏng đâu. Vì vậy từ mấy ông ở xã đến mấy ông trong ban tự quản tập đoàn cũng như ông Phước, ông Nhiêu không ai ưa anh ấy hết. Nếu không có tôi, đố anh ấy sống ở đây nổi?
Tôi đang nghe chị Hoành nói thì cô Ánh tiến lại hỏi:
- Có gì mà hai bà nói chuyện tương đắc dữ vậy?
Thấy chị Hoành đang nói chuyện không vui, tôi thừa dịp cắt luôn:
- Chuyến này tha hồ mà đun nấu Ánh nhỉ! Tôi mới về tập đoàn rơm chia đâu được bao nhiêu. Thời gian vừa qua nhiều lần tôi phải chụm cả lá chuối khô, quá cực!
Cô Ánh cười, nói:
- Chụm củi rơm còn cực huống chi chụm lá chuối khô! Lúc nào cũng phải chăm chăm vô bếp mà cơm cứ khi khê khi sống.
Chị Hoành chen vào:
- Ở đây vậy mà còn đỡ đó. Ngoài tôi đâu có được chia nhiều rơm như vậy. Có khi chụm toàn gốc rạ khói un cứ đỏ hoe con mắt ra...
Chúng tôi nói chuyện bâng quơ một hồi nữa thì chú Tấn cho biết đã đến địa điểm đốn củi. Anh Phát nhìn đồng hồ rồi nói:
- Gần chín giờ rưỡi!
Chú Tấn kê một đầu đòn xóc lên một hòn đá để ngồi:
- Bà con hút thuốc, uống nước đi! Ai chưa ăn sáng cũng ăn cho luôn! Mình nghỉ ngơi năm mười phút rồi bắt tay vào việc. Bà con cứ kiếm củi quanh quanh vùng này, thấy cây nào có thể chặt được thì chặt. Tuy nhiên, tôi đề nghị bà con nên đi hai ba người với nhau, không nên đi lẻ tẻ. Khi thấy cái gì dị dạng khả nghi phải báo cho nhau ngay. Chốc chốc phải hú nhau để phòng đi lạc bạn xa quá. Người nào nghe tiếng bạn hú cũng nên hú trả lời để cho bạn an tâm. Trước khi đốn một cây làm củi, bà con phải quan sát xem trên cây đó có gì không. Có thể có một con rắn, một tổ ong hay một con gấu không chừng! Thấy những của nợ đó xin lập tức tránh xa ra. Khoảng mười một rưỡi mười hai giờ tôi sẽ hú ba tiếng dài, xin bà con tập trung về chỗ cũ để ăn cơm. Sau khi cơm nước xong, mình sẽ gom bó củi để chuẩn bị ra về. Cánh đàn ông ai làm xong trước nên giúp đỡ các bà chưa quen việc để cùng về sớm. Những điều tôi dặn đó xin các anh chị nhớ kỹ cho!
Nghe chú Tấn dặn dò tôi đâm sợ. Đây là lần đầu tiên tôi vào rừng. Ong và rắn thì tôi đã từng thấy, từng sợ, nhưng con gấu thì tôi chưa biết nên hỏi:
- Con gấu hình dạng thế nào hở chú Tấn?
Chú Tấn trả lời:
- Tôi cũng không biết tả cách nào cho cô rõ. Nghe nói có nhiều giống gấu nhưng tôi chỉ biết giống gấu ở vùng rừng mình đây thôi. Đại khái nó hơi giống con chó nhưng tròn trịa hơn, chân mập, ng(a)́n, rất khỏe. Gấu là giống thú hung dữ và liều lĩnh nhất trong các loài thú. Heo rừng, cọp, beo thấy người đông đều còn biết sợ, lo tránh, riêng giống gấu dù gặp cả trăm người nó vẫn tấn công. Nó lại leo cây giỏi nữa nên rất nguy hiểm. Thấy mặt nó thì lo tránh đi nếu không muốn bỏ mạng.
Chị Hoạt nghe nói tỏ ra sợ hãi:
- Chưa chi anh đã dọa bỏ mạng làm tôi sợ quá! Thôi, bốn người đàn bà mình đi chung để có chi dễ kêu nhau!
Chúng tôi đồng ý ngay. Thật ra tự thâm tâm bọn phụ nữ chúng tôi đã chẳng ai dám đi xa nhau giữa chốn núi rừng này. Củi ở vùng này khá nhiều. Ban đầu chúng tôi chỉ đi cách nhau năm mười thước, ai chặt ra nấy gom lại. Rựa của tôi tuy được mài khá sắc nhưng vì chặt củi không quen, trong chốc lát tôi đã thấy bàn tay phải bỏng rát khó chịu. Tôi phải dùng tay trái, không chặt mạnh được nữa. Tôi lựa những nhánh củi mục dòn để bẻ. May mắn tôi gặp được một thân cây mục đã ngã, tha hồ bẻ. Những nhánh hơi lớn tôi chỉ cần lấy chân đạp mạnh hay lấy sống rựa đập một cái là nó gẫy. Cô Ánh thấy tôi bẻ củi mục thì chê:
- Củi mục không đượm, giữ than không được lâu! Chụm hao lắm! Khi bó hay xóc để gánh cũng khó vì nó hay bị gẫy. Chị ráng tìm đốn thứ củi tốt hơn đi!
Vừa nói cô vừa theo chân hai bà kia cứ phía trước tiến lên. Thật tình tôi cũng biết củi mục chụm hao nhưng nó dễ bẻ, lại nhẹ, dù sao cũng còn hơn củi rơm rất xa. Nếu gắng chặt cho được củi tốt như mọi người, tay tôi chắc sẽ bong cả lên, làm việc khác sao được?
Dần dần ba người kia đã cách tôi một đoạn hơi xa. Tôi chỉ còn nghe tiếng nói chuyện văng vẳng và tiếng rựa chặt vào cây. Hễ vắng nghe tiếng nói chuyện hay tiếng rựa chặt tôi lại hú lên. Chúng tôi hú qua hú lại giống như trò đùa. Chốc chốc chúng tôi lại hỏi nhau chặt được bao nhiêu rồi? Khoảng nửa tiếng sau tôi bỗng nghe tiếng chị Hoành reo lên với giọng mừng rỡ:
- A ha, ở đây có ba cây củi khô đẹp quá!
- Đâu? Ở đâu? Dễ chặt không? - Tiếng chị Hoạt.
- Cả mấy gánh đấy! - Giọng chị Hoành reo vui.
Ánh đang ở gần đâu đó ngừng tay nói lớn:
- Nhiều vậy cho em đốn ké với!
Tiếng chị Hoạt lại vang lên:
- Trời ơi, ba cây củi khô đẹp thật!
Tôi nhìn sang. Tôi thấy mấy đọt cây khô nhô cao vượt những lùm cây xanh. Rồi có tiếng rựa chặt. Mấy đọt cây khô rung động mạnh. Tôi toan cúi xuống tiếp tục bẻ củi mục bỗng nhiên nghe tiếng kêu thất thanh:
- Trời ơi! Trời ơi! Cứu tôi với!...
Không phải tiếng kêu la của một của một người mà của cả ba người đàn bà vang lên đồng loạt. Tôi kinh hoảng chưa biết chuyện gì xảy ra bỗng thấy một vầng đen tỏa ra ngay trên mấy đọt cây kia với tiếng kêu vù vù nghe đến phát khiếp. Đúng là gặp ong rồi! Tiếng kêu la tiếp tục vang lên hỗn loạn...
Từ bên mé đồi kia có tiếng chú Tấn kêu thật lớn:
- Chui ngay vào mấy lùm cây rậm lá mà núp! Chui ngay vào mấy lùm cây rậm lá mà núp!
Anh Phát cũng lớn tiếng:
- Gặp ong vò vẽ rồi, phải núp cho kỹ!
Tôi run lập cập ngồi thu mình một chỗ. Đàn ong cứ xoén liệng vù vù tìm kiếm. Vài con bay đến chỗ tôi đang ngồi làm tôi sợ quá đái cả ra quần. Tôi phải im lặng núp như thế một thời gian khá lâu. Một lúc sau đàn ong mới tản dần. Lúc ấy tôi chỉ còn nghe tiếng rên hừ hừ...
Chờ đàn ong hết lượn mấy người đàn ông mới đứng dậy dè dặt tiến về phía mấy bà. Chú Tấn hỏi lớn:
- Mấy bà đâu rồi?
- Tôi đây! - Tôi vừa đứng dậy vừa trả lời.
Cùng lúc tôi thấy chị Hoạt từ một lùm cây lóp ngóp bò ra, chị rên rỉ:
- Nhức nhối quá trời ơi, xin về ngay đi, tôi chịu không nổi!
Cô Ánh cũng từ một chỗ khác lóp ngóp bò ra:
- Nhức quá trời ơi, ở đây có thuốc gì đắp tạm cho nó bớt nhức kiếm giúp tôi với!
Tôi thấy chị Hoạt sưng hơn nửa khuôn mặt bên phải, con mắt phải hím lên gần như không mở được. Ánh thì phía sau cổ sưng vù, không còn ngoái đầu ra sau được.
Chú Tấn lại hỏi:
- Thế bà Hoành ở đâu? Bà Hoành đâu rồi?
Không có tiếng trả lời. Mọi người càng kinh ngạc lo sợ. Cô Ánh vừa rên vừa quay người chỉ tay vào mấy lùm cây cao cao nói với chú Tấn:
- Khi nãy thấy bà Hoành bò về phía đó, không hiểu sao nãy giờ lại không nghe tiếng rên rỉ nữa!
- Thế tổ ong ở đâu? Đừng láng cháng lại gần nó ra một đợt nữa thêm khốn!
Cô Ánh chỉ tay về phía ba cây khô. Hèn gì trông ngon lành vậy mà lâu nay không ai đốn! Bốn người đàn ông dè dặt vạch cây tìm kiếm bà Hoành.
- Trời ơi, bà ta chết rồi!
- Không, ngất xỉu đấy thôi, nhưng làm sao bây giờ?
3
Chị Hoành được khiêng ra ngoài, tiếng chị thở khò khè có vẻ khó khăn lắm. Người chị sưng mập đến căng hết cả áo quần. Chú Tấn cởi phăng cái áo chú đang mặc quăng cho anh Phát và giục:
- Ba anh cởi áo ra tết ngay một cái võng để đưa bà ta về gấp! Mau lên kẻo không kịp đấy! Cô Ngọc gom giùm đồ đạc của bà ấy lại! Củi đuốc vứt bỏ hết!
Anh Lưu cũng giục:
- Phải mau lên mới được. Với loại ong vò vẽ này đốt trâu cũng chết huống chi người! Bị vài ba mũi thì may ra cứu được chứ cỡ năm sáu mũi trở lên sợ vô phương!
Chú Tấn liền đi chặt một cây gỗ nhỏ làm đòn để khiêng. Với mớ lạt bó, với mấy cái áo, một cái võng dã chiến được hoàn thành ngay. Thế rồi bốn người đàn ông lo việc khiêng bà Hoành. Tôi vác một mớ đòn xóc đèo thêm một số vật dụng. Chị Hoạt, cô Ánh thì người ôm mặt kẻ ôm cổ rên rỉ tất tả kéo nhau trở về làng...
Khi về gần tới xã chú Tấn nói:
- Chị Hoạt cô Ánh về nhà ngay đi để lo thuốc men!
Hai người tách khỏi đoàn. Số người còn lại cùng đến nhà chị Hoành. Hàng xóm kéo đến rất nhiều. Chị Hoành được đưa vào nhà đặt trên một chiếc giường. Một số người xúm lại nhìn chị, ai cũng lắc đầu. Ông Hoành bối rối định đi gọi y tá thì một cụ già bảo:
- Chị ta chết rồi kêu y tá làm gì nữa! Thôi thì nhờ xóm làng người một tay giúp lo việc hậu sự cho rồi!
Mọi người giật mình xúm lại xem xét kỹ. Quả thật bà Hoành đã hết thở. Anh Hoành khóc rống lên:
-Bu nó ơi, trong khi ủy ban xã đang ăn liên hoan trúng mùa sao bu nó nỡ đành đoạn bỏ chồng bỏ con mà đi thế này bu nó ơi!...
Thằng Dần lăn nhào vào ôm mẹ khóc thảm thiết. Nước m(a)́t tôi cũng tuôn trào...
*
Tôi về nhà gặp lúc bà nội đang nấu cơm. Bà nói:
- Sợ con đi củi về đói bụng nên mẹ lo nấu ăn sớm một chút. Đi củi lần đầu chưa quen chắc vất vả lắm con hỉ! Củi con để mô rồi?
Tôi cười nửa miệng:
- Củi đâu mà củi! Về được an toàn là may rồi mẹ ơi. Chị Hoành đi củi với con bị ong đốt chết rồi mẹ. Người ta mới gánh chị về hiện còn để tại nhà.
Sau khi kể hết đầu đuôi sự việc cho bà nội nghe, tôi nói thêm:
- Con bị đau tay nên lo bòn mấy nhánh củi mục, nhờ thế mà thoát nạn. Nếu không, biết đâu con lại chẳng bị như chị Hoành! Chị Hoạt, cô Ánh đều bị sưng mặt sưng cổ nhức nhối kêu trời không thấu đó mẹ!
Nhìn gói cơm tôi mang về, bà nội thở dài:
- Chưa ăn cơm trưa à? Rứa là chị Hoành lại chết đói? Tội nghiệp! Mẹ thấy chị nớ biết điều lắm, gặp mẹ khi mô cũng lễ phép chào hỏi. Thôi, con lo ăn uống, nghỉ một lát rồi qua giúp người ta được việc chi thì giúp.
Khi trở lại nhà chị Hoành tôi thấy nhiều người đang chia nhau lo công việc. Anh Hoành nói với tôi:
- Chị Ngọc có rảnh giúp tôi vài việc được không?
Tôi sốt sắng nhận lời:
- Dạ được, anh cần việc chi cứ cho biết để tôi làm.
Lúc người ta đang che rạp thì ông Nhiêu, ông Phước và anh Sự đến. Trông vẻ mặt cả ba người đều đỏ au, ch(a)́c ch(a)́n là họ vừa đi dự tiệc liên hoan trúng mùa ở xã mới về. Vừa gặp anh Hoành, ông Phước liền hỏi:
- Sao mà rủi ro dữ vậy? Đang lúc mùa màng gấp rút lại xảy ra chuyện này thật là rắc rối! Ông Hoành định lo việc này thế nào chưa?
- Thưa, chúng tôi suy nghĩ nông cạn, lại gặp lúc tang gia bối rối, xin tập đoàn chỉ dẫn cho!
Ông Nhiêu nói:
- Theo tôi, gặp lúc công việc đồng ruộng đang bề bộn gấp rút thế này việc gì cũng nên giản tiện bớt. Ông Hoành nên tranh thủ làm sao sớm xong việc thì thôi. Không nên để kéo dài nhiều ngày.
Ông Phước tiếp:
- Hôm nay rảnh, bà con đến thăm đông, ông Hoành nên nhờ mỗi người phụ một tay làm các việc cần thiết đi. Sợ ngày mai thiếu người đó. Tập đoàn còn phải lo cấy cho kịp vụ nữa. Ông định khi nào đưa quan?
- Thưa các ông, xin cho để ba ngày được không?
Ông Nhiêu lại nói:
- Làm việc gì cũng phải tùy lúc. Nay ruộng đồng đang cần xuống mạ, nhân lực đang thiếu, hơn nữa, nắng nôi để ma lâu không tốt. Ông Hoành chắc không coi ngày giờ? Tôi đề nghị cỡ trưa mai đưa quan là vừa!
- Vâng, cám ơn tập đoàn. Tập đoàn đã quyết định vậy chúng tôi nghe theo thôi! Xin tập đoàn cho biết sẽ giúp đỡ chúng tôi những phần vụ nào?
Ba ông tự quản quay lại hỏi nhau một lúc rồi ông Phước nói với anh Hoành:
- Lẽ ra tập đoàn phải giúp ông toàn bộ việc này. Ngặt lại gặp lúc tập đoàn cũng nhiều việc quá. Thôi thì tập đoàn sẽ cắt cho ông tám người, năm đàn ông ba đàn bà để tùy ông sắp xếp. Bà con, bạn bè của ông cũng có được một số nữa chứ?
- Cám ơn tập đoàn, tập đoàn giúp được chừng nào chúng tôi nhờ chừng đó.
Mấy vị trong ban tự quản có lẽ đã ngấm hơi men mệt người nên không ở lại lâu. Sau khi họ ra về, anh Hoành nói với tôi:
- Chị thấy đó, mấy giả không ưa tôi đâu. Gặt hái xong cả rồi gì mà khẩn cấp dữ vậy? Tình người nằm ở đâu? Dù sao nhà tôi cũng làm việc với tập đoàn bao lâu nay, nghĩa tử là nghĩa tận, làm gì mà xử tệ đến vậy? Nhưng mặc họ, đã có trời biết.
Hôm sau chị Lâm, chị Hiền và tôi cùng với năm người đàn ông được tập đoàn cắt đến giúp gia đình anh Hoành lo việc đám ma.
Lâu nay mỗi lần trong tập đoàn có người chết, tập đoàn vẫn đứng ra giúp đỡ hiếu chủ lo tổ chức đám tang. Nhưng lần này do thiếu thiện cảm với hiếu chủ, ban tự quản tập đoàn đã lấy cớ mùa màng gấp rút, không sốt sắng trong việc giúp đỡ tang gia. Anh Hoành lại ít giao thiệp, bà con đã không có mấy mà bạn bè cũng hiếm hoi nên về mặt nhân sự rất lúng túng. Đám ma chị Hoành vì thế cũng không được ấm áp mấy...
Khi chôn cất chị Hoành xong thì mọi người lần lượt ra về. Thấy tình trạng ở nhà anh Hoành bàn ghế, vật dụng còn để ngổn ngang, tôi nói với những người còn ở lại:
- Sao người ta không ở lại mỗi người giúp một tay cho xong mà về cả như vậy hở?
Chị Lâm nói nhỏ:
- Cô Ngọc không nhớ chiều nay chia rơm à? Người ta phải về lo việc riêng cho kịp chứ! Tội nghiệp anh Hoành lâm cái thế chính quyền không ưa mà dân chúng cũng không thông cảm nữa! Hay hai cô với tôi chịu khó ở lại giúp anh ấy một tay cho xong?
Tôi quên mất chuyện chiều nay tập đoàn chia rơm thật. Đi lãnh rơm muộn có thể vất vả hơn đấy, nhưng còn có chị Lâm, chị Hiền nữa chứ đâu phải một mình tôi? Chị Lâm đưa ra một đề nghị chí tình với bạn bè như vậy tôi lại không nghe sao? Tôi với gia đình chị Hoành dù quen biết chưa lâu nhưng đã nhận nhau là đồng hội đồng thuyền rồi, tiếc chi một chút công nữa mà không gắng giúp? Thế là tôi vui vẻ gật đầu. Chị Hiền cũng tán thành luôn.
Những tưởng ba người dọn dẹp giúp một lát là xong việc, nào ngờ làm xong việc này lại thấy việc khác lòi ra. Rốt cuộc mãi gần tối ba chúng tôi mới về nhà được.
Ngô Viết Trọng
MAY 22 - 2025
****
CHƯƠNG 16: VIỆC BÌNH ĐIỂM CÔNG SỨC LAO ĐỘNG
1
Vụ đầu trong năm của Thiện Trường đã g(a)̣t xong. Vào một ngày đầu tháng 6 dương lịch, tập đoàn 9 tập trung toàn thể xã viên để giải quyết những việc cuối cùng trước khi kết toán thành quả toàn vụ. Hôm ấy cũng nhằm phiên tập đoàn 9 cử ba người đi cắt cỏ cho trâu ăn. Việc cắt cỏ thường chỉ làm vào mùa cày, khi những con trâu suốt ngày bận kéo cày không chăn dẫn đi ăn được. Rất ít ai thích công việc cắt cỏ vì lúc này ruộng đất ít bỏ hoang, tìm cỏ rất khó. Ở tập đoàn 9 thường chỉ có chú Tấn hay tình nguyện làm việc đó. Những người khác hầu hết do tập đoàn chỉ định, đó là những xã viên bị coi là vụng về trong các công việc khác. Lần này cũng chỉ có chú Tấn tình nguyện. Ông Nhiêu nói:
- Cần hai người nữa, cô Ngọc lâu nay đi gặt cũng biết rồi, cắt rạ cũng biết rồi, phơi lúa cũng làm rồi, nay đổi việc đi cắt cỏ một ngày được không? Bà Hiền nữa, hai bà ở gần nhau đi với nhau cho tiện!
Ông ta nhìn tôi và chị Hiền mím mím cái miệng như thách thức. Tôi chưa đi cắt cỏ lần nào nhưng đã nghe nhiều người than phiền về công việc này. Người nói nhiều khi đi mỏi chân vẫn chưa tìm ra cỏ, kẻ nói đôi khi cắt được cỏ đem về trâu lại không chịu ăn, bị phê bình chỉ trích rắc rối lắm. Thấy chúng tôi có vẻ ngần ngại, chú Tấn nói:
- Hai cô cứ đi với tôi. Tôi đã có chỗ để cắt, khỏi lo.
Ông Nhiêu cười nửa đùa nửa thực:
- Muốn khỏi cắt cỏ đi vùng kinh tế mới mà tránh!
Không biết đã bao nhiêu lần ông Nhiêu đã nói chuyện đi kinh tế mới với tôi. Đến nỗi nhiều khi tôi phải tránh gặp ông ta như con nợ tránh chủ nợ. Nghe cái giọng lúc nào cũng pha chút mỉa mai tôi đâm phát ghét:
- Thì tôi đã từ chối đâu?
- Chị Ngọc đi tôi cũng đi! - chị Hiền tiếp lời.
Ông Nhiêu lại tiếp:
- Được ông Tấn cho đi chung là hên lắm, các bà khỏi lo gì cả. Từ trước tới giờ có khi nào ông ấy chịu đi chung với ai đâu!
Thế là chú Tấn bảo chúng tôi lo kiếm liềm và mỗi người một cặp bội. Tôi đã nghe nói chú Tấn là người hay đi cắt cỏ cho tập đoàn nhất và bao giờ cũng cắt được cỏ tốt, không hề bị trâu chê. Được đi chung với chú Tấn chị em tôi rất yên tâm. Ban đầu chúng tôi tưởng chú Tấn sẽ dẫn đi cắt đâu ngoài đồng hay ở khu rẫy nào đó, ai ngờ chú lại dẫn chúng tôi cuốc bộ lên thành phố. Trên đường đi, chú Tấn nói đùa:
- Lâu lâu chú cháu mình đi dạo phố một ngày cho mát mắt chứ!
- Có chợ nào bán cỏ hả chú? - Chị Hiền hỏi.
Tôi ngạc nhiên lo lắng nói:
- Nói thiệt, tôi không có tiền để mua cỏ đâu chú ơi!
Chú Tấn cười rồi nói:
- Để tôi bỏ tiền ra mua giúp cho. Nói chơi vậy chứ mình đi cắt cỏ quanh các công viên, quanh khu vực bệnh viện đó mà. Tôi đã tìm hiểu trước rồi, thiếu gì cỏ non! Bảo đảm cỏ này trâu không chê mà cá cũng không chê được! Trước kia còn bao thầu việc cắt cỏ cho cá ăn tôi cũng cắt ở mấy nơi này chứ đâu. Tôi đã độc chiếm công việc này một thời gian khá dài. Bây giờ việc đó không còn, cần gì giữ bí mật nữa!
Nghe nói cắt cỏ cho cá ăn, tôi lại ngạc nhiên hỏi:
- Sao lại có vụ cắt cỏ cho cá ăn nữa chú?
- Cô Ngọc mới về chưa biết chứ trước đây xã mình có bốn hồ nuôi cá khá lớn. Cả bốn hồ giao cho một xã viên quản lý. Mua toàn giống cá trắm cỏ để nuôi. Hằng ngày các tập đoàn phải thay nhau cử người cắt cỏ, vớt rong, hoặc bẻ lá sắn đem nộp cho cá ăn tốn kém lắm chứ. Nhờ có nhiều người không biết chỗ kiếm ra cỏ nên tôi mới vùng vẫy được một thời. Công việc rầm rộ thế mà nghe đâu kết quả lại lỗ vốn to! Sau vụ thất bại này xã giao lại các hồ ấy cho các ông lớn làm gì tôi không biết nữa.
- Thế còn cắt nhằm thứ cỏ gì trâu lại chê không chịu ăn chú?
- Trâu bò cũng có cái linh mẫn riêng của chúng. Chỗ nào chúng hay phóng uế chỗ đó cỏ rất mau tốt. Nhưng mình cắt cỏ ở những nơi ấy về nhất định chẳng con nào chịu ăn cả. Chúng chỉ ngửi ngửi vài cái rồi lơ đi. Có lẽ chúng nhận ra cái mùi ô uế do chính phân hay nước tiểu của chúng còn vương vấn đâu trong cỏ.
Ngưng một lát chú Tấn lại tiếp:
- Đi hơi xa một tí nhưng chắc ăn. Chứ ở đồng mình, đôi khi tìm tới chỗ đã định thì người khác đã cắt sạch rồi. Nhiều người chạy quanh cả ngày bòn không ra cỏ.
Chẳng mấy chốc chúng tôi đã gặp chỗ có cỏ. Cỏ đã non lại nhiều, tha hồ cắt. Chỉ vòng quanh một sân banh và hai công viên chúng tôi đã cắt đủ lượng cỏ cần thiết. Thấy thì giờ còn dư quá nhiều, chị Hiền hỏi:
- Bây giờ mình về hay sao chú Tấn?
- Về sớm quá không tiện, bể mánh hết! Mình đến mấy gốc cây ngồi nghỉ nói chuyện chơi cũng được. Hai cô ai buồn ngủ cứ ngủ cho đã!
Chị Hiền cười:
- Trước đây thấy chú hay tình nguyện đi cắt cỏ, chắc thời gian ấy ngày nào chú cũng ngủ no con mắt?
- Dại gì mà làm như vậy! Trước đây tôi có mấy khi đi cắt cỏ buổi sáng đâu? Tôi cứ nhận việc xong trở về làm việc nhà hay nghỉ ngơi đã. Khi ăn trưa xong tôi mới bắt đầu thong thả đi cắt. Như hai cô thấy đó, có chỗ rồi cắt mau lắm. Bởi thế không có tay nào biết được hành tung của tôi hết. Trong khi người ta rảo cả ngày cắt không đủ cỏ, tôi vẫn cứ có cỏ để cắt dài dài. Bây giờ thấy mấy cô bị bắt nạt tôi mới chịu tiết lộ bí mật để giúp mấy cô đó!
-Ngày cắt không đủ cỏ bắt trâu nhịn hay sao chú?
-Có rơm khô chứ! Trâu nhịn làm sao cày nổi? Mà dù cắt đủ tiêu chuẩn cỏ như mình trâu vẫn không đủ ăn. Trong mùa cày công việc nhiều, trâu không được thả ra bãi gặm cỏ, phải cho chúng ăn rơm. Cỏ cắt về chỉ là để chúng ăn phụ thôi.
Thế rồi chúng tôi rủ nhau đến một gốc cây ngồi nghỉ. Sau một hồi chuyện vãn, vì còn ấm ức chuyện công điểm của mình, tôi nói với chị Hiền:
- Tối này hơi rảnh, tụi mình đi dự họp thử xem tập đoàn bình công chấm điểm ra sao một lần đi chị Hiền!
- Chị Ngọc muốn đi à? Chán lắm chị ơi!
- Chị nói chán cái gì?
Chú Tấn cười cười cướp lời:
Chắc cô Ngọc chưa biết về vụ này chứ gì? Muốn biết chán ra sao tôi kể cho nghe. Hồi mới giải phóng, xã mình là một trong những xã lên hợp tác xã đầu tiên trong tỉnh. Dân xã mình việc chi chứ việc họp hành phát biểu xây dựng thì không ai bằng. Người có cảm tình với cách mạng sẵn thì hăng hái phát biểu thiệt tình, để lấy điểm, để tìm đường thăng tiến. Người liên hệ tới chế độ cũ thì hăng hái phát biểu để khỏi bị cho là tiêu cực, là chống đối, phản động. Khi bắt đầu lên hợp tác xã, đơn vị nào buổi tối cũng có một cuộc họp để bình công chấm điểm. Điểm tính công thì được trên ấn định có giới hạn mà xã viên lại kẻ mạnh người yếu, có người làm thế này người làm thế khác không ai vừa lòng ai.
Vụ đầu trong năm của Thiện Trường đã g(a)̣t xong. Vào một ngày đầu tháng 6 dương lịch, tập đoàn 9 tập trung toàn thể xã viên để giải quyết những việc cuối cùng trước khi kết toán thành quả toàn vụ. Hôm ấy cũng nhằm phiên tập đoàn 9 cử ba người đi cắt cỏ cho trâu ăn. Việc cắt cỏ thường chỉ làm vào mùa cày, khi những con trâu suốt ngày bận kéo cày không chăn dẫn đi ăn được. Rất ít ai thích công việc cắt cỏ vì lúc này ruộng đất ít bỏ hoang, tìm cỏ rất khó. Ở tập đoàn 9 thường chỉ có chú Tấn hay tình nguyện làm việc đó. Những người khác hầu hết do tập đoàn chỉ định, đó là những xã viên bị coi là vụng về trong các công việc khác. Lần này cũng chỉ có chú Tấn tình nguyện. Ông Nhiêu nói:
- Cần hai người nữa, cô Ngọc lâu nay đi gặt cũng biết rồi, cắt rạ cũng biết rồi, phơi lúa cũng làm rồi, nay đổi việc đi cắt cỏ một ngày được không? Bà Hiền nữa, hai bà ở gần nhau đi với nhau cho tiện!
Ông ta nhìn tôi và chị Hiền mím mím cái miệng như thách thức. Tôi chưa đi cắt cỏ lần nào nhưng đã nghe nhiều người than phiền về công việc này. Người nói nhiều khi đi mỏi chân vẫn chưa tìm ra cỏ, kẻ nói đôi khi cắt được cỏ đem về trâu lại không chịu ăn, bị phê bình chỉ trích rắc rối lắm. Thấy chúng tôi có vẻ ngần ngại, chú Tấn nói:
- Hai cô cứ đi với tôi. Tôi đã có chỗ để cắt, khỏi lo.
Ông Nhiêu cười nửa đùa nửa thực:
- Muốn khỏi cắt cỏ đi vùng kinh tế mới mà tránh!
Không biết đã bao nhiêu lần ông Nhiêu đã nói chuyện đi kinh tế mới với tôi. Đến nỗi nhiều khi tôi phải tránh gặp ông ta như con nợ tránh chủ nợ. Nghe cái giọng lúc nào cũng pha chút mỉa mai tôi đâm phát ghét:
- Thì tôi đã từ chối đâu?
- Chị Ngọc đi tôi cũng đi! - chị Hiền tiếp lời.
Ông Nhiêu lại tiếp:
- Được ông Tấn cho đi chung là hên lắm, các bà khỏi lo gì cả. Từ trước tới giờ có khi nào ông ấy chịu đi chung với ai đâu!
Thế là chú Tấn bảo chúng tôi lo kiếm liềm và mỗi người một cặp bội. Tôi đã nghe nói chú Tấn là người hay đi cắt cỏ cho tập đoàn nhất và bao giờ cũng cắt được cỏ tốt, không hề bị trâu chê. Được đi chung với chú Tấn chị em tôi rất yên tâm. Ban đầu chúng tôi tưởng chú Tấn sẽ dẫn đi cắt đâu ngoài đồng hay ở khu rẫy nào đó, ai ngờ chú lại dẫn chúng tôi cuốc bộ lên thành phố. Trên đường đi, chú Tấn nói đùa:
- Lâu lâu chú cháu mình đi dạo phố một ngày cho mát mắt chứ!
- Có chợ nào bán cỏ hả chú? - Chị Hiền hỏi.
Tôi ngạc nhiên lo lắng nói:
- Nói thiệt, tôi không có tiền để mua cỏ đâu chú ơi!
Chú Tấn cười rồi nói:
- Để tôi bỏ tiền ra mua giúp cho. Nói chơi vậy chứ mình đi cắt cỏ quanh các công viên, quanh khu vực bệnh viện đó mà. Tôi đã tìm hiểu trước rồi, thiếu gì cỏ non! Bảo đảm cỏ này trâu không chê mà cá cũng không chê được! Trước kia còn bao thầu việc cắt cỏ cho cá ăn tôi cũng cắt ở mấy nơi này chứ đâu. Tôi đã độc chiếm công việc này một thời gian khá dài. Bây giờ việc đó không còn, cần gì giữ bí mật nữa!
Nghe nói cắt cỏ cho cá ăn, tôi lại ngạc nhiên hỏi:
- Sao lại có vụ cắt cỏ cho cá ăn nữa chú?
- Cô Ngọc mới về chưa biết chứ trước đây xã mình có bốn hồ nuôi cá khá lớn. Cả bốn hồ giao cho một xã viên quản lý. Mua toàn giống cá trắm cỏ để nuôi. Hằng ngày các tập đoàn phải thay nhau cử người cắt cỏ, vớt rong, hoặc bẻ lá sắn đem nộp cho cá ăn tốn kém lắm chứ. Nhờ có nhiều người không biết chỗ kiếm ra cỏ nên tôi mới vùng vẫy được một thời. Công việc rầm rộ thế mà nghe đâu kết quả lại lỗ vốn to! Sau vụ thất bại này xã giao lại các hồ ấy cho các ông lớn làm gì tôi không biết nữa.
- Thế còn cắt nhằm thứ cỏ gì trâu lại chê không chịu ăn chú?
- Trâu bò cũng có cái linh mẫn riêng của chúng. Chỗ nào chúng hay phóng uế chỗ đó cỏ rất mau tốt. Nhưng mình cắt cỏ ở những nơi ấy về nhất định chẳng con nào chịu ăn cả. Chúng chỉ ngửi ngửi vài cái rồi lơ đi. Có lẽ chúng nhận ra cái mùi ô uế do chính phân hay nước tiểu của chúng còn vương vấn đâu trong cỏ.
Ngưng một lát chú Tấn lại tiếp:
- Đi hơi xa một tí nhưng chắc ăn. Chứ ở đồng mình, đôi khi tìm tới chỗ đã định thì người khác đã cắt sạch rồi. Nhiều người chạy quanh cả ngày bòn không ra cỏ.
Chẳng mấy chốc chúng tôi đã gặp chỗ có cỏ. Cỏ đã non lại nhiều, tha hồ cắt. Chỉ vòng quanh một sân banh và hai công viên chúng tôi đã cắt đủ lượng cỏ cần thiết. Thấy thì giờ còn dư quá nhiều, chị Hiền hỏi:
- Bây giờ mình về hay sao chú Tấn?
- Về sớm quá không tiện, bể mánh hết! Mình đến mấy gốc cây ngồi nghỉ nói chuyện chơi cũng được. Hai cô ai buồn ngủ cứ ngủ cho đã!
Chị Hiền cười:
- Trước đây thấy chú hay tình nguyện đi cắt cỏ, chắc thời gian ấy ngày nào chú cũng ngủ no con mắt?
- Dại gì mà làm như vậy! Trước đây tôi có mấy khi đi cắt cỏ buổi sáng đâu? Tôi cứ nhận việc xong trở về làm việc nhà hay nghỉ ngơi đã. Khi ăn trưa xong tôi mới bắt đầu thong thả đi cắt. Như hai cô thấy đó, có chỗ rồi cắt mau lắm. Bởi thế không có tay nào biết được hành tung của tôi hết. Trong khi người ta rảo cả ngày cắt không đủ cỏ, tôi vẫn cứ có cỏ để cắt dài dài. Bây giờ thấy mấy cô bị bắt nạt tôi mới chịu tiết lộ bí mật để giúp mấy cô đó!
-Ngày cắt không đủ cỏ bắt trâu nhịn hay sao chú?
-Có rơm khô chứ! Trâu nhịn làm sao cày nổi? Mà dù cắt đủ tiêu chuẩn cỏ như mình trâu vẫn không đủ ăn. Trong mùa cày công việc nhiều, trâu không được thả ra bãi gặm cỏ, phải cho chúng ăn rơm. Cỏ cắt về chỉ là để chúng ăn phụ thôi.
Thế rồi chúng tôi rủ nhau đến một gốc cây ngồi nghỉ. Sau một hồi chuyện vãn, vì còn ấm ức chuyện công điểm của mình, tôi nói với chị Hiền:
- Tối này hơi rảnh, tụi mình đi dự họp thử xem tập đoàn bình công chấm điểm ra sao một lần đi chị Hiền!
- Chị Ngọc muốn đi à? Chán lắm chị ơi!
- Chị nói chán cái gì?
Chú Tấn cười cười cướp lời:
Chắc cô Ngọc chưa biết về vụ này chứ gì? Muốn biết chán ra sao tôi kể cho nghe. Hồi mới giải phóng, xã mình là một trong những xã lên hợp tác xã đầu tiên trong tỉnh. Dân xã mình việc chi chứ việc họp hành phát biểu xây dựng thì không ai bằng. Người có cảm tình với cách mạng sẵn thì hăng hái phát biểu thiệt tình, để lấy điểm, để tìm đường thăng tiến. Người liên hệ tới chế độ cũ thì hăng hái phát biểu để khỏi bị cho là tiêu cực, là chống đối, phản động. Khi bắt đầu lên hợp tác xã, đơn vị nào buổi tối cũng có một cuộc họp để bình công chấm điểm. Điểm tính công thì được trên ấn định có giới hạn mà xã viên lại kẻ mạnh người yếu, có người làm thế này người làm thế khác không ai vừa lòng ai.
2
Trong bụng người nào cũng muốn mình được chia phần hơn. Do đó trong những cuộc bình công chấm điểm ấy người ta phê bình chỉ trích nhau sát ván. Nào anh A bỏ nhiều thì giờ để hút thuốc! Nào anh B cứ đứng chống cuốc hoài! Nào chị C cuốc lát đất hơi cạn! Nào anh D cuốc không ngay hàng thẳng lối gây trở ngại cho người khác... Ai bị phê bình càng nhiều điểm người đó càng thấp. Ai ít bị phê bình tự nhiên điểm người đó sẽ được nâng cao. Tựu trung vì giành giựt miếng ăn cả. Dù anh em hay chú cháu cũng không ai nương tay ai.
Cháu điểm cao tất chú phải điểm thấp vì tổng số điểm cũng chỉ chừng đó! Anh bới lông tìm vết tôi thì tôi cũng cố bới lông tìm vết anh. Thế là ra giữa đồng người ta cứ vừa làm vừa để mắt canh chừng để tìm khuyết điểm của nhau. Ai kém lợi khẩu, rụt rè, nói không lại người ta đành phải gánh chịu mọi thiệt thòi. Tôi nghĩ chắc cô Hiền chán chính vì điểm ấy chứ gì?
Chị Hiền cười:
- Chú Tấn biết hết trơn! Hồi ấy mỗi buổi họp như thế là mỗi lần tôi chịu khổ. Cứ bị người ta phê bình túi bụi đến nỗi tôi đâm ra sợ hãi, mất tinh thần luôn. Vắng mặt mình đôi khi người ta quên phê bình chỉ trích đi còn đỡ hơn. Chính vì thế mà về sau rất nhiều người, trong đó có tôi, không dám dự những buổi họp bình công chấm điểm nữa! Nhưng được rồi, chị Ngọc muốn đi tối nay tôi đi với chị!
Chú Tấn nói:
- Ừ, cô Hiền cũng nên đi với cô Ngọc để cô ấy biết một chút. Bây giờ nghe việc gì cũng có nề nếp hơn trước rồi! Tôi cũng mong vậy thôi.
Khi ra về, chị Hiền dặn nhỏ chú Tấn:
- Chú Tấn khoan cho ai biết mấy chỗ có cỏ này đã nghe!
- Cô cũng biết lo xa đến thế à? - Chú Tấn cười.
*
Cuộc họp đúc kết công việc hằng ngày của tập đoàn 9 hôm ấy được nhóm sớm hơn thường lệ. Đếm số người đến dự họp được mười bốn mạng, kể cả chị Hiền và tôi. Mở đầu cuộc họp, ông Phước nói:
- Hôm rồi tôi đi họp ở xã, xã có thông báo: Vụ này xã ta trúng lớn. Để tưởng thưởng những người lao động xuất sắc đã góp công tạo nên thành quả ấy, xã sẽ cho tổ chức một bữa tiệc liên hoan vào chủ nhật tới - ba ngày nữa. Mỗi tập đoàn được chọn ba cá nhân xuất sắc nhất đi dự. Nay nhân buổi họp đúc kết công việc trong ngày, ta cũng nên tiến hành việc bầu chọn người nào đi dự tiệc một thể. Bây giờ chúng ta bắt đầu thảo luận.
Ông Phước vừa nói xong thì ông Nhiêu lên tiếng:
- Theo tôi nhận xét, công việc hôm nay cũng chẳng khác chi mấy hôm trước. Việc bình điểm cũng chẳng cần thay đổi gì, trước sao sau vậy. Ai có ý kiến gì khác không?
Không ai nói gì. Ông Nhiêu lại tiếp:
- Việc đáng thảo luận bây giờ là bầu chọn ba cá nhân xuất sắc để đi dự tiệc bồi dưỡng vào chủ nhật tới cho xong. Tôi nhận thấy sở dĩ tập đoàn ta làm việc đạt được kết quả tốt, phần lớn là nhờ tài điều hành khéo léo của các ông tập đoàn trưởng, tập đoàn phó và thư ký thống kê. Vậy tôi xin đề nghị tập đoàn chọn ba ông ấy đi dự liên hoan!
Một tràng pháo tay vang lên. Anh thư ký thống kê Lê Khánh liền đứng lên xin nêu ý kiến khác:
- Thưa bác Nhiêu an ninh, thưa toàn thể quí đoàn viên tập đoàn 9, trước hết tôi xin cám ơn bác Nhiêu đã có nhã ý đề nghị chọn tôi đi dự tiệc liên hoan tại xã. Tuy vậy, tôi nhận thấy ý kiến của bác Nhiêu chỉ hợp lý khi đề nghị chọn hai ông trưởng và phó tập đoàn. Riêng tôi, tôi tự xét công việc tôi làm chưa xứng đáng để được nhận sự tưởng thưởng ấy. Tôi thấy chính bác Nhiêu là người luôn theo dõi, đốc thúc anh chị em trong tập đoàn làm việc nhất. Vậy, xin đề nghị với tập đoàn chọn người thứ ba là bác Nhiêu!
Tiếng vỗ tay lại vang lên rôm rã. Ông tập đoàn trưởng Phước hỏi lại:
- Ai đồng ý chọn anh Sự, bác Nhiêu và tôi đi dự buổi liên hoan trúng mùa ở xã?
Nhiều người đưa tay lên và hô lớn:
- Nhất trí! Nhất trí! Nhất trí!
Thế là buổi họp thông qua, tập đoàn trưởng Phước cười vui vẻ tuyên bố:
- Chủ nhật đến xã dự tiệc bác Nhiêu và anh Sự nhớ mang theo chén đũa nhé. Ai quên mang đồ dùng cá nhân theo phải ráng ăn bốc đấy! Bây giờ tôi cũng xin thông báo tổng quát công việc trong những ngày sắp tới: Ngày mai chúng ta vẫn tiếp tục công việc cũ. Ai phơi dọn lúa tiếp tục phơi dọn lúa, ai nhổ mạ cấy lúa tiếp tục nhổ mạ cấy lúa. Ngày mốt tập đoàn sẽ điều động toàn bộ tập trung để dứt điểm mọi tồn đọng trong vụ gặt đầu. Ngày chủ nhật, trong lúc các cá nhân xuất sắc về xã dự tiệc liên hoan, bà con sẽ được nghỉ trọn ngày. Bà con nên lợi dụng ngày này vá sửa áo quần, kiếm thêm củi đuốc cho mùa mưa sắp tới đỡ vất vả. Nói thế bà con đã nắm vững chưa?
- Nắm vững! Nắm vững!
- Vậy thì bây giờ chúng ta có thể giải tán!
Tôi cứ tưởng những cuộc họp như thế này người ta sẽ bàn cãi sôi nổi lắm! Ai ngờ nó lại đơn giản đến vậy! Cuộc họp chấm dứt mà tôi vẫn chưa biết công điểm hằng ngày của mình được chấm như thế nào. Tôi ấm ức xúi chị Hiền:
- Chị đến xin ông Khánh thư ký xin coi điểm của mình được không?
Chị Hiền liền đến gặp ông Khánh. Lát sau chị trở lại, miệng cười ngắc nga ngắc nghéo nói:
- Tưởng chị được ăn công điểm cao hơn tôi ai ngờ trung bình mỗi ngày chị cũng chỉ bốn điểm rưỡi như tôi thôi! Mình gần cuối sổ rồi, đâu còn sợ ai tranh nữa!
- Thế những người có công điểm cao nhất là bao nhiêu?
- Thường là 9 hoặc 10 chi đó.
Chị Hiền cười với vẻ an phận nhưng tôi đau ruột lắm. Tự nhiên tôi thấy tội nghiệp cho chị quá. Tôi lại càng cảm thấy cay đắng cho thân phận mình. Ngày nào cũng quần quật trên mười hai tiếng mà rốt cuộc chỉ nhận được 4 công điểm rưỡi làm sao mà sống? "Theo tôi, hôm nay công việc cũng chẳng khác chi những hôm trước. Việc bình điểm cũng chẳng cần thay đổi gì, trước sao giờ vậy. Việc đáng thảo luận bây giờ là ai sẽ được chọn đi dự tiệc...". Lời phát biểu của ông Nhiêu có vẻ lấy rồi, bất công đến thế mà chẳng có một ai phản đối. Việc chọn cá nhân xuất sắc đi dự tiệc liên hoan mừng trúng mùa cũng làm chiếu lệ. Nói là bình chọn mà chẳng khác gì đã dành riêng cho đám người chức sắc. Cứ cái đà ấy thì những người cô thế như chúng tôi bao giờ mới ngoi đầu lên được? Nghĩ lại, tôi đâm giận cả anh Sự lẫn chị Lâm là những người quen biết cũ. Cả hai đều chứng kiến được sự cố gắng hết mình của tôi trong bất cứ công việc gì, sao chẳng ai giúp tôi được một tiếng? Nỗi bực bội trỗi dậy bừng bừng khiến tôi thấy nhức đầu. Không biết trút uất hận vào đâu, nhân thuận đường về, tôi kéo chị Hiền ghé nhà chị Hoành.
3
APRIL 14 - 2025
****
CHƯƠNG 9: CHUẨN BỊ GIA NHẬP CUỘC SỐNG MỚI
Lúc chúng tôi mới trở về làng, ngày nào cũng có một vài người hàng xóm đến thăm. Khi nghe tôi kể vụ đã bỏ ngang cái việc buôn bán đang phát đạt ở Đà Lạt ai cũng lắc đầu tiếc rẻ. Đặc biệt có bà Nhiêu hay đến chơi nhất. Gần như lần nào bà cũng đến nhằm vào khoảng bữa ăn. Cứ vào nhà là bà cười cười nói nói bước lại dòm tận nồi hoặc giở đồ đậy thức ăn ra xem. Lối kiểm soát vừa ấu trĩ vừa lố bịch đó làm tôi rất khó chịu! Lúc này tôi mới tin hẳn lời của bà nội và chị Hiền. Nhưng tôi vẫn giả vờ như chẳng hề biết đến hành vi của bà ta.
Những người khác đều khuyên tôi chuẩn bị tinh thần để nhập cuộc. Nghe sơ qua tình trạng làm ăn ở đây tôi đã phát sợ. Từ công việc, giờ giấc đến tiêu chuẩn được thụ hưởng, tôi có cảm tưởng như họ nói để hù dọa mình. Thực tế trái ngược với sự tán dương việc làm ăn thịnh lợi qua đài phát thanh, báo chí và những cán bộ cách mạng nói đến thế sao? Một số người lại trách tôi sao đã đi xa được còn trở về chi cho khổ? Càng nghe thiên hạ nói chuyện lòng tôi càng hoang mang. Xưa nay tôi có hề biết việc trồng trọt cày cấy bao giờ đâu! Trong tình trạng này liệu tôi có đủ sức để theo kịp mọi người, để nuôi đủ năm miệng ăn trong nhà không? Bà nội tuy được hưởng chế độ mua lúa điều hòa nhưng tiền đâu? Chính tôi vẫn phải chạy ra tiền bà nội mới mua được chứ đâu phải tiền ai cho?
Quả thật tôi sắp phải gánh một gánh nặng! Tôi rất hối hận đã bỏ mất cái việc buôn bán ở chợ Hòa Bình Đà Lạt. Dù sao việc buôn bán vẫn hợp với khả năng của tôi hơn việc đồng áng quá xa lạ này! Nhưng lỡ làng rồi, giờ đây tôi chỉ còn biết phó mặc cho con tạo đưa đẩy...
Trong khi chờ đợi tập đoàn gọi đi làm việc, tôi tất bật lo dọn dẹp, sắp xếp mọi thứ trong ngoài ở nhà. Trong nhà từ cái bàn thờ đến cái phản ngủ, giường ngủ, bàn ghế, chạn bếp... chỗ nào cũng bụi đọng với mạng nhện giăng đầy. Các góc nhà, dưới chân bàn thờ, dưới gầm giường... bất cứ chỗ nào cũng có rác. Chung quanh nhà thì rựa cùn, dao rỉ, cuốc mẻ rải rác mỗi nơi một cái. Ngoài vườn thì ngập lá khô lá mục, đó đây vài đống phân người mối đụn còn bốc mùi, lội quanh một lát thấy lợm cả chân. Bà nội đã già yếu, tai điếc mắt kém, đâu có thể trách bà được! Thấy cái thực cảnh này tôi chợt giật mình. Tôi làm sao khỏi lo sợ khi nghĩ đến ngày trở về của chồng tôi? Trước đây cả gia đình chúng tôi vẫn quen giải quyết vấn đề vệ sinh bằng cách ra "cồn mồ". Bây giờ bà nội đã già, chồng tôi đã thành kẻ tàn phế, việc đó đâu còn đơn giản? Phát xuất từ nỗi lo này, tôi đã bất chấp thể chất yếu đuối của mình, liều lĩnh đào một cái cầu tiêu ngay trong vườn.
Số là xã Thiện Trường có một khu mồ mả khá lớn, ước chừng tám chín mẫu tây, ba mặt đều giáp rẫy bái của dân làng, mặt bên ngoài giáp đường xe lửa Xuyên Việt. Dân địa phương vẫn quen gọi khu ấy là khu "quần mồ" hay "cồn mồ".
Không biết bắt đầu từ thuở nào, có thể đã lâu lắm rồi, phần lớn dân ở hai thôn 2 và 3 vẫn quen thói giải quyết vấn đề vệ sinh hằng ngày ở khu vực đó. Hồi ấy ở vùng quê rất ít ai xây cầu tiêu trong nhà hoặc đào cầu tiêu trong vườn. Mỗi buổi sáng khi nhìn ra đường người ta sẽ thấy không biết bao nhiêu người, từ ông già bà lão đến các cô các cậu, đến cả lũ trẻ con, người nào cũng tay cầm một nắm lá chuối khô, một nắm giẻ rách hay một mảnh giấy báo, giấy học trò, lũ lượt kéo nhau ra khu cồn mồ. Những chỗ trống giữa đám mồ mả gần đường rày và gần mép hai con đường vào rẫy đều bị dân làng mặc nhiên coi như đất tự do phóng uế. Chịu trận đậm đà nhất là khu vực giáp đường rày. Những lăng mộ cao thấp cùng những lùm cây dại trong khu đã trở thành những tấm phên che chắn tự nhiên, dù chỉ tượng trưng. Chúng đã giúp người ta yên tâm, thoải mái "hành sự". Việc ấy đã thành một sinh hoạt quen thuộc. Các bà các cô còn trẻ cũng không thoát ra ngoài lệ ấy. Chỉ có khác là họ thường rủ nhau đi từng tốp năm ba người để... canh chừng cho nhau. Cứ đến chỗ, thấy đâu vắng người là họ sà tới đấy. Khi đang ngồi hành sự, lỡ thấy có ai lò mò đến thì lên giọng "đằng hắng" làm hiệu để người ta tránh ra là xong.
Thỉnh thoảng vẫn có người gặp những pha khốn đốn tức cười! Đang lúc bụng đau cấp thiết mà nhìn chỗ nào cũng thấy người phục kích, cứ phải nghiến răng ôm bụng chạy quanh tìm bãi đáp, thử hỏi còn cảnh nào khốn khổ hơn? Còn có cả những pha hai người khác phái trong lúc đau bụng quýnh quáng đến ngồi "xả xấu" bên nhau mà không hay, khi phát giác ra nhau đành chỉ biết cười trừ.
Quanh đấy luôn có hàng mấy chục con chó lúc nào cũng chực sẵn. Cứ thấy người dớm bước là chúng nhảy ra thu dọn chiến trường. Nhờ chúng mà những vết tích dơ dáy ít tồn tại rõ rệt ngoại trừ mùi hôi và đồ lau chùi. Chó ở đây không phải chó hoang mà là những con chó có chủ đàng hoàng. Ban đêm chúng canh nhà cho chủ nhưng ban ngày lại quần tụ về đây. Chúng coi đây như vùng đất thiên nhiên ưu đãi, vừa có thể rong chơi đàn đúm vừa có thể "cải thiện" đời sống no đủ hơn.
Ngày nay, sau cuộc đổi đời, đa số dân làng phải thức dậy đi làm sớm nên cảnh sinh hoạt giải quyết vấn đề vệ sinh ở đây cũng bớt phần rộn ràng. Thế nhưng khu cồn mồ lại trở nên dơ dáy hơn trước rất nhiều. Đố ai biết vì sao không? Chính vì những con chó hay rong chơi "cải thiện" đời sống trước kia lúc này đã bị ăn thịt hết! Bây giờ bước vào đó muốn tìm một chỗ tương đối ít dơ cũng rất khó. Nhưng đã quen chân, gặp chuyện gấp cứ phải vào nơi đó chứ biết đi đâu?
Sau khi lựa được một chỗ ưng ý trong vườn, tôi bắt đầu đào hầm cầu. Cũng may gặp được chỗ đất không cứng lắm. Nhưng sức tôi không được dẻo dai, cứ đào một hồi lại thấy nản. Đã nhiều lần tôi tưởng phải bỏ cuộc. Nản rồi lại gắng! Gắng rồi lại nản! Cuối cùng, hì hục mất gần ba ngày tôi cũng đào được một hầm cầu khá rộng và sâu.
Để bảo đảm an toàn cho bà nội và lũ nhỏ, tôi phải hi sinh luôn mấy tấm ván còn khá tốt để lót miệng cầu. Chung quanh cầu được che chắn bằng lá chuối khô. Sự cố gắng của tôi đã không đến nỗi vô ích. Từ đó gia đình tôi đỡ vất vả vì vấn đề vệ sinh!
Vào một buổi chiều, lúc tôi đang lo cơm nước thì anh Sự cùng một người đàn ông lạ đến chơi. Anh Sự vốn là một hạ sĩ quan của chế độ cũ, bạn thuở nhỏ của chồng tôi. Vừa rồi tôi đã đến gặp anh để báo việc trở về làng làm ăn của mình, anh bảo tôi cứ về nhà đợi, tập đoàn sắp xếp sau. Người đàn ông cùng đi với anh Sự dáng tầm thước, có vẻ nhanh nhẹn, tuổi khoảng năm mươi. Anh Sự giới thiệu:
- Đây là anh Phước, tập đoàn trưởng tập đoàn 9 sản xuất tức tập đoàn của mình. Anh Phước cũng người làng mình, tập kết ra Bắc năm 1954 mới trở về.
Tôi chưa kịp chào ông Phước đã mau mắn nở một nụ cười thân thiện:
- Chào cô Ngọc, tôi nghe nói hoàn cảnh của cô cũng hơi khó khăn. Nhưng cô đừng lo, nhà nước xã hội chủ nghĩa lúc nào cũng lo cho dân như con đỏ. Cô cứ gắng lao động sản xuất thật tốt thì không ai bỏ rơi cô cả. Nếu chồng cô còn sống trước sau anh ấy cũng sẽ trở về với cô. Người ta đánh người chạy đi chứ không đánh người chạy lại bao giờ! Cô cứ vui vẻ tham gia làm việc với tập đoàn để nuôi con. Có chúng tôi bên cạnh, lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ cô. Mấy cháu nay mai sẽ đến trường, sẽ được đào tạo để trở thành những công dân tốt của một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa độc lập phú cường.
Tôi hơi lấn cấn về cách xưng hô với ông ta. Có lẽ tôi kém ông ta đến hai mươi tuổi. Ngẫm nghĩ một lát tôi nói đại:
- Thưa ông tập đoàn trưởng, tất nhiên tôi sẽ cố gắng làm việc để nuôi con. Tuy thế, trước đây tôi chỉ biết dạy học, chưa biết gì về việc đồng áng. Trong bước đầu chưa quen công việc, xin tập đoàn châm chước chỉ vẽ thì may cho tôi lắm.
Ông Phước tỏ vẻ sốt sắng:
- Cô Ngọc cứ gọi tôi là anh Phước cho tiện. Từ nay chúng ta thành người nhà cả, xưng hô tập đoàn trưởng tập đoàn phó làm gì cho phiền! Chúng tôi có nhiệm vụ giúp cô ổn định cuộc sống. Khi có việc gì cần cô Ngọc cứ tự nhiên cho tôi biết nhé!
Vừa nói ông Phước vừa bước ra phía sau vườn nhìn ngắm quanh quất. Anh Sự và tôi cũng bước theo ông ta. Một lát ông Phước nói:
- Chà, cô Ngọc mới về mấy ngày mà dọn dẹp trong nhà ngoài vườn sạch sẽ thế này là giỏi lắm đấy! Thế khi nào cô Ngọc bắt đầu đi làm việc với tập đoàn được?
- Dạ, thưa tập đoàn trưởng... à, thưa anh Phước gọi tôi lúc nào cũng được!
- Vậy cô cứ nghỉ thêm vài ba ngày nữa để thu xếp những việc còn lại trong nhà. Ngày kia bắt đầu được chưa?
- Dạ được, nhưng tôi muốn đi làm chung toán với chị Lâm chị Hiền để các chị ấy bày vẽ công việc dần dần cho tôi được không?
Anh Sự cười nói:
- Ừ, làm chung với tụi tôi chứ với ai nữa! Cái gì cũng đầu khó sau dễ, cô đừng lo quá mà ốm người! À, mà thế này nữa, bây giờ tập đoàn đang gặt lúa địa phương, cô phải sắm một cái vằng như người ta mới được!
Chưa biết cái vằng ra sao, tôi hỏi lại:
- Vằng có phải là cái liềm đó không?
- Không phải, vằng khác liềm khác chứ!
- Thế sao trước đây tôi thấy một số người đi gặt họ lại cầm liềm?
Ông Phước giải thích:
- Cô Ngọc chưa từng làm ruộng nên chưa hiểu là phải. Vằng hay liềm đều là dụng cụ gặt lúa cả nhưng mỗi thứ dùng để gặt một loại lúa chứ không phải dùng lẫn lộn được đâu! Các giống lúa địa phương thân cao nhánh lớn phải dùng vằng vì dùng liềm gặt rất bất tiện. Ngược lại, các giống lúa thần nông cây nhỏ thấp lại chỉ dùng liềm chứ dùng vằng kềnh càng cũng bất tiện. Thế trước đây bác trai cũng làm ruộng trong nhà không còn cái vằng nào à?
2
Bà nội đang ở dưới bếp lên tiếng:
- À, nhà mình còn có hai cái vằng đây, con vô lấy ra mấy chú coi thử còn dùng được không để dùng khỏi sắm!
Tôi vội đi vào bếp. Bà nội chỉ cho tôi hai cái vật treo sát phên vách chái.
- Coi chừng đứt tay! - bà nội nói.
Thì ra lâu nay nó vẫn nằm đấy mà tôi không để ý. Cả hai cái đều bị mồ hóng bao phủ lâu ngày nên trông đen điu bẩn thỉu lắm. Tôi lấy cả hai cái đem ra.
Ông Phước tiếp lời:
- Cô đem rửa sạch đi! Cẩn thận, trông vậy chứ nó sắc lắm!
Tôi đi rửa rồi đem trở lại. Ông Phước cầm một cái vằng chỉ cho tôi xem từng phần và giải thích:
- Cô thấy đây, thân vằng làm bằng gỗ nhẹ hay bằng tre cũng được. Người ta thường lựa nó từ những nhánh cây tự nhiên, đầu này là cán để cầm, còn đầu này có cái cù ngoéo này để móc gom thân lúa lại từng nắm. Phía đối nghịch với cái cù ngoéo được gắn một lưỡi thép có khía răng cưa, thường rất bén để cắt lúa. Nhưng cái vằng này cùn quá rồi, không thể dùng được nữa. May ra còn dùng được cái cán.
Thế rồi ông cầm cái thứ hai lên xem:
- Cái vằng này còn tốt lắm, cô dùng được đấy! Nhân tiện đây để tôi chỉ sơ cho cô cách dùng vằng luôn!
Sau khi chỉ cho tôi cách sử dụng vằng, ông Phước nói tiếp:
- Cô Ngọc phải nhớ là vằng chỉ dùng khi gặt lúa dài ngày. Khi gặt lúa thần nông cô phải dùng liềm mới được!
Tôi định hỏi cho biết khi nào sẽ gặt giống lúa nào thì anh Sự đã hiểu ý nói:
- Có thể bây giờ chị Ngọc chưa phân biệt nổi hai loại lúa đó khác nhau ra sao. Lần lần sẽ quen thôi. Mình không biết cứ hỏi người chung quanh. Người ta làm sao mình làm vậy là chắc ăn nhất. Thường thường lúa dài ngày vẫn phải cấy trước lúa ngắn ngày đến cả tháng nhưng rồi cũng gặt một lượt cả...
Bà nội nói theo:
- Tôi là con nhà mần ruộng cả đời mà tới chừ cũng không phân biệt được loại lúa mô nữa huống chi hắn. Mình không biết thì người ta mần chi mình mần nấy cho xong con ơi!
Thế rồi bà nội lại hỏi một cách ngớ ngẩn:
- Tại răng người ta lại dùng nhiều loại lúa mần chi cho phiền rứa hè?
Ông Phước cười:
- Dạ, lúa thần nông ngắn ngày đã đỡ mất công chăm sóc, lại cấy được dày gốc hơn nên cho năng suất cao. Bây giờ nhà nước đang có khuynh hướng chuyển sang cấy lúa ngắn ngày cả đấy. Nhưng hiện tại nhà nước chưa kế hoạch hóa toàn bộ số ruộng sâu được. Cây mạ giống thần nông thấp cấy ruộng sâu có thể bị chết vì úng ngập, phải tạm thời duy trì các giống lúa địa phương. Nhưng có thể sang năm toàn cánh đồng Thiện Trường sẽ chỉ cấy toàn giống thần nông.
Trước khi ra về ông Phước lại nói:
- Luôn tiện tối mai có cuộc họp "mạn đàm đắc cử" toàn thôn tại nhà ông Sơn, cô Ngọc tuy mới về chưa có tên trong danh sách cử tri nhưng cũng nên đến dự cho nó quen với không khí sinh hoạt chính trị ở đây. Cô gắng hăng hái sinh hoạt chính trị chừng nào chồng cô sẽ được nhờ chừng nấy. Tám giờ tối, đừng quên nghe!
Không có lý do để từ chối, tôi đáp:
- Dạ, tối mai tôi sẽ đi họp!
Khi ông Phước và anh Sự đã ra về, bà nội nói:
- Tối mai con đi họp hả? Phải đó, nhà mình hai người cũng nên đi họp một người. Vài bữa mẹ cũng đi bầu cử. Không đi người ta nghĩ mình chống đối, có thể ảnh hưởng đến thằng Thành con ạ!
*
Hôm sau tôi đến nhà ông Sơn đúng giờ như đã hẹn. Thật tình tôi còn bỡ ngỡ với không khí họp hành này lắm. Nhất là khi nghe một vài người nói về chuyện bầu cử tôi càng thấy mình mù tịt. Tôi đâm ra lo ngại, đang định kiếm một chỗ nào khuất khuất để ngồi thì ông Phước gọi:
- Này cô Ngọc, cô mới về nhiều người chưa biết, hãy ngồi phía trước để chốc nữa tôi giới thiệu với mọi người mới được.
Bất đắc dĩ tôi phải bước ra ngồi ở hàng thứ hai. Trước khi phiên họp mở màn, ông Phước giới thiệu tôi một cách ngắn gọn với những người của tập đoàn 9. Tôi nghe nhiều tiếng thì thầm nhưng không hiểu họ thương ghét mình ra sao.
Cuộc họp bắt đầu. Ông thôn trưởng Lê Hành giới thiệu ông Đặng Văn Chấn, trưởng tổ đảng thôn 3 là người sẽ chủ tọa cuộc họp "mạn đàm đắc cử". Ông Chấn lúc ấy đã ngồi sẵn ở ghế chủ tọa đứng dậy gật nhẹ đầu chào mọi người. Trong khi đó bên dưới có những lời rầm rì:
- Anh hùng Trường Sơn đó!
- Người hùng bách chiến bách thắng đấy!
Những lời rầm rì đó đã khiến tôi nẩy sinh lòng kính nể người cán bộ này. Ông Chấn khoảng ngoài năm mươi, vẻ mặt nghiêm nghị, nói giọng Nghệ Tĩnh. Ông cho biết đây là một cuộc bầu cử bổ túc một số viên chức cấp cao. Tiếp đó ông giải thích về mức quan trọng của việc sử dụng lá phiếu. Ông cũng trực tiếp giới thiệu sơ về những người đáng được chọn bầu.
Từ khi nghe ông Phước bảo đi dự cuộc họp "mạn đàm đắc cử", tôi vẫn chưa hiểu ý nghĩa chính thức của nhóm chữ này. Phân tích từng cặp từ như mạn đàm là gì, đắc cử là gì dĩ nhiên tôi hiểu, nhưng bốn từ ấy đi chung tôi thật tình chưa rõ. Mãi tới khi ông Chấn nói chuyện tôi mới vỡ lẽ. Hóa ra "mạn đàm đắc cử" là hướng dẫn cử tri nên bầu cho ứng cử viên nào, nên loại bỏ ứng cử viên nào. Nói là mạn đàm, tức là có sự trao đổi ý kiến một cách nhỏ nhẹ, thân mật, nhưng thật tình ở đây chẳng có sự trao đổi nào cả mà chỉ có lãnh đạo (tổ đảng) chỉ thị cho cử tri "phải" bầu cho ai.
Trong dịp "mạn đàm đắc cử" này đã xảy ra một việc mà suốt đời tôi khó quên được. Theo chương trình, ông thôn trưởng đã lần lượt đọc lý lịch các ứng cử viên cho cử tri nghe trước khi thảo luận. Khi đọc lý lịch một ứng cử viên hiện đang tại chức ở hàng ủy viên cấp tỉnh, đến đoạn trình độ học vấn, ông Hành vừa đọc tiếng "lớp ba" không hẹn mà nhiều người cùng phá lên cười. Có lẽ người ta quá ngạc nhiên khi thấy một vị lãnh đạo cao cấp lại chỉ có trình độ học vấn lớp ba? Ông Chấn nghe cười đâm ra mất cả bình tĩnh, quên cả việc mình đang "mạn đàm". Ông nhìn thẳng vào mặt tôi nạt nộ:
- Đồ dân vô ý thức, cười cái gì? Đã mấy chục năm qua rồi chứ mới mẻ gì nữa? Hồi ấy trình độ lớp ba nhưng bây giờ là trình độ đại học! Cô nghĩ cô học cao hả? Học cao để làm tay sai cho đế quốc thì chỉ hại nước hại dân chứ được việc gì?
Oan ơi là oan! Thật tình tôi có cười đâu? Mà giả như tôi có cười đi nữa tại sao ông ấy chỉ mắng một mình tôi trong khi tiếng cười vang rân cả phòng? Không ngờ ông ấy lại hồ đồ đến thế! Tôi cố ngăn nước mắt, cắn răng mà chịu. Thế nhưng nỗi uất giận đã làm đầu óc tôi rối tung, chẳng còn nghe ngóng gì được. Tôi chỉ còn biết nôn nóng ngồi chờ cuộc họp chấm dứt!
Khi ông Chấn ra về rồi, ông Phước liền đến gặp tôi và nói:
- Ông ấy hơi nóng nảy một chút, nhưng cô đừng để tâm làm gì! Thấy có vẻ sấm sét vậy chứ thật tình ông ấy vô tư lắm!
- Nhưng tôi nào có cười mà chịu cho cam!
- Thôi cứ coi như cô gặp rủi ro đi!
Suốt cuộc họp ấy tôi chẳng thâu nhận được gì ngoài câu chuyện kể trên!
Khi ra về được một đoạn, chị Lâm cười nói đùa:
- Không ngờ cô Ngọc mới đi họp lần đầu đã gặp sao quả tạ chiếu! Nhưng đó cũng là điều đáng mừng cho bọn tôi. Bây giờ tôi mới biết trình độ học vấn của con người cũng tự nhiên tăng cao theo tuổi đời! Như vậy một thời gian sau nữa tôi cũng sẽ có trình độ học vấn đại học như ai!
Chị Hiền lại phụ họa:
- Như vậy mới đúng trường đời cũng là một trường đại học chứ!
Thấy mấy bà nói tiếu lâm sâu sắc, tôi cũng nguôi ngoai được phần nào nỗi bực tức:
- May chưa có thẻ cử tri chứ bây giờ bắt tôi đi bầu cử tôi cũng chẳng biết bầu ai?
Chị Lâm cười khảy:
- Họp hành cho rộn đám vậy chứ vị nào chức nấy người ta định sẵn cả rồi, mình bầu hay không cũng thế thôi! Cô Ngọc không nghe ông trưởng tổ đảng nói dự kiến ông này làm bí thư tỉnh ủy, ông kia làm ủy viên tài chánh, ông nọ làm ủy viên thường vụ đó sao?
- Nhưng đến phòng phiếu mình cũng phải biết biết một tí chứ chẳng lẽ ngơ ngơ ngáo ngáo coi sao được?
- Cô khỏi lo điều đó. Biết bao nhiêu dân trí thức đến phòng phiếu cũng nhờ mấy người giữ thùng phiếu bầu giùm có ai nói gì đâu?
Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
- Thật không đó chị Lâm?
Chị Lâm chưa kịp trả lời chị Hiền đã đáp thay:
- Thật đó chị Ngọc ơi! Ở đây việc bầu cử dễ dãi lắm! Mình muốn nhờ ai bầu thế cũng được! Cứ đưa thẻ cử tri và thẻ chứng minh nhân dân cho người ta là xong! Một nhà có bốn năm cử tri chỉ cần một người đi bầu cũng đủ! Ai trúng ai trật đâu ăn nhập gì tới mình! Mình chỉ cần cái thẻ cử tri được đóng cái dấu "đã bầu cử" để đi đâu khỏi bị ai làm khó làm dễ là tốt rồi.
- Nếu quả vậy cũng tốt!
Khi tôi về tới nhà, bà nội hỏi:
- Con đi họp thấy răng? Người ta bảo bầu cho ai?
Thật tình tôi nào nhớ được gì đâu? Tôi đánh trống lảng:
- Thế trước đây mẹ đã đi bầu lần nào chưa?
- Đi rồi chứ không đi mô được?
- Mẹ tự tay bỏ lá phiếu vào thùng phiếu à?
- Mẹ biết chi mà bỏ! Cứ nhờ mấy người giữ thùng phiếu bỏ giùm thôi! Người ta ai cũng mần rứa cả chứ mô phải một mình mình!
Tôi cười thầm: Ít ra mình cũng có được cái quyền tự do nhờ người khác bầu cử thế!
JAN 7- 2025
3
Chị Hoành không ở lại dự vụ bình bầu nên về sớm. Lúc đó nhà chị đã cơm nước xong, anh Hoành đã đi ngủ. Thấy chúng tôi tới, chị Hoành ngạc nhiên hỏi:
- Nghe hai chị đi dự họp bình bầu, chắc có điều gì lạ đến cho tôi biết?
Tôi không che giấu nỗi bực bội của mình:
- Tôi có chuyện uất ức đến giãi bày với chị đây!
- Chuyện gì vậy?
- Chị nghĩ, từ khi ra làm việc với tập đoàn đến giờ chị có thấy bao giờ tôi tỏ ra biếng nhác không? Ngày nào tôi cũng quần quật từ sáng tới tối mịt như chị thấy đó. Vậy mà người ta cứ chấm cho tôi trung bình mỗi ngày được 4 điểm rưỡi chị nghĩ bực không?
Chị Hoành cười an ủi:
- Thì chị mới đi làm, người ta còn thử thách mà!
- Họ phải biết nhận xét chứ! Giả như họ có thành kiến sẵn mà không thèm nhìn tới công việc của tôi, trong ban chỉ huy của họ cũng còn có một người rất biết rõ tôi mà! Ông Sự tập đoàn phó là bạn cũ của chồng tôi đó! Tôi không đòi hỏi anh ấy phải bao che tôi, phải nói tốt cho tôi nhưng tôi đòi hỏi anh ấy phải có cái nhìn cho đúng. Tôi làm việc như vậy mà bình điểm như vậy là ép tôi quá đi! Lại nữa, cả chị Lâm cũng đáng trách lắm...
Tôi đang tuôn nỗi bực bội trong lòng ra bỗng giật mình vì một tiếng động. Anh Hoành đã trở dậy. Anh từ tốn tiến lại ngồi gần chúng tôi rồi nói:
- Tôi chưa ngủ được, nghe chị Ngọc nói đến sự bất công của tập đoàn nên đến góp ý với chị đây. Không biết có giúp ích được gì cho chị Ngọc không.
- Xin lỗi anh Hoành, vì bực mình quá tôi đã làm anh mất giấc ngủ.
- Không sao, tôi vẫn còn thức. Tôi muốn góp ý với chị, được không?
- Cám ơn anh Hoành, anh muốn nói sao?
- Nếu tôi nói không phải xin chị Ngọc chớ chấp. Cái chuyện tập đoàn đối xử bất công giữa các đoàn viên thì hiển nhiên có rồi, khỏi cần nói đến. Riêng việc chị trách ông Sự với bà Lâm thì tôi xin can. Thật tình ông Sự được cử làm tập đoàn phó chỉ vì ông giỏi việc làm ruộng làm rẫy thôi. Còn những mặt khác, ông ấy nói không ai trong ban điều hành chịu nghe đâu. Dù sao ông ấy vẫn có gốc là một anh lính Ngụy. Bắt ông ấy phải đòi hỏi công bằng cho vợ một anh lính Ngụy cấp cao hơn là làm khó cho ông ấy. Ông ấy cũng cần giữ nồi gạo chứ! Không những giữ nồi gạo rồi mà còn phải giữ cả vấn đề an ninh bản thân của ông ấy nữa. Chị Ngọc nên thông cảm đi. Còn bà Lâm, lâu nay bà ấy vẫn quen an phận thủ thường. Hơn nữa dẫu bà ấy có nói cũng chả có mấy ai nghe? Chị biết, mỗi lần họp hành hỏi ý kiến người này người khác cho xôm vậy chứ thật ra ai nói gì mặc ai, người ta đã quyết định cả rồi. Tôi sống với chế độ này đã lâu, tôi rành quá đi mà!
- Cám ơn anh Hoành đã giải thích. Nhưng tại sao người ta lại ép đoàn viên lộ liễu đến vậy?
Anh Hoành cười ha hả:
- Nếu không ép công điểm như vậy thì lấy gì để chia phần cho những chức vụ không sản xuất? Chị cứ nghĩ mà coi. Ngày trước cả làng đi làm ruộng, bất quá phải nộp một phần thuế cho nhà nước. Cả làng bất quá có nuôi thêm thì chỉ có nuôi một ông lý trưởng. Từ ấp trưởng trở xuống đều phải tự lao động mà ăn hết. Còn ngày nay trong hệ thống hợp tác xã có rất nhiều chức vụ không hề sản xuất. Nào chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, trưởng ban thanh tra, phó ban thanh tra, trưởng ban kế hoạch, trưởng ban tiếp liệu phân thuốc, thư ký thống kê, thủ kho này thủ kho nọ... Ở hệ thống tập đoàn thì nào tập đoàn trưởng, tập đoàn phó đều là thành phần lao động tùy tiện, vui thì làm lấy lệ, buồn thì đi kiểm soát... tận đâu đâu không ai biết. Còn viên thư ký thống kê thì chỉ việc ngồi tính sổ, chia việc, chỉ tổ thêm hao tốn bao nhiêu giấy mực... Cả một lượng người đã không sản xuất lại còn ăn công điểm hạng nhất cả, nếu không ép công điểm mấy chị thì lấy ở đâu ra để cung cấp cho đủ? Đó là chưa nói đến bao nhiêu vụ tiệc tùng bồi dưỡng. Số tiền tiêu dùng đó lấy đâu ra? Mà bồi dưỡng cho mấy anh trong các ban bệ chỉ huy và các cấp lớn hơn chứ có mấy khi bồi dưỡng cho mấy người lao động thật sự đâu? Vì những lẽ đó mà tôi đã lấy cớ đau cột sống, sống riêng rẽ làm việc vặt trong nhà suốt bao nhiêu năm nay.
Lâu nay thấy anh Hoành không đi làm với tập đoàn, lúc nào cũng có thái độ thinh thinh, tôi cứ ngỡ anh là một người khù khờ. Bây giờ nghe anh nói chuyện tôi mới biết anh lại là người quá khôn ngoan sâu sắc.
Có lẽ bị khích động bởi những lời nói của chồng, chị Hoành cũng nhập cuộc:
- Mấy chị thấy "nhân dân làm chủ" như thế đấy! Họ đã từng gán cho cha tôi là tên địa chủ bóc lột đấy. Tôi còn nhớ rõ ngày xưa, mỗi lần cha tôi kêu thợ đi làm, lúc nào cũng cho thợ ngày ăn cơm đủ ba bữa, nghỉ trưa đàng hoàng, tối về trả một mớ tiền công hoặc tệ lắm cũng vài ba ký gạo. Bây giờ nhân dân làm chủ, nhà nước không bóc lột như địa chủ, thế mà ngày nào các chị cũng ăn cơm nhà, làm việc đầu tắt mặt tối để rồi nhận được 4 hoặc 5 công điểm, tính ra gạo không đủ lót lòng, có đáng tức cười không? Như thế là ai bóc lột hơn ai? Nhưng mình thấp cổ bé họng phải ráng chịu chứ biết làm sao!
Anh Hoành lại cười:
- Nắm thắt lưng để đánh trí óc mà!
Nghỉ một lát chị Hoành lại tiếp:
- Chị Hiền chị Ngọc có biết ngày trước cái thằng cha Tẩn nó làm cái gì không? Sao lão ta ngông nghênh dữ vậy? Chính lão đã làm hại tập đoàn 9 mình không biết bao nhiêu đó. Tập đoàn nào người ta cũng nới nới cho đoàn viên nhờ chứ đâu có kiểm soát chặt chẽ như tập đoàn 9 này? Khi đạp lúa ra, khi phơi phong người ta cũng lơ cho các đoàn viên bớt xén chút ít rồi mới đem nộp cho xã chứ đâu có làm được bao nhiêu nộp hết bấy nhiêu như tập đoàn mình?
Chị Hiền từ đầu im lặng, giờ mới lên tiếng:
- Hèn gì, tôi nghe mấy người bạn ở các tập đoàn khác kể rằng khi ra lúa, khi phơi phong họ thường mặc áo rộng tay. Cứ chờ lúc thuận tiện họ lại sớt một mớ lúa trong tay áo rồi giả vờ đi tiểu hay đi uống nước đem đổ vào đồ cá nhân của họ. Nhờ bòn từng chút vậy mà con cái họ cũng đỡ đói phần nào. Ban tự quản của họ biết hết chứ đâu phải không. Nhưng thông cảm hoàn cảnh đoàn viên của mình, người ta vẫn làm ngơ.
Điều chị Hiền nói tôi cũng đã nghe nhiều rồi. Tôi than thở:
- Mình gặp phải cái ban tự quản nghiêm minh quá đành chịu thiệt thòi!
Anh Hoành bực mình phản bác ngay:
- Nghiêm minh cái khỉ khô! Chị biết ban ngày ban tự quản muốn làm muốn nghỉ tùy ý đâu có mệt mỏi như các đoàn viên. Tối đến chờ xong công việc thì các đoàn viên người nào người nấy đã mệt rục rã đều lo về nhà ngủ. Ban tự quản ở lại cuối cùng họ muốn làm mưa làm gió gì mà chẳng được? Ban tự quản, ủy ban nhân dân, đứa nào mà chẳng ăn cắp như giặc? Như trước đây xã này có tới bốn hồ cá. Nuôi toàn cá trắm cỏ, lấy danh nghĩa nuôi cá để phục vụ dân. Các tập đoàn còn phải cử người cắt cỏ, vớt rong cho cá ăn. Thế rồi cứ ông bí thư nhậu một bữa, ông chủ tịch nhậu một bữa, phái đoàn huyện nhậu một bữa... Tới khi súc hồ để chia đến các tập đoàn mỗi hộ chỉ được vài con leo ngoeo. Rồi tuyên bố nuôi cá thua lỗ. Công sức của ai? Tiền mua giống và thực phẩm của ai? Đều rút từ cái công điểm ép mắm của các chị chứ đâu?
Anh Hoành nói một mạch khiến tôi nghe mà ngẩn ngơ. Bây giờ tôi mới hiểu thêm về chuyện nuôi cá chú Tấn nói hồi sáng. Anh ấy nói có lý quá đi chứ! Nửa đêm khi mọi người đã mệt mỏi về nhà hết rồi, chỉ có ban tự quản ở lại, họ làm gì mà chẳng được? Bao nhiêu chi phí về công tác này công tác nọ, nào bồi dưỡng, nào liên hoan này nọ lấy ở đâu ra? Thấy anh Hoành có vẻ rành rẽ chuyện đời quá, tôi còn muốn hỏi thêm nhiều điều nữa. Nhưng chị Hiền đã ngáp dài:
- Thôi, về ngủ, khuya rồi!
Chúng tôi đứng dậy chào vợ chồng anh Hoành. Khi chúng tôi ra khỏi cửa anh Hoành còn nói vói theo:
- Nhớ thuộc lòng câu "nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý nhé!". Mấy chị gắng mà "làm chủ" cho đến khi mỗi người chỉ còn đúng mỗi bộ xương khô thì thôi!
APRIL 30 - 2025
****
CHƯƠNG 10: NHỮNG TRỞ NGẠI ĐẦU TIÊN
Tôi bắt đầu làm việc với tập đoàn 9 khi vụ lúa tháng ba đã gặt được gần một nửa. Tháng ba đây nói theo âm lịch, truyền thống của dân địa phương, chỉ vụ gặt đầu trong năm. Vụ này thường kéo dài khoảng một tháng rưỡi, tức khoảng cuối tháng 4 tới giữa tháng 6 dương lịch. Vì thao thức sẵn nên sáng hôm ấy vừa nghe hồi kẻng đầu tôi đã vùng dậy chuẩn bị mọi thứ. Xong xuôi tôi sang nhà chị Hiền chờ chị cùng đi. Thấy tôi sang chị Hiền nói:
- Đi gì sớm dữ vậy? Nửa tiếng nữa đi cũng vừa mà!
Tuy nói như thế nhưng chị cũng lật đật bới cơm bới nước. Khi lướt mắt nhìn qua tôi, chị Hiền lại kêu:
- Chị Ngọc mang dép à? Không được đâu! Chị phải đi chân đất chứ mang dép làm sao lội nước?
À, làm ruộng thì phải lội nước! Tại sao cả mười ngày ở đây rồi mà mình lại không để ý đến vấn đề này chứ? Tôi cười ngượng ngập rồi quay về nhà. Cất dép xong, vừa bước ra sân tôi đã cảm thấy lòng bàn chân đau tê tái khi dẫm phải sỏi đá. Dù cơn đau chỉ thoáng chốc rồi hết nhưng tôi vẫn thấy nhợn nhợn. Tôi phải rón rén thật nhẹ từng bước. Cả cái vỏ trấu hay một cọng cỏ khô đều làm tôi khó chịu. Tôi than với chị Hiền:
- Tôi đi chân không chưa quen, cứ dẫm phải sỏi là đau điếng lên thế này phải làm sao đây chị Hiền?
Chị Hiền cười thương hại:
- Phải ráng chịu đau rồi nó quen dần thôi! Nhưng dẫm sỏi từ lòng đến phần trước bàn chân thì đau hơn dẫm ở phần gót. Chị khum mấy ngón lại để nâng lòng bàn chân lên một chút sẽ đỡ hơn! Đừng nản, vài ngày nữa quen hết.
Nghe lời chị Hiền, tôi cố khum mấy ngón chân mà đi. Vừa ra khỏi nhà mấy bước chúng tôi đã thấy một toán cả đàn ông lẫn đàn bà đi cùng chiều từ phía sau lướt tới. Tôi đau chân nên đi hơi chậm, chị Hiền cũng đi chậm lại chờ tôi. Toán người kia qua mặt chúng tôi xong cũng chậm bước lại. Vài người thỉnh thoảng quay lại nhìn hai đứa tôi. Họ xầm xì với nhau. Bỗng một bà cười khanh khách nói to:
- Hôm nay có bà đại úy đi quan sát chúng ta gặt lúa đó nghe! Chị em phải gắng lao động thật tốt không lại bị quở!
Tôi biết ngay là họ nói móc mình. Đang bỡ ngỡ chưa biết phản ứng như thế nào tôi lại nghe một giọng khác:
- Dân chuyên sống trên giày trên dép trông ra khác! Nội cách đi đứng cũng thấy trái dáng rồi!
Người thứ ba lên tiếng:
- Sao bà đại úy không bảo ông nhà cho xe "rép" chở một vòng cho khỏe mà phải đi khum khum bàn chân khổ sở vậy kìa?
Sao họ dễ gây sự đến thế? Tôi giận cành hông nhưng vẫn cố nhịn nhục coi như không nghe. Tiếp đó một giọng đàn ông nói lớn:
- Mấy bà này ăn nói gì lôi thôi dữ vậy? Chính sách của nhà nước đề ra là hòa hợp hòa giải dân tộc, các bà sao lại cứ khiêu khích chia rẽ như thế?
Một giọng đàn bà cãi lại:
- Thấy cách đi đứng làm bộ điệu khuê các quá thiên hạ ngứa mắt nói đôi lời chứ làm gì đâu mà chia rẽ?
Người đàn ông giải thích:
- Các bà phải thông cảm người ta đi chân đất chưa quen chứ làm bộ làm điệu gì?
Một giọng đàn bà khác phản đối:
- Thế tại sao chúng tôi đây lại đi chân đất được? Chúng tôi thuộc hạng người gì?
Lúc đó nỗi đau trong tim óc đã lấn át hết cả nỗi đau ở đôi bàn chân. Người tôi run lên, nước mắt tôi cứ chực trào ra. Tôi cố dằn từng bước mạnh trên đường như để tống xuất nỗi uất hận khỏi người. Bỗng có tiếng tập đoàn trưởng Phước quát:
- Thôi, đủ rồi! Yêu cầu các bà ngừng tranh luận ngay!
Im lặng được một lát tôi lại nghe một giọng nữ nói nhỏ:
- Cũng đẹp gái đấy chứ! Mấy cha đàn ông bị hớp hồn khi nào không hay đó!
Một giọng gay gắt lại trỗi lên:
- Đẹp cái con khỉ khô! Nhờ lấy con "c... chó" mà quệt môi quệt mép tô vẽ ra chứ nó hơn gì bọn mình?
Một giọng khác phụ họa:
- Sẵn tiền bóc lột của nhân dân sắm chi không được? Kiểu đi làm dáng đó là để đi trong các động ăn chơi mới đúng!
Biết tinh thần tôi đang căng thẳng tột độ, chị Lâm tiến lại gần bấm tay tôi nói nhỏ:
- Nói gì mặc họ, nói mỏi miệng hết nói!
Chị Hiền cũng nói nhỏ:
- Trước đây tụi tôi cũng bị họ xoi móc suốt mấy tháng trời. Nhưng tôi cứ một mực im lặng rồi cũng qua cả. Họ rất thù vợ lính, nhất là vợ sĩ quan...
Một lát sau chị Lâm dặn tôi:
- Mấy con mẹ đó nhiều chuyện lắm. Nhất là con mẹ Huy và con mẹ Dục, cô đừng thèm để ý đến lời chúng nó!
Nước mắt tôi cứ chực tuôn ra vì tủi thân. Ngay bước đầu đi làm việc tôi đã gặp những điều khổ tâm như thế, liệu tôi có thể làm việc lâu dài được ở cái hợp tác xã này không? Tôi đâm ra giận luôn cả bà nội lũ nhỏ. Tại sao bà nội cứ một mực đòi tôi phải trở về quê? Bà nội có biết tôi sẽ gặp phải tình cảnh này không? Nhìn lưỡi vằng móc trước đòn xóc, trong thoáng chốc đầu tôi bỗng dậy lên một ý nghĩ thật hung bạo. Không chừng tôi có thể liều mạng để trừng trị chúng! Tôi có thể bửa lưỡi vằng vào đầu đứa nào cả gan nói móc tôi một lần nữa!
Nhưng rồi tôi lại cố xua đuổi cái ý nghĩ dữ dằn ấy đi. Không thể được, nếu mình có mệnh hệ nào thì ba đứa nhỏ và bà nội sẽ khổ! Phải cố dằn lòng nhịn nhục!
*
Lúc bấy giờ xã Thiện Trường đang ở buổi giao thời của hai chế độ trồng lúa: loại lúa ngắn ngày và loại lúa dài ngày. Xã đang chủ trương tiến tới việc thống nhất trồng loại lúa ngắn ngày toàn bộ nhưng mới thực hiện chưa được một nửa. Phần lớn cánh đồng Thiện Trường là ruộng sâu, cây mạ giống thần nông lại quá thấp, dễ bị hư khi ngập nước. Bởi thế người ta vẫn còn phải cấy các thứ lúa địa phương dài ngày như lúa chiên, lúa hẻo rằn, lúa chùm dâu... Vì thân lúa địa phương cao, hay bị ngã, người ta phải dùng loại dụng cụ cổ điển là vằng để gặt.
Trước ngày ra quân tôi đã được nhiều người chỉ vẽ cách dùng vằng rất cẩn thận vì nó là thứ dụng cụ dễ gây hại chính người sử dụng nó nhất. Riêng chị Lâm còn chỉ cho tôi biết cách đề phòng đỉa cắn. Chị cũng tặng tôi một món bửu bối trị đỉa nữa. Đó là một cục vôi ăn trầu đựng trong một miếng vải nhỏ buộc túm lại. Thấy đỉa đeo chỗ nào cứ việc dí túm vôi đó vào chỗ ấy khiến đỉa bị phỏng miệng phải nhả ra.
Lần đầu tiên bước xuống ruộng lúa, tôi hết sức lúng túng. Đôi chân tôi dẫm nước bùn sền sệt chưa quen, nhột nhạt rất khó chịu. Nhiều chỗ sâu còn nước đọng, đỉa trâu, đỉa mén thấy nước động sung sướng tung tăng tỏa ra tìm mồi. Tuy gặp nhiều trở ngại nhưng vì tự ái với đám đàn bà kỳ thị nhỏ nhen kia, tôi cố làm như chẳng ngán một thứ gì. Thật ra cứ bước vài bước tôi lại lén liếc xem đôi chân mình có đỉa bám chỗ nào không. Tôi rất ngán loại đỉa mén mình nhỏ như que tăm, rất khó thấy. Chúng cứ chun vào giữa kẽ hai ngón chân hút máu mà không thấy đau đớn gì hết. Mãi đến khi chúng no nê thỏa mãn nhả mồi chỗ bị đỉa cắn mới chảy máu và ngứa ngáy mình mới biết.
Lúa mới chín, hầu hết thân lúa còn đứng vững rất dễ gặt. Lâu lâu mới gặp phải một đám lúa bị ngã. Gặt lúa đã bị ngã thường khó khăn hơn. Những chỗ này lúa hay bị rối nùi do nhiều bụi ngã chồng chéo lên nhau, gió máy lại làm chúng quyện vào nhau thêm. Cái cù ngoéo của chiếc vằng rất hữu dụng trong trường hợp này. Người ta dùng nó để khều móc các nhánh lúa ngã gom gọn vào nắm tay. Cứ đầy nắm người ta lại quay phía lưỡi thép có răng cưa để cắt. Chỉ kéo nhẹ một cái là nắm lúa tách khỏi thân gốc ngọt xớt.
Tôi vừa làm vừa theo dõi bắt chước từng động tác của những người bên cạnh. Thấy tôi là lính mới, nhiều bạn gặt cũng chú ý giúp đỡ. Sợ chuyện sơ suất xảy ra, chốc chốc lại có người nhắc chừng tôi. Với sự quyết tâm học hỏi, chỉ qua một buổi sáng tôi đã khá quen với công việc. Lúc nghỉ ăn cơm trưa nhiều người đến chúc mừng tôi, khen tôi sáng ý. Ông Phước là người khen tôi nồng nhiệt nhất. Dù chưa hẳn theo kịp mọi người nhưng tôi đã thấy phấn khởi, bớt lo.
Lúc mặt trời xế bóng, tập đoàn bắt đầu cho ôm gom lúa lại để bó. Mọi người lại làm việc thoăn thoắt. Tôi tưởng chừng như công việc này dễ lắm nên cũng làm vẻ thành thạo gom bó như mọi người. Chị Lâm thấy thế cười bảo:
- Bó được không đó? Để người khác họ bó cho. Từ từ tập lần!
Tôi không tin lời chị Lâm, cứ hăng hái làm. Nhưng loay hoay mãi tôi vẫn chưa bó được. Nhìn mớ cồi lúa xộc xệch dưới chân tôi, anh Sự tập đoàn phó cười:
- Chị sắp lúa thẳng đuột thế này bó không chắc đâu! Và dẫu bó được đi giữa đường nó cũng có thể xổ tung ra, mệt lắm. Chị phải sắp từng ôm cồi đan chéo nhau như thế này bó nó mới khỏi tuột!
Anh lấy từng ôm cồi, lần lượt đặt hơi chéo nhau lên sợi lạt, phần bông lúa vẫn quay về một bên, phần cọng quay về một bên. Khi nhắm đã đủ bó, anh xoắn một đầu lạt làm chuẩn rồi dùng sức rút đầu lạt kia thật mạnh để thắt phần giữa bó lúa lại xong lại xoắn đầu kia, tìm thế nhét vào vòng lạt để giữ kỹ luôn. Bó lúa hai đầu xòe ra, giữa thắt lại trông giống như một trái đậu phộng hai hạt. Anh Sự lại nói:
- Bây giờ gấp quá tôi giải thích chị chưa kịp hiểu đâu. Cứ từ từ mà học. Tạm thời chị cứ lo gom lúa đi, tôi bó cho.
Tôi đành ngượng nghịu bỏ đi gom lúa cho người khác bó. Tới khi thấy người ta xóc gánh lúa để gánh về, tôi lại ngạc nhiên thêm một lần nữa. Tôi đã từng xem một cuốn phim trong đó có cảnh gánh lúa trên đồng. Tôi nhớ như in những bó lúa người ta gánh lúc nào cũng quay phần cọng nhẹ quay lên trời, phần bông nặng trĩu thòng xuống dưới. Nhờ thế trông gánh lúa khá cân bằng, không chao đảo. Ở đây lại xóc bó lúa nằm ngang, đòn xóc dí thẳng vào giữa bó lúa gần sợi lạt bó. Khi gánh phần bông quay về một bên, phần thân lúa quay về một bên. Thế mà người ta vẫn giữ được thế cân bằng như thường.
2
Tôi liền lấy đòn xóc để xóc thử nhưng cũng không thành công. Một ông nào đó phải xóc giúp gánh lúa rồi đỡ lên vai cho tôi. Tôi gánh chạy theo mọi người mới được một đoạn đã thấy vai đau chịu không nổi. Từ khi về nhà chồng tôi vẫn gánh nước cho gia đình dùng nhưng đường gần nên tôi không tập cách trở vai. Bây giờ gánh lúa đường dài tôi mới thấy cái tai hại của khuyết điểm ấy. Nhìn những người khác ai cũng quay đòn xóc qua phía sau cổ để đổi vai một cách dễ dàng làm tôi phát thèm. Tôi cố bắt chước họ nhưng mỗi lần xoay đòn xóc qua cổ gánh lúa lại trệ xuống muốn tuột, thế là tôi phải vội xoay nó trở lại như trước. Muốn đặt gánh lúa xuống đường để đổi vai cũng không dám vì sợ cất lên lại không nổi. Biết nhờ ai giúp cho đây? Tôi gắng chạy theo một chị đàn bà đang chạy trước để hỏi:
- Chị ơi, có nghỉ dọc đường không hở chị?
Chị ta vừa thở vừa đáp:
- Gánh lúa có ai nghỉ dọc đường đâu! Đau vai thì cứ trở vai, hai vai thay nhau. Để xuống nhấc lên sẽ làm rụng lúa hết!
Thế là tôi phải nghiến răng chịu đau không dám nghỉ chân. May sao, cuối cùng tôi cũng lết về tới sân phơi. Ông Phước đang đứng sẵn ở sân phơi đỡ giúp tôi để gánh lúa xuống. Ông ta mỉm cười chỉ cho tôi đám củi ngổn ngang ở sân:
- Tôi biết cô Ngọc gánh lúa chưa quen đau vai lắm. Nhưng cô cứ yên chí, mọi việc sẽ quen dần. Giờ cô khỏi gánh lúa tiếp, cô ở lại đây chuyển giúp tôi mớ củi này chất ra phía sau nhà rồi quét dọn quanh sân cho sạch. Nghỉ một lát cho khỏe rồi làm!
Tôi mừng như bắt được vàng, vui vẻ nhận lời ngay. Phải nói là lúc ấy tôi sợ việc gánh gồng đến phát khiếp. Mới nhìn qua thấy đám củi không nhiều nhặng gì, tôi hơi thất vọng vì sợ mình thoát khỏi việc gánh lúa không được bao lâu! Nhưng khi nhìn kỹ toàn bộ cái sân, thấy rêu lá khá nhiều tôi mới yên chí mình có thể kéo thêm thời giờ ra.
Hút thuốc uống nước xong mọi người lại đi gánh lúa tiếp. Tôi cũng bắt tay vào công việc mới. Trước khi đi ông Phước quay lại dặn tôi:
- Cô Ngọc làm nhanh nhanh kẻo lúa về không kịp có chỗ để chất đó! Chỗ nào có rêu trơn cô gắng cạo đi, chà xát cho sạch để người ta bước khỏi bị trợt.
Thấy cầm chắc khỏi gánh lúa tiếp trong chiều nay, tôi đáp:
- Dạ, thưa anh, tôi sẽ cố gắng.
Liền đó tôi nghe một giọng nữ nói trổng:
- Chiều nay bà đại úy ở nhà rồi!
Tiếp theo là một giọng nữ khác chanh chua hơn:
- Có quí nhân phù hộ mà. Nay mai lên làm thư ký hợp tác xã rồi đấy!
Tôi lại ứa gan lên, muốn trả công việc lại. Nhưng thấy ông Phước đã đi khuất, tôi đành cắn răng làm thinh.
Đây là cái sân được lát gạch khá rộng trước mặt một ngôi nhà rường gồm đủ nhà lớn, nhà cầu, nhà lều kiến trúc theo kiểu cổ. Chủ ngôi nhà là một vị chức sắc trong xã trước đây, hiện đang bị giam ở một trại cải tạo nào đó. Ngôi nhà đã bị cách mạng trưng thu để chứa đồ đạc, phân thuốc của hợp tác xã. Cái sân lâu ngày không ai quét dọn nên rêu cỏ, lá mục, rác rưởi, sỏi đá phủ đầy. Người ta chỉ mới dọn một khoảnh nhỏ để chất lúa. Nhiều chỗ rêu bám cả lớp, tôi phải dùng cả dao liềm để cạo, chà xát cho sạch như lời ông Phước dặn. Kể ra dọn sạch cái sân này cũng mệt hộc hơi nhưng tôi vẫn thích hơn việc gánh lúa. Nhiều người gánh lúa về thấy công việc tôi làm có vẻ bằng lòng lắm.
- Sạch quá, tốt lắm! Thế này thì hết sợ trợt té gẫy xương rồi!
- Phải như thế đi mới đỡ nhợn chân. Cô lính mới hôm nay làm được việc lắm!
Ông Phước nhìn quanh rồi nói với tôi:
- Tốt đấy. Cô tiếp tục làm nốt phần còn lại nhé.
Thế là tôi lại tiếp tục dọn sân.
Buổi tối, khi người ta bắt đầu cho trâu lên giã lúa tôi thấy có một số người có vẻ như sửa soạn ra về. Tôi nhìn quanh tìm ai quen để hỏi ý nhưng thấy chị Hiền và cô Ánh đang làm việc ở đằng xa nên tôi ngại không dám lại gặp. Tôi chưa biết tính sao thì ông Phước kêu tôi mà nói:
- Được rồi, cô Ngọc nghỉ về nhà ăn cơm đi. Ăn xong, nếu thấy khỏe trở lại xảy rơm, ra lúa với người ta. Nếu không khỏe cô cứ nghỉ luôn, sáng mai đi làm tiếp.
Nghe ông Phước nói tôi hơi bỡ ngỡ. Mình được tùy tiện làm hay nghỉ như vậy ư? Lúc ấy người sẵn mệt, bụng lại đói nên tôi "dạ" một tiếng rồi rút lui. Chợt thấy chị Lâm đang làm gần đó, tôi lại gần hỏi chị:
- Chị về ăn cơm chưa?
- Không, về ăn xong tới làm lại nó cũng đói thôi, mất công lại tốn của ăn lần thứ hai. Thà ráng nhịn làm cho xong rồi về ăn luôn một thể.
- Thế sao ông Phước bảo em cứ về ăn, nếu mệt thì nghỉ luôn?
- Cô Ngọc chưa biết à? Nếu ăn xong cô trở lại làm tiếp thì được tính điểm tiếp, nếu cô nghỉ luôn thì bớt điểm, thế thôi! Đi làm người ta theo dõi cô từng bước chứ có phải để cô muốn làm gì thì làm đâu!
Giờ thì tôi đã hiểu. Tôi về nhà. Bà nội đã lo cơm nước sẵn. Sau khi ăn xong, dù không khỏe lắm tôi vẫn trở lại cùng mọi người lo việc xảy rơm, hốt lúa... Hình như chẳng có mấy ai không trở lại làm việc buổi tối.
Trong khi đang làm việc, cô Ánh hỏi tôi:
- Chốc nữa chị ở lại họp bình điểm không?
Tôi chưa hiểu rõ việc này nên hỏi lại:
- Bình điểm ra sao cô Ánh?
Chị Hiền giải thích vừa đủ tôi nghe:
- Mỗi ngày ra làm việc, mình theo dõi người khác làm được việc hay không rồi tối đến, trước cuộc họp, mình đề nghị cho người ta hưởng bao nhiêu điểm để mọi người biểu quyết. Làm cho có lệ vậy chứ ý kiến mình ai coi ra gì. Tôi khi nào cũng chiếm chỗ cuối bảng nên chẳng muốn tham gia bầu bán chi hết, về nhà ngủ lấy sức!
Tôi hỏi lại:
- Chị không tham gia bình bầu người ta không cho là tắc trách à?
Cô Ánh nói nhỏ:
- Ở đây có hai loại họp hành chị ơi. Như họp để học tập, để phổ biến thông tư bưu điệp hoặc bàn thảo phương hướng công tác mình không dự có thể bị người ta phê bình là tiêu cực, chống đối gì gì đó. Còn trường hợp bình điểm trong ngày mình không dự người ta còn mừng là khác. Càng ít người tham dự bình bầu người ta càng dễ thao túng. Mấy cuộc họp bình bầu thường chỉ có khoảng một phần ba nhân số là nhiều. Một phe với nhau hết chứ ai!
Hiểu ý Ánh, tôi cười:
- Nếu thế tôi cũng chẳng ở lại bình bầu làm gì!
Rồi một ngày dài đầy gian khổ cũng qua. Tôi về nhà đúng mười giờ đêm. Lúc ấy cả bốn bà cháu đều đã đi ngủ hết. Tôi rón rén rửa ráy sơ sài, ăn vội thêm vài miếng rồi chun vào mùng. Thân xác đã mệt nhoài, vai đau, lưng mỏi, tôi làm một giấc cho tới khi nghe tiếng kẻng báo thức...
*
Sang ngày thứ hai, ai gặp tôi cũng hỏi cảm tưởng về ngày làm việc đầu tiên, có chịu nổi với công việc không. Tôi chỉ cười - chịu đựng nổi sự mỉa mai xiên xỏ của đám người kia mới khó chứ công việc dù khó bao nhiêu chắc cũng ráng được! Khi trở lại công việc, tôi biết mình đã tiến bộ nhiều. Mặc dù các bắp thịt trong người đều còn ê ẩm, tôi vẫn thấy mình làm việc nhuần nhuyễn hơn hôm trước rất xa. Những bạn gặt ở gần tôi đều tỏ ra ngạc nhiên. Họ chẳng cần kềm cặp nhắc nhở tôi nữa. Sự tiến bộ quá nhanh trong công việc khiến tôi càng tự tin.
Thế nhưng tới mục bó lúa tôi lại tiu nghỉu chịu thua. Tôi đang bứt rứt trong lòng thì ông Phước lại đến. Ông nhỏ nhẹ dạy tôi cách đặt lạt, đặt lúa, rút lạt, xoắn lạt. Có lúc ông ta còn nắm tay tôi để chỉ dẫn cụ thể từng động tác. Nhưng vô ích, trong lãnh vực này cô giáo đã thành một cô học trò dốt. Rốt cục tôi vẫn trầm trầy trầm trật chẳng làm nên trò trống gì. Sau đó ông Phước nói với mọi người:
- Cô Ngọc làm việc tốt lắm, nhưng cô yếu tay quá, từ nay cô khỏi làm việc này - ông cười - không xay lúa được thì bồng em, chán gì việc!
Thế thì còn gì bằng! Nỗi ưu tư lớn của tôi đã được giải tỏa một phần. Tôi lại gắng xông xáo làm các việc khác để bù lắp vào chỗ yếu kém của mình. Chị Lâm thấy tôi làm quá hăng bèn nói nhỏ:
- Cứ làm từ từ, phải giữ sức để còn làm ngày khác nữa chứ!
Tôi thành thật nói:
- Em bó lúa không được phải gắng làm việc khác để bù chứ!
Chị Lâm nói:
- Bù cái gì mà bù? Bộ cô tưởng họ làm ơn cho mình ư? Đừng lầm mà thêm hao sức! Người biết bó biết xóc lúa họ chỉ đứng một chỗ để làm mà được tính đến 9, 10 công điểm một ngày. Người không bó lúa được chỉ cho 6, 7 công điểm là cùng. Thê thảm nhất là hạng không biết bó không biết xóc, phải lội nước lội bùn ôm gom lúa muốn bại tay, vấp lên trợt xuống cao lắm chỉ được trên dưới 5 điểm chứ mấy! Chớ có dại mà thiệt mình! Không bó lúa được có người quen tay họ bó cho! Việc xóc lúa đưa lên vai không nổi nhờ người ta giúp ít ngày rồi cũng sẽ làm được! Trong tập đoàn mình có cả chục mạng không bó nổi lúa chứ đâu phải một mình cô!
Chị Lâm vừa nói vừa nháy mắt hướng về phía chị Hiền, chị Hảo và đám đàn bà lắm chuyện nọ. Lúc này tôi mới để ý đến chuyện tập đoàn tôi số phụ nữ đông gấp ba số đàn ông. Điều này cũng dễ hiểu - một số đàn ông còn đang ở trong các trại cải tạo hoặc đang làm các công tác khác. Chị Lâm hạ thấp giọng:
- Cô Ngọc nên coi chừng cái lòng tốt của ông tập đoàn trưởng đấy!
Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
- Chị Lâm nói sao em chưa hiểu?
- Rồi từ từ cô Ngọc sẽ hiểu! Còn mấy con mẹ kia chỉ được cái già miệng đàn áp người ta chứ làm thì cũng như cứt chó chứ hơn ai!
Chị Lâm với tôi vốn là chỗ thân tình từ trước, chị lại là người chín chắn, tôi nghĩ chị đã nói tất không phải vô cớ. Vì thế tôi không hỏi nữa mà quay lại tiếp tục gom lúa.
Tới khi mọi người xáp lại xóc lúa để gánh, tôi lấy cái khăn lông đem sẵn xếp vuông để lên vai rồi ấn ngón tay xuống thử. Đó là mẹo cô Ánh bày cho tôi để giúp đôi vai gánh đỡ đau. Khi thử ấn nhẹ vào vai phải, tôi giật mình biết cái vai này còn đau quá đỗi! Giờ đành phải gánh vai trái vậy! Quả đúng lót vuông khăn trên vai gánh đỡ đau nhiều thật. Tuy không thoải mái mấy nhưng rồi tôi cũng gánh được gánh lúa về tới sân phơi như ai. Lần này uống xong miếng nước tôi lại phải cầm đòn xóc tiếp tục đi gánh nữa. Cứ việc nhìn người ta mà ráng sức! Vuông khăn trên vai đã đắc lực giúp tôi trong việc gánh gồng. Hú vía, hôm ấy người khác gánh được bao nhiêu gánh tôi cũng gánh được bấy nhiêu!
Mấy ngày kế tiếp công việc vẫn tiến đều. Tôi đã lần lượt loại trừ được một số khó khăn kế tiếp. Tôi đã tự xóc lúa và tự cất được gánh lúa lên vai. Khi gánh lúa tôi cũng dần trở vai được. Chỉ có một điểm tôi thấy khó khắc phục là sự dị ứng của những người đàn bà kia. Tôi có cảm tưởng như lúc nào họ cũng rình rập chờ cơ hội để mỉa mai, để xoi móc tôi. Do đó, cứ làm việc gần với họ là tôi mất tự nhiên, thiếu an tâm... Nhiều lúc tôi cứ băn khoăn không biết bao giờ mới chấm dứt được tình trạng này?
CHƯƠNG 11: MỘT NGƯỜI BẠN “ĐỒNG HỘI ĐỒNG THUYỀN" MỚI
Qua mấy ngày làm việc tôi đã quen mặt gần hết những người trong tập đoàn. Quen mặt thôi, thật tình tôi rất ngại phải tiếp xúc với họ, nhất là với đám đàn bà mới đến cư ngụ ở Thiện Trường. Những lời châm biếm cay độc của họ đã gây cho tôi một ấn tượng rất sâu đậm. Khi bức thế phải đối mặt với họ, tôi chỉ gật đầu chào sơ một chút chiếu lệ rồi tìm cách lảng tránh...
Từ khi mới ra làm việc, tôi đã nghe nói tập đoàn có cử một toán nhỏ đi cắt dọn rạ ở những phần ruộng mới gặt để cày sớm lo chuẩn bị cho vụ sau. Tôi vẫn ao ước được cử đi theo toán đó để được yên thân hơn. Bất ngờ một hôm chị Lâm nói với tôi:
- Mấy bữa nay cô vẫn mong được đi với toán cắt dọn rạ, nay toán đó đã trở về, tập đoàn cử tôi làm toán trưởng toán cắt dọn rạ mới, cô thích đi không?
Tôi mừng quá hỏi lại:
- Thật hả chị Lâm? Em tình nguyện đi với chị!
- Vậy thì chuẩn bị đi, có thể là ngày mai mình nhận việc.
- Nhưng tại sao tập đoàn lại cho cắt dọn rạ sớm vậy chị?
- Cô chưa làm ruộng nên chưa biết chứ ở làng mình năm nào vụ đầu nông dân cũng phải làm việc tối đa để bắt kịp thời vụ. Như bây giờ là tháng tư âm lịch, mình đang gặt thế này mà vẫn phải chuẩn bị luôn việc cấy mạ sao cho lúa vụ sau chín kịp gặt xong trong tháng bảy. Nếu để trễ sang tháng tám có thể gặp mưa lụt là thua. Lúa thần nông từ khi cấy đến khi gặt chỉ kéo dài ba tháng tới ba tháng rưỡi nên không đáng lo. Nhưng mình còn trồng lúa mùa cũ nữa nên phải cấy sớm hơn lúa thần nông trên một tháng mới kịp.
Vì vậy vụ này mới gặt xong một ít đã phải chuẩn bị đất gieo mạ lúa mùa. Sắp tới đây là giai đoạn mà nông dân gọi là "đầu này gặt - đầu kia cấy" rồi, gấp lắm. Mình đi cắt dọn rạ đây là để rảnh đất cho người ta cày xới trước, sau đó vô nước ươm đất để kịp làm tiếp vụ sau. Hi vọng vài năm nữa chỉ trồng toàn lúa thần nông, công việc vụ hè thu này sẽ được thong thả hơn. Đi cắt dọn rạ tuy công điểm thấp hơn đi gặt đôi chút nhưng bù lại đỡ gánh gồng mệt nhọc, đầu óc cũng được thoải mái hơn. Cứ coi thời gian này như đi giải lao đi!
Hôm sau thì chị Lâm chọn 4 toán viên. Tôi là người tình nguyện đầu tiên. Kế đó là cô Ánh và cô Xuân Hương. Vẫn còn thiếu một người, chị Lâm hỏi:
- Cần một người nữa, ai tình nguyện?
Tôi định kêu chị Hiền nhưng liền đó có một người nói to:
- Có tôi.
Tôi nhìn người vừa ứng tiếng: trời ơi, bà Hoành! Bà Hoành là một trong số những người đàng ngoài mới nhập cư xã Thiện Trường mà tôi đã có thành kiến không tốt. Tôi than thầm: mình đã muốn tránh bọn họ mà đâu có thoát? Tưởng tình nguyện theo toán cắt rạ là tạm xa được bọn họ, không ngờ vẫn còn một người trong bọn họ lẽo đẽo bám theo. Bóng dáng bà Hoành xuất hiện đã làm tôi cụt hứng.
Sau khi nghe ông Phước dặn dò những điều cần thiết, chị Lâm dẫn toán cắt rạ tách khỏi tập đoàn. Việc cắt rạ khỏi lội nước, chỉ dùng liềm, khỏe hơn gặt lúa nhiều. Rạ cắt xong cứ việc ôm chất lên bờ ruộng để đợi khi thuận tiện tập đoàn sẽ cho chuyển về ủ mục làm phân bón.
Chị Lâm đưa chúng tôi đến một vùng ruộng cao. Toán cắt rạ chỉ có năm người nên chúng tôi luôn làm việc sát cạnh nhau. Lúc đầu phải làm việc bên cạnh bà Hoành tôi thấy khó chịu lắm. Nhưng rồi tôi ngạc nhiên khi gặp thái độ hoàn toàn mềm mỏng, thân ái của bà ta. Có phải vì ở đây bà chỉ một mình nên không dám gây chuyện? Tôi đinh ninh như thế và vẫn dè dặt đề phòng. Để tạo bầu không khí vui vẻ, chị Lâm tinh nghịch nói đùa:
- Cắt rạ thế này chị em mình tha hồ cà đũng quần lên gốc rạ. Cũng đỡ ghiền lắm chứ không phải chơi đâu!
Bà Hoành cười tán thành:
- Đúng đó, vừa đỡ ghiền vừa đỡ mỏi nữa chứ!
Chị Lâm lại hỏi:
- Mấy cô có đồng ý như vậy không?
Ngoại trừ tôi, cả bốn người đều cười rộ lên vui vẻ. Cô Ánh nói:
- Cắt rạ hay bị gốc rạ nó làm mình nhột nhột một tí thôi nhưng đỡ mỏi thật. Còn hơn gặt lúa hay đi cấy cứ chổng mông ra mỏi lưng thấy bà!
Bà Hoành nghe cô Ánh nói thì cười khục khặc. Cô Ánh ngạc nhiên hỏi lại:
- Thím cười cái gì? Bộ cháu nói sai sao?
Bà Hoành vẫn cười:
- Không phải, nghe cô Ánh nói chổng mông tôi tức cười nhớ lại cái chuyện năm ngoái. Lần đó chị nói sao mà bị ra hầu xã một buổi còn nhớ không chị Lâm?
Lần này lại tới phiên chị Lâm cười sằng sặc:
- Bữa đó bọn tôi đang gặt lúa. Gặp lúc một phái đoàn của xã và mấy ông bộ đội đi tham quan cánh đồng đang đứng trên bờ phía sau lưng. Bà Vàng không biết bực mình chuyện gì đó nên cằn nhằn: "Mụ cô cha nó cực quá đi! Ngồi thì gốc rạ xóc vào đũng quần, đứng thì phải cúi xuống muốn gẫy lưng". Tôi nghe tức cười bèn nói đùa: "Thì cứ chổng mông mà gặt cho đằng sau người ta nhìn chứ ngồi làm gì cho gốc rạ nó xóc đũng quần!"
Mình nghĩ nói đùa mà cười đâu ngờ hôm sau cả hai chị em bị gọi ra xã làm kiểm điểm vì cái tội ăn nói bừa bãi, mất tư cách, thiếu văn hóa. Hôm đó có một chị ở ấp 2 cũng bị gọi tới làm kiểm điểm về tội phát ngôn bừa bãi như tụi tôi. Mấy người biết chị ta nói gì không? Chỉ vì một câu thôi: "Thóc lúa ở đâu bồ câu ở đó!"
JAN 28 - 2025
2
Cô Ánh chận ngang:
- Hai thím phát biểu như vậy ra hầu xã là phải rồi. Còn câu "Thóc lúa ở đâu bồ câu ở đó" chỉ là một câu tục ngữ ai cũng biết, tại sao bà kia lại phải làm kiểm điểm?
Chị Lâm cười:
- Tôi nói chưa hết mà. Vì thời gian ấy lúa chín nhiều sợ gặt không kịp, xã phải nhờ mấy đơn vị bộ đội đóng gần đó tăng cường gặt giúp. Phái đoàn của xã và toán bộ đội kia đi quan sát ruộng lúa cũng chỉ nhằm mục đích thương thảo việc đó. Thế mà chị ta nói như vậy có khác gì chửi xéo họ?
Mọi người cười vang lên. Cô Ánh lại hỏi:
- Thím nói chửi xéo ở chỗ nào?
Bà Hoành giải thích:
- Cô không biết đó chứ. Bộ đội thật ra thiên lôi chỉ đâu đánh đó thôi. Nhưng tỉnh hay huyện lại lúc nào cũng có sự trao đổi "hai bên cùng có lợi" chứ đâu dễ gì ai giúp đỡ không cho ai! Hai bên trao đổi với nhau dĩ nhiên hai bên đều được lợi. Rốt cục chỉ có nông dân chịu thiệt vì bao nhiêu tốn kém đều rút từ xương sống của nông dân. Vì vậy nói tới chuyện bộ đội đi gặt lúa giúp dân người ta nghĩ ngay là nói kháy, cấp lớn của họ cũng thấy nhột. Thế là đủ phạm lỗi rồi!
Nghe lời giải thích của bà Hoành tôi cũng đâm ra ngạc nhiên. Không ngờ bà ta cũng có cái giọng "phản động" như thế. Nhưng biết đâu đó là những lời cò mồi để người khác bắt chước nói theo rồi bị sập bẫy? Nghĩ thế nên tôi vẫn một mực im lặng. Thình lình bà Hoành hỏi tôi:
- Chị Ngọc sao buồn dữ vậy? Nói chuyện cho vui chứ!
- Tôi đâu biết chuyện chi mà nói!
- Chị mà không biết chi thì còn ai biết nữa! Dù sao thì đời cũng bầm dập rồi. Cứ vui mà sống chứ chị có buồn cũng vô ích thôi!
Tôi trả lời hơi gay gắt:
- Mấy bà đối xử với tôi như vậy mà bảo tôi vui được à?
- Trời ơi, chị hiểu lầm tôi rồi. Tôi có hề nói gì chị đâu mà mấy ông với mấy bà! Chắc chị Ngọc ghét tôi lắm nhỉ?
- Câu đó phải dành cho tôi hỏi bà mới đúng!
Bà Hoành nở một nụ cười nhân nhượng:
- Thôi thì đáng ai hỏi ai cũng được. Đồng hội đồng thuyền cả mà chị Ngọc! Nói thật, tôi rất có cảm tình với chị chứ không như bà Dục bà Huy đâu. Chị đừng hiểu lầm! Thấy chị bị họ mỉa mai bươi móc tôi cũng bực lắm chứ. Tôi không hề tán đồng việc làm của họ đâu. Nghĩ mình gặp nhau hằng ngày mà cứ như đuôi với sừng tôi khó chịu lắm. Hi vọng rồi đây chị sẽ hiểu tôi hơn!
Thấy giọng điệu bà ta không đến nỗi nào, tôi đâm ra tò mò:
- Cám ơn bà. Thế bà nói đồng hội đồng thuyền nghĩa là sao?
Bà Hoành nói:
- Chắc lâu nay chị vẫn tưởng tôi hùa với mấy người kia để ức hiếp chị? Không có đâu chị Ngọc! Tôi biết người ta xử ép chị nhiều lắm. Người ta vẫn gán cho chồng chị là thành phần ác ôn. Lại nữa, chị đẹp đẽ hơn họ nên họ càng ganh ghét. Tôi cũng có nỗi oan tương tự nên tôi thông cảm hoàn cảnh của chị lắm chứ!
Tôi chưa hẳn tin bà Hoành đã nói thật lòng. Biết đâu bà ta chẳng có một ý đồ nào khác? Tôi dè dặt nói:
- Ghét thương mặc họ, khi họ nói cạnh nói khóe tôi, tôi cũng có giận một chút, nhưng chuyện qua rồi thôi. Tôi đâu có để tâm làm gì!
Bà Hoành lại cười:
- Tôi giãi bày như thế chị vẫn chưa tin ư? Chị biết tôi trước đây thuộc thành phần nào không? Người ta gán cho gia đình tôi là địa chủ, kẻ thù của nhân dân đấy chị Ngọc ạ! Chỉ có điều oan cho tôi là địa chủ đôn lên chứ không phải địa chủ chính hiệu! Nhưng đôn hay thật thì gia đình tôi cũng tan nát rồi!
Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
- Gia đình chị đã tan nát rồi?
- Vâng, tan nát từ thời 53-54 kia.
- Tan nát vì gia đình chị thuộc thành phần địa chủ?
- Vâng, nhưng thật tình gia đình tôi chỉ là địa chủ do địa phương đôn lên thôi chứ không phải địa chủ thứ thiệt!
- Tại sao lại có sự đôn lên như vậy?
- Thôi, chuyện đó dài dòng lắm, vả lại nói lúc này cũng không tiện. Có dịp tôi sẽ kể cho chị nghe sau. Bây giờ mình nên làm gì để mọi người cùng vui mà làm việc đã phải không chị Lâm? Tôi nghe nói cô Xuân Hương và cô Ánh hát hay lắm, giờ chỉ có năm chị em mình, hai cô hát cho nghe vài bản đi!
Chị Lâm tán thành:
- Ừ, phải đấy, hát vài bản cho vui đi hai cô lười biếng!
- Sao thím bảo bọn cháu lười biếng? - Ánh hỏi.
- Không lười biếng mà tình nguyện đi cắt rạ à? Lớn tuổi người ta mỏi lưng, còn mấy cô con gái nòng nọng như vậy mà cũng đi cắt rạ còn cãi gì nữa?
Ánh im lặng cười. Xuân Hương có vẻ rụt rè:
- Nhạc cách mạng cháu ít thuộc lắm!
Bà Hoành nói:
- Nhạc cách mạng ngày nào chẳng có hát trên loa. Chúng tôi muốn nghe là nghe nhạc vàng cơ! Phải không chị Lâm chị Ngọc?
Thế là Xuân Hương và Ánh thay nhau hát cho cả toán cùng nghe...
*
Từ cái lần nói chuyện cởi mở ấy trở đi, tôi và bà Hoành hay gặp gỡ chuyện trò với nhau. Tôi đã đổi cách xưng hô từ bà Hoành sang chị Hoành. Chị Hoành vốn ở cùng một kiệt với tôi nên việc qua lại cũng thuận tiện.
Một lần kia, giữa lúc đang cắt rạ, chị Hoành vừa cười khúc khích vừa nói:
- Có một cái tin hay lắm: Bà Huy bà Dục bà Nghĩa trước đây chế nhạo chị Ngọc đẹp nhờ lấy con "c... chó" để quệt môi quệt mép thế mà lúc này thấy họ cũng đang dùng con "c... chó" để quệt lên môi lên mép rồi đấy!
Cả bọn chúng tôi cùng cười ồ lên. Chị Hoành lại nói nhỏ với tôi:
- Thấy tôi hay gần gũi chị mấy bà nhờ tôi hỏi chị mua thứ ấy ở đâu cho tốt và rẻ đó!
Tôi bật cười:
- Chị bảo họ bắt mấy con chó đực để cắt lấy mà dùng!
FEB 2 - 2025
CHƯƠNG 12: MỘT NGƯỜI BẠN “ĐỒNG HỘI ĐỒNG THUYỀN" MỚI
Trong thời gian dọn gốc rạ này, chúng tôi đã vô tình chứng kiến một cảnh hành hạ súc vật hết sức thương tâm.
Hôm ấy chúng tôi đang cắt rạ bỗng nghe tiếng thét nạt "tắt, rì, hị, hẹ…" vang vang ở thửa ruộng bên cạnh. Chị Lâm nhìn sang phía người đang cày rồi nói:
- Hôm nay ông Bụi cày thửa ruộng gần đây rồi! Chà, con trâu Xe ông Bụi đang cày ấy giỏi nổi tiếng nhất ở xã Thiện Trường đó. Nó ngoan lắm, đã khỏe sức dẻo dai lại hiểu được ý người điều khiển. Trước đây chủ nó là ông Lực cày thường chỉ nghe mấy tiếng tắt rì nhỏ nhẹ nay sao ông Bụi lại phải lớn tiếng quát tháo vậy không biết?
Xuân Hương hỏi:
- Sao thím biết được?
- Tao đi làm thuê ở xã này cả đời không biết được sao? Để tao kể cho nghe. Con trâu Xe ấy nó khôn lạ lùng. Hồi ông Lực con bà Vấn còn sống, ông ta chuyên dắt nó đi cày mướn. Ngày ngày cứ sáng sớm ông lại vác cày dắt trâu ra ruộng. Người và vật làm việc bên nhau không khác chi cha con. Khi cày, ông Lực cứ nhỏ nhẹ bảo tắt bảo rì, con Xe bao giờ cũng ngoan ngoãn làm theo lời chủ.
Gần như ông Lực chẳng mấy khi phải đụng đến ngọn roi, hoặc có đụng roi cũng chỉ đụng khẽ ra dấu hiệu nhắc nhở. Khi nghỉ giải lao, ông Lực thường mở ách cho con Xe gặm cỏ ở bờ ruộng. Lúc đang gặm cỏ, nếu thấy con Xe đi hơi xa, ông Lực chỉ cần quát "Xe, trở về!" là nó tự động quay lui. Đi dọc đường, những con trâu khác thường hay vói miệng ăn cắp những đọt sắn, đọt bắp, thậm chí cả những bụi lúa của người ta ở gần lề đường, riêng con Xe thì không.
Không hiểu ông Lực đã huấn luyện cách nào mà con Xe thuần thục đến vậy. Bà Vấn thương nó như con. Nhiều khi nó nghỉ, bà không ngại dơ bẩn, bước vào chuồng để bắt từng con ve con lằn hoặc gãi tai gãi cổ nó. Rất nhiều lần bà tự đi kiếm rơm kiếm cỏ cho nó ăn. Khi ông Lực đã mất, nhiều người trong xã rất muốn mua lại nó. Nhưng bà Vấn nhất định không chịu bán dù nhà thiếu người chăn. Ai cần mướn để cày, bà Vấn cũng có cho mướn nhưng rất giới hạn.
Bà luôn lo việc bảo vệ sức khỏe cho nó. Đến khi xã Thiện Trường lên hợp tác xã, ủy ban xã đã mất rất nhiều thì giờ để vừa đe dọa vừa thuyết phục bà Vấn mới chịu để họ hóa giá nó. Vừa hóa giá xong là có người tình nguyện dắt nó về để săn sóc ngay. Nói vậy chứ săn sóc cái gì? Thấy nó làm được việc quá người ta cố giành để lợi dụng thôi. Bà Vấn đã khóc khi phải giao con vật dễ thương ấy cho hợp tác xã. Bây giờ chắc nó không còn được săn sóc tử tế như trước đâu...
Trong khi chị Lâm kể chuyện, bên kia tiếng quát nạt, hậm hẹ vẫn liên tục vang lên. Giọng quát nạt của ông Bụi càng lúc càng trở nên giận dữ.
- Sao hôm nay mày trở chứng ra vậy Xe? Muốn ăn roi hả? Muốn ăn roi thì tao cho ăn roi đây này!
Tiếng vun vút đen đét của chiếc roi cày rít lên nghe rợn người.
- Mày lì hả Xe? Mày muốn nằm vạ hả Xe?
Lại tiếng roi vun vút đen đét!
- Thế này thì tao làm sao để đạt tiêu chuẩn? Lì hả? Mày không chịu đi hả?
Tiếng vun vút đen đét của ngọn roi lại vang lên.
- Thằng cha mày thế này là mày hại tao rồi! Lì này! Lì này!
Cứ tiếng roi bên kia vút lên bên này tôi lại giật mình thon thót. Chị Lâm lẩm bẩm:
- Con trâu Xe ấy có bao giờ lì lợm như vậy đâu? Không hiểu sao hôm nay nó trở chứng cũng kỳ thật!
Cô Ánh than thở:
- Nhưng sao ông Bụi ấy đánh nó dữ thế? Nó chịu đựng gớm thiệt! Mình mà bị một roi như vậy chắc chết!
Bên kia tiếng ông Bụi lại vang lên:
- Thằng cha mày nằm vạ này! Nằm vạ này!
Tiếng roi vút nghe liên tục quá khiến cả bọn tôi đều quay mặt nhìn sang. Chúng tôi ngạc nhiên thấy con trâu cổ vẫn mang cóng dù nhưng lại nằm ẹp trên đất ruộng. Ông Bụi vẫn vụt roi liên tiếp.
- Mày không chịu đứng dậy hả? Nằm vạ này! Nằm vạ này!
Có lẽ không nhẫn tâm được, chị Lâm kêu lớn:
- Anh Bụi ơi, anh đánh nó chi dữ vậy? Xưa nay nó có bao giờ lì đến thế đâu! Chắc có vấn đề chi đó chứ anh! Anh cho nó nghỉ một lát đi!
Ông Bụi trả lời chị Lâm với vẻ bực bội:
- Cô nghĩ thế này có chết tôi không? Làm sao tôi đạt được chỉ tiêu?
Tuy nói vậy nhưng ông Bụi cũng ngưng hành hạ con trâu. Ông bước lên bờ ruộng ngồi hút thuốc. Chị Lâm nói với chúng tôi:
- Nghe cái tiếng chỉ tiêu mà rùng mình. Xã mình đã có nhiều con trâu chết vì làm việc quá sức rồi. Nhưng người ta cứ đổ cho lý do này lý do khác chứ có ai nhận lỗi hành hạ trâu đến chết đâu!
Xuân Hương than:
- Tội nghiệp con vật nó không kêu khóc được!
Một lát sau chúng tôi thấy ông Bụi đang loay hoay mở dây ở cóng dù trên cổ con trâu. Chị Lâm ngạc nhiên nói:
- Chắc con trâu nó thế nào rồi. Sao ông Bụi lại mở cóng dù? Con Ánh mày chạy sang xem thử sao!
Cô Ánh đi một lát trở về nói:
- Con trâu nó ứa nước miếng ra cả vũng, hình như có lẫn cả máu nữa. Nước mắt nó cũng chảy đầm đìa. Nó cũng biết khóc như người, thảm thiết quá. Nó nằm thở phì phò, ông Bụi để trước miệng nó một ôm cỏ nhưng nó không chịu ăn.
- Thôi, thế là xong rồi! Con trâu này cũng hi sinh vì chỉ tiêu rồi! - chị Lâm than.
Lát sau thì ông Bụi bỏ con trâu nằm đó, vác cày về nhà. Chị Lâm nói:
- Chắc con trâu bệnh cày hết nổi!
Thấy tội nghiệp con trâu, lâu lâu chúng tôi lại nhìn chừng xem nó có đứng dậy ăn không. Nhưng cả tiếng đồng hồ sau chúng tôi thấy nó vẫn nằm.
Mãi đến xế trưa ông Bụi mới trở lại với một đoàn người mang đủ cả dao búa, gánh gióng thùng gánh nước, thúng rổ. Lúc đó chị Lâm mới kêu lên:
- Hóa ra con trâu nó chết rồi!
- Họ làm thịt luôn ở đây à? - Tôi hỏi.
- Chắc vậy. Nếu không, làm sao đưa con trâu nặng nề ấy về được?
Đám người kia thì nói cười có vẻ hả hê lắm. Họ bắc cái thùng nấu nước sôi rồi xúm nhau mổ thịt con trâu ngay giữa ruộng thật.
Lúi húi với nhau một hồi có người kêu lên:
- Trời ơi, cái lá lách dập hết thế này biểu nó sống sao được?
- Dập lá lách à? Tội nghiệp chưa, nó là con trâu cày giỏi không một con trâu nào khác sánh kịp mà! Thế mà cứ bảo nó lười!
- Con vật sinh ra để phục vụ con người, nó chết cứ làm thịt ăn chứ than thở cái gì?
Mọi đám mổ trâu đang lăng xăng công việc bỗng thấy một người đang tất tả tiến về phía họ. Hình như quá vội vã nên người ấy đã ngã xuống đứng lên nhiều lần. Khi người ấy gần tới nơi thì một người thốt lên:
- Trời ơi, mụ Vấn - chủ cũ của con trâu Xe đó. Mụ cưng con trâu ấy lắm. Hơn bảy chục tuổi rồi mà nghe con trâu chết mụ còn lặn lội ra đây cũng tội nghiệp. Chốc nữa lựa miếng thịt nào ngon biếu cho mụ một miếng nghe.
2
Thấy bà Vấn xăm xăm bước đến, mọi người hồi hộp đợi xem bà ta làm gì. Không chào hỏi ai một lời, bà Vấn tiến thẳng tới phục xuống ôm lấy cái đầu con trâu mà khóc tức tưởi:
- Xe ơi, con chết oan uổng lắm con ơi! Không đứa nào lo rơm cỏ cho con ăn mà ngày nào chúng cũng bắt con làm việc hết sức như vậy con làm sao sống nổi? Cái hợp tác xã này là cái hợp tác xã giết người, hợp tác xã bóc lột! Chỉ tiêu, chỉ tiêu cái mụ cô cha bây! Bây giết con tao chết oan uổng lắm! Khổ thân con tôi lắm con ơi là con ơi!
Ông Bụi thấy bà Vấn chửi bới om sòm như vậy thì nạt lại:
- Mụ phản động hả? Con trâu bị bệnh thì nó chết. Trâu của mụ hợp tác xã đã hóa giá cho mụ rồi, mụ đâu còn là chủ của nó nữa? Chửi lạng quạng coi chừng vô tù!
Bà Vấn càng giận dữ hơn:
- Mụ cô cha thằng Bụi! Chính mi là kẻ giết con tao! Nếu mi không chạy đua với cái chỉ tiêu quái ác đó con tao đâu đến nỗi thế ni! Mi nói tao không còn là chủ con Xe nữa à? Từ trước tao vẫn yêu thương nó, săn sóc nó như con! Nó là con tao mà! Mà hợp tác xã đã trả nợ hết cho tao đâu? Tự chúng nó hóa giá cho tao rồi mỗi năm trả cho tao một ít. Tới chừ chúng đã trả cho tao được một nửa chưa? Mụ cô cha thằng Bụi! Con chết oan uổng, đau đớn lắm Xe ơi! Con có linh thiêng thì niện hồn về húc chết chúng nó hết đi!
Chửi bới bưa bà Vấn lại ôm đầu con trâu nằm tại chỗ mà khóc. Ai khuyên dỗ gì bà cũng coi như không. Cuối cùng người ta phải cho người về báo tin cho cô Lê, con gái của bà, nhờ cô đến khuyên nhủ dắt bà về.
Cô Lê phải năn nỉ dỗ dành mẹ cô cả tiếng đồng hồ bà mới chịu nghe.
Khi cô Lê vừa dắt bà Vấn đi được mấy bước, một người chạy theo đưa cho cô một miếng thịt. Bà Vấn thấy vậy lại nổi điên lên:
- Bây bắt tao ăn thịt con tao hả? Quăng lại cho nó, cho bè đảng nó ăn cho sướng!
Cô Lê hoảng sợ vừa khoát tay từ chối vừa hối hả kéo mẹ về. Hai mẹ con đi đã xa mà tiếng chửi rủa của bà Vấn vẫn còn văng vẳng.
*
Thấm thoắt toán tôi cắt rạ đã được một tuần. Sáng ấy chị Hoành nói với tôi:
- Phần ruộng cần cày để gieo mạ và ươm đất tập đoàn giao mình cắt sắp xong. Bọn mình sắp trở về đi gặt lúa tiếp với tập đoàn. Hôm nay là ngày giỗ bố tôi, buổi tối mời chị Ngọc lại nhà tôi uống bát nước.
- Chị mời ai có đông không?
- Không, chỉ có một ông anh họ, chị Lâm và chị thôi. Tôi đâu dám làm rình rang.
- Lúc nào? Tới sau khi mình cắt rạ về được không?
- Vâng, được! Tôi có xin chị Lâm về sớm hơn một chút để lo sắp xếp công việc.
- Dạ, tối tôi sẽ đến. Nhưng chị nhớ còn thiếu tôi một món nợ đó nghe.
- Vâng, nhớ rồi! Lần trước tôi có hứa với chị, tôi sẽ trả trong dịp này đấy.
Khi chị Lâm và tôi đến nhà anh chị Hoành thì việc cúng kiến đã hoàn tất, mâm cỗ đã dọn sẵn đợi chờ. Ăn uống xong, anh Hoành đem ghế ra sân ngồi nói chuyện với ông anh họ. Chị Hoành thì dọn chén đũa xuống nhà bếp xong liền trở lại bắt đầu kể chuyện:
- Hồi nhỏ tôi tên là Nụ, con đầu trong gia đình. Thời cải cách ruộng đất tôi mới lên mười sáu, bố tôi đã hứa gả tôi cho anh Hoành tức chồng tôi bây giờ đó. Hai đứa em tôi đều là con trai, thằng lớn tên Khôn mới lên mười, thằng Tài mới lên bốn. Gia đình tôi nói là giàu có, thật tình cũng chỉ ở hạng trung. Bố tôi chỉ có cỡ vài ba mẫu ruộng, thêm một ít đất rẫy với một con bò chứ mấy! Ngặt vì thời cải cách chính quyền ra tiêu chuẩn cho xã tôi phải đấu tố ít nhất là năm tên địa chủ...
- Cũng tiêu chuẩn, chỉ tiêu nữa! - chị Lâm chen vào.
- Vâng, đấu tố địa chủ cũng phải đặt ra tiêu chuẩn số lượng. Xã tôi thật sự không có người giàu lớn mà chỉ có hạng xoàng xoàng. Viên bí thư xã bàn với viên đội trưởng đội cải cách ruộng đất lựa một số trung nông trong xã đưa ra cho ủy ban nhân dân xã biểu quyết nâng lên hàng địa chủ cho đủ con số được ấn định. Bố tôi không may bị lọt vào danh sách những người bị đôn lên đó. Thấy tình thế nguy cấp có thể ảnh hưởng đến tương lai của tôi, bố mẹ tôi vội tổ chức đám cưới cho chúng tôi.
Thủ tục hôn sự được làm giản tiện chẳng khác gì một đám cưới chạy tang. Tôi vừa về nhà chồng thì gia đình tôi bị cô lập, bố tôi bị bắt giam, tài sản bị niêm phong. Sau đó bố tôi bị đưa ra đấu tố, bị ném đá và đánh đập đến mang bệnh mà chết. Mẹ tôi và em Khôn thì bỗng nhiên biệt tích. Người trong làng cho rằng hai mẹ con đã trốn vào Nam, nhưng tới giờ tôi vẫn chưa hề bắt được tin tức gì về hai người. Khốn khổ cho đứa em út của tôi, thằng Tài mới bốn tuổi còn kẹt lại ở nhà. Nghe nói nó chịu đói chịu khát một thời gian dài mà họ hàng xóm giềng không ai dám giúp đỡ gì cả.
Nhà cha mẹ tôi bị canh giữ, tôi sợ quá đâu có dám về thăm em. Sau này tôi nghe người ta kể lại em Tài đã chết bên một đống rác chị ơi! Tội nghiệp nó quá! Cái hình ảnh và tiếng nói của em Tài lúc chia tay tôi không thể nào quên được. Với đôi mắt ngây thơ đẫm lệ, nó kêu van: "Chị ở nhà với em, chị đừng đi chị Nụ ơi!".
Hăm mấy năm rồi tôi vẫn chưa quên đôi mắt đẫm lệ và tiếng kêu van thống thiết của nó được. Sau này lâu lâu tôi lại mộng thấy nó. Hôm rồi tôi cũng mộng thấy nó nữa, tôi thấy thân hình nó ốm teo, chỉ mặc một cái áo rách, đang bò lên đống rác bốc rác mà nhai! Xúc động quá tôi bật khóc òa lên rồi anh Hoành đánh thức tôi dậy...
Nghe chuyện tôi cũng không cầm được nước mắt, bèn hỏi:
- Thế chị có biết nó được chôn ở đâu không?
- Biết, một người trong xóm đã chỉ cho tôi. Tôi đã cải táng cho em Tài cùng lượt khi cải táng bố tôi. Nhưng nay tôi vào sinh sống ở đây, không biết bao giờ mới về thăm mồ mả được!
Nói đến đây chị Hoành khóc sụt sịt. Vừa lúc đó thằng con nhỏ của chị chạy lại nói:
- Mẹ treo mùng cho Dần ngủ đi!
- Ừ, để mẹ nói chuyện một chút nữa đã.
Chị quay sang nói với chúng tôi:
- Thằng Dần này không hiểu sao nó lại giống cậu Tài nó một cách lạ lùng. Nếu Tài còn sống giờ đây chắc nó cũng có vợ con rồi. Cứ thấy thằng Dần tôi lại nhớ đến Tài. Có khi nào vì lưu luyến tôi, Tài nó đầu thai lại không hở mấy chị?
Chị Lâm nói:
- Theo thuyết nhà Phật trường hợp như vậy vẫn có thể xảy ra. Nhưng cháu Tài khi chết tuổi còn thơ ấu chưa đến nỗi mắc tội lỗi gì sao lại bị đọa xuống làm người nữa? Không có đâu!
Tôi nghe chị Lâm nói thì tức cười hỏi lại:
- Chị cho làm người là bị đọa à?
Chị Lâm nói:
- Chứ gì nữa? Cô không thấy làm người như tụi mình ngày nào cũng làm việc quần quật từ tinh sương cho tới gần nửa đêm mà chẳng bao giờ đủ ăn sao? Như vậy không phải bị đọa ư? Nhưng thôi, sự hiểu biết của tôi thô thiển lắm, không dám bàn đến chuyện đó nữa. Giờ cũng khuya rồi. Mình xin phép về để chị Hoành mắc mùng cho cháu ngủ.
Thế rồi chúng tôi cáo từ anh chị Hoành. Ra tới đường, chị Lâm nói với tôi:
- Ngồi ráng nghe bà Hoành nói chuyện cũ thêm buồn chứ được gì! Chế độ này nói chi ngạ mà nói!
CHƯƠNG 13: MỘT TAI NẠN BẤT NGỜ HIẾM THẤY
Sau khi cắt dọn xong số rạ ở những thửa ruộng cao đã được chỉ định, chúng tôi lại trở về làm việc với tập đoàn. Lúc này tập đoàn 9 đang gặt số ruộng vùng đầm lầy trũng thấp, phần ruộng mầu mỡ nhất và cũng xa nhất của xã. Dù cấy hay gặt ở số ruộng này, nông dân đều phải đi bằng thuyền. Ở Thiện Trường người ta vẫn gọi thuyền lớn là nôốc. Thuyền con thì có hai loại là ghe và tròng. Ghe đan bằng tre, nức bằng mây rồi trát dầu rái hoặc dầu hắc. Tròng cũng ghép ván như nôốc nhưng nhỏ hơn nhiều.
Thường năm rất ít khi có mưa trong vụ gặt đầu, nhưng không hiểu sao mấy hôm ấy trời có vẻ u ám và nực nội khó chịu. Vụ này lúa được quá. Cả cánh đồng sáng rặt những tấm thảm lúa bông nặng trĩu. Nếu gặp mưa, dù mưa lớn hay nhỏ đều có thể gây thiệt hại cho nông dân. Nhất là số ruộng thấp này dễ bị ngập nước, sự thiệt hại càng lớn. Vì thế, xã phải xin huyện cho bộ đội địa phương tăng cường gặt giúp.
Hôm ấy là lần đầu tiên trong đời tôi bước chân xuống một chiếc thuyền. Những người xuống trước đã ngồi sẵn hai dãy bên mạn. Vừa bước một chân vào thuyền tôi đã bị chao người vì thuyền lúc lắc. Anh Sự ngồi ở đầu thuyền liền nắm tay tôi kéo lên:
- Coi chừng té, coi chừng té!
Tôi cố giữ thăng bằng để bước vào giữa thuyền kiếm một chỗ ngồi. Ông Phước đã ngồi sẵn ở mạn thuyền, thấy tôi tới ông vội nhích ra chừa một khoảng trống:
- Chỗ này còn rộng, cô Ngọc ngồi xuống đi!
Tôi đứng lại, quay mông về phía mạn thuyền toan ngồi. Bất ngờ ông Phước ngửa bàn tay đặt ngay vị trí tôi sắp tọa xuống. Đang thuận đà, thuyền lại chòng chành, tôi không thể nào dừng kịp. Thế là tôi ngồi tõm lên bàn tay của ông ta. Đơm bẫy sập được mồi, ông Phước bóp mạnh một cái khiến tôi ngượng chín cả người. Điên tiết lên vì hổ thẹn, tôi bất giác thốt lên:
- Đồ mất dạy!
Nhiều người cười ầm lên. Bao nhiêu cặp mắt trong thuyền đồng loạt hướng về phía tôi. Tôi vùng vằng đứng bật dậy. Nhưng chiếc thuyền cứ lúc lắc làm tôi chao đảo muốn ngã chúi về phía trước. Chị Hoành ngồi gần đó liền nắm tay kéo tôi ngồi xuống cạnh chị. Ông Phước bày trò nhăn nhó xuýt xoa:
- Trời ơi, cô Ngọc làm gì cũng phải ý tứ một tí chứ! Dập cả bàn tay tôi rồi! Giờ làm sao tôi gặt lúa?
Tiếng cười lại nổi lên râm ran. Tôi sùng gan định ăn thua với ông ta nhưng chị Hoành bấm tay tôi:
- Xuỵt, thôi bỏ đi.
Tôi giận muốn trào nước mắt. Tôi vẫn nghĩ những cán bộ cách mạng dù thế nào đi nữa họ vẫn cố giữ một bộ mặt đạo đức trước mắt người dân chứ! Ai ngờ lão Phước dám để lộ cả bản chất thô tục như một tên côn đồ thế này?
Tôi đã cố nén cơn giận làm lơ. Nhưng lão Phước đâu chịu buông tha! Khi đã phân chia công việc xong, lão cố tình đi ngang trước mặt tôi, đưa bàn tay lên mũi hít hít rồi xuýt xoa:
- Khốn khổ cái bàn tay của tôi!
Chị Lâm cũng bực bội vì cử chỉ nham nhở đó. Sợ tôi phản ứng, chị vội kéo tôi bước xuống ruộng, nói nhỏ:
- Kệ mẹ lão! Giờ thì cô hiểu lời tôi nói bữa trước rồi chứ! Cô phải đề phòng đấy. Nhan sắc của cô làm thằng chả thèm rệu nước miếng rồi đó, nó chẳng tha đâu!
Tôi bực dọc nói cứng:
- Với ai chứ gặp em, em sẽ làm tới tay, em không ngán đâu!
- Cô lầm rồi, cô dựa vào thế lực nào để chống với lão ta? Bình điểm, cắt công tác, phê bình tác phong, thẩm định thái độ chính trị của mọi người trong tập đoàn cũng do một tay lão hết. Không những chuyện đói no của gia đình cô tùy thuộc vào lão mà đến cả sinh mạng chú Thành cũng tùy thuộc vào lão nếu chú ấy còn nằm trong tù. Mình có nói cũng chẳng ai nghe đâu! Cô phải hiểu được điều đó chứ!
Tôi hiểu chị Lâm có lòng tốt lo sợ cho tôi. Nhưng tôi cũng tin mình còn một lối thoát khác. Tôi biết anh Hảo đang lập thủ tục bảo lãnh ba mẹ tôi sang Pháp. Nếu ba mẹ tôi đi được, tôi có thể là người được thừa hưởng ngôi nhà của ông bà, tôi sẽ về Sài Gòn. Hoặc giả nếu phải bán ngôi nhà ấy, ba mẹ tôi cũng sẽ cho tôi một số vốn, tôi sẽ đi buôn. Hơn nữa, hiện tại ba tôi đang dịch sách cho nhà nước, được ngợi khen, trọng vọng, ba tôi có đủ uy tín để cứu vớt nếu tôi gặp khó khăn. Nghĩ vậy nên tôi nói:
- Vậy chắc rồi em cũng phải đi khỏi chỗ này thôi!
Không rõ được những ý nghĩ thầm kín của tôi nên chị Lâm gạt phăng:
- Chạy trời không khỏi nắng cô Ngọc ơi! Tôi thương cô là con nhà danh giá, sợ cô lầm chước quỉ mà bị đọa nên phải đem lời thành thật mà khuyên. Cô phải cố nhịn và gắng giữ mình. Thời buổi này điên đảo lắm cô Ngọc à!
Trước thái độ chí tình của chị Lâm, tôi cảm động nói:
- Thành thật cám ơn chị, em nghe lời chị!
Suốt buổi gặt sáng hôm ấy tôi luôn đi sát cánh chị Lâm và chị Hiền. Tôi vừa làm vừa nói chuyện bâng quơ với hai chị để quên bớt nỗi bực bội và khỏi nghe những người khác buông lời đùa cợt. Hành động vô sỉ của ông Phước là một xúc phạm quá lớn đối với tôi. Sự nể trọng ông ta trong tôi giờ đã tan biến hết. Những ngày sắp tới tôi làm sao nhìn mặt ông ta đây? Tôi nhất định phải tìm cách rời khỏi tập đoàn này!
Chúng tôi xuống ruộng gặt được một lát thì mấy toán bộ đội lần lượt đến tiếp tay. Họ hăng hái làm việc, cười đùa pha trò vui nhộn quá khiến nỗi bực bội trong tôi cũng dịu dần. Không mấy chốc tập đoàn đã gặt được nhiều đám ruộng lớn. Chiều hôm trước trời chuyển mưa nhưng không ngờ sáng nay lại nắng tốt. Cồi lúa phơi trên gốc rạ vàng sẫm cả một khoảnh rộng mênh mông trông thật sướng mắt.
Bữa ăn trưa hôm đó do hợp tác xã đài thọ: cơm trắng, cá kho, thịt heo kho với trứng vịt, canh rau muống, lại có cả chè đậu xanh để tráng miệng. Quân dân vui vẻ cùng ăn với nhau. Trong khi ăn, chị Hiếu nói đùa với tôi:
- Ngày nào cũng có bộ đội đi gặt giúp thế này mình nhờ biết bao nhiêu chị há! Sáng nay tôi chỉ bới một gói muối mè, giờ may được gặp trời thương!
Nhớ lại câu chuyện "thóc lúa ở đâu bồ câu ở đó" chị Lâm kể trong thời gian cắt rạ tôi hơi tức cười, nhưng tôi lại nói:
- Mình cũng trông được như vậy thôi!
Mà thật vậy, từ khi làm việc với tập đoàn, đây là lần đầu tôi được ăn một bữa rất ngon miệng (tôi nghĩ là miễn phí). Vì bộ đội gặt giúp khỏi trả công nên xã cũng lo thù tiếp họ xứng đáng để lấy lòng. Nhờ có họ chúng tôi lại còn được nghỉ trưa lâu hơn nữa.
2
Không ngờ giữa trưa đang nắng, mọi người đang nghỉ, thình lình mây đen ùn ùn kéo đến, trong chốc lát đã phủ kín trời. Rồi một cơn gió mang đầy hơi lạnh thổi qua làm nhiều người rùng mình. Ông trưởng, ông phó tập đoàn đều hoảng hốt thúc hối mọi người cấp tốc gom bó lúa lại để chuyển lên nôốc. Đội quân bác Hồ thấy mây đen kịt sà xuống thấp vội vàng hú nhau rút lui. Mọi người trong tập đoàn thấy vậy đều lắc đầu thất vọng. Ông Phước nói:
- Họ đâu có chuẩn bị áo mưa! Mặc họ, việc của mình mình phải lo! Nếu không gom bó kịp lúa ướt hết sẽ mất công gấp bội!
Thế là mọi người túa ra làm việc cực lực. Nhưng mới gom bó được hơn một nửa thì trời đổ mưa sầm sập. Trận mưa kéo dài ngót một giờ làm ai nấy tối mặt tối mũi. Một số người phải thay phiên nhau múc nước trong các thuyền đổ ra ngoài. Mưa lớn đến nỗi mọi người, dù mặc áo mưa hay không đều bị ướt hết. Ai nấy đều run lúi úi. Tôi không mang áo mưa theo nên che ké áo mưa của chị Hiền. Chúng tôi ngồi co ro trông cơn mưa sớm dứt. Phần lúa chưa gom kịp đều ướt nhèm nhẹp. Tôi nghĩ chắc sau cơn mưa chỉ có nước về nghỉ chứ làm gì được nữa!
Nào ngờ thấy mưa vừa nhẹ hạt hai ông trưởng, phó tập đoàn lại thúc giục mọi người gom bó tiếp. Chị Vàng lạnh run cầm cập đề nghị:
- Bây giờ ai nấy lạnh cóng hết làm sao mà làm! Xin cho về nghỉ ngày mai làm tiếp được không?
Ông Phước nói:
- Không được! Lúa gặt rồi nếu không gom bó kịp lỡ nước dâng lên cá nó rỉa hết.
Thế là chúng tôi phải cắn răng chịu lạnh để tiếp tục làm việc. Mà quả nước dâng thật, nhiều chỗ cồi lúa bị gió nước đưa đẩy làm rối beng, nặng chình chịch khiến việc gom bó và di chuyển càng thêm vất vả. Gom bó chưa xong trời lại chuyển mưa trận khác mới ngán chứ! Chúng tôi vừa làm vừa hồi hộp vì mưa có thể đổ xuống lúc nào. Nhưng cũng may là trời chưa mưa liền. Mãi tới khi chúng tôi chuyển hết số lúa mới gặt xong về sân phơi xong trời mới mưa trở lại...
Hơn nửa ngày dầm nước đã làm cho người tôi vốn đã uể oải lại càng nhừ nhuyễn thêm. Đêm đó tôi đã ngủ như chết. Gần sáng bà nội phải vừa kêu vừa lay người mấy lần tôi mới dậy được. Nghe ngoài trời vẫn còn mưa rả rích, tôi ngạc nhiên hỏi bà nội:
- Mưa như vậy đâu có thể đi gặt, mẹ gọi con dậy làm gì?
Bà nội nói:
- Kẻng đánh báo thức mấy lần rồi tao mới kêu mi dậy chứ! Năm ni mưa gió cũng lạ đời thật, giữa mùa hạ lại có mấy trận mưa kéo dài chưa từng có. Không hiểu vì răng đang mưa mà người ta vẫn cứ đánh kẻng như rứa nữa. Thôi thì con cứ lo cơm nước cho sẵn, người ta gọi thì đi, không gọi thì thôi!
Người tôi giống như đang chuyển sốt, tôi cất mình dậy không muốn nổi. Tôi vẫn còn chút hi vọng được nghỉ một ngày hoặc ít nhất cũng ra đồng trễ vài tiếng. Nhưng dùng dằng một chút rồi tôi vẫn phải lục đục thắp đèn nhúm lửa. Ngặt nỗi mưa lớn quá đã khiến nước tràn vào nhà làm ướt củi ướt bếp nên việc nhen nhúm mất khá nhiều thì giờ. Chuẩn bị chưa tới đâu tôi đã nghe tiếng anh Sự kêu trước cửa:
- Chị Ngọc cơm nước xong chưa, hôm nay vẫn đi làm như thường đó nghe!
Tôi hỏi lại:
- Mưa thế này làm sao mà gặt anh Sự?
- Dù mưa cũng phải gặt! Nhưng chắc mưa không lâu nữa đâu. Chẳng qua là do ảnh hưởng bởi trận bão đâu từ bên Ấn Độ hay Phi Luật Tân chi đó chứ mùa này mấy khi có mưa. Nếu không gặt kịp để nước ngập lúa phần cá ăn phần mọc mộng hoặc ung thối hết còn gì?
Thế là cái hi vọng được nghỉ một ngày đã hoàn toàn tan biến. Tôi lại uể oải bước ra khỏi nhà. Đường sá chỗ nào cũng trơn trợt đến phát ớn. Lúc tôi tới bến đậu thuyền thì mưa đã thưa hạt, bầu trời đã hơi sáng. Nước lên cao nhiều so với hôm trước. Tôi thấy có một số người lạ cùng lên nôốc, đó là người của tập đoàn 7 và tập đoàn 8 tăng cường. Ngoài những chiếc nôốc còn có một số tròng cũng được chèo ra đồng. Tôi lên nôốc ngồi giữa chị Hiếu và chị Vàng. Chị Vàng là một người khắc khổ rất ít khi có được một nụ cười. Tôi vẫn gặp chị hằng ngày nhưng chưa có dịp nói chuyện với chị. Thấy không khí hơi buồn tẻ, tôi quay sang chị gợi chuyện:
- Hôm nay chắc còn lạnh lắm chị há?
Chị nói mà không quay sang tôi:
- Có lạnh cũng phải cắn răng mà chịu chứ biết kêu với ai?
Chị Hiếu cũng xen vào:
- Hôm nay có người mấy tập đoàn khác gặt giúp chắc khỏi nhờ mấy ông bộ đội!
Chị Vàng ra vẻ bực mình:
- Mấy tập đoàn khác gặt giúp đỡ tốn công làm cỗ. Bộ đội gặt giúp thì xã phải làm cỗ. Nói là hợp tác xã đài thọ chứ thiệt ra khấu trừ vào xương sống mình chứ đâu! Ngày hôm qua đó, gặt đâu đã được bao nhiêu, ăn xong cỗ thấy mưa đến là dông sạch!
Tôi lại tức cười nhớ tới câu "thóc lúa ở đâu bồ câu ở đó". Nhưng nhìn lại thấy chị Vàng không muốn bắt chuyện với mình tôi im luôn.
Nôốc đã tới đích mà tôi vẫn không hay. Khi thấy ông Phước và anh Sự lội xuống cắm sào buộc nốôc tôi mới đâm hoảng: trời gió lạnh mà nước đã lên tới háng chịu sao nổi! Ruộng sâu quá nên nhìn qua chỉ thấy những bông lúa xập xõa trên mặt nước. Mọi người phải vịn nhau, đỡ nhau để bước xuống. Có chỗ nước ngập thấu lưng quần. Ai nấy đều phải dò dẫm từng bước, trợt ngã là có thể bị thương bởi chính cái lưỡi vằng của mình. Việc vơ lúa, cắt lúa trong nước ngập rất lấn cấn, khó khăn. Những con cá lên theo nước thấy người lội tưởng mồi cứ cắn vào chân những phát đau điếng làm nhiều người phải kêu trời. Chỉ có một điều thuận lợi, ai mắc tiểu tiện cứ tiểu ngầm thoải mái. Trong cơn lạnh lẽo chốc chốc được ấm ấm hai bắp vế một chút cũng hay hay...
Người ta chia ra cứ một hàng bốn năm người thợ gặt lại có một người đẩy một chiếc tròng theo sát lưng để chứa lúa vì nước ngập không thể để lúa trên gốc rạ như thường lệ. Thợ gặt được một nắm lúa lại quay ra đằng sau bỏ lên tròng. Cứ chiếc này vừa đủ nặng lại có người đẩy chiếc khác đến thay. Lúa gặt xong được tập trung lại một chỗ để bó rồi chất lên nôốc.
Khi nghe lệnh nghỉ để ăn trưa, tôi mừng hết lớn. Thật tình ai cũng đói bụng từ lâu nhưng tập đoàn cứ bắt phải làm gắng vì công việc quá gấp rút. Tôi với bốn năm phụ nữ khác cùng lên ngồi ăn cơm trên một chiếc nôốc. Cơm xong, tôi vừa đứng dậy toan vói lấy bình nước thì cảm thấy một vật gì nhột nhột từ háng lăn xuống theo ống quần rồi lọt ra ngoài. Nhìn cái vật vừa rớt xuống tôi giật mình: một con đỉa mình căng tròn to như ngón chân cái! Tôi kinh hãi hét lên khiến nhiều người phải nhìn lại. Ai nấy đều xuýt xoa vì con đỉa quá lớn. Chị Vàng bỗng chỉ vào chân tôi:
- Máu ra quá nhiều đấy kìa!
Bấy giờ tôi mới để ý - cả một vũng máu ở ngay dưới chân mình. Thế nhưng tôi chẳng biết đỉa đã cắn nơi nào trong người. Chẳng thấy đau đớn chỗ nào cả. Tôi vén ống quần lên thật cao nhưng vẫn chỉ thấy một đường máu đang tiếp tục chảy xuống. Tôi hết sức lúng túng trong việc tìm kiếm vết thương vì lúc ấy mọi người đều chú ý đến tôi. Chị Vàng thấy vậy kêu to lên:
- Các ông tránh đi chỗ khác giùm để chị em phụ nữ người ta làm việc. Cô Ngọc bị đỉa cắn máu ra dầm dề chưa biết chỗ nào đây này! Không chừng phải đưa đi cấp cứu đấy!
Mấy người đàn ông hiểu ý bèn tránh ra hết. Các bà xúm quanh tôi thành một vòng. Chị Lâm vừa cười vừa nói như hét:
- Cởi tuột xuống chứ chần chờ chi nữa! Tới nước này mà còn e lệ nữa trời!
Vừa nói chị vừa lôi tuột quần tôi xuống. Tôi càng kinh hãi biết bao khi nhận ra cái quần lót mình đỏ lòm cả máu. Mất hết cả tính tự chủ, tôi run người nhìn quanh:
- Biết làm sao bây giờ mấy chị? Ai cứu tôi với!
Chị Vàng lập tức chạy đến xin anh Sự mấy dúm thuốc rê, chị bảo tôi nhém vào chỗ máu ra. Nhưng nhém dúm nào máu lại đẩy trôi dúm ấy. Chị Lâm sợ quá kêu lớn:
- Ông trưởng ơi, mau cho ai đưa cô Ngọc về gấp! Máu ra không cách nào cầm được đây này! Mau lên không cô ấy xỉu mất!
Ông Phước nói lớn:
- Đỉa cắn làm gì mà quan trọng dữ vậy? Đang lúc thời vụ gây cấn làm mất công mất việc quá!
Chị Vàng nói:
- Mạng người không coi thường được đâu! Đỉa nó cắn chỗ hiểm chắc phải đi nhà thương thôi! Phải có một phụ nữ để dìu cô ta, một đàn ông chèo tròng đưa về gấp mới được!
- Thôi được rồi, có bà nào tình nguyện đưa cô Ngọc về nhà không?
Chị Vàng nói lớn:
- Ông trưởng phải cho thêm người mới được! Một bà làm sao vừa chèo tròng vừa dìu đỡ cô Ngọc?
3
Một số người ở các tập đoàn tăng cường cũng nói giúp vào. Rốt cục ông Phước cũng chịu cắt hai người đưa tôi về: chị Vàng và ông Tuất. Nhưng ông Phước dặn hai người phải trở ra đồng ngay sau khi đưa tôi về tới nhà.
Máu từ người tôi vẫn cứ tiếp tục rỉ ra. Lúc ấy tôi sợ chết lắm. Chồng tôi còn biệt tăm tích, bà nội, ông bà ngoại đều đã già nua, nếu tôi có mệnh hệ nào số phận ba đứa nhỏ của tôi sẽ ra sao? Nghĩ đến chúng, tôi không cầm được nước mắt. Tôi cứ rên rỉ: "Trời ơi, chồng tôi, con tôi...". Chị Vàng thấy thế an ủi:
- Như cô Ngọc mà phải đi làm ruộng thật là chuyện nghịch đời! Nhưng sông có khúc người có lúc, cô cứ gắng vượt nghịch cảnh rồi trời sẽ ngó lại cô ạ!
Tôi lo sợ hỏi chị:
- Xưa nay chị thấy ai bị gặp trường hợp như em chưa? Tình trạng em có nguy lắm không chị?
Chị Vàng ngập ngừng:
- Thật tình tôi chưa thấy trường hợp nào như thế. Nhưng cô Ngọc yên chí đi! Con người ta có số cả!
Nghe chị Vàng nói kiểu đó tôi càng bi quan thêm. Lên tới bến làng, tôi liền thất thểu bước về nhà. Chị Vàng kêu lại:
- Cô phải bước chậm chậm kẻo máu chảy nhiều thêm đó!
Chị Vàng vội chạy theo dìu tôi đi trong khi ông Tuất ở lại cột tròng. Mới đi được một đoạn thì may gặp thằng Tí con tôi đang chơi với lũ trẻ giữa đường. Tôi bảo nó:
- Mẹ bị bệnh. Con chạy đi kêu cô Mỹ Hạnh đến chích thuốc cho mẹ ngay lập tức!
Chị Vàng giục thêm:
- Cháu phải chạy thật mau mới được! Má cháu đang bị bệnh nặng!
Thằng nhỏ nghe xong hoảng hốt co dò chạy biến.
Cô Mỹ Hạnh là người quen biết với gia đình tôi. Cô làm việc ở trạm xá cũng không xa nhà tôi mấy. Vừa đến gần ngõ nhà tôi chị Vàng đã kêu toáng lên:
- Bác Thắng ơi, bác có ở nhà không?
Bà nội nghe tiếng hấp tấp bước ra. Chị Vàng vừa dìu tôi vào nhà vừa kể sự việc xảy ra. Bà nội thảng thốt kêu lên:
- Răng mà xui xẻo ri trời! Chừ biết mần răng đây?
Chị Vàng nói:
- Có kêu y tá rồi. Bác lo giúp cô Ngọc rửa ráy đi đã!
Bà nội vừa dẫn tôi ra nhà sau vừa niệm lia lịa: "Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát! Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát!...". Chị Vàng sốt sắng múc một thau nước bưng theo chân tôi. Trong khi bà nội đang giúp tôi rửa ráy thì nghe tiếng ông Tuất và mấy người hàng xóm nói chuyện bên ngoài. Chị Vàng liền nói với bà nội:
- Bác ra nói chuyện với họ đi, để đây tôi giúp cô Ngọc cũng được!
Thấy bà nội bước ra, ông Tuất liền hỏi:
- Bác có cách gì chữa cho cô Ngọc hay phải đưa đi nhà thương?
Bà nội bối rối:
- Tôi cũng chưa biết tính cách chi đây! Nghe nó nói có kêu y tá rồi!
Vừa lúc ấy thì cô Mỹ Hạnh tới. Cô đi thẳng đến chỗ tôi rồi cùng chị Vàng dìu tôi lên giường ngủ. Sau khi xem sơ chỗ bị đỉa cắn, cô Mỹ Hạnh chích liền cho tôi hai mũi thuốc cầm máu. Chích xong cô dặn:
- Chốc nữa nếu máu không cầm thì phải đưa đi nhà thương.
Thế rồi cô Mỹ Hạnh trở về trạm xá. Ông Tuất và chị Vàng cũng ai về nhà nấy. Họ nói với nhau:
- Ông Phước này cũng kỳ thật. Người ta bị nạn thế mà không lo, lại cứ sợ mất công bỏ việc.
Mấy bà già hàng xóm ở lại ăn trầu nói chuyện với bà nội. Ba đứa con tôi nghe tôi bị bệnh cũng bỏ chơi về quanh quẩn trong nhà. Tội nghiệp bé Hoa cứ chạy ra chạy vào hỏi mẹ lành chưa. Thấy lũ con tôi vừa thương vừa lo. Đã chích hai ống thuốc cầm máu mà máu vẫn chưa cầm, tôi hết sức thất vọng. Một lát sau chị Vàng trở lại hỏi:
- Thế nào rồi, máu cầm chưa?
Tôi buồn bã trả lời:
- Máu vẫn tiếp tục ra chị ơi! Chắc phải đi nhà thương thôi!
Bà Tám hàng xóm hỏi bà nội:
- Nhà chị có đũa mun không?
Bà nội chợt nhớ ra:
- À, có, có, có!
Rồi bà nội lật đật chạy vào bàn thờ lấy ra cả nắm đũa đen bóng. Bà Tám nói:
- Chị lấy ra chín chiếc, cứ van vái cầu ơn trên giúp đỡ rồi lấy dao cạo một ít bột mun của chín chiếc đũa ấy hòa nước lạnh đem cho cô Ngọc uống thử xem!
Bà nội lại vừa niệm Phật vừa làm theo lời bà Tám. Khi bà nội đưa ly nước hòa chất gỗ mun đến tôi liền cầm lấy uống một hơi. Lúc cùng đường ai bảo chi nghe nấy chứ thật sự tôi chẳng hi vọng chi lắm. Nào ngờ, chỉ vài phút sau tôi thấy máu đã giảm chảy. Bà nội thấy thế mừng quá loay hoay van vái tạ ơn tứ tung. Tôi cẩn thận xem xét lại vết thương và biết mình đã thật sự thoát nạn. Mầu nhiệm đến thế sao? Thú thật, không phải nói phụ ơn, tới giờ này tôi cũng không biết mình được cứu bởi hai mũi thuốc cầm máu hay nhờ uống chất gỗ mun cạo từ mấy chiếc đũa?
Tối hôm đó ông Phước, ông Nhiêu và nhiều người trong tập đoàn có ghé hỏi thăm sức khỏe tôi. Tôi nại lý do người mất máu quá nhiều, bị xâm xoàng nên xin ở nhà vài ngày nữa. Ông Phước cũng đồng ý:
- Được, cô Ngọc cứ nghỉ vài ngày khi khỏe hẳn rồi đi làm!
Ông Nhiêu cũng tỏ vẻ quan tâm tới gia đình tôi:
- Cô Ngọc, tôi thấy cô làm ruộng ở đây cũng cực nhọc lắm. Hiện nay nhà nước đang khuyến khích chương trình di dân, tức chương trình xây dựng vùng kinh tế mới. Những ai tình nguyện tham gia chương trình này sẽ được nhà nước ưu đãi nhiều mặt. Tôi nghĩ cô Ngọc cũng nên theo dõi, nghiên cứu để tình nguyện tham gia cho các cháu có tương lai...
Tôi trả lời:
- Chú thương gia đình cháu mà nói vậy chứ bà nội mấy cháu còn đó, chồng cháu lại không có mặt ở nhà, cháu đâu dám quyết định!
Ông Nhiêu lại nói:
- Tôi đề nghị với cô như thế là vì muốn giúp đỡ chú Thành và các cháu thôi. Nếu cô Ngọc tham gia chương trình ấy nhà nước sẽ đặc biệt cứu xét miễn giảm cho những người thân như chồng, con của cô trong trường hợp những người này đang học tập cải tạo hay đang thụ án. Tình nguyện đi kinh tế mới cũng là cách xóa bỏ mặc cảm cho con cái mình về tội lỗi trong quá khứ của cha anh chúng...
Ông Phước ngắt ngang:
- Thôi, cô Ngọc chưa khỏe, chuyện đó sẽ nói sau. Giờ chúng ta về để cô ấy nghỉ.
Thật tình tôi đã ớn tới cổ cái công việc của một tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Tôi muốn thoát ra khỏi nó lắm chứ! Nhưng thoát ra khỏi bằng cách nào? Tôi cũng biết những gợi ý của ông Nhiêu hoàn toàn không phải do thiện cảm mà do ý đồ riêng. Lời nói của ông ta hình như có hàm ý đe dọa. Nhưng có thể tôi phải đi theo con đường đó lắm! Bây giờ tôi đi đâu được nữa ngoài việc đi vùng kinh tế mới? Nếu trước kia tôi cứ ở lì tại Đà Lạt để bà nội ở lại đây một mình thì còn có lý. Bây giờ tôi như đã sa xuống vũng lầy, biết vịn vào điểm tựa nào để leo lên? Bà nội có chịu nghe theo tôi không? Việc nhà cửa tính sao? Việc thờ tự tiên tổ của gia đình chồng tôi tính sao? Những trách nhiệm đó đương nhiên tôi phải gánh chịu hết.
Chỉ còn ông bà ngoại mới có thể giúp tôi xoay xở được một hướng đi mới. Nếu có một số vốn trong tay, tôi sẽ đi buôn bán, đó là cách tôi có thể vừa giữ được nhà cửa vừa thoát ra khỏi tập đoàn. Liệu tôi có thực hiện được ước mơ đó không? Tới bao giờ tôi mới thực hiện được?
MAR 12 - 2025
****
CHƯƠNG 14: TOÁN PHƠI LÚA CỦA TẬP ĐOÀN 9
Sau hôm bị tai nạn do con đỉa gây ra, tôi nghỉ ở nhà hai ngày liền. Từ khi làm việc với tập đoàn 9 tới giờ tôi mới có lại được vài giấc ngủ thoải mái. Nhưng rồi tôi cũng không dám hưởng thụ cái khoái cảm ngủ no con mắt ấy bao lâu! Trong nhà ngoài vườn đâu cũng thấy công việc cần làm, ngủ thế nào được? Tôi lại lao mình vào việc quét tước dọn dẹp... Tôi cũng viết một lá thư cho ông bà ngoại nói rõ hoàn cảnh khó khăn hiện tại của mình. Tối hôm thứ ba ông Phước lại ghé nhà tôi. Vừa bước vào nhà ông ta hỏi ngay:
- Cô Ngọc khỏe rồi chứ! Ngày mai cô đi làm được chưa?
- Dạ được, tôi đã chuẩn bị ngày mai đi làm rồi!
- Vậy thì tốt lắm! Nhưng cô khỏi ra đồng. Tôi biết cô còn nhợn những chú đỉa trâu lớn như cái cán liềm ấy. Cô ở nhà phụ với cô Thanh lo việc phơi lúa giúp tôi!
Phơi lúa với cô Thanh ư? Ông ta nói như ra ơn cho tôi vậy! Tôi đã từng nghe các bà to nhỏ với nhau về cái toán phơi lúa do cô Thanh điều khiển. Cô Thanh là con gái ông Nhiêu, có chồng đi nghĩa quân đã bị tử trận, để lại cho cô hai đứa con nhỏ. Cô mới chừng hai mươi lăm, dáng người loắt choắt, mắt hơi lé. Có lẽ trong cái gia đình "cách mạng" đó, cô là người làm việc năng nỗ nhất và cũng cố chấp, hống hách không kém gì cha cô. Nhờ khả năng kiểm soát người dưới quyền chặt chẽ, cô được giao việc điều khiển toán phơi lúa của tập đoàn 9 trong suốt các mùa gặt. Ai làm việc lơi tay một chút là bị cô nhắc nhở ngay. Không một ai có thể lấy được một nắm lúa xép đem về cho gà ăn. Mọi người đều ngán cái miệng phê bình chỉ trích của cô. Ai đã làm việc ở toán này một thời gian đều phải tìm cách rút lui. Có lẽ nay lại thiếu người nên mới gọi đến tôi!
Riêng tôi lúc này làm việc đó cũng tốt thôi. Quả tình tôi vẫn còn nhợn những con đỉa đói thật. Thời gian phơi lúa đâu bao lâu nữa mà ngại! Tôi hỏi lấy lệ:
- Lúa gặt gần xong chưa ông trưởng?
- Còn nghênh ngang đấy, nhưng công việc phải phân chia ra nhiều bộ phận cho guồng máy chạy đều. Chuyện xảy ra vừa qua cô cũng không nên ghi khắc trong lòng làm chi. Tôi vô ý mà cô cũng vô tình, bỏ qua đi. Thật tình thấy cô neo đơn tôi cũng muốn giúp cô đỡ khổ phần nào. Cô có ưng làm thư ký thống kê hợp tác xã không?
Ông ta muốn giở trò gì đây? Tôi nói:
- Cám ơn ông trưởng. Thôi, để tôi làm việc ở tập đoàn được rồi!
Ông Phước vừa cười vừa hỏi lại:
- Cô chưa ngán cái tai nạn đỉa cắn vừa rồi à?
Đây là lần thứ hai ông Phước nhắc lại chuyện con đỉa. Rõ ràng không phải là một sự vô tình. Thấy câu hỏi của ông ta có vẻ tinh quái nên tôi đáp xẳng:
- Không, vấp một lần thôi chứ! Gặp lại lần nữa nó sẽ chết với tôi!
- Cô Ngọc không tin tôi có thể đưa cô về làm việc ở hợp tác xã à? Tôi nói thật đấy! Làm việc ở đó dù sao cũng đỡ sương đỡ nắng, công việc lại nhẹ nhàng hơn! Cô sẽ được trắng da dài tóc hơn!
Tôi nói như gắt:
- Nhưng bằng cách nào ông trưởng có thể giúp tôi lên làm thư ký thống kê cho hợp tác xã?
Ông Phước gật gật hãnh diện khoe:
- Có gì đâu, là một cô giáo, cô đủ khả năng làm việc đó. Suy nghĩ kỹ đi rồi cho tôi hay. Nói thật với cô, tôi sắp về công tác ở hợp tác xã!
Tôi cười nửa miệng:
- Sướng quá nhỉ! Thôi, cứ tới đâu hay đó! Thế ngày mai tôi đi phơi lúa?
- Phải, tôi đã báo cho cô Thanh rồi, ngày mai cô cứ theo cô ấy.
*
Toán phơi lúa chính thức lúc bấy giờ gồm năm người: cô Thanh trưởng toán, chị Lương, chị Huấn, chị Mẫu và tôi. Làm việc với một trưởng toán có tinh thần cách mạng quá cao như cô Thanh, dĩ nhiên không ai thấy thoải mái lắm. Nhưng chúng tôi người nào cũng muốn yên thân nên chẳng ai muốn lý lẽ chi cả, cứ bảo nhau nhẫn nhịn thêm một chút cũng xong. Nhờ tinh thần an phận ấy công việc của chúng tôi cũng chạy đều.
Có người tưởng việc phơi lúa là một công việc ưu tiên dành cho những người có thân thế. Đối với các tập đoàn khác nghĩ như vậy cũng có thể đúng. Tôi nghe phong phanh những người làm công việc ấy vẫn thường bắt chước phương cách của mấy con chim tha rác làm tổ. Đi uống nước tha một ít, đi ăn cơm tha một ít lúa... Hai cánh tay áo xắn khéo léo một tí đã đắc lực giúp họ thực hiện việc này. Có thể mỗi ngày họ kiếm thêm được một hai lon lúa.
Riêng tập đoàn 9 chỉ có tiếng mà không có miếng. Đừng ai hòng qua được cặp mắt mà người đời vẫn e dè "nhất lé nhì lùn" của cô Thanh!
Công việc ở đây tuy thoát được cảnh thức khuya dậy sớm nhưng đâu phải không vất vả? Cô trưởng toán làm việc quá giỏi bắt buộc cả toán phải giỏi theo. Đợi nắng lên là đổ lúa ra phơi. Sau đó lại thay nhau dùng đôi chân xủi sân lúa hạt dưới ánh nắng gay gắt với hơi lúa cứ bốc lên hừng hực. Dù bận áo dài tay, đầu đội nón, quần gôn ống cẩn thận, thế mà bụi lúa lúc nào vẫn phủ kín thân, trắng đầu. Lúa khô khén xong phải lo việc dên quạt, sàng sảy. Quần quật giữa sân bưa lại lo lùa hốt bưng đổ vào kho. Lắm khi cũng tối mịt mới về. Làm việc cực lực đến thế mà cô trưởng toán lúc nào cũng nhìn nhìn như thúc hối, như nhắc nhở, như nghi ngờ! Chúng tôi vẫn thường rủa thầm:
- Cái con nhỏ này sao nó khỏe thế? Sao nó lại không bệnh nằm liệt giường một thời gian cho biết lễ độ nhỉ?
Một hôm, trong lúc chúng tôi đang phơi lúa, anh thư ký tập đoàn Lê Khánh cầm sổ sách đến hỏi cô Thanh việc gì đó. Khi Lê Khánh về rồi, chị Mẫu nói nhỏ với tôi:
- Mình phơi lúa ngày nào cũng mệt nhừ người chứ phải chơi đâu! Thế mà công điểm lại tính thấp hơn khi đi gặt rất nhiều. Dù được đi trưa về sớm hơn một chút nhưng tính như vậy cũng ép quá!
- Ông Khánh cho chị biết à?
- Làm gì có, tôi nhìn lén trong sổ!
- Mỗi ngày phơi lúa chị được chấm mấy công điểm?
- Sáu.
- Thế còn cô Thanh?
- Dĩ nhiên là 7 hoặc 8! Người điều khiển mà!
- Chị biết em bao nhiêu điểm không?
Chị Mẫu thản nhiên nói:
- Dưới trung bình tới năm điểm là cùng!
Dưới trung bình ư? Vừa nghe chị Mẫu nói, cơn giận trong tôi ùn ùn nổi dậy. Người ta làm sao tôi làm vậy chứ sút kém ai đâu? Làm việc như vậy sao chấm điểm tôi dưới trung bình? Thà về nhà nhịn đói còn hơn! Có lẽ nhìn thấy vẻ giận dữ hiện trên gương mặt tôi, chị Mẫu nháy mắt:
- Tôi thấy thoáng thoáng vậy thôi, chưa hẳn đâu! Đừng làm bể việc. Để có dịp rồi nói chuyện. Hay cô chịu khó đi dự một buổi họp bình chấm xem sao!
Từ lúc đó tôi cứ thấy ấm ức trong người. Hôm sau tình cờ gặp anh Sự, tôi hỏi ngay:
- Toán người được cắt công việc phơi lúa tôi thấy ai cũng làm việc như nhau cả không hiểu sao những người khác đều được bình chấm 6 hoặc 7 công điểm mà tôi lại cứ dưới trung bình? Anh thử đòi hỏi chấm điểm công bằng giúp tôi được không?
Anh Sự lắc đầu cười:
- Khó lắm chị Ngọc ơi! Người ta cứ đánh giá chị là người mới vào tập đoàn, thời gian phơi phong người ta lại cho là chị được đi trưa về sớm. Hơn nữa, chị lại có chồng sĩ quan chế độ cũ nhiều người không ưa. Công điểm của mọi người đều do số đông quyết định chứ tôi làm gì được? Thôi chị cứ tạm bằng lòng vậy. Mai mốt đây nếu tôi làm tập đoàn trưởng tôi sẽ gắng chỉnh đốn lại cho công bằng hơn!
- Thế ông Phước đi đâu mà anh lên làm tập đoàn trưởng?
Anh Sự xua tay ra đấu hiệu dè dặt:
- Tin này chưa chắc lắm. Ông ta có thể lên làm gì đó trên hợp tác xã.
Nghe anh Sự giải thích việc tính điểm có tính cách áp đặt như thế, tôi thất vọng lắm. Người ta đối xử kỳ thị đến thế mình làm sao ngoi đầu lên được? Dù có lao động thí mạng đi nữa cũng chỉ làm cho người khác ăn thôi! Càng suy nghĩ tôi càng thấy uất hận. Thế rồi tôi nói với anh Sự bằng giọng cương quyết:
- Bây giờ tôi yêu cầu anh đề nghị với tập đoàn cho tôi trở lại gặt lúa. Nếu anh không đề nghị giúp chắc tôi sẽ tự động bỏ việc!
Anh Sự ngẫm nghĩ giây lát rồi gật đầu:
- Được, tôi nghĩ việc này không có gì trở ngại.
MAR 18 - 2025
****
CHƯƠNG 15 : VÀI TIN TỨC MỚI...1....
Đi gặt lại được mấy ngày thì tôi nhận được thư của ba tôi - không bằng đường bưu điện mà do người quen đến nhà trao lại. Thấy thư khá dày, chắc mẩm thế nào cũng có tin lành, tôi vội bóc ra xem. Ồ, ngoài bì đề người gởi là ba tôi nhưng thư lại do mẹ tôi viết.
"Sài Gòn, ngày...
Thăm Diệu Ngọc con và các cháu,
Trước hết mẹ báo cho con biết ba mẹ vẫn sức khỏe, con yên tâm. Mẹ biết chắc con đang nôn nóng chờ tin của ba mẹ nên phải viết thư cho con đây. Mẹ cho con hay, việc anh Hảo bảo lãnh cho ba mẹ sang Pháp hiện vẫn chưa tới đâu cả. Còn việc dịch sách cho bộ Văn Hóa Thông Tin ba con đã rút lui rồi. Khi bắt tay vào việc tinh thần ba phấn khởi bao nhiêu thì bây giờ mẹ thấy ba có vẻ xẹp lép bấy nhiêu. Chắc con cũng biết tính ba con, khi đã làm việc gì ba cũng làm hết sức mình, đàng hoàng, chín chắn, đâu ra đấy. Khi bắt tay vào việc, ba đã quên ăn quên ngủ, chẳng quản ngày đêm, lúc nào cũng chú mục vào mấy cuốn sách, tay thì luôn ghi ghi chép chép lên cuốn sổ tay hoặc mấy tập vở. Thấy cách làm việc của ba mẹ vừa cảm động vừa lo. Cảm động vì ba tỏ ra sung sướng được giao phó một công việc thích hợp với khả năng. Lo vì ba tuổi tác đã cao, cố gắng quá sẽ không tốt cho sức khỏe. Theo mẹ, làm việc bằng đầu óc mỗi ngày năm sáu tiếng đã là quá nhiều. Ba vốn tuổi già ít ngủ, thế mà hễ thức giấc là lao đầu vào công việc ngay. Khi ba dịch xong cuốn sách đầu tiên, nhiều người ở Sở Văn Hóa Thông Tin của thành phố đã hết sức khen ngợi. Nhân dịp phái đoàn Trung Ương Đảng vào thăm thành phố Hồ Chí Minh, ông Trường Chinh đã cho mời ba đến gặp mặt để biểu dương. Ông Trường Chinh nói: "Tôi thành thật khen ngợi về sự hiểu biết sâu rộng về Pháp ngữ của ông. Tôi nghĩ ông là một trong số những người dịch sách Pháp ra tiếng Việt xuất sắc nhất nước ta hiện nay. Tôi rất mong được sự hợp tác lâu dài của ông trong lĩnh vực dịch thuật, để tuyển chọn, để gom góp những tinh hoa văn hóa của nước ngoài bồi đắp cho nền văn hóa nước nhà". Ba vô cùng phấn khởi, lại bắt tay dịch tiếp cuốn khác. Với nỗ lực phi thường, không kể giờ giấc đêm ngày, ba con lại hoàn thành dịch phẩm thứ hai! Tính gần chính xác, hoàn thành được hai dịch phẩm, ba phải mất một thời gian ngót 10 tháng. Khi ba đang sắp dịch tiếp cuốn sách thứ ba thì sở Văn Hóa Thông Tin mời lên để thanh toán tiền thù lao. Thật sự khi dịch xong cuốn thứ nhất, sở Văn Hóa Thông Tin đã mời balên gặp để thanh toán tiền thù lao rồi. Nhưng ba nói với họ cứ để đấy đã. Trước đó ba chưa nghĩ đến chuyện thù lao. Ba muốn làm việc với tính cách thiện nguyện, để đóng góp với chế độ mới một chút gì mà ba nghĩ là gia đình mình còn thiếu sót. Riêng mẹ lại nghĩ thực tế hơn, có thực mới vực được đạo, gia đình mình có dư dả gì lắm đâu! Nhưng dù không đồng ý với ba, mẹ vẫn không dám nói gì, sợ ba buồn. Đến khi ba nhận được thư mời lên thanh toán thù lao lần thứ hai, mẹ vừa mừng vừa sợ ba lại từ chối. Mẹ cười nói đùa để đón đầu: "Thì ra Sở Văn Hóa Thông Tin cũng không quên nghĩ đến điều thực tế cần thiết của một dịch giả! Nhưng đáng lẽ họ nên tế nhị tự ấn định mức thù lao theo giá trị của dịch phẩm vẫn hay hơn là bắt dịch giả phải tự nói lên điều đó anh nhỉ!". Nghe mẹ nói thế ba có vẻ không vui, ba nói: "Nói vậy là do người ta sợ mình không hài lòng thôi. Nhưng anh sẽ có ý kiến cứ tùy họ ấn định. Nếu họ ấn định cao, anh sẽ tặng lại 2/3, nếu họ ấn định vừa phải, anh sẽ tặng lại một nửa để góp phần vào việc xây dựng đất nước! Em đồng ý với anh chứ!". Tất nhiên mẹ đồng ý vì mẹ không muốn trái ý ba. Hơn nữa, mẹ nghĩ với những dịch phẩm được khen ngợi như vậy thì làm sao người ta ấn định thù lao thấp được? Dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, nếu ba dịch được một tác phẩm tương tự như vậy rồi bán bản quyền, số tiền nhuận bút tệ lắm cũng nuôi sống ba được một năm. Thế rồi ba lên Sở Văn Hóa Thông Tin. Mẹ hi vọng ba sẽ có một số tiền để tặngcon như mẹ đã hứa. Nào ngờ khi trở về chẳng nghe ba nói một tiếng, lặng lẽ đi một mách vào phòng riêng đóng cửa lại. Mẹ biết thế là có chuyện phật ý ba rồi, nhưng không dám hỏi liền. Đến khi ăn cơm chiều mẹ mới nhắc nhẹ: "Hồi sáng anh lên Sở Văn Hóa Thông Tin có tin gì lạ không?". Ba đáp cụt ngủn: "Không dịch nữa!". Thấy ba còn có vẻ bực bội, mẹ nói lảng sang chuyện khác. Mấy ngày sau ba mới cho biết, khi ba lên Sở Văn Hóa Thông Tin, nhân viên hướng dẫn đã đưa ba đến gặp một vị nào đó, hình như là bí thư của Sở. Sau khi thăm hỏi và khen ngợi về việc làm của ba, vị này đề nghị thẳng nếu ba không muốn nêu danh tính trên những dịch phẩm của mình, sẽ có người đứng tên thế cho. Trong trường hợp đó, họ sẽ trả tiền thù lao gấp bội. Như thế cũng có nghĩa là ba bán đứt bản quyền dịch phẩm. Ba không muốn làm như vậy nhưng chỉ nói đưa đẩy: "Để tôi suy nghĩ rồi sẽ trả lời sau!". Tới khâu bàn về tiền thù lao, vị kia hỏi: "Ông dịch hai tác phẩm đó mất hết thời gian bao lâu?". Ba đáp: "Ngót 10 tháng!". Vị kia nói: "Được, cứ cho là 10 tháng đi! Hiện nay nhà nước ta vẫn lấy giai cấp công nhân thợ thuyền làm tiêu biểu. Nhà nước sẽ tính cho ông một công gấp đôi tiền công trung bình của một công nhân, cứ vậy mà nhân lên, ông đồng ý không?". Nhà nước đãi ngộ người làm văn hóa như vậy sao? Tuy nói là 10 tháng nhưng ba đã thức khuya dậy sớm dồn hết sức mình vào công việc không có ngày nào dưới 12 giờ và theo mẹ nghĩ, chắc hẳn không dưới một năm! Giờ nghe được đánh giá như thế ba muốn ngã ngửa ra! Sau giây lát bàng hoàng, ba nói: "Thưa ông, cách mạng đã thành công, tôi cũng muốn ra sức một phen, đem hết khả năng chuyên môn của mình để cống hiến cho tổ quốc một chút gì trên phương diện văn hóa để khỏi hổ thẹn. Thế nhưng sau khi dịch xong hai tác phẩm ấy, tôi cảm thấy sức mình đã quá suy nhược. Giờ đây cứ nhìn vào sách một hồi thì mắt tôi hoa lên, đầu tôi choáng váng, tôi thấy mình khó có thể tiếp tục công việc được. Vậy, tôi xin hiến tặng Bộ Văn Hóa Thông Tin vô điều kiện hai dịch phẩm nói trên, khỏi cần đề tên tôi là dịch giả. Về số tiền thù lao, xin sung vào quỹ một công tác văn hóa nào đó cũng được." Vị kia ngạc nhiên nói: "Ấy, ấy, ông muốn hiến tặng vô điều kiện dịch phẩm của mình cho Bộ Văn Hóa Thông Tin thì cứ hiến tặng. Nhưng công sức lao động của ông thì ông nên nhận!". Ba trả lời: "Dạ khỏi, thưa ông, nếu tôi còn tiếp tục làm công việc tôi sẵn sàng nhận. Tôi còn muốn cống hiến nhiều hơn nữa kia chứ! Tiếc rằng sức khỏe tôi đã không cho phép, xin quí ngài cứ vui lòng. Khi nào sức khỏe phục hồi tôi xin tiếp tục phục vụ!". Thôi thì ba quyết định như vậy cũng tốt, mẹ cũng đỡ lo. Mẹ nghĩ việc anh Hảo lo thủ tục bảo lãnh cho ba mẹ sang Pháp tuy hơi chậm nhưng thế nào cũng xong. Con gắng đợi ít lâu nữa nhé! Hãy cố mà lo sức khỏe cho mấy cháu!
Thôi, mẹ xin tạm ngừng bút và gởi lời chúc sức khỏe chị sui!
Mẹ của con.
Tái bút: Biết con đang túng thiếu, mẹ gởi con 2 chỉ vàng để phòng khi cần dùng đến, nhất là trong việc săn sóc sức khỏe mấy cháu. Cầu ơn trên ban cho con nhiều nghị lực để vượt qua những khó khăn!"
Đọc xong lá thư của bà ngoại, tôi chỉ biết thở dài. Chắc mình còn nặng nợ với cái tập đoàn này! Đành ráng chờ đợi chứ biết làm sao!
2
Hai ngày sau khi nhận được thư của bà ngoại thì tôi nhận được một tấm giấy của ban công an mời lên xã làm việc, lý do cho biết sau. Sự việc này khiến tôi lo lắm. Có ai biết việc tôi nhận thư của ba tôi rồi xuyên tạc gì chăng? Những người quen biết tôi cũng tỏ ra ái ngại cho tôi. Tôi đã đến trình diện công an xã đúng giờ hẹn. Khi biết mình phải làm việc với chính trưởng công an xã Lê Đình Thiện, tinh thần tôi lại càng bất an. Chắc có vấn đề gì quan trọng rồi!
Bước vào phòng công an xong tôi mới biết mình đã lo ngại hơi quá đáng. Ông Thiện mời tôi ngồi nói chuyện một cách lịch sự:
- Chào cô Diệu Ngọc, hôm nay tôi mời cô đến đây với mục đích minh xác một vài điều về anh Thành, chồng của cô. Tôi mong cô vui lòng cung cấp những gì mà cô biết được để việc làm của chúng tôi chóng hoàn tất!
Ông ta vừa nói vừa lôi ra một cuốn sổ để ghi chép. Công an hỏi thì công dân có bổn phận trả lời. Tôi nói:
- Thưa ông, xin cứ hỏi, tôi xin thành thật trả lời những gì tôi biết được.
- Vậy, bây giờ cô có biết anh Thành đang ở đâu không?
- Dạ thưa, từ sau ngày giải phóng tôi chưa nhận được tin tức gì về anh ấy cả.
- Lúc Tổng Thống ngụy Dương Văn Minh đầu hàng thì anh Thành chồng cô đang ở đâu cô biết không?
- Dạ, lúc ấy chồng tôi đang ở Quân y viện Cộng Hòa, bị cưa chân chưa lành.
- Sau đó thì mất liên lạc? Cô Ngọc có nghĩ là chồng cô đã sang Mỹ rồi không?
- Thưa không, vì người lành lặn còn đi không được huống lúc ấy chồng tôi đã thành người què cụt.
- Thôi được, cô Ngọc đang làm ăn với tập đoàn 9 thấy có thoải mái không?
Đây là câu hỏi làm tôi lúng túng vì tôi không thể hiểu dụng ý của viên trưởng công an. Suy nghĩ một lát tôi trả lời:
- Dạ, tôi làm ruộng chưa quen nên cũng khá vất vả.
- Trong tập đoàn có ai ức hiếp, ép uổng chi cô không?
- Dạ không.
- Thế ông Nhiêu, ông Phước, các ông ấy đối xử với cô có tốt không?
Tại sao ông ta lại nêu rõ tên hai người mà chính tôi cũng đang đặt vấn đề? Có cạm bẫy gì không đây? Thôi, cứ coi như không biết gì vẫn hơn. Tôi nói:
- Dạ tốt, hai ông ấy không hề có sự phân biệt đối xử nào với tôi cả.
- Vậy thì tốt! Nếu bây giờ biết được chồng cô đang ở đâu cô có đi thăm không?
Tôi lại chột dạ. Ông ta định giở ngón gì nữa đây? Sau một lát suy nghĩ, tôi đáp:
- Thưa ông, có lẽ bất cứ người vợ nào bị xa cách chồng ngoài ý muốn, khi biết được tin chồng mình ở đâu họ đều muốn đi thăm cả!
Ông Thiện cười với nụ cười cởi mở rồi lấy ra một lá thư đã bóc, bì thư trông đã cũ nhàu đưa cho tôi:
- Cô xem đi!
Bao thư đề tên người gởi lạ hoắc, không có địa chỉ. Người nhận thì đề tên và địa chỉ của ông nội mấy cháu tức địa chỉ tôi đang ở. Tôi ngạc nhiên lấy mảnh giấy bên trong ra xem. Đúng là nét chữ của anh Thành. Thư chỉ giản dị mấy dòng viết trên mặt trống của tấm giấy lót trong bao thuốc lá có nhiều dấu gấp:
"Ai lượm được giấy này xin làm ơn gởi về địa chỉ dưới đây: Ông..., thôn 3 xã Thiện Trường... Con vẫn bình an. Hiện con đang được chuyển về Xuyên Mộc. Con của ba mẹ. Thành."
Tôi mừng đến trào nước mắt. Vậy là cầm chắc anh Thành vẫn còn sống! Đợi tôi đọc xong ông Thiện nói:
- Thư không nói rõ chuyển về trại nào, cô cũng khó tìm đấy! Nhưng nếu cô muốn đi tìm chồng, tôi sẵn sàng cấp giấy phép cho cô! Lá thư này tôi nghĩ chắc chồng cô đã thả dọc đường trong khi đang di chuyển. Có thể nay mai cô sẽ nhận được thư báo chỗ ở chính thức của chồng cô. Tôi lập lại, khi nào cô muốn đi thăm chồng cứ đến gặp tôi, tôi sẽ cấp giấy phép. Đừng ngại chi cả! Hôm nay tôi gặp cô chỉ để chính thức báo tin này để cô khỏi hoang mang, dao động tinh thần, đồng thời cũng để động viên cô yên tâm lo làm ăn nuôi con. Khi nào có ai ép uổng gì cô cứ cho tôi hay tôi sẽ can thiệp giúp. Từ nay cô cứ coi tôi như một người bạn. Cám ơn cô đã giúp tôi trong công việc. Bây giờ cô có thể ra về.
Thấy tôi ngập ngừng chưa muốn đứng dậy, ông Thiện hỏi:
- Cô Ngọc còn thắc mắc điều gì phải không?
- Thưa ông, như thế chắc chồng tôi đang ở một trại cải tạo nào đó?
- Tất nhiên! Rõ ràng anh ấy đang ở trại cải tạo mới có vụ di chuyển bất đắc dĩ như trong thư đã nói. Nếu không, tại sao anh ấy không cho biết sẽ về đâu mà lại phải thả thư rơi dọc đường?
- Thưa ông, tại sao cách mạng không thể tha thứ một người què cụt như chồng tôi trong khi các cơ quan truyền thông của chính phủ đang đề cao chính sách khoan hồng?
- Vấn đề này thuộc thẩm quyền của nhân dân. Đảng và nhà nước tuy có chính sách khoan hồng nhưng cũng không thể vượt quyền quyết định của nhân dân được! Có lẽ trước đây anh ấy đã gây tội ác nhiều nên nhân dân chưa tha thứ. Tuy vậy, anh ấy đã được đảng và nhà nước che chở và giáo dục thì không đến nỗi nào đâu! Cô cứ yên chí trở về lao động để nuôi con!
Đúng là chính quyền của nhân dân! Lúc nào, chuyện gì cũng có nhân dân can thiệp cả! Thế rồi tôi chào ông Thiện để ra về. Nhưng bây giờ tôi phải làm cách nào để đi thăm anh ấy đây? Lần trước khi anh ấy mới bị thương tôi dật dờ không chịu đi thăm liền nên đã bị ray rứt hối hận ngót hai năm nay! Chẳng lẽ bây giờ lại để lỡ làng một lần nữa? Tôi nghĩ ngay đến hai chỉ vàng ông bà ngoại mới cho.
Tối hôm đó chị Lâm, chị Hiền, chị Mẫu, chị Vàng lần lượt đến thăm tôi để hỏi thăm về vụ tôi bị công an xã mời lên làm việc. Nghe tôi báo tin anh Thành còn sống ai nấy đều mừng cho tôi và vui vẻ ở lại nói chuyện. Khi nghe tôi tỏ ý định đi thăm anh Thành thì chị Lâm ngăn lại:
- Chú ấy còn sống tất nhiên trước sau cũng sẽ gởi thư báo về, đừng nôn! Chứ nghe chung chung vậy cô biết đâu mà tìm? Tiền mất tật mang vô ích thôi!
3
Những người khác ai cũng nói như vậy cả. Bà nội nói:
- Mấy chị nói phải đó con! Thôi, cứ đợi ít lâu nữa rồi tính!
Sau một hồi nói chuyện, chị Mẫu với vẻ mặt quan trọng, nhìn quanh mọi người rồi hỏi nhỏ:
- Mấy chị có nghe vụ bà thợ Hào bị đánh gẫy chân chưa?
Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
- Thím Hào thợ mộc bị điên đó hả chị?
- Ừ, bà đó chứ ai nữa!
- Nhưng sao người ta lại đánh thím ấy?
- Nghe nói tại bà cứ đi ngang trước ủy ban xã, tay vỗ bem bép vào cửa mình, miệng gào thét "thu mua là thua mu" mãi nên mới xảy ra chuyện. Trước đây du kích xã đã nhiều lần xua đuổi bà ấy, họ đã đem nhốt bà để dọa mấy lần thế nhưng bà đâu có chừa! Vừa rồi nghe nói bà ta lại giở bản cũ, khiến bọn du kích sùng máu dùng báng súng đánh sao đó đến gẫy chân luôn!
Chị Lâm thở dài:
- Tội nghiệp chưa! Thế rồi người ta làm sao? Có ai giúp đỡ gì bà ấy không?
Chị Mẫu thấp giọng:
- Ai mà dám giúp! Bà ta nằm giữa đường vừa rên la vừa chửi bới một hồi rồi lết đi đâu mất! Tôi nghe nói vậy không biết có đúng không. Mình cũng nên dè dặt kẻo đôi khi mang họa oan!
Đã gẫy chân làm sao lết đi đâu được? Tôi hi vọng thím Hào chỉ bị thương ở một mức độ nhẹ hơn. Nhưng nghĩ lại, một người vừa mất trí nhớ, vừa bị thương, lại còn bị cô lập, thiếu ăn, thiếu thuốc men, tôi sợ thím ấy khó vượt qua được tai biến này!
Đêm đó tôi nằm trằn trọc mãi không ngủ được. Một người suốt đời sống hiền lành, biết ăn ở với mọi người, tự dưng mắc nạn đến nhà tan cửa nát! Bây giờ thím ấy đang lê thân về nơi nào? Vết thương của thím sẽ ra sao? Chú Hào đang ở trong tù có biết hoàn cảnh vợ chú đang gặp hoạn nạn như thế không hay lại trách móc thím đã bỏ rơi chú? Có ai dám giúp đỡ thím ấy trong trường hợp này không? Rồi tôi lại liên tưởng đến chồng tôi. Hiện giờ anh ấy một thân trơ trọi chịu đói rách, thiếu thốn mọi thứ trong chốn lao tù! Với đôi chân cụt, những lúc đi cầu đi tiểu anh ấy bò lết làm sao? Tương lai chồng tôi sẽ đi về đâu? Nghĩ đến đây nước mắt tôi lại trào ra ràn rụa...
*
Những ngày kế tiếp, sự mệt nhọc đã làm tôi dần quên câu chuyện thương tâm ấy. Chừng hơn một tuần sau đó, thôn 3 có vụ phân phối dầu hỏa tại nhà ông thôn trưởng. Nhân một buổi tối đi làm về tôi ghé lại lãnh dầu luôn thể. Tôi nghĩ đi buổi tối sẽ khỏi phải chờ đợi lâu, nào ngờ khi đến nơi thì thấy người ta vẫn còn sắp hai hàng song song khá dài. Trong khi chờ đợi, tôi bỗng nghe tiếng cãi cọ phía trước. Tiếng cãi cọ lúc đầu còn nho nhỏ, sau lớn dần. Ngoại trừ vài đứa nhỏ, những người đứng gần tôi đều cố im lặng để nghe...
- Chị bắt nạt người ta vừa vừa thôi chứ! Tôi đã làm gì, đã nói lời gì quấy mà chị bảo tôi phản động? Bà mợ tôi chết tôi không có quyền nói một lời thương tiếc à?
- Tôi đâu có nói chị phản động! Tôi nói là nói con mẹ Hào điên dại kia mà! Nó ăn nói tục tỉu xúc phạm đến bác Hồ, xúc phạm đến nhà nước như vậy không phải là phản động à? Tại sao chị còn dám bênh vực nó?
Giọng thứ nhất tôi không nhận ra ai nhưng giọng thứ hai rõ ràng là cái giọng khét rẹt của bà Lượm, một cán bộ mới tham gia cách mạng sau ngày giải phóng. Đó là một phụ nữ lúc nào cũng hăng say phát biểu, tố cáo những hành vi mà bà ta cho là tiêu cực hoặc phản động trong các buổi họp thôn xã đã khiến nhiều người chạy mặt. Nhưng có lẽ tức nước vỡ bờ, người kia vẫn không chịu nhân nhượng, mỉa mai:
- Tôi thách chị đó! Chị muốn đưa tôi vào tù cứ đưa đi!
Thấy cảnh cãi cọ gây mất trật tự, ông thôn trưởng bực mình nói lớn:
- Thôi, xin mấy bà im lặng để anh em còn đong dầu cho bà con về nghỉ chứ! Hay mấy bà muốn ngừng đong? Ai muốn cãi nhau cứ ra ngoài kia mà cãi cho thỏa mãn!
Cuộc cãi vã chấm dứt nhưng mọi người lại to nhỏ hỏi nhau về nguyên nhân của câu chuyện. Lát sau tôi mới biết tin thím Hào đã chết. Người ta đã gặp thi thể thím nằm trong một con lạch cạn trồng rau muống. Có thể sau khi bị đánh què chân, thím Hào đã lết đến nơi này để bẻ rau muống ăn hoặc uống nước. Cũng có thể một bàn tay nào đó đã quăng thím xuống nơi ấy. Vì xác chết đã có mùi nên xã chỉ lập thủ tục qua loa rồi cho người đem chôn.
Mấy ngày sau khắp xã Thiện Trường ở đâu cũng nghe bàn tán về cái chết thương tâm ấy. Nó không còn đơn giản chỉ là chuyện một người điên bị chết mà trở thành một vấn đề to tát hơn. Nó vô tình phơi bày cho thiên hạ thấy một phần nào đó bản chất của chế độ hiện hữu. Người đàn bà này trước đây chưa bao giờ chưa bao giờ phạm một tội ác, chưa bao giờ gây một sự rắc rối nhỏ trong xóm làng. Chú Hào, chồng nạn nhân cũng chưa bao giờ làm việc trong chính quyền chế độ cũ, chưa bao giờ làm một việc gì bất chính. Vậy nguyên nhân nào đưa đến sự tan nát phân ly tận cùng của gia đình này? Đó là một điều đã làm cho bao nhiêu người phải đau đớn suy nghĩ!
APRIL 10 - 2025
Ngô Viết Trọng