Vào Truyện 1 - Cái Thuở Ban Đầu 2 - Lấy Chồng Chiến Binh 3 - Ước Vọng Đoàn T ụ 4 - Những Ngày Đầu Sống Ở Đà Lạt 5- Làm Trưởng Trại Gà 6- Nhà Hương Hoả 7 -Trở Lại Nhà Chồng .... 8 - Chuyện Lạ ở Quê Chồng.....1....
1 - Vào Chuyện
Xanh kia thăm thẳm tầng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?
Chinh Phụ Ngâm
Portland, ngày...
Anh Ng. thân mến,
Một lần ngồi chờ khám bệnh tại một phòng mạch,
tôi đã tình cờ đọc được một truyện ngắn mang tựa đề V.H.M.X. trên một tạp chí.
Thấy nội dung truyện này gần giống một chuyện đã xảy ra ở làng mình, tôi rất
ngạc nhiên. Khi nhìn đến tên tác giả tôi mới vỡ lẽ, thì ra chính anh viết! Tôi
mừng hết sức khi biết được một người bạn cũ quá lâu không gặp nay vẫn còn sống!
Lại còn viết lách nữa, thật là thú vị! Nhưng hiện giờ anh ở đâu? Cuộc sống ra
thế nào? Tôi lại phân vân không biết có nên tìm cách liên lạc với anh không? Vì
dù sao hiện giờ tôi đang ở trong tình trạng gần đất xa trời, biết đâu liên lạc
được với anh lại thành tạo ra nỗi phiền muộn cho anh?
Về nhà tôi cứ ngồi thẫn thờ cả giờ. Tôi hồi
tưởng lại thuở còn đi học, tôi nhớ tới anh, nhớ tới những bạn đồng lứa khác...
Có lẽ bây giờ nhiều người đã không còn nữa hoặc đã phiêu tán bốn phương trời!
Lâu nay, vì chuyện mình không mấy vui, tôi vẫn cố tránh liên lạc với những
người quen biết cũ. Chỉ có một người hiện cũng đang ở Mỹ tôi còn giữ số phôn,
đó là D., nhưng cũng ít gọi nhau, không rõ giờ nó có thay đổi gì không?
Ngay tối hôm đó, tôi gọi D. để hỏi thăm về
anh. May quá, không những D. đã cho tôi biết anh hiện đang ở đâu mà còn cho
biết anh đã viết được ba bốn tác phẩm cả truyện ngắn lẫn truyện dài, tác phẩm
nào cũng đọc được! D. còn kể sơ vài truyện của anh viết cho tôi nghe nữa! Như
vậy là anh đã trở thành một nhà văn rồi!
Khi biết được điều này, phải nói là nỗi mừng
của tôi đã tăng gấp bội! Tôi mừng không phải chỉ đơn giản ở chỗ biết tin một
người bạn cũ còn sống hay thấy sự thành công trên văn nghiệp của anh đâu! Nỗi
mừng của tôi còn lớn lao hơn những nỗi mừng ấy nhiều! Tôi tin chắc, với năng
lực hiện có của anh, anh có thể giúp tôi giải tỏa được phần nào nỗi oan
khuất tày trời mà tôi đã phải chịu đựng suốt mấy chục năm nay!
Hình như anh rời làng cũ lâu lắm rồi phải
không? Sau ngày đất nước gom về một mối, tôi không hề gặp lại anh lần nào. Có
thể những việc đã xảy ra cho tôi sau 1975 anh không biết. Sau đó một thời gian
tôi cũng phải bỏ làng đi luôn. Gần như tôi đã quên hẳn anh nếu không tình cờ
được đọc cái truyện V.H.M.X. của anh. Phải chăng đây là chút duyên may cuối đời
của tôi?
Trong thời gian lưu lạc quê người, anh có hay
gặp lại những người làng mình không? Những lần ấy, anh có nghe ai nói gì về tôi
không? Nếu có nghe được gì, tôi đoán chắc anh sẽ thở dài: "Chuyện đời khó
mà ngờ được! Một người như cô ấy sao lại hành động như thế được?". Tôi
biết anh sẽ ngỡ ngàng như bị thả vào cung trăng! Nhưng tôi hi vọng anh sẽ có
một lối suy nghĩ khác với mọi người. Anh là một trong những người hiểu rõ tánh
tình của tôi trong thời niên thiếu. Ít nhất anh cũng tin tưởng tôi về một mặt
nào đó. Anh cũng là một người thấu hiểu sâu xa về hoàn cảnh xã hội Việt Nam sau
cuộc đổi đời 1975 như anh đã từng nêu ra trong những tác phẩm của anh. Nghĩ như
vậy nên tôi không ngần ngại gởi đến anh mấy tập tạp ghi này để anh tùy nghi sử
dụng.
Đây là những lời ghi chép tuy cẩu thả, sơ
lược, nhưng rất trung thực về những sự việc đã xảy sau biến cố đổi đời 1975.
Những sự việc đó đã làm tôi điêu đứng, thậm chí tôi phải gánh chịu một nỗi ô
nhục to lớn. Bao nhiêu lần tôi đã định gột rửa nỗi ô nhục đó bằng cái chết.
Nhưng rồi tôi phải cố sống để nuôi con.
Mọi chuyện bây giờ đã thành quá khứ. Những
người liên hệ đến vụ việc của tôi, nay kẻ còn người mất, tôi thật sự chẳng cần
tìm lại sự thông cảm ở họ nữa. Tôi chỉ ân hận vì tôi không cách nào giải tỏ
được tình cảnh của mình với ông chồng khốn khổ của tôi thôi! Tôi biết anh ấy
hận tôi lắm! Tôi biết anh ấy thất vọng và đau khổ vì tôi lắm! Anh ấy đã mang
nỗi khổ về thân xác, về cuộc sống quá nhiều rồi! Tôi không muốn anh ấy ôm mãi
nỗi khổ quá to lớn đó trong lòng cho đến khi xuống tuyền đài.
Tôi xin thề với trời đất, suốt đời tôi chưa
bao giờ có ý nghĩ hay hành động nào phản bội anh ấy cả! Nếu có sự bất như ý đã
xảy ra một lần thì đó là do cạm bẫy của đời, hoàn toàn ngoài ý muốn của tôi. Sự
mất mát của tôi cũng giống như sự mất mát một phần thân thể của anh ấy, làm sao
cưỡng lại được? Tôi nghĩ, nếu anh ấy biết được hoàn cảnh của tôi lúc ấy, chắc
hẳn anh ấy thông cảm cho tôi! Tiếc rằng anh ấy nóng nảy, nông nổi và chủ quan
quá! Tôi không có một cơ hội nào để giải thích với anh ấy cả. Bây giờ tôi cũng
chẳng biết anh ấy còn sống trên cõi đời này hay không. Nhưng tôi biết chắc dù
sống hay chết anh ấy vẫn mãi ôm mối hận đối với tôi!
Lẽ ra tôi phải tự tay hoàn chỉnh tập hồi ký
này. Nhưng rủi thay, thình lình tôi được bác sĩ cho biết mình đã mắc phải chứng
bệnh nan y hết hi vọng chạy chữa. Tinh thần đã rối loạn, ngày tháng đã cạn
kiệt, tôi làm sao thực hiện được ý nguyện của mình? Đó là lý do khiến tôi phải
nhờ đến ngòi bút của anh! Tôi hi vọng anh sẽ coi nó như một tài liệu sống, anh
có thể phơi bày cho người đời cùng thấy.
Tôi cũng mong rằng, khi thông điệp này ra đời,
nếu chồng tôi còn sống đâu đó, anh ấy sẽ hiểu cho tôi. Tôi chỉ cần anh ấy hiểu
cho tôi để anh ấy giảm bớt được phần nào nỗi phẫn hận, uất ức khi nghĩ tôi là
một kẻ phản bội, một kẻ phụ tình là đủ. Thảng hoặc khi thông điệp này ra đời
mà anh ấy không còn nữa, tôi cũng sẽ toại nguyện phần nào cũng như khi mình ấm
ức một chuyện gì mà đã la hét lên được, đã khóc ra tiếng được!
Tôi cũng tin chắc trong xã hội này còn rất
nhiều người khác cũng đang gánh chịu những nỗi oan khuất tương tự như tôi. Biết
đâu thông điệp này lại chẳng trở thành một nhịp cầu thông cảm, nối liền tình
yêu thương giữa nhiều người đã bị cắt đứt bởi những ngộ nhận do thời thế, do
hoàn cảnh đặc biệt gây nên!
Tôi mang chứng ung thư gan đã vào giai đoạn
cuối, đời sống của tôi đã tới lúc chỉ còn tính từng ngày. Tôi mong anh vì tình
làng nước, tình bạn cũ, thay tôi ghi chép lại sự việc này để người đời cùng cảm
thông...
Cám ơn anh trước và chúc anh thành công!
Một người bạn cũ của anh.
CHƯƠNG 1: CÁI THUỞ BAN ĐẦU
Hồi ấy nhà tôi ở ngoại ô thành phố Huế. Cha
tôi là một giáo sư dạy Pháp văn khá nổi tiếng, mẹ tôi là một giáo viên tiểu
học. Tôi có hai người anh - anh đầu tên Hữu anh thứ tên Hảo - chỉ cách nhau hai
tuổi. Tôi là con gái duy nhất, kém anh Hảo đến bảy tuổi. Vì thế, từ thuở nhỏ
tôi đã được hứng trọn tất cả tình thương yêu cưng chiều của mọi người trong gia
đình.
Khi hai người anh tôi bước vào tuổi trưởng
thành, tôi mới chỉ là một cô bé lên mười. Thế nhưng từ tuổi ấy tôi đã biết là
tôi xinh đẹp. Ai cũng khen tôi có một gương mặt ưa nhìn với nước da trắng như
trứng gà bóc. Một số bạn bè của hai anh tôi vẫn hay đùa đòi "xí" tôi
trước. Anh nào cũng tỏ ra ưu ái đặc biệt với tôi, coi tôi như em gái cưng. Họ
rất chiều chuộng tôi, hay dẫn tôi đi xem hát, xem phong cảnh đó đây, tặng
những món quà tôi ưa thích. Được thể tôi cũng đâm ra hay vòi vĩnh với họ khiến
hai anh tôi phải khuyên ngăn, răn đe nhiều lần.
Tôi càng lớn, hai anh tôi và nhất là mẹ tôi
càng chú ý dạy bảo tôi về cách giữ gìn tánh nết, về cách cư xử với mọi người,
đặc biệt là đối với nam giới. Tôi đã tỏ ra biết vâng lời khiến những người
trong gia đình rất hài lòng, tin tưởng...
Khi tôi học chưa hết trung học đệ nhất cấp
hai anh tôi đều đã sống xa nhà: anh Hữu đã nhập ngũ, anh Hảo may mắn hơn, đã
được du học ở Pháp. Tuy hai anh tôi đã đi khỏi nhưng một số bạn bè cũ của hai
anh tôi vẫn hay lui tới nhà tôi thăm viếng như trước. Lúc này tôi đã hiểu biết
nhiều nên càng tỏ ra rất chừng mực trong việc tiếp xúc với các anh ấy. Tôi cũng
biết đây là thời điểm quan trọng nhất trong đời con gái của mình nên càng dè
dặt cẩn thận. Hình như hễ cậu con trai nào đã gặp tôi một hai lần đều cố tìm
cách làm quen cho được. Các bạn đồng phái thì muốn giới thiệu tôi cho anh em
chúng... Thật tình trái tim tôi cũng nhiều lúc xao động, nhưng rồi với niềm
kiêu hãnh, với lòng tin tưởng vào những kinh nghiệm mẹ tôi đã truyền thụ, tôi
vẫn gắng làm ra vẻ một kẻ vô tình...
Rồi vào sáng thứ ba kia nghỉ học, tôi vừa
mang một thau áo quần dơ toan đi giặt thì anh Thành đến chơi. Anh Thành là một
trong những bạn học của anh Hảo. Trước đây anh vẫn thường lui tới nhà tôi nên
chúng tôi vẫn coi anh như người trong gia đình. Sau khi hai anh tôi đi khỏi,
thỉnh thoảng anh cũng ghé nhà thăm ba mẹ tôi vào dịp cuối tuần. Đây là lần đầu
anh Thành đường đột tới nhà tôi vào một ngày thường nên tôi không khỏi ngạc
nhiên. Tôi để thau áo quần bên một gốc chuối:
- Mời anh Thành vào nhà đã! Anh đến chơi hay
có việc gì?
Tôi dợm bước đi nhưng anh Thành vẫn đứng tại
chỗ:
- Chẳng có việc gì cả. Buồn buồn tới thăm em
gái thôi.
- Sao anh biết sáng nay Ngọc ở nhà mà tới
thăm?
- Thế mới tài chứ! Anh còn biết thứ năm em
được nghỉ cả ngày nữa kìa!
Hóa ra anh ấy đã đọc được thời khóa biểu mới
của lớp tôi ở đâu đó. Tôi nói đùa:
- Vậy mà cũng khoe tài! Tài đọc lén thời khóa
biểu thì có!
- Nghĩ thế cũng được! Nhưng cũng phải có lý do
khiến người ta phải đọc lén chứ!
Ngập ngừng một chút, anh Thành tiếp:
- Nói chơi chứ anh đến để báo cho em biết là
anh sắp nhập ngũ!
Tôi trố mắt kinh ngạc:
- Anh Thành nói thật à? Khi nào anh lên đường?
- Nội tuần sau thôi.
- Sao mà gấp dữ vậy?
- Anh ra đi chẳng được một ai lưu luyến thì
dùng dằng cho lâu làm gì!
Tôi chợt nhớ mấy câu thơ trong Chinh Phụ Ngâm
vừa mới học, bèn cười:
- Thế mà lại hay, tránh được cái cảnh "Dấu chàng theo lớp mây đưa, Thiếp nhìn rặng
núi ngẩn ngơ nỗi nhà!" nghe
xốn xang lắm phải không anh Thành?
- Không đâu, thật tình anh mong được hưởng cái
cảm giác xốn xang đó lắm! Tiếc rằng anh vô phước nên không có thôi!
Anh Thành nhìn tôi với cặp mắt hơi lạ một hồi
- hình như anh còn muốn nói gì nữa nhưng rồi nhìn thau áo quần đầy ắp tôi để ở
gốc chuối anh lại lặng thinh. Lát sau anh cất giọng buồn buồn:
- Thôi, anh về để Ngọc còn làm việc. Nhớ cho
anh gởi lời thăm và chúc sức khỏe hai bác. Anh đi nhé!
**tiếp theo**
Tôi còn nhiều công việc thật nên chỉ mời đưa:
- Sao anh gấp dữ vậy? Hay chủ nhật này có ba mẹ em ở nhà anh lại chơi một lần chót trước khi lên đường chứ!
- Ừ, thứ bảy hoặc chủ nhật anh sẽ tới!
Hình như anh Thành hơi bỡ ngỡ và không mấy vui trước vẻ bình thản của tôi...
*
Buổi tối, vào lúc gia đình ăn cơm, tôi nói:
- Ba mẹ biết anh Thành sắp đi lính chưa?
Mẹ tôi hơi giật mình:
- Nó nói với con thế à?
Tôi kể hết đầu đuôi việc anh Thành đến thăm, mẹ tôi cười:
- Đến giã từ mà chỉ có vậy thôi sao? Con chẳng nói gì thêm với nó à? Đứa nào cũng "một cục vắt một hòn" cả!
Nhìn nụ cười của mẹ tôi chợt hiểu ý. Tôi chống chế:
- Con biết chuyện gì mà nói!
Mẹ tôi quay sang cười với ba tôi:
- Cái thằng thế mà nhát gái quá!
Ba tôi cũng cười, nói:
- Em làm như đã đi guốc trong bụng thằng Thành không bằng!
Mẹ tôi quả quyết:
- Thấy đã hay, đâu cần phải lấy tay mà sờ! Nó lui tới nhà mình bao lâu nay anh không hay biết gì cả sao? Không tin thứ năm này nó lại tìm đến nữa cho coi! Được cái nó tánh tình ngay thẳng, trung hậu, không có chi đáng ngại!
Ba tôi cười vui vẻ:
- Thế à, có thể em nói đúng, anh không có cái nhạy cảm như đàn bà được! Nhưng anh cũng có nhận xét trong số bạn bè của thằng Hữu thằng Hảo nó là đứa được nhất!
Hóa ra ba mẹ tôi có cảm tình với anh Thành đến thế. Nhưng hình như ông bà chưa hiểu lòng tôi. Anh Thành nghĩ về tôi ra sao chưa rõ chứ tôi hoàn toàn chưa có tình ý gì với anh ấy. Hai anh tôi có nhiều bạn bè hay gần gũi tôi, tôi cũng có một số bạn bè khác nữa, người nào cũng có những nét để tôi mến, nhưng tôi chưa hướng tình cảm về một ai cả. Nói cho đúng, tôi còn đang lựa chọn. Những lời răn dạy của mẹ tôi đã khiến tôi lúc nào cũng bình tĩnh đắn đo trong việc gây dựng tương lai cho mình. Đã có nhiều chàng trai gởi thư tán tỉnh nhưng tôi đều phớt lờ. Con gái hồi đang lên cần gì phải vội! Tôi đang nghĩ vẩn vơ thì nghe mẹ tôi hỏi ba tôi:
- Sao, anh nghĩ mình có nên mời nó một bữa cơm giã từ không?
- Nếu em thấy tiện cứ làm! Trưa chủ nhật này được không?
Mẹ tôi quay sang tôi:
- Con mời anh Thành đến dùng bữa cơm thân mật trưa chủ nhật này nhé!
Tôi gật đầu. Anh Thành đã bao lần ăn cơm ở nhà tôi, đâu ngại gì chuyện đó.
Hôm sau, theo lời dặn của mẹ tôi, tôi ghé chợ mua một cặp vịt tơ. Thịt vịt chắm nước mắm gừng và cháo vịt là món ăn thích khẩu của hai ông anh tôi và anh Thành. Mẹ tôi quan sát cặp vịt một lát, bà đưa mắt nhìn ba tôi rồi nhìn tôi, cười ý nhị:
- Cũng biết lựa đúng thứ khách ưa đấy chứ! Nó là khách của con, chủ nhật này làm món gì tùy con đấy!
Tôi cười chống chế:
- Ba mẹ bảo mời sao lại nói là khách của con?
Mẹ tôi lại cười:
- Chỉ tiếc là nó phải đi lính! Nếu như nó được miễn dịch thì...
Ba tôi cũng cười, nói xen vào:
- Tiếc cái gì, thời buổi này mấy ai khỏi làm lính? Con mình không đi lính à? Làm lính cũng có cái giá trị cao cả của người lính chứ! Em không nghe câu ca dao "Trai khôn tìm vợ chợ đông, Gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân" sao? Nhưng sao em kết cậu ấy dữ vậy?
Mẹ tôi phân trần:
- Có gì đâu, nó gần gũi mình từ nhỏ, mình biết rõ tánh tình nó chất phác, trung hậu, đỡ phải lo lắng về tương lai của con gái mình. Em cứ sợ để tự do con nó vấp phải phường không ra gì thì uổng đời.
Câu nói của mẹ đã khiến tôi phát ngượng, tôi vội thanh minh:
- Nhưng anh Thành với con đã có gì đâu mà mẹ nói vậy? Chẳng qua con chỉ coi anh ấy như một người anh thôi. Anh ấy cũng chưa hề nói thương yêu gì với con cả và thật tình con cũng chưa hề nghĩ đến chuyện chồng con đâu!
Mẹ tôi lại cười:
- Ừ, nếu con chưa nghĩ đến chuyện chồng con thì thôi!
*
Tôi hoàn toàn không ngờ ba mẹ tôi đã có ý chọn chồng cho tôi. Người chủ động vấn đề rõ ràng là mẹ tôi. Xưa nay tôi vẫn phục những nhận xét nhạy bén, sâu sắc của bà về việc đời. Đêm đó tôi đã suy nghĩ nhiều về anh Thành. Tất nhiên mẹ tôi nói có lý. Anh Thành hiền lành, thông minh, học hành khá, lại điềm đạm, ít nói... Tôi vẫn xếp anh vào hạng trên trung bình. Nếu lấy anh Thành mà tạo được niềm vui cho cha mẹ mình thì cũng đáng lắm chứ!
Mẹ tôi đã đoán không sai! Sáng thứ năm, sau khi ba mẹ tôi rời khỏi nhà một lát thì anh Thành đến, có vẻ rụt rè, bần thần. Tôi hơi ngượng và tức cười khi nhớ lại những lời mẹ tôi ướm ướm hôm kia. Có thể anh Thành đã thỏa hiệp ngầm với ba mẹ tôi lắm?
- Anh Thành vào nhà chơi đã!
Anh chỉ cười cười, hơi gật đầu một tí rồi bước vào ngồi xuống ghế. Thấy anh có vẻ lúng túng, tôi lại tiếp:
- Trước khi anh lên đường, trưa chủ nhật này mời anh đến dùng bữa cơm thân mật với gia đình em được không?
Vẻ mặt anh Thành tươi tỉnh hẳn lên:
- Làm phiền hai bác và Ngọc quá vậy! Nhưng chuyện ấy để nói sau, bây giờ anh đề nghị với Ngọc như thế này...
Tôi lại tức cười thúc giục:
- Lâu lắc gì nữa mà phải nói sau! Tiện hay không tiện anh Thành cứ nói để em còn tính việc chứ!
- Thôi được, hai bác và Ngọc đã có ý tốt anh đâu dám không nghe, anh xin cám ơn trước! Nhưng bây giờ anh đề nghị chuyện này mong Ngọc không từ chối.
- Chuyện gì vậy?
Anh ngập ngừng:
- Anh muốn mời em đi xem tuồng "Lưu Huyền Đức cầu hôn Giang tả" bắt đầu diễn vào lúc hai giờ chiều nay, tuồng này hay lắm, em đồng ý chứ?
- Ồ, xin lỗi anh Thành, chiều nay em phải đi với ba em có công chuyện!
Anh Thành xịu mặt, mất hẳn cái vẻ hào hứng vài phút trước đó. Thật ra tôi bịa chuyện thôi. Tôi nghĩ dù tôi có đi chơi với anh Thành chắc ba mẹ tôi cũng không buồn. Tôi chỉ ngại anh ấy đánh giá tôi hơi phóng túng thôi. Đó chính là cái kinh nghiệm mẹ tôi đã dạy. Nhưng nhìn vẻ mặt thất vọng của anh Thành tôi thấy không đành lòng. Tôi nói một câu vu vơ:
- Lúc này ổi ở vườn anh chín nhiều chưa?
Không ngờ câu nói này lại làm vẻ mặt anh Thành tươi lên:
- À, lúc này ổi vườn anh chín nhiều lắm nhưng anh quên không hái cho Ngọc một ít. Hay bây giờ đến vườn anh chơi một lát hái ổi ăn cho vui! Vườn mùa này mát lắm!
Trước đây tôi đã có mấy lần theo hai anh tôi đến nhà anh Thành chơi. Đúng ra đó chỉ là nhà ông bác họ xa của anh. Nhà chính của anh ở đâu tận một xã thuộc vùng quê xa thành phố đến mười mấy cây số. Anh ở nhà ông bác để đi học cho gần đồng thời coi sóc nhà cửa giùm vì ông bác hay vắng nhà. Nhà có một khu vườn đẹp, trồng nhiều loại cây ăn trái, mùa hè vườn này mát mẻ đến phát mê. Anh Thành vẫn hay hái trái cây đem cho chúng tôi. Vừa rồi tôi chỉ hỏi cho có chuyện, không ngờ anh Thành lại vin vào đó để rủ tôi. Tìm cớ gì để từ chối nữa đây? Nhớ lại gương mặt bị sị của anh lúc nãy, tôi gật đầu:
- Cũng được! Nhưng đến chơi một lát thôi nghe, em phải về sớm kẻo ba em chờ!
- Anh chở em đi rồi chở về cho tiện nhé!
- Không, em cũng có xe đạp mà!
Tôi dắt xe đạp ra cưỡi. Nhà anh Thành chỉ cách nhà tôi khoảng hai cây số, đạp một chốc tới liền. Trong nhà anh lúc đó không có ai. Tôi không vào nhà anh mà đi thẳng ra vườn. Vườn vẫn đẹp đẽ, mát mẻ hấp dẫn như xưa nhưng mới đầu mùa nên ổi chín hơi hiếm. Anh Thành rảo khắp, leo trèo nhiều cây nhưng chỉ hái được một mớ trái hườm hườm. Chúng tôi lựa một gốc mít, lót tờ báo cùng ngồi ăn và chuyện trò vu vơ. Một lát sau, anh Thành nhìn thẳng vào mắt tôi rồi nói:
- Anh xin thú thật, anh thương mến Ngọc từ lâu lắm rồi. Giờ sắp đi xa, không còn thì giờ để nói nhiều, anh xin đi thẳng vào vấn đề, anh muốn sau khi ra trường được cưới em làm vợ, anh nguyện sẽ yêu em, lo lắng bảo bọc em suốt đời, xin em hiểu lòng anh mà không từ chối!
Tôi chỉ hơi xúc động, nhưng không ngạc nhiên vì hôm kia mẹ tôi đã gián tiếp báo động cho tôi biết chuyện này. Hơn nữa, biết mình có chút nhan sắc hơn người, không khỏi nhiễm ít nhiều thói tật kiêu căng, tôi bình thản trả lời:
- Cám ơn anh Thành đã nghĩ đến, đã dành thứ tình cảm cao nhất đó cho Ngọc. Nhưng thời gian còn dài, không gian còn cách trở, đâu vội gì anh!
Anh Thành nói với giọng tha thiết:
- Không vội sao được Ngọc? Em đẹp quá như vậy làm sao anh yên lòng được nếu em không cho anh một lời hứa? Thú thật khi rủ Ngọc đi xem hát tuồng, anh có ý định nêu một bằng chứng giữa ba quân thiên hạ rằng anh đã "xí em trước"...
Nói đến đây anh run run cầm tay tôi:
- Ngọc hứa với anh một lời đi!
Tôi để yên tay cho Thành nắm - do lòng bất nhẫn chứ không phải do tình yêu. Tôi kính mến anh nhiều nhưng tình yêu anh thì còn ẩn núp đâu chưa ló dạng:
- Anh hãy thư thả một thời gian Ngọc mới trả lời được!
Thành bóp mạnh tay tôi:
- Em trì hoãn để từ chối ư? Không, anh muốn em trả lời ngay, anh sốt ruột lắm!
Bất thần Thành kéo tôi ôm lấy và hôn hít túi bụi. Thành hổn hển nói:
- Anh phải làm một cái gì để giữ em mới được!
Tôi cố vùng vẫy để thoát khỏi vòng tay của Thành nhưng không dám kêu. Thành cố giữ tôi lại. Trong khi giằng co tôi bị ngã ngửa ra và Thành chồm lên người tôi. Bất đồ tôi cắn một miếng vào cánh tay làm Thành kêu lên một tiếng rồi buông tôi ra. Khi vùng dậy được tôi mới biết cái quần tôi mặc đã bị đứt dây lưng suýt tụt xuống. Tôi phải dùng một tay nắm múi vải để giữ nó lại. Trong khi Thành còn đứng ngẩn ngơ tại chỗ, tôi bứt được một đoạn dây dại để cột túm múi vải ở lưng quần. Xong, tôi chạy vội lại lấy xe đạp cưỡi lên phóng đi mặc cho Thành tái mặt không biết nói gì. Khổ nỗi xe đi được một đoạn thì múi dây cột tuột rơi mất. Tôi phải một tay lái ghi đông, một tay giữ lưng quần để đạp xe về nhà.
Thật hú vía, may là tôi chưa bị mất mát gì! Không ngờ một người có vẻ hiền lành, đức độ như anh Thành lại có lúc hành động như vậy!
Tôi bực tức, bần thần suốt buổi chiều ấy, bỏ luôn cả việc nấu nướng giúp mẹ tôi như những ngày nghỉ học khác.
CHƯƠNG 2: LẤY CHỒNG CHIẾN BINH
Tiếng máy nổ quen thuộc của chiếc vespa ba tôi cỡi ngừng lại trước sân làm tôi tỉnh hẳn người. Mẹ tôi gọi:
- Con Ngọc đâu ra xách đồ vào giùm mẹ!
Tôi uể oải bước ra. Nhìn giỏ thức ăn đầy ắp nhiều thứ như đậu xanh, nếp, trứng vịt, thịt heo..., lại có cả một con cá trầu lớn gần bằng cổ tay đang vùng vẫy ở đáy giỏ, tôi đâm ra ngao ngán, tội nghiệp cho mẹ. Mẹ ưu ái với anh Thành đến thế sao? Nếu tôi tỏ rõ thái độ bất bình với anh Thành cho mẹ tôi biết chắc hẳn mẹ buồn lắm! Biết làm thế nào đây? Thấy tôi không có vẻ sốt sắng gì, mẹ tôi hỏi:
-Thằng Thành có đến không?
-Dạ có. Nhưng anh ấy chỉ ghé một lát rồi đi liền.
- Sao vậy? Con mời nó chưa?
Tôi xịu mặt, cúi xuống xách giỏ đồ vào nhà - không nói gì.
- Nhốt con cá trầu lại cho kỹ để hôm đó nấu ít tô canh chua nghe!
Tôi lặng lẽ làm theo ý mẹ. Có lẽ mẹ đã đoán ra tôi có điều không vừa ý. Bà chỉ cười nói giả lả chứ không hỏi gắt. Lâu nay mỗi lần tôi có chuyện bất bình bà vẫn có thái độ như thế. Đợi lúc thấy tinh thần tôi bớt căng thẳng mẹ mới hỏi phăng rồi từ tốn nói chuyện phải trái. Với tôi lâu nay mọi chuyện xảy ra đều chỉ giới hạn ở tầm mức vớ vẩn, trẻ con, chứ chưa lần nào làm tôi xốn xang quá đỗi thế này! Kể với mẹ chuyện đã xảy ra ư? Tôi đã mời anh Thành rồi, nhưng sau cái hành động không đẹp đó liệu anh Thành có dám vác mặt đến nhà tôi nữa không? Nếu anh Thành đến, tôi nên có thái độ ra sao?
Tối đó tôi chỉ ăn qua quít vài miếng rồi lên giường nằm sớm. Nhưng tôi không thể nào ngủ được. Có lúc tôi muốn phơi bày cái chuyện quấy quá của anh Thành cho mẹ tôi biết, nhưng rồi tôi lại không muốn làm mẹ buồn. Tôi đã thức gần trắng đêm...
Hôm sau, khi sửa soạn đi học tôi bỗng nghe ba tôi nói với mẹ tôi:
- Hôm nay anh mời ông Lành, ông Thảo chủ nhật này đến chơi luôn nhé!
Tôi đâm hoảng. Tất nhiên ba tôi phải cho khách biết lý do mời cơm. Nếu anh Thành không đến thì biết ăn nói làm sao? Tôi lập tức nói dối với mẹ tôi nhưng mục đích để ba tôi cùng nghe:
- Mẹ ạ, con quên nói với mẹ, anh Thành nói anh còn bận đi thăm giã từ mấy người bà con ở xa, có thể bữa đó anh ấy không đến kịp. Theo con nghĩ mình chỉ nên làm một bữa cơm gia đình thôi, anh ấy đến cũng tốt, không đến cũng không sao. Mình có lòng mời như thế là đủ rồi!
Ba tôi ngạc nhiên nói với tôi:
- Cái con này nữa! Sao không nói sớm? Cũng may là ba chưa mời ai.
*
Cũng may thật, quả đúng chủ nhật đó anh Thành đã không đến. Tôi không vui mà cũng chẳng buồn. Mấy ngày sau ba mẹ tôi cũng như tôi đều biết được anh Thành đã lên đường. Mẹ tôi có vẻ áy náy hỏi tôi:
- Sao thằng Thành đi mà không ghé nhà mình con biết không? Chuyện gì đã xảy ra?
Tôi chỉ lắc đầu. Vài ngày mẹ tôi lại hỏi nữa. Bà còn thêm:
- Thằng đàn ông con trai như vậy mà con không vừa ý, mẹ cũng không biết con sẽ chọn hạng nào nữa?
Quả tình mẹ tôi đã đi guốc trong bụng tôi! Tôi chỉ cười buồn. Không rõ mẹ tôi đã lập lại câu đó đến lần thứ mấy.
Hơn một tháng sau đó tôi nhận được thư của anh Thành từ quân trường gởi về. Chỉ toàn những lời xin lỗi. Tôi không trả lời. Sau đó lại liên tiếp có nhiều lá thư khác, cũng đều là những thư hối lỗi. Lỡ rồi, tôi vẫn không trả lời. Hơn hai tháng sau tôi nhận được thư của anh Hảo. Tôi tức cười khi thấy rõ được sự thật thà của anh Thành: chuyện của tôi đã đến tai anh Hảo! Đây cũng là cái cớ chính để tôi chịu làm hòa với anh Thành. Tuy vậy, tôi vẫn giữ cái ranh giới vừa phải - cứ tới đâu hay tới đó.
Nhưng rồi với những lá thư lời lẽ nồng nàn, với sự hỗ trợ từ xa của hai ông anh tôi, và nhất là với sự nội ứng mạnh mẽ của mẹ tôi, anh Thành đã phá vỡ được bức thành lòng của tôi lúc nào không hay...
Khi ra trường anh Thành may mắn được về phục vụ ở một đơn vị thuộc tỉnh nhà. Chẳng bao lâu sau đó, anh đã đàng hoàng trở thành chàng rể tương lai của gia đình tôi.
Khi đã kết thân rồi tôi mới biết thêm chàng có nhiều đức tính hiếm thấy. Hơn ba năm trong thời gian chưa cưới, chúng tôi có nhiều cơ hội để gần gũi nhau, thế mà chàng vẫn một mực chịu phép, không hề dám manh động. Biết chuyện này, một người bạn tôi đã nói đùa: "Đúng là cù lần biển! Lúc người ta chưa chịu thì làm ẩu, khi người ta trông chờ chết mệt lại làm ngơ!".
Một lần chàng về phép ghé thăm gia đình tôi lại gặp lúc một cô bạn của tôi cũng đến chơi. Thấy cô bạn này bận bộ đồ bộ vải xoa màu tím nhạt vừa vặn xinh xắn quá tôi buột miệng khen:
- Bộ đồ này ai may khéo quá, mày mặc trông đẹp hết sẩy!
Thành cũng trầm trồ khen rồi quay sang tôi:
- Anh sẽ tặng Diệu Ngọc một bộ đồ như thế!
- Khi nào anh tặng?
- Hôm nay là thứ tư, chiều thứ sáu đi! Vì sáng thứ bảy anh phải trở về đơn vị rồi!
Nghe chàng hứa tôi thích lắm. Ngờ đâu hôm sau trời đổ mưa suốt ngày. Hôm thứ sáu mưa càng lớn, gió lại thổi mạnh. Lúc đó tôi không nghĩ đến món quà Thành hứa tặng nữa mà chỉ ngại anh ấy phải vất vả khi trở về đơn vị. Thế mà đúng chiều thứ sáu anh vẫn có mặt tại nhà tôi với món quà đã hứa. Tôi cảm kích hết sức. Thành nói:
- Trời mưa bão dữ quá sợ thợ may nghỉ việc, anh phải đến tiệm ngồi thúc hối từ buổi trưa tới giờ mới xong đấy! Anh không muốn thất hứa với em!
Nhìn người Thành ướt át, mẹ tôi cười bảo:
- Quả thật một cục vắt một hòn! Không tặng khi này thì khi khác cũng được chứ làm gì mà gấp vậy? Con Ngọc lấy đồ của thằng Hảo cho nó thay đi không lại cảm!
Tôi đưa đồ của anh Hảo cho Thành thay. Sau đó tôi lấy bộ đồ Thành mới tặng mặc thử. Ai nấy đều ngạc nhiên thấy nó vừa vặn đẹp quá. Tự ngắm mình trong gương tôi thấy hài lòng hết sức.
Cảm động vì thịnh tình của Thành, tôi nói với chàng:
- Cám ơn anh đã tặng em một bảo vật. Em sẽ giữ bộ đồ này làm kỷ niệm.
Hôm sau tôi nắn nót thêu vào hai chéo chiếc áo quí ấy hai chữ Hán: một bên chữ Ngọc một bên chữ Thành. Xong, tôi xếp lại cẩn thận cất vào rương chờ khi Thành về thăm sẽ đem khoe.
*
Đến khi tôi đã trở thành cô giáo thì hai gia đình chúng tôi chính thức tổ chức lễ cưới. Không lâu sau đó ba mẹ tôi đổi về sống ở Sài Gòn. Đơn vị đóng không xa nên anh Thành vẫn hay về thăm ông bà nội và vợ con. Chúng tôi ít khi xa cách nhau lâu. Thành rất hãnh diện về đức hạnh của tôi trước mọi người. Chàng vẫn luôn nhắc tới câu chuyện làm ẩu ngày xưa của chàng như một chứng minh hùng hồn về cái đức hạnh đó. Sự khoe khoang ấy nhiều khi đã khiến tôi phải phát ngượng... Trong vòng năm năm, ba đứa con của chúng tôi là thằng Tí, thằng Sửu và con Hoa đã lần lượt ra đời...
Nhưng rồi chiến tranh càng ngày càng nổ lớn. Đùng một cái, người anh cả của tôi - anh Hữu - bị tử trận. Phải chăng là do số mệnh? Trước đó tôi đã nghe anh sắp lên đường đi tham dự một khóa tu nghiệp ở nước ngoài. Chỉ vì vụ bàn giao công việc chậm trễ, anh ở lại đơn vị thêm một đêm! Nào ngờ đêm đó lại là đêm định mệnh: một trái đạn pháo đã kết thúc cuộc đời anh! Ngoài nỗi đau đớn mất một người thân, cái chết ấy còn tạo một dấu ấn sâu đậm trong đầu óc tôi về lẽ vô thường. Tôi tự dưng cảm thấy thương cảm và ái ngại cho những người lính thời chiến quá. Tôi càng đâm ra lo sợ cho chồng tôi, cho chính mình: "... Lấy chồng đời chiến binh, Mấy người đi trở lại, Lỡ khi mình không về, Thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê..." (thơ Hữu Loan).
Một thời gian sau đó anh Thành lại nhận được lệnh thuyên chuyển về vùng 3. Lúc đó tôi một tay với ba đứa con dại muốn đi theo chồng cũng khó lắm! Nhất là con Hoa còn chưa tròn một tuổi. Đi theo chỉ làm bận bịu cho chồng tôi thôi! Nghĩ như thế nên tôi đành ở lại để vừa nương tựa cha mẹ chồng vừa tiếp tục đi dạy học. Nhưng sống xa cách chồng quá tôi càng thấy thương và ái ngại cho chồng tôi vạn bội. Từ đó đầu óc tôi luôn bị ám ảnh bởi những nỗi bất hạnh mơ hồ...
CHƯƠNG 3: ƯỚC VỌNG ĐOÀN TỤ GIA ĐÌNH
Giữa tháng 7/74, tôi nhận được một lá thư của Thành, anh cho biết khoảng cuối năm 74 hoặc đầu 75 anh sẽ được thuyên chuyển về phục vụ ở Trường Võ Bị Quốc Gia. Anh cũng nói lên ước vọng: "Nếu em xin được thuyên chuyển về dạy ở Đà Lạt nữa thì hay biết mấy! Vợ chồng con cái mình sẽ được sum họp, thật không mong gì hơn!". Đà Lạt là một thành phố cao nguyên, vốn nổi tiếng khí hậu mát mẻ, dân tình hiền hòa, lại có nhiều danh lam thắng cảnh, là một nơi di dưỡng tinh thần rất tốt. Anh Thành lại có bà cô ruột - cô Hậu - đã sinh sống ở nơi này hơn mười lăm năm nay. Nếu được đổi về Đà Lạt, chúng tôi cũng không đến nỗi lẻ loi! Vì thế, tôi cũng mơ ước được đổi về đó lắm.
Khi tôi báo tin này cho ông bà nội tức cha mẹ chồng tôi - từ khi có con tôi vẫn quen gọi cha mẹ chồng là ông bà nội, gọi cha mẹ ruột tôi là ông bà ngoại - theo đúng như con cái chúng tôi gọi - ông bà nội mừng lắm:
- Nó nói sắp được đổi về Đà Lạt thật không con? Lạy ơn trên! Quả là phước đức ông bà để lại!
Tôi đọc lại lá thư cho ông bà nội cùng nghe. Suốt mấy ngày liền trên nét mặt hai ông bà lúc nào cũng lộ vẻ hân hoan làm tôi rất cảm động. Ông bà nội mừng vì được về Đà Lạt chữ thọ của anh Thành sẽ được bảo đảm hơn nhiều. Nhân một bữa ăn tối, trong lúc ông bà đang hí hửng nhắc đến anh Thành, tôi hỏi:
- Anh Thành muốn con và mấy cháu vào sống với anh ở Đà Lạt, ông bà nội có chịu cho tụi con đi không?
- Sao lại không? Ba mẹ cũng mong vợ chồng con được sum họp lắm chứ!
Tôi nghe thế mừng lắm:
- Vậy thì con làm đơn xin thuyên chuyển nhé!
Ông nội vui vẻ nói:
- Ừ, con cứ làm đơn đi! Ba mẹ tuy già nhưng còn mạnh, vẫn có thể nương tựa nhau được. Năm bảy năm nữa yên yên tụi con cũng trở về đây chứ lo gì!
Mấy ngày sau tôi lại nhận được một lá thư nữa. Anh Thành cũng lập lại cái tin đáng mừng nói trên. Anh cũng nhắc tôi nên tìm cách xin thuyên chuyển về Đà Lạt. Thế là cả gia đình tôi đều vui vẻ chờ tin mới.
Chừng nửa tháng sau ông bà ngoại ở Sài Gòn lại đột ngột về thăm chúng tôi. Tôi kể lại việc anh Thành sắp đổi về Đà Lạt cho ông bà nghe và cũng nói lên nguyện vọng của gia đình. Ông ngoại nghe xong cũng vui vẻ nói:
- Ừ, Đà Lạt là nơi khí hậu tốt nhất Việt Nam, về học đường từ tiểu học đến đại học đều có đủ, việc giáo dục con cái rất thuận lợi. Dân Đà Lạt lại sống hiền hòa, các nghề trồng trọt, buôn bán... đều khá. Con muốn lên đó sống với thằng Thành để ba lo cho, không khó khăn chi đâu!
Lúc bấy giờ ông ngoại về hưu đã khá lâu, tôi nghĩ ông ngoại chỉ nói cho có nói vậy thôi chứ không tin tưởng lắm. Tôi mỉm cười hỏi:
- Bộ ông ngoại giúp con việc đó được thật sao?
Ông ngoại cười:
- Sao lại không được? Ba còn nhiều bạn bè đang làm việc ở Bộ, một việc nhỏ đó chẳng lẽ ba lo không xong?
- Thế thì ông ngoại lo cho con đi! Ông ngoại cần những giấy tờ gì?
- Khỏi cần!
Đơn giản đến vậy sao? Tôi cho rằng ông ngoại đã chủ quan như bao nhiêu người cao tuổi khác mà tôi vẫn gặp. Suy nghĩ như thế nên khi ông bà ngoại trở về Sài Gòn, tôi gần như quên ngay vụ đã nhờ cậy ông ngoại giúp. Tôi đã kiếm sẵn mấy tờ đơn nhưng còn dật dờ chưa điền vì chưa có chứng từ về việc anh Thành được đổi về phục vụ ở Đà Lạt. Nào ngờ chỉ hai tháng sau đó tôi đã nhận được tấm lệnh thuyên chuyển về phục vụ ở Sở Học Chánh Tuyên Đức Đà Lạt!
Tôi ngạc nhiên và vui mừng khôn xiết. Không ngờ một lời nói giúp của ba tôi lại có hiệu quả đến thế. Cầm tấm lệnh thuyên chuyển mà tôi cứ ngỡ như mình đang ở trong mơ!
Khi về nhà tôi liền đem tấm giấy ra khoe. Ông nội vui vẻ nói:
- Ôi, đúng là phước đức ông bà để lại! Vợ chồng con cùng được đổi về Đà Lạt ba mẹ phải làm cỗ mà ăn mừng mới đúng! Lâu nay thấy thằng Thành cứ lăn lộn ở chiến trường ba mẹ lúc nào cũng nơm nớp lo sợ. Nó chịu cực khổ cũng nhiều rồi, thôi thì con cũng mau thu xếp để về sống với nhau cho nó mừng! Đời loạn lạc này không có gì quí bằng chuyện gia đình được đoàn tụ!
Bà nội cũng hớn hở nói:
- Còn chi vui hơn nữa! Như vậy là con được thuyên chuyển lên Đà Lạt trước cả thằng Thành? Nhưng không hiểu ba con xin với ai mà chóng dữ vậy?
- Có lẽ ông ngoại xin thẳng tại Bộ Quốc Gia Giáo Dục mẹ ạ!
- Rứa con định khi mô đi?
- Chắc phải chờ anh Thành về trên ấy đã!
Ông nội có vẻ lo, hỏi:
- Như vậy là có thể đến đầu năm 1975? Bây giờ mới tháng 9, chờ tới lúc ấy mất khoảng bốn tháng, có lâu lắm không? Sợ người ta không chịu thì sao?
- Chắc không trở ngại đâu ba! Con có thể nhờ ông hiệu trưởng viện lý do vì công vụ lưu giữ lại một thời gian ngắn.
Bà nội gạt đi:
- Thôi con, đã biết chắc thằng Thành sẽ đổi về trong ấy còn lo ngại chi nữa! Cứ sắp xếp mà đi chứ nhờ cậy lưu giữ làm chi cho phiền người ta? Trong đó tụi con còn có bà cô, nếu chưa tìm được nhà cứ ở tạm nhà cô Hậu vài ba tháng chẳng lẽ không được?
Nghe bà nội nói có lý tôi đồng ý ngay:
- Vậy xin ba mẹ cho phép con và mấy cháu lên Đà Lạt sống với ba chúng một thời gian. Con hi vọng có anh Thành trong nhà việc giáo dục mấy cháu sẽ bảo đảm hơn. Khí hậu tốt lành của Đà Lạt sẽ giúp mấy cháu khỏe mạnh, chóng lớn. Chúng con nhất định sẽ làm cho cả ông bà nội lẫn ông bà ngoại hài lòng!
Hai ông bà đồng loạt nói:
- Được, được, con cứ việc dắt mấy cháu vô Đà Lạt sống với chồng con!
Thế là tôi viết thư ngay cho anh Thành một bức thư ngắn gọn:
"Thiện Trường, ngày...
Anh Thành yêu quí,
Trước hết em xin báo cho anh một tin mừng: Em đã được Bộ QGGD ký lệnh thuyên chuyển về Đà Lạt. Ba mẹ rất vui vẻ khi biết tin này. Em sẽ gắng thu xếp để lên đường sớm. Nếu em về Đà Lạt trước, em sẽ ở tạm tại nhà cô Hậu để chờ anh. Ngày đoàn tụ của gia đình mình sắp đến. Hi vọng em và các con sẽ không phải đợi anh lâu!
Vợ anh: Diệu Ngọc"
Tôi nghĩ lá thư này sẽ gây một sự ngạc nhiên lý thú cho anh Thành. Tôi tin khi đọc thư xong, anh sẽ vui mừng lắm và lập tức tìm ngay phần vụ hữu quyền để thúc đẩy tiến hành việc thuyên chuyển của mình. Trước mắt tôi đã thấp thoáng một con đường tương lai sán lạn...
OCT 2024
CHƯƠNG 4: NHỮNG NGÀY ĐẦU SỐNG Ở ĐÀ LẠT
Cô Hậu là em út của ông nội, cô chỉ lớn hơn anh Thành mười tuổi. Chồng cô Hậu - dượng Tánh - cũng là quân nhân, đơn vị đóng ở Lâm Đồng. Cô Hậu buôn bán rau cải ở chợ Hòa Bình đã hơn mười lăm năm nay. Công việc làm ăn của cô khá thạnh lợi nhưng vì đông con nên cuộc sống gia đình cũng chỉ bình bình. Cô dượng có đến bốn con trai nhưng không có con gái. Các em đều ở tuổi đi học, em lớn nhất là Lâm đã mười bảy, kế đó là Sơn, Hải, em nhỏ nhất tên Hiếu mới mười hai. Vì vậy, hễ hết công việc ngoài chợ cô Hậu lại phải bận rộn với công việc trong nhà. Tuy không dư dả lắm, lại ở xa, nhưng không năm nào cô Hậu quên gởi tiền phụ ông bà nội để lo việc chạp giỗ. Ngoài ra, vài ba tháng cô lại gởi thư hỏi thăm sức khỏe ông bà nội. Dĩ nhiên cô cũng ít khi quên hỏi thăm sức khỏe vợ chồng tôi, có khi kèm thêm chút quà cho các cháu nhỏ. Vì thế, tôi vẫn thỉnh thoảng viết thư cám ơn và bày tỏ tâm tình với cô. Nhà cô Hậu lại ở ngay thành phố Đà Lạt, tôi định thời gian đầu sẽ xin ở tạm nhà cô.
Cuối tháng 1/75 thì mẹ con tôi đặt chân lên xứ hoa đào thơ mộng với bao nỗi rộn rã trong lòng. Cô Hậu đã nghỉ buôn bán trọn hôm đó để lo việc đón chúng tôi về nhà. Đà Lạt là xứ lạnh nên nhà nào dù giàu hay nghèo cũng luôn chuẩn bị giường, nệm, mùng mền thừa sẵn trong nhà để phòng khi có khách đến bất ngờ. Nhà cô Hậu giường mền không thiếu nhưng trong dịp này cô lại sắm cho chúng tôi một bộ giường nệm mới toanh rộng đủ chỗ cho cả bốn mẹ con nằm.
Hôm sau, cô Hậu lại bỏ thêm một ngày nữa để dắt mẹ con tôi đi mua sắm quần áo ấm, dù mũ, giày tất, nồi soong và nhiều vật dụng linh tinh khác... Trong khi đi mua sắm, gặp món ăn lạ nào cô cũng ép lũ trẻ ăn, đến nỗi khi về nhà bọn trẻ không ăn cơm nổi nữa. Có nhiều món tôi nghĩ chưa cần nhưng cô vẫn cứ mua, vài lần tôi muốn giành trả tiền nhưng cô nhất định không chịu. Cô cười cười nói:
- Tụi bây vào đây nhằm lúc này là hên lắm đó. Cô vừa mới bốc một cái huê, huê bốc chót mới ngon chứ! Thời buổi buôn bán ế ẩm, nếu tụi bây vào gặp những lúc khác chưa chắc cô đã có tiền để sắm sửa cho tụi bây đâu!
Lần đầu tiên nghe tiếng bốc huê, tôi không hiểu nên hỏi:
- Bốc huê là làm sao cô?
Cô Hậu giải thích:
- Chơi huê con không biết à? Ngoài mình người ta gọi là chơi hụi đó mà! Thế này nhé, một người đứng ra rủ chừng mười lăm hai chục người thỏa thuận với nhau chơi một cái huê. Người chủ động rủ người chơi gọi là chủ huê. Huê được ấn định kỳ hạn là một tuần, nửa tháng hay một tháng tùy sự giao ước với nhau. Lần đầu, mỗi người chơi huê phải đóng cho chủ huê một số tiền nhất định. Thí dụ mỗi chân huê đóng 1.000 đồng chẳng hạn. Chủ huê toàn quyền tùy nghi sử dụng số tiền gom được đó. Đến kỳ thứ nhì, các huê viên ai cần tiền thì bỏ thăm để bốc. Giả như con cần tiền mà cô cũng cần tiền, con bỏ thăm 100 đồng, cô bỏ thăm 150 đồng, thăm của cô cao hơn nên cô trúng. Các huê viên khác mỗi người chỉ đóng 850 đồng cho chủ huê. Chủ huê có trách nhiệm thu tất cả số tiền đó ở mọi người rồi trao lại cho cô. Cô đã bốc được rồi tức chân huê của cô đã thành chân huê chết (để phân biệt với người chưa bốc được gọi là chân huê sống), từ đó mỗi tháng cô phải đóng 1.000 đồng để chủ huê chung cho người nào trúng. Kỳ tiếp theo, giả sử có người bốc cao nhất 120 đồng, những chân khác chỉ đóng 880 đồng, ngoại trừ chân huê chết. Nói chung, người nào đã bốc được thì trở thành chân huê chết, các kỳ kế tiếp phải đóng đủ 1.000 đồng mãi cho đến phiên người cuối cùng bốc. Người bốc chót, như cô vừa mới bốc trước khi tụi con vào, sẽ nhận đủ trọn vẹn từ mỗi huê viên khác 1.000 đồng.
- Như vậy ai bốc càng sớm càng thiệt thòi cô hả?
- Ừ, ai cần mới bốc chứ bốc sớm làm gì! Khi cần lại phải bốc thật cao mới chắc ăn. Thí dụ đầu huê mỗi chân đóng 1.000 đồng, nếu con cần tiền, con có thể bốc cao tới 300 đồng, mỗi chân huê sống chỉ đóng cho con 700 đồng thôi. Như vậy là con thành chân huê chết, mỗi kỳ phải đóng 1.000, chịu lỗ 300 đồng...
Chuyện chơi hụi tôi đã nghe nói từ lâu nhưng bây giờ tôi mới biết rõ. Chắc hẳn trong những ngày chúng tôi mới đến, cô Hậu đã tốn một số tiền khá lớn.
Những ngày kế tiếp, cô Hậu lại tiếp tục công việc buôn bán. Hằng ngày từ chợ về, lúc nào cô cũng có ít hàng quà cho các cháu. Tôi chưa đi làm nên ở nhà cũng phụ lo các việc nội trợ. Vài lúc tôi còn ra chợ trông hàng giúp cô nữa. Sạp hàng của cô Hậu cũng khá đông khách. Hình như là khách quen cả, tôi thấy người ta rất ít trả giá khi mua hàng. Nhìn các sạp hàng khác tôi cũng nhận thấy như thế cả, người mua kẻ bán rất hoà nhã với nhau. Quả thật dân Đà Lạt sống rất hiền hòa như người ta vẫn nói. Buổi tối về nhà được rảnh rang hơn trước, cô Hậu có vẻ hài lòng lắm. Cô cháu lại cùng nhau chuyện trò vui vẻ.
Những ngày đầu tiên sống ở Đà Lạt tôi cảm thấy dễ chịu làm sao!
Nhưng rồi một hôm, cô Hậu từ chợ trở về với vẻ mặt nghiêm trọng, cô vẫy tôi lại gần, nói thật nhỏ:
- Lại giới nghiêm 24/24 rồi. Người ta tranh nhau mua gạo, cá khô để trữ làm ồn cả chợ. Chắc kỳ này dượng Tánh con không về được. Thằng Thành nói muộn lắm là đầu năm 1975 đổi về đây mà giờ đã hết tháng 1/75 sao chẳng thấy gì cả? Con viết thư hỏi nó lại xem sao?
Nghe nói đến chuyện giới nghiêm là tôi đâm hoảng. Mỗi lần quân đội giới nghiêm là y như có chuyện chẳng lành. Tôi cứ sợ dại vì nhà tôi đã có một cái huông không tốt. Anh Hữu tôi trước cũng phục vụ trong quân đội. Lần đó anh đã nhận được sự vụ lệnh đi tu nghiệp một ngành chuyên môn ở ngoại quốc. Không ngờ trong khi còn ở lại đơn vị để chờ bàn giao công việc, anh đã bị pháo kích chết. Vụ ấy cứ ám ảnh mãi trong đầu óc tôi...
Liền đêm đó tôi viết thư cho anh Thành để thúc giục. Nhưng thư chưa kịp gởi tôi đã nhận được thư anh báo tin:
"Vì tình hình chiến sự, vụ thuyên chuyển của anh đã bị tạm đình".
Ông trời trêu tôi đến thế này sao? Tôi cảm thấy lúng túng và càng đâm ra lo sợ thêm. Suốt mấy ngày liền tôi cứ bần thần, hoang mang không làm gì được. Cô Hậu lại phải an ủi tôi, khuyên tôi cứ lo thu xếp cho mấy cháu vào trường học và lo đi trình diện nhiệm sở mới.
Nỗi lo sợ của tôi không ngờ đã biến thành sự thật một cách phũ phàng. Mấy ngày sau thì tôi nhận được cái tin anh Thành đã bị thương nặng. Anh đã được đưa về chữa trị tại Quân y viện Cộng Hòa! Thật éo le hết sức! Nếu chưa đi Đà Lạt, tôi còn dễ xoay xở tiền nong và gởi mấy cháu cho bà nội để vào thăm anh. Nhưng bây giờ thì tôi kẹt cứng! Việc sắm sửa để di chuyển vào Đà Lạt vừa qua tôi đã bị hao tốn khá nhiều. Tới Đà Lạt lại làm gia đình cô Hậu hao tốn cũng không ít. Chẳng lẽ giờ lại tiếp tục làm phiền cô Hậu? Hơn nữa, tôi trình diện nhiệm sở mới đã trễ mất một thời gian, giờ lại xin phép nghỉ để đi thăm chồng càng khó nói. Dù có xin được phép, cô Hậu buôn bán đầu tắt mặt tối, tôi biết gởi lũ con cho ai? Cuối cùng, tôi chỉ còn nước đánh điện cho ba mẹ tôi ở Sài Gòn biết để nhờ ông bà lo liệu thế nào đó rồi tính tiếp.
Tối hôm đó, đợi cô Hậu ăn uống xong tôi mới đưa bức điện tín ra nói chuyện. Cô hoảng hốt kêu trời than thở một hồi rồi hỏi tôi:
- Bây giờ con tính sao?
Tôi thành thật nói ra những điều mình đã suy nghĩ. Cô Hậu nói:
- Cô cũng đang lo bấn cả ruột. Cả tháng nay dượng Tánh con không về thăm, cô không yên bụng chút nào. Giờ lại thêm cái vụ thằng Thành nữa! Cô hiện giờ cũng không được dư dả chi lắm, thôi để cô liều bốc cái huê non lấy tiền cho con đi. Mới đầu huê phải bốc hơi cao, nhưng mình có việc cần, thiệt thòi một chút cũng chẳng sao! Cô cũng muốn vào thăm nó lắm nhưng đi bỏ sạp hàng lâu ngày đâu có được! Con phải ráng đi thăm để săn sóc an ủi nó! Nếu không, lỡ xảy ra việc gì cô cháu mình sẽ ân hận cả đời! Con lo chuẩn bị đi, chừng năm bữa nữa người ta thu tiền xong cô đưa cho!
Nghe nói chuyện bốc huê, lại bốc kỳ đầu, tôi phát hoảng:
- Đừng cô ơi! Chúng con đến đây đã làm cô hao tốn quá nhiều, giờ cô lại bốc huê kỳ đầu lỗ nhiều lắm, con không dám nhận đâu!
Cô Hậu nói:
- Không, cô bắt con phải nhận! Con không được quyền thả liều! Con phải vào thăm cho nó lên tinh thần chứ!
Thật ra tôi cũng muốn chắp cánh về Sài Gòn để gặp chồng tôi ngay! Nhưng cứ bấu víu vào cô Hậu như vậy lương tâm tôi không cho phép! Vì thương cháu cô Hậu không suy tính hơn thiệt nhưng tôi cũng phải biết tự trọng chứ! Đi chuyến này xong trở về bốn mẹ con tôi lại xúm vào ăn bám gia đình cô chứ biết làm sao?
Có lẽ do suy nghĩ, lo lắng quá nhiều nên tôi lại bị phát bệnh. Một trận sốt đã buộc tôi nằm liệt giường ngót nửa tháng. Tự nhiên tôi lại hành hạ cô Hậu thêm một đợt nữa! Cô Hậu đã bốc lỡ cái huê với giá khá cao cũng đành để dành đó.
Tôi vừa lành bệnh cô Hậu liền thúc giục tôi đi thăm anh Thành ngay. Cô đích thân kéo tôi cùng đi lo phương tiện. Tôi áy náy quá - mình đã làm cô tốn kém nhiều rồi, vả lại tôi đã viết thư nhờ ông bà ngoại lo chuyện đó - nên tôi không chịu đi. Tới lúc này cô Hậu mới đưa tôi xem một lá thư:
- Thư của con đây! Thư đến nhằm lúc con đang bệnh nặng, cô nóng lòng muốn biết tin nên mở ra xem trước. Không ngờ tình trạng thằng Thành bi đát quá nên cô phải giấu chưa dám cho con biết! Giờ con coi thư đi rồi muốn tính sao thì tính!
Thì ra thư của ông ngoại! Tôi hoảng hốt vội mở ra xem. Trời ơi: anh Thành đã bị cưa mất cả hai chân! Không ngờ tình trạng chồng tôi lại thê thảm đến thế! Thế là hết! Tôi bưng mặt khóc òa. Cô Hậu lặng lẽ để mặc tôi khóc lóc một hồi rồi mới nói:
- Giờ con phải giữ gìn sức khỏe, phải bình tĩnh sáng suốt để lo tính mọi việc. Trước hết, bằng mọi cách con phải vào thăm nó! Lúc này nó cần người thân an ủi hơn lúc nào hết. Đừng để nó tủi thân tội nghiệp! Chuyện tiền bạc cô sẽ gắng chạy cho!
Lúc ấy ý khí của tôi hình như đã tan biến hết. Cô tôi nói rất phải: Tôi phải tìm mọi cách để thăm nom an ủi chồng tôi kịp thời. Tôi hối hả giục cô Hậu giúp tôi lo phương tiện để đi Sài Gòn...
Nhưng khi bước ra bên ngoài chúng tôi mới biết tình hình an ninh đã trở nên hết sức bi quan. Ở đâu tôi cũng thấy thiên hạ hoảng hốt, nhốn nháo! Người ta nói đường bộ đã bị gián đoạn nhiều nơi, hãng hàng không thì lúc nào người cũng chật như nêm, chen không lọt. Trên đường phố cũng đã xuất hiện những người lính thất trận từ Pleiku, Ban Mê Thuột chạy về lang thang lếch thếch tìm người thân. Việc đi lại ngay tại địa phương cũng đã trở nên khó khăn. Những người quen của cô Hậu biết tôi đang cố gắng tìm cách đi Sài Gòn thăm chồng đều can ngăn:
- Tình hình này đi Sài Gòn cũng khó khăn lắm. Không chừng đã không tìm được chồng lại lạc luôn con có khổ thêm không? Lúc này phải mẹ đâu con đấy cho rồi bà ơi!
Những lời khuyên ấy thật có lý. Nếu tôi về Sài Gòn được, biết đâu lại chẳng xảy ra thêm tình trạng mẹ một đường con một nẻo! Cô Hậu lại càng tỏ vẻ bối rối hơn vì tình hình đã quá nghiêm trọng mà dượng Tánh vẫn bặt tăm hơi. Tôi lấy tiền bạc của cô Hậu để đi thăm chồng rồi lỡ dượng Tánh gặp chuyện không hay cô Hậu lấy gì để lo? Nghĩ như vậy nên tôi lại quyết bỏ ý định đi thăm chồng!
Cuối tháng 3/75 thì hầu hết các đơn vị quân sự cũng như hành chánh của Việt Nam Cộng Hòa tại Đà Lạt đã di tản hết. Mấy ngày sau thì bộ đội miền Bắc tới. Thế là xong - có thể không bao giờ tôi được gặp lại anh Thành nữa! Tôi lại khóc ngày khóc đêm, hối hận về việc mình lỡ mất cơ hội đi thăm anh khi vừa nghe tin anh lâm nạn! Cô Hậu tuy cũng lo bấn xác nhưng vẫn khuyên giải tôi:
- Thôi con ơi, số phận xếp đặt cả! Bây giờ đang đánh nhau lớn, biết đâu ngày hòa bình lại chẳng sắp tới! Con cứ gắng ngày đêm cầu nguyện Trời Phật phù hộ cho nó đi! Chứ khóc lóc, rầu rĩ chỉ hại thân thôi, đâu có giải quyết được gì!
Phải, tôi đâu có thể làm gì khác được! Hằng ngày ngoài việc giúp đỡ cô Hậu trong nhà hay ở sạp hàng, tôi chỉ biết tập trung tâm trí vào việc cầu nguyện.
Giữa lúc ấy thì có hai chú bộ đội rất trẻ đến xin ở tạm trong nhà cô Hậu. Đây là lần đầu tôi gặp những con người mà trước kia tôi chỉ nghe tiếng và rất sợ họ. Cả hai đều ăn nói từ tốn, lễ phép, họ tỏ ra rất biết cách ăn ở. Thấy trong nhà có chút rác họ tự động tìm chổi để quét. Thấy thùng phuy chứa nước cạn, họ cũng tìm thùng đi xách nước đổ đầy. Nhiều lúc họ hồn nhiên đùa giỡn, làm đồ chơi hay dạy chữ cho các con tôi nữa. Họ cho biết, vì thương đồng bào ruột thịt, họ phải từ bỏ cảnh sống thanh bình ở miền Bắc, xẽ dọc Trường Sơn để vào giải phóng miền Nam. Họ cũng giải thích chính sách khoan hồng của chính phủ cách mạng đối với kẻ thù khiến lòng tôi cũng giảm được phần nào lo lắng. Tôi nghĩ thầm hóa ra lâu nay mình chỉ sợ bóng sợ gió thôi. Dần dần tôi đâm ra mến phục họ, coi họ như những đứa em ngoan.
Trong thời gian ấy, thằng Tí con tôi đã vô tình gây nên một chuyện cười ra nước mắt. Số là chiều hôm kia giới hữu quyền ở Đà Lạt đã tổ chức một buổi chiếu phim phổ biến những chiến thắng của cách mạng trên chiến trường miền Nam tại công trường Hòa Bình cho dân xem. Hai chú bộ đội ở nhà cô Hậu có nhiệm vụ giữ an ninh trong buổi chiếu phim ấy. Em Lâm con cô Hậu rảnh rỗi nên cũng dắt thằng Tí đi xem. Do óc tò mò buổi đầu, thiên hạ đi xem rất đông. Vì thằng Tí bé quá đứng dưới đất không xem được nên em Lâm công kênh lên cổ cho nó xem. Khi mọi người đang mải miết theo dõi phim, thằng Tí thấy trên màn ảnh có một chiếc máy bay xuất hiện khoái quá kêu lên:
- Máy bay! Máy bay!
Nào ngờ một số người nghe kêu máy bay thình lình tưởng báo động nên cũng hoảng hốt kêu theo "máy bay, máy bay" đồng thời xô nhau chạy tán loạn! Em Lâm sợ quá vội cõng thằng Tí chạy một mạch về nhà. Khi chạy được một đoạn em Lâm nghe tiếng loa phóng thanh vang lên:
- Yêu cầu đồng bào ổn định, yêu cầu đồng bào ổn định! Xin đồng bào trở lại vị trí cũ để xem phim tiếp. Vừa rồi kẻ xấu đã cố tình loan tin thất thiệt với mục đích phá hoại buổi chiếu phim nhưng âm mưu đen tối của chúng đã bị cách mạng đập tan! Xin đồng bào trở lại vị trí cũ để tiếp tục xem phim!
Em Lâm về tới nhà liền đem chuyện ấy kể lại làm ai nấy phải cười vỡ bụng. Buổi tối, hai chú bộ đội đi an ninh trở về hớn hở khoe với cô Hậu:
- Cô biết sao không? Tụi Ngụy quả thật ngoan cố! Chiều nay, trong khi chính quyền đang chiếu phim cho đồng bào xem, chúng dám đột nhập vào để phá hoại đấy! Nhưng chúng con đã phản ứng kịp thời, đánh đuổi chúng chạy có cờ! Tiếc rằng đồng bào ta đi xem quá đông nên chúng mới lợi dụng lẫn lộn trong dân mà chạy thoát!
Cả nhà chúng tôi lại một phen nhìn thằng Tí mà cố nín cười! Ai ngờ kẻ phá hoại ghê gớm ấy lại chính là một cậu bé năm sáu tuổi trong nhà mình! Hóa ra mấy chú bộ đội trông thật thà thế kia cũng nói dóc quá trời!
Nhờ cái radio của hai chú bộ đội, tôi cũng theo dõi được ít nhiều tình hình cuộc chiến. Mặc dầu phe cách mạng đang chiến thắng dồn dập nhưng Sài Gòn vẫn còn đó, tôi vẫn còn hi vọng Việt Nam Cộng Hòa sẽ có một cuộc phản công để tái chiếm những phần đất đã mất như hồi tết Mậu Thân. Nhưng dần dần nghe các đài ngoại quốc bình luận miết về tình thế bi quan của miền Nam, tôi cũng tuyệt vọng theo. Thế rồi trong lòng tôi bỗng nẩy sinh một sự thay đổi lớn: Tôi lại mong cho phe cách mạng sớm chiến thắng! Chỉ có cách đó tôi mới có hi vọng gặp lại anh Thành.
Khi nghe được lời tuyên bố đầu hàng của tổng thống Dương Văn Minh trên đài phát thanh, tôi đã sung sướng đến rơi nước mắt!
Thế là niềm hi vọng gia đình đoàn tụ lại chớm dậy trong tôi. Tôi đã biểu lộ nỗi hân hoan thật tình đối với cuộc chiến thắng của phe cách mạng. Bắt chước những người sẵn có cảm tình với cách mạng từ trước, tôi cũng sắm cho các con tôi mỗi đứa một chiếc khăn quàng đỏ. Lũ nhỏ quàng khăn đỏ trên cổ sung sướng ra mặt khi chúng được người ta gọi là cháu ngoan bác Hồ. Ngoài chuyện đó, những khi được cô Hậu giao cho việc cân bán rau cải, tôi đã cố tình cân trội khi bán hàng cho những người phe cách mạng. Tôi nghĩ đây cũng là một cách bày tỏ cảm tình, chuộc lại phần nào những hiểu lầm của tôi đối với họ trước kia.
CHƯƠNG 5: LÀM TRƯỞNG TRẠI GÀ NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
Sau khi tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng phe cách mạng, tình hình miền Nam dần lắng dịu. Thành phố Đà Lạt cũng dần trở lại sinh hoạt bình thường. Các đài phát thanh, báo chí và các nguồn thông tin khác của chính quyền mới đều loan báo những thông cáo về chính sách khoan hồng, nhân đạo của chính phủ cách mạng đối với những người đã phục vụ trong chế độ cũ làm tôi vô cùng cảm động. Theo đà tiến triển này, nếu chồng tôi còn sống, không bao lâu nữa anh ấy sẽ được trở về với gia đình.
Trước đây tôi đã trình diện Sở Học Chánh của bộ QGGD cũ. Gặp lúc ấy tình hình đang lộn xộn nên tôi chưa được bổ nhiệm về nơi nào. Vì thế tôi vẫn được coi như nhân viên của sở. Khi nghe chính quyền mới kêu gọi các viên chức giáo dục trở về trình diện nhiệm sở cũ, cô Hậu khuyên tôi:
- Con cũng nên đến trình diện sớm để họ khỏi làm khó dễ. Nếu như người ta từ chối không cho dạy học nữa, con cứ ở đây phụ buôn bán với cô để nuôi con. Khi nào rảnh con cứ lo cầu nguyện. Trời Phật sẽ che chở, thằng Thành chắc chắn sẽ có ngày trở về với con!
Thật tình tôi rất yêu cái nghề dạy học. Tôi rất sợ phải xa rời nó. Thế nhưng khi vào trình diện ty giáo dục Tuyên Đức xong, tôi không vui được chút nào. Người ta hỏi tôi như hỏi cung một tội phạm, rất mệt mề. Tôi phải kê khai lại thật kỹ lý lịch của mình. Sau đó người ta bảo tôi tạm về nhà, nửa tháng sau trở lại. Khi tôi đến lần thứ hai cũng bị người ta hẹn lại nữa. Bực mình quá, tôi muốn bỏ luôn, nhưng suy nghĩ lại tôi cũng sợ. Tới ty giáo dục lần thứ ba tôi mới được bổ nhiệm. Ngặt nỗi tôi phải làm việc tại một ngôi trường khá xa thành phố Đà Lạt. Đó là trường trung học cơ sở Đồng Tiến ở tỉnh Lâm Đồng cũ. Phương tiện đi lại lúc ấy đâu có dễ dàng gì, lòng tôi vô cùng chán ngán!
Cầm tấm giấy bổ nhiệm trong tay mà dở cười dở khóc. Tôi cứ hối hận thà đừng đi trình diện cho xong! Khi tôi nói chuyện này với cô Hậu, cô hỏi:
- Con không lấy lý do có mấy đứa con dại để xin họ cho dạy ở Đà Lạt được à? Mà sao mình ở Tuyên Đức người ta lại đưa đi dạy ở Lâm Đồng?
- Dạ con nghe nói Tuyên Đức Lâm Đồng bây giờ đã nhập chung. Con đã năn nỉ xin dạy ở Đà Lạt nhưng họ bảo con nên tuân lệnh để người ta dễ chiếu cố khoan hồng cho chồng con. Dạy một nơi xa như vậy con nản quá, bây giờ con muốn ở nhà buôn bán với cô được không?
Cô Hậu khuyên:
- Thôi, đã lỡ trình diện rồi thì phải tuân lệnh. Nếu không, sợ người ta có thể làm khó cho chồng con sau này đó. Cứ tới trường Đồng Tiến làm việc một thời gian xem sao. Tụi nhỏ cứ để ở nhà đây với cô. Mấy thằng chú nó không đứa này thì đứa khác vẫn thay nhau ở nhà, lo gì. Kẹt lắm cô dắt chúng ra chơi ở sạp hàng của cô cũng được.
Thế là tôi lại khăn gói tìm đường đến trường Đồng Tiến. Khi bước vào văn phòng trường, tôi không gặp ai ở đó cả. Thấy một người đang dọn dẹp đồ lặt vặt trước sân tôi bèn đến hỏi thăm. Ông này chỉ cho tôi lại tư thất ông hiệu trưởng - cũng ở trong khuôn viên trường. Tôi liền đến ngôi nhà ấy. Nhà không đóng cửa. Thấy một người đàn ông đang ngồi dựa ngửa trên một chiếc ghế bành, chân duỗi thẳng gát lên chiếc bàn trước mặt, tôi hỏi:
- Thưa ông, có phải đây là nhà ông hiệu trưởng? Tôi mới được bổ nhiệm đến đây, xin trình diện để nhận việc!
- Phải, tôi là hiệu trưởng đây, mời cô vào!
Sau khi xem lệnh bổ nhiệm và hỏi sơ qua về tôi, ông ta nói:
- Cô đến trình diện muộn quá, hết cả lớp dạy rồi! Trước kia cô có nuôi gà nuôi vịt bao giờ chưa?
Câu hỏi hơi lạ tai nhưng thấy thái độ ông hiệu trưởng nghiêm nghị không có vẻ gì là hỏi đùa cả nên tôi cũng thành thật trả lời:
- Dạ, trước đây trong nhà tôi vẫn có nuôi một ít gà vịt.
- Được, thế thì bây giờ cô tạm nhận việc coi sóc phòng nuôi gà của trường vậy!
Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
- Thưa ông, chắc gà nuôi thí nghiệm?
- Cũng đúng một phần. Việc nuôi gà này nằm trong mục kết hợp giữa học với hành của nhà trường đấy mà. Cũng như tổ mộc, tổ gạch do những giáo viên có chuyên môn phụ trách để dạy cho học sinh lý thuyết sau đó lại tổ chức thực tập vậy thôi. Nếu kết quả tốt, gà bán được trường sẽ đắp vào quỹ nhà trường. Ngoài ra, ta có thể dành một phần để cải thiện đời sống cho các giáo viên.
- Dạ, nhưng sao lại nuôi gà trong phòng?
- Có gì lạ đâu cô! Gà nuôi thả bên ngoài hay bị người ta bắt trộm. Trường ta lại đang dư một số phòng mắc gì không nuôi trong phòng cho an toàn? Giống gà chúng ta nuôi đều là giống gà công nghiệp như gà trắng Mỹ, gà "lơ go"... Kể ra tốn cũng khá nhiều tiền mua gà giống đấy. Công việc giản dị lắm, cô cứ tạm nhận việc này một thời gian rồi nhà trường sẽ bố trí công việc khác cho cô!
Một cô giáo dạy Việt văn bỗng trở thành một người nuôi gà, dù là làm tạm thời, thật tình tôi chẳng vui mấy. Nhưng "gặp thời thế thế thời phải thế" chứ biết làm sao!
- À, còn việc này nữa. Đà Lạt cách trường này cũng khá xa, cô không thể đi lại hằng ngày được. Sau ngày giải phóng, nhiều học sinh không đi học nữa nên trường ta còn dư nhiều phòng. Những giáo viên nhà ở xa, phần đông là các giáo viên chi viện (1), giáo viên lưu dung (2) thì ít hơn, vẫn ở lại trong các phòng trống đó. Cô cũng nên thu xếp một chỗ để ở như họ, khỏi thuê mướn bên ngoài tốn kém. Những khi có giáo viên lớp nào bận việc bất thường cô sẽ đứng lớp thế cho họ. Ngày nghỉ nào trường không sinh hoạt, nếu thuận tiện cô có thể về thăm nhà. Việc cho gà ăn sẽ có người khác lo giúp.
Phòng nuôi gà này đã được dự tính từ lâu nhưng tới nay mới thực hiện được. Ban đầu ông hiệu trưởng phân công các giáo viên thay nhau trông coi. Nay thấy tôi mới đến chưa có lớp dạy, ông hiệu trưởng bèn giao nhiệm vụ này cho tôi. Ông muốn có một người chuyên trách việc đó rồi tiến dần tới việc trồng cà ớt, rau cải trên phần đất nào có thể khai thác được trong khuôn viên trường. Việc này cũng nhắm mục đích vừa cho học sinh thực tập vừa cải thiện cho cán bộ nhà trường.
Khi tiếp nhận phòng nuôi gà, tôi thích thú thấy đàn gà con nào con nấy mập chú ụ ríu ra ríu rít tranh ăn trông dễ thương lạ lùng. Thức ăn của chúng khá dồi dào. Ngoài thức ăn phải mua, nhà trường còn vận động các em học sinh tiếp tay với những thực phẩm địa phương. Tiếc một điều phòng nuôi gà không có đủ ánh sáng. Phòng có một cửa chính và bốn cửa sổ. Mỗi cửa sổ đều được che một tấm mành thưa đan bằng tre để chắn gà khỏi nhảy ra ngoài.
Đàn gà cứ lớn lên như thổi, trông thật sướng mắt. Hằng ngày chung đụng với chúng tôi cũng giảm được ít nhiều nỗi muộn phiền...
Từ khi chính quyền cách mạng cho biết đường dây liên lạc Nam Bắc đã nối, tôi đã gởi khá nhiều thư cho ông bà nội lẫn ông bà ngoại. Đến trường Đồng Tiến tôi lại tiếp tục gởi nhiều thư nữa. Tôi rất sốt ruột chờ nghe tin nhà, nhất là tin tức về anh Thành. Tôi dùng cả địa chỉ ở Đà Lạt lẫn địa chỉ mới ở trường Đồng Tiến. Thế mà không hiểu sao quá lâu tôi vẫn chẳng nhận được hồi âm. Trong lòng tôi cứ bồn chồn lo lắng ăn ngủ không yên. Hằng ngày, ngoài việc chăm sóc phòng nuôi gà, tôi ra sân sau của trường xới mấy đám đất nhỏ để trồng trọt theo ý muốn của ông hiệu trưởng. Dần dần tôi cũng có phần thích thú với công việc này.
Vì quá nhớ mấy đứa con, mới một tháng tôi đã xin về Đà Lạt thăm gia đình.
Vừa về đến nhà cô Hậu, tôi gặp hai người đàn bà lạ mặt đang ở đó. Có lẽ cô Hậu đã cho biết trước tôi là cháu dâu nên họ đều vồn vã chào hỏi tôi. Cả hai người đều trông hơi xanh xao, nửa quê mùa nửa có vẻ "ta đây". Sau vài lời xã giao, họ chào tôi để ra sạp hàng cô Hậu. Hai bà đi rồi thì thằng Sơn từ trong phòng ngủ bước ra. Tôi hỏi Sơn:
- Em ngủ giờ này mới dậy à?
- Đâu có, em nằm chơi thôi. Nghe mấy bà ấy nói chuyện chán quá em không muốn ra. Có lẽ giờ này mấy cháu đi học cũng sắp về rồi đó chị!
- Mấy bà nào vậy?
- Bà Hương bà Tằm, bạn của mẹ em. Họ là cán bộ cách mạng ở trên chiến khu mới về, nay đang ở nhà mình.
- Thế hai chú bộ đội đâu rồi?
- Họ đã đi nơi khác.
- Thời gian này cô buôn bán có khá không?
- Em cũng không biết. Nhưng mẹ em cứ lo săn sóc hai người bạn ấy quá làm tụi em đứa nào cũng bực mình. Chị nghĩ, thấy hai bà ấy ốm o, mẹ em không ngớt chăm sóc họ từng miếng ăn miếng uống cẩn thận hơn cả khi tụi em bị bệnh. Mẹ em cũng không ngần ngại sắm cho các bà nào áo ấm, nào mũ len, nào bao tay, bít tất... Cứ nghe họ nói "mình muốn cái này, mình muốn cái kia..." là mẹ em tìm cách thỏa mãn cho họ ngay. Mẹ em còn lục lọi hết số áo quần cũ có sẵn trong nhà, cái nào không dùng đều tặng họ hết. Hai bà này đều là người rất thực tế, cho gì cũng nhận, kể cả đồ đàn ông. Khi họ đến chỉ có hai cái xách rỗng, bây giờ cả hai đều có rất nhiều quần áo, đồ đạc, mỗi người chất một va li lớn không hết. Mẹ em đã trải lòng ra để sống với bạn bè như thế đó. Nhưng em thấy hình như họ chẳng thành thật gì. Họ đã triệt để khai thác lòng thương yêu bạn bè của mẹ em. Em càng chán họ khi mở mồm ra là ca tụng cuộc sống thiên đường ở miền Bắc, ca tụng chính sách khoan hồng của chính phủ lâm thời. Tất nhiên em chỉ để bụng. Nói ra sợ mẹ em buồn. Không rõ mẹ em có dụng ý gì khi đối xử quá tốt với hai người bạn này không.
Tôi nói:
- Có lẽ cô muốn tạo điều kiện thuận lợi cho dượng sau này đó em.
- Có thể là như thế. Mới đây mẹ em cùng với hai bà lại rủ nhau đi Lâm Đồng mấy ngày. Em cứ tưởng thế nào mẹ em cũng ghé thăm chị chứ. Khi trở về hình như mẹ em không được vui. Tụi em hỏi mẹ đi đâu, mẹ chỉ nói là đi chơi. Em hỏi mẹ tin tức về ba em mẹ lại nói chưa nghe được. Em nghĩ có thể mẹ em đã giấu chúng em một điều gì.
- Sơn này, hình như hai bà ấy bị bệnh sốt rét phải không?
- Tất nhiên rồi, nhưng hồi còn ở trong rừng thôi. Em vẫn hay nghe họ khoe khoang cái bệnh sốt rét của mình như một thành tích lớn! Đói xanh xương đi mà lúc nào cũng nói dóc em ghét tổ!
- Trước kia mấy bà cũng ở Đà Lạt này sao mà cô quen?
- Ở Đà Lạt chứ đâu chị!
- Họ làm công tác gì?
- Cán bộ kinh tài. Buôn bán dạo rau cải.
- Sao kỳ vậy? Hai bà thân thiết với cô sao cô không giúp họ sắm sạp hàng để buôn bán luôn mà lại phải buôn bán dạo?
Sơn cười cười nói nhỏ:
- Mua bán dạo chỉ là cái cớ thôi. Hai bà đi cốt dò đường ở mấy nơi trồng rau cải nhiều, xem người ta đổ phân cá ở đâu. Đêm đến lại dẫn người về hốt xác cá và muối còn sót trong phân cá ấy để dùng.
- Sao em rành dữ vậy?
- Chính hai bà nói với mẹ em! Trong rừng thiếu muối quá mà trong phân xác cá ấy thiếu gì muối! Muối để ép nước mắm đó mà! Bà Tằm cho biết trong rừng đã nhiều lần người ta phải chia khẩu phần muối bằng cái nắp ken chị ơi. Nhờ lượng muối lấy ở phân cá ấy mà cách mạng nuôi dưỡng hàng tiểu đoàn trung đoàn bộ đội lận đó.
Hai chị em đang nói chuyện thì thấy ba anh em thằng Tí dắt nhau về. Sơn lại cười:
- Em đi ngoài này một chút chị nghe! Hôm nay là phiên em coi chừng bọn nhỏ, bây giờ có chị về em giao cho chị!
Lũ con tôi đã làm phiền mấy em con cô Hậu không ít. Các em phải chia nhau trực ở nhà để coi chừng chúng! May mắn là trường học chỉ cách nhà cô Hậu chừng hai trăm mét, đường lại dễ đi. Các em chỉ phải dẫn dắt lũ con tôi một thời gian ngắn. Bây giờ thì lũ nhỏ đã tự túc đi với nhau.
Thấy tôi về lũ nhỏ mừng lắm. Chúng đua nhau tíu tít kể cho tôi nghe đủ thứ chuyện. Thật ra con Hoa chưa đi học. Hằng ngày tuy cùng đi với hai anh nhưng nó chỉ đến một nhà ở gần trường. Đó là nhà người bạn của cô Hậu, cũng có mấy đứa trẻ đồng lứa với Hoa. Cô Hậu đã gởi nó đến đó để chơi với các bạn. Khi bãi học, thằng Tí thằng Sửu lại ghé nhà ấy dẫn em chúng về.
Gặp lại các em con cô Hậu, không nghe em nào phàn nàn gì về mấy đứa nhỏ, tôi cũng yên tâm. Tôi cũng thấy rõ cả bốn em đều lộ vẻ không bằng lòng về cách đối xử rộng rãi của mẹ mình với hai người bạn.
Trong bữa cơm tối, khi ngồi chung với cô tôi và hai bà ấy tôi mới thật sự hiểu rõ nguyên nhân: đúng là hai bà này lý tài quá!
Đêm đó nói chuyện với cô Hậu, tôi thấy cô có vẻ uể oải, bần thần. Tôi hỏi hai bà bạn của cô gia đình ở đâu, họ ở lại đây làm gì, cô chỉ cười cười. Tôi ngủ với lũ con một đêm rồi hôm sau trở về Lâm Đồng.
Ngày lại ngày tôi lại tiếp tục đóng vai mẹ hiền của đàn gà.
Nhưng rồi một hôm tôi bỗng thấy vài con gà tự nhiên đầu vẹo một đường, đuôi vẹo một ngả, lại có vài con khác bại chân. Xem kỹ tôi lại nhận ra có vài con mắt bị mù nữa. Khi báo cáo hiện tượng này cho ông hiệu trưởng, ông bảo:
- Cứ nhốt riêng chúng trong một cái lồng. Vài ba con bệnh ăn nhằm gì! Cứ lấy tỏi ép chúng ăn chúng sẽ lành!
Tôi làm theo lời ông ta. Nào ngờ hôm sau, ngoài mấy con đã nhốt riêng, trong đàn lại có thêm nhiều con bị bại, bị mù nữa. Tôi lại báo cáo. Ông hiệu trưởng lúng túng ra mặt. Một vài con gà bệnh có thể nhốt riêng, bây giờ số gà bệnh tăng thêm, biết nhốt vào đâu? Cuối cùng chúng tôi đành lấy một tấm phên để ngăn gà lành một bên gà bệnh một bên thôi.
Tới lúc này tôi mới biết trong trường chẳng có một ai nắm vững được lý thuyết về việc nuôi gà cả. Chừng một tuần sau thì đàn gà mập mạp xinh xắn trước đây lần lượt trở thành mù què gần hết. Chúng tôi chỉ biết lấy tỏi xé ra từng tép nhỏ đút vào miệng chúng. Có một điều lạ là lũ gà bệnh này rất ít bị chết. Nhìn những con gà bệnh lê lết thật thảm hại. Những con gà què thì cứ đứng lên té xuống, vói mỏ mổ một hạt gạo hằng chục lần mới trúng. Những con gà mù thì mắt lồi ra, phải đứng trên đống thức ăn may ra mới ăn được. Ai vào thăm phòng nuôi gà lúc này cũng tiu nghỉu lắc đầu. Niềm hi vọng có một hai con gà béo để làm thịt vào các dịp lễ tiết đã tan biến hoàn toàn.
Rồi không hiểu do đâu, một số người cứ gọi tôi là trại trưởng "trại gà Nguyễn Đình Chiểu". Càng về sau nhóm chữ đó càng trở nên phổ thông. Có một số người lại hỏi tôi ai đặt cái tên trại gà hay như vậy nữa chứ!
Thấy việc cho gà ăn đã trở nên khó khăn, ông hiệu trưởng phải cho nhiều người phụ giúp tôi. Một hôm một chị bạn ở cùng phòng, cũng giáo viên lưu dung như tôi - chị Bướm, hỏi đùa:
- Bà trưởng "trại gà Nguyễn Đình Chiểu" tính sao chứ cứ bắt chúng tôi phụ cho gà ăn mãi thế này ư?
Tôi cười hỏi lại:
- Nếu tôi được đề bạt làm trại trưởng thật chị chịu về làm phụ tá cho tôi không? Tha hồ ăn thịt gà!
Chị Bướm nhún vai:
- Thịt gà này có thuê tôi cũng không dám ăn đâu!
Tất nhiên, trông chúng gớm ghiếc thế ai mà dám ăn thịt!
Cả đống của như vậy giờ đành bỏ cả sao? Giả như chúng chết tiệt đi thì cũng khỏe. Đằng này chúng cứ sống dai dẳng mới khổ. Bỏ thì thương, sương thì nặng, từ hiệu trưởng đến giáo viên ai cũng mong có cách gì để giải quyết số gà của nợ đó. Tất nhiên tôi là người đau khổ nhất vì tôi đang đóng vai mẹ hiền của chúng.
Giữa lúc đó tôi nhận được lá thư đầu tiên của ông nội. Tôi mừng hết sức khi được biết ông bà nội không hề bị làm khó dễ mặc dù ông bà có một người con là sĩ quan chế độ cũ hiện chưa rõ tăm tích. Ông nội cũng cho biết ông bà đã được cách mạng ưu đãi cho hưởng chế độ trợ cấp người mất sức lao động. Những người được hưởng chế độ trợ cấp này hằng năm sẽ được nhà nước bán cho một số lúa ước tính ăn đủ trọn năm với giá chính thức, khoảng 2/3 giá thị trường. Số lúa bán giá đặc biệt này người ta gọi là "lúa điều hòa". Ông nội viết:
"... Hằng năm ba mẹ sẽ được mua lúa điều hòa của nhà nước, con khỏi lo chuyện ba mẹ bị đói thiếu. Nhà mình nhờ có mảnh vườn, ba mẹ có thể nuôi thêm con gà con vịt, có thể bòn buồng chuối, trái chanh, cả năm cũng dồn đủ tiền để mua số lúa ấy. Về tiền tiêu vặt, đồ ăn, ba mẹ có thể bòn mấy trái khế, trái ớt, kẹt lắm rọc ít tàu lá chuối đem ra chợ cũng đổi được một chút mắm muối! Ba mẹ chỉ mong con cố gắng lo được cho ba cháu trôi tròn là ba mẹ mừng rồi. Ba mẹ cũng mong đợi tin thằng Thành lắm. Khi nào có tin gì, con phải báo ngay cho ba mẹ biết!..."
CHƯƠNG 6: VẤN ĐỀ NGÔI NHÀ HƯƠNG HỎA BÊN CHỒNG
Tôi hết sức đau lòng khi phải từ biệt cái nghề thầy giáo. Nhưng gặp tình cảnh như vậy tôi biết làm sao? Trở lại Đà Lạt với tâm tư trĩu nặng, tôi thấy mình đã thật sự đổi đời! Từ nay tôi không còn được đứng trên bục để giảng bài. Không còn nhìn được những ánh mắt ngơ ngác hay nghịch ngợm nhưng đầy thân thương của đám học trò tuổi dại mỗi ngày. Không còn những đêm thức khuya để chấm bài. Hết, hết tất cả rồi!
Về tới nhà cô Hậu tôi thấy người uể oải khác thường. Tôi kêu cửa mấy lần không thấy ai ra mở. Hành lý của tôi chỉ có một cái xách đựng mùng mền và vài bộ đồ. Thấy mang đi mang lại bất tiện, tôi để đại bên cửa rồi đi thẳng ra sạp hàng của cô Hậu. Thấy tôi, cô mừng rỡ hỏi:
- Lễ Noel con về thăm nhà à? Sao về muộn vậy?
Tôi cười đáp:
- Dạ không. Con về luôn rồi cô. Từ nay con phụ buôn bán với cô được không?
Cô Hậu ngạc nhiên:
- Thật không đó? Nếu con nghỉ dạy thật cô giao sạp hàng này cho con đó!
- Con không dám đâu. Nhưng con đã xin nghỉ dạy thật đó cô.
- Vì sao vậy?
- Tối về nhà con sẽ nói chuyện. Cô cho con mượn chìa khóa, đồ đạc con còn để trước cửa sợ người ta lấy mất.
Lấy được chìa khóa, tôi lật đật trở về nhà. Nhưng xách đồ tôi để bên hiên đã biến đâu mất. Trong nhà vẫn không có ai. Tìm quanh quất một hồi vẫn không thấy, tôi đành trở ra sạp hàng nói cho cô Hậu biết. Cô nói:
- Cái xứ này trước đây đâu có chuyện đó! Chắc bây giờ nó cũng trở chứng rồi! Trong xách có gì nhiều không con?
- Dạ, vài thứ lặt vặt, mùng mền với mấy bộ đồ thôi.
- Thôi, để rồi mình sắm lại. Con ăn chi chưa? Cô có bới đồ ăn đó, cô cháu mình ăn với nhau một miếng đi.
Thấy khách cũng hơi vắng tôi bèn kể chuyện xảy ra ở trường Đồng Tiến cho cô Hậu nghe. Nghe xong cô nói:
- Vậy cũng tốt thôi. Thật tình trước đây cô cũng muốn con ở nhà để buôn bán với cô. Nhưng thấy con có vẻ lưu luyến cái nghề thầy giáo quá nên cô không dám bàn. Thôi bây giờ con cứ phụ giúp cô một thời gian. Khi nào có ai sang sạp hàng cô sẽ sang để con làm chủ. Không đói đâu mà ngại.
Buổi tối về không thấy hai bà bạn của cô, tôi hỏi:
- Bà Hương bà Tằm ở đâu không thấy cô?
- Đi chỗ khác rồi!
Thằng Sơn đứng gần đó cười mím:
- Cái huê mẹ em mới hốt sạch rồi họ ở lại làm chi nữa!
Cô Hậu cười mà nạt Sơn:
- Mày biết cái gì mà nói?
Đêm đó nói chuyện với cô Hậu tôi mới biết thêm được hai người đàn bà đó chính là những cán bộ thu thuế ở chợ Hòa Bình trước 1975. Rất nhiều cơ sở buôn bán có máu mặt ở thành phố này đã nộp thuế cho cách mạng ngay trong thời gian chính quyền quốc gia đang cai quản. Nghe đến đây tôi ngạc nhiên hỏi:
- Thế bên quốc gia người ta không biết à?
- Cô cũng không rõ. Nhưng những người đóng thuế cho cách mạng họ cũng muốn yên thân để làm ăn, họ không chịu nói ra thì bên quốc gia cũng khó mà biết.
- Thế có ai không chịu đóng thuế cho họ không cô?
Cô Hậu đặt ngang một bàn tay trước cuống họng - ngụ ý cắt cổ, nói:
- Họ đã tới hỏi ai mà dám không đóng!
- Thế cũng có nhà buôn bán có thân nhân là quân đội, cảnh sát bên quốc gia họ cũng chịu để yên phận vậy sao?
- Với những nhà đó người của cách mạng đâu có thu thuế!
Gặp lúc thằng Sơn đi ngang qua, nó nói với tôi:
- Mẹ em nhát gan lắm chị! Mười mấy năm nay đóng không biết bao nhiêu tiền thuế cho họ. Chị biết mẹ em còn giữ cả một xấp biên lai dày cộm không?
Tôi hỏi cô Hậu:
- Thật vậy hả cô?
Cô Hậu không trả lời tôi mà nạt thằng Sơn:
- Cái thằng hay tọc mạch! Tao có để tụi bây đói ngày nào đâu?
Tôi hỏi lại cô Hậu:
- Hai bà ấy ở thành phố như vậy sao lại có vẻ như bị sốt rét vậy cô?
- Họ đâu ở thành phố mãi! Ai cũng chỉ hoạt động được một thời gian ngắn là bị động ổ, phải rút vào rừng. Tất nhiên sẽ có người khác thay thế tiếp tục công tác!
- Thế cái chuyện cả tiểu đoàn hay trung đoàn bộ đội chi đó sống nhờ vào số muối lấy trong phân xác cá có đúng không cô?
- Thằng Sơn nói với con à? Cái thằng này coi chừng mất "chỗ đội mũ" đó mày!
Bây giờ tôi mới hiểu thêm! Không ngờ họ hoạt động ngay trên phần đất do quốc gia kiểm soát như vậy, trách gì miền Nam sau này không bị rơi vào tay họ!
Từ đó, tôi cứ ngày ngày phụ giúp cô Hậu buôn bán, theo dõi tin tức, chờ đợi...
Ngày kia tôi nhận được một lá thư của bà ngoại. Nội dung thư có đoạn như sau:
"... Sở dĩ mẹ phải viết thư cho con vì hồi này ba con rất bận rộn. Ba mẹ hết sức trông đợi tin tức của chồng con. Khi nào có tin, con phải cho ba mẹ biết ngay! Sau đây mẹ cũng cho con biết vài tin mừng nhỏ. Thứ nhất, ba mẹ vừa nhận được thư của anh Hảo con từ Pháp gởi về. Anh con đang lập thủ tục để bảo lãnh ba mẹ sang sống ở bên đó. Nếu đi được, ba mẹ có thể giao lại ngôi nhà ba mẹ đang ở hiện nay cho con. Thứ hai, ba con đã được Sở Văn Hóa Thông Tin mời dịch một số sách từ tiếng Pháp sang tiếng Việt. Ba đã dịch thử một cuốn và đã được ông Trường Chinh cùng nhiều viên chức của Sở Văn Hóa Thông Tin thành phố Hồ Chí Minh hết sức khen ngợi. Cách mạng tỏ ra trọng vọng kẻ trí thức lắm chứ không phải coi thường, kỳ thị như lâu nay mình vẫn nghe sự tuyên truyền của chế độ cũ! Được giao một công việc hợp với khả năng, lại chỉ nhắm mục đích bồi bổ cho nền văn hóa dân tộc, ba con vui mừng lắm. Ba con đã làm việc say sưa đến quên cả giờ giấc. Mẹ chỉ hơi ngại vì quá đam mê với công việc, sức khỏe của ba con sẽ bị ảnh hưởng thôi. Mẹ tin chắc rồi đây ba con sẽ nhận được một số tiền thù lao đáng kể. Khi ấy mẹ sẽ nói với ba trích một phần trong đó để cho con làm vốn...".
Đọc thư bà ngoại xong tôi thấy như mình được mở cờ trong bụng. Điều lo lắng của tôi, ngoài việc kiếm miếng ăn cho cả gia đình, còn phải làm sao cho anh Thành sau này khỏi mang những mặc cảm tự ti với đời. Tôi đã có kinh nghiệm về sự khổ tâm của những người phải sống nhờ vào kẻ khác. Vì vậy, tôi muốn mình phải có một cơ sở làm ăn vững chắc trước khi anh Thành trở về. Lá thư của bà ngoại đã mang lại nhiều hi vọng cho tôi. Nếu ông bà ngoại đi Pháp được, ngôi nhà của ông bà ở Sài Gòn có thể thuộc về tôi. Sau này anh Thành về sẽ có một chỗ nương tựa vững chắc. Sống ở thành phố lớn này, anh ấy có thể làm nghề bán vé số như một số thương phế binh trước kia đã làm. Còn nếu ông bà ngoại chưa đi được, tôi cũng sẽ nhận được một số tiền tặng của ông ngoại khi người nhận được tiền thù lao về việc dịch sách. Tôi có thể dùng số tiền đó đắp vào vốn để sang một sạp hàng càng sớm càng tốt. Tôi biết cô Hậu sẽ giúp tôi việc này nhưng nếu tự mình làm được vẫn hay hơn. Nếu tôi có cơ sở làm ăn sẵn anh Thành có thể tham gia công việc dễ dàng. Như thế gia đình tôi đỡ lúng túng mà anh Thành cũng khỏi mang mặc cảm đã trở thành người vô dụng...
Hai hôm sau, cô Hậu từ chợ về hí hửng báo tin mừng với tôi:
- Ngọc ơi, con Lưu nó sắp sang cái sạp hàng của nó đấy. Sạp của nó nằm ngay cửa vô ra chợ mua bán năng lắm. Cô đã bảo nó để lại cho con, cô gởi tiền cọc rồi. Chỉ cần lo tiền để chồng cho nó nữa là xong.
Mừng ơi là mừng, tôi liền nói:
- Dạ, cám ơn cô, buôn bán được con sẽ góp dần tiền vốn lại cho cô!
- Con chưa cần lo, chuyện đó cô còn xoay xở được. Chỉ cần con có công ăn việc làm để nuôi mấy cháu là cô mừng rồi.
Thế là suốt mấy ngày liền tôi cứ khấp khởi mong đợi. Tôi tin cô Hậu đã hứa thì cô nhất định sẽ làm. Nhưng có lẽ cô đang kẹt! Tôi biết trong thời gian gần đây cô đã tiêu phí rất nhiều tiền cho hai người bạn trong rừng mới ra ấy. Cả cái huê mà cô mới hốt non có thể cũng bay biến cả rồi! Cũng bởi lòng cô rộng rãi quá!
Nào ngờ nỗi mừng mới nhá lên, nỗi buồn lại tranh đến trước. Mấy hôm sau tôi nhận được một điện tín của bà nội từ miền Trung gởi vào:
"Ba bệnh nặng, con về gấp. Mẹ".
Đọc xong bức điện tín lòng tôi rối như tơ. Tiền đâu để về thăm ông nội lúc này? Nếu tôi về, lũ con hay nghịch ngợm phá phách của tôi sẽ gởi cho ai được? Nếu đem chúng đi theo sẽ tốn kém nhiều và chúng tôi khó có cơ hội trở lại Đà Lạt nữa! Nhưng nếu không về được thì cũng phải gởi chút tiền chứ! Cả cô Hậu cũng vậy! Ông nội là anh ruột của cô, cô làm sao yên tâm? Thế này thì cơ hội sang sạp hàng của bà Lưu có thể vuột khỏi tầm tay tôi mất!
Sau khi bàn tính việc này, cô Hậu nói:
- Cô đã chạy gần đủ tiền để lấy sạp hàng rồi đó. Nhưng bây giờ anh ngoài nhà lâm bệnh nặng như vậy mình hoãn lại mươi ngày nửa tháng nữa cũng được. Cô cháu mình phải gởi một ít để giúp chị lo thuốc thang cho anh chứ!
Thế rồi cô Hậu đưa một số tiền cho em Lâm đi gởi cho bà nội.
Nhưng chưa lấy được sạp hàng tôi lại nhận được một bức điện khẩn nữa:
"Ba mất lúc 10 giờ tối ngày... Con về gấp! Mẹ".
Quả là họa vô đơn chí! Thời buổi này đi đường xa đâu có dễ dàng gì! Nội cái việc đăng ký mua vé xe cũng đã mất hết bao nhiêu ngày giờ rồi. Dù chúng tôi có chắp cánh mà bay cũng không thể về kịp để lo việc tang. Cô cháu tôi đành khóc lóc cầu nguyện cho ông nội rồi lại gởi hỏa tốc một số tiền phụ việc lo đám tang thôi.
Biết tin ông nội mất, một số bạn bè thân thiết của cô Hậu đến nhà thăm hỏi chia buồn. Sau khi nghe cô Hậu nói về tình cảnh của tôi, một bà nói:
- Bây giờ để bà nội ở nhà một mình ngoài Trung cũng bất tiện. Sao cô Ngọc không khuyên bà nội bán phứt nhà cửa để vào đây bà cháu sum họp một nhà có hơn không?
Một bà khác tỏ vẻ rành rõi cãi lại:
- Bán chác gì được mà bán! Bây giờ chứ phải trước kia đâu! Lúc này đất đai ở chỗ nào cũng là của nhà nước cả. Chủ nhà muốn đi đâu cũng phải để lại tất cả cho nhà nước. Có quyền sang nhượng chăng cũng chỉ lấy được tượng trưng chút đỉnh ở cái xác nhà và của cải thôi!
Cô Hậu nói:
- Chị tôi khó lòng chịu bỏ quê hương để đi đâu lắm! Vả cái nhà đó cũng như từ đường để thờ phụng tiên tổ, có khuyên vào ở đây bà cũng chẳng nghe đâu!
Một bà khác lại nói:
- Người Trung người Bắc phần nhiều vậy cả. Dù ở vào cái chỗ làm không ra cái ăn, thế mà bảo đi chỗ khác họ vẫn nhất định không chịu đi!
Chính tôi cũng biết như vậy, nhất là với bà nội mấy cháu tôi càng biết rõ hơn. Vì thế khi liên lạc thư từ với bà nội, tôi chẳng hề đề cập tới chuyện này.
Thấy chúng tôi dốc lòng quyết sang sạp hàng nhưng lại gặp tình cảnh khó khăn như vậy, bà Lưu cũng tỏ ra thông cảm. Bà đồng ý giao sạp hàng cho tôi mặc dù chúng tôi chỉ mới chồng được một nửa tiền.
Lấy được sạp hàng cho tôi xong, cô Hậu vui mừng nói:
- Thôi, từ nay có chỗ làm ăn đàng hoàng rồi. Con cứ gắng buôn bán kiếm một số vốn sẵn để khi biết thằng Thành ở đâu con có thể đi thăm dễ dàng. Lâu nay thấy con cứ thở ngắn thở dài cô thấy tội cho con quá. Thế nào rồi nó cũng nhắn tin về cho coi!
Sạp hàng này trước kia nghe buôn bán thường ở mức trung bình. Nhưng kể từ ngày sang tay tôi làm chủ nó vượt hẳn lên. Ngày nào cũng như ngày nào, từ sáng đến tối tôi lấy hàng, bán hàng không hở tay. Cứ một tuần tôi lại trả thêm cho bà Lưu được một số nợ. Thật ra tôi có thể trả nhiều hơn nữa nhưng tôi sợ người ngoài quở và bà Lưu đâm ra hối tiếc cũng tội. Công việc tuy vất vả nhưng tôi vui mừng lắm. Theo đà này, gia đình tôi chắc chắn sẽ khá lên không mấy hồi.
Nhưng nợ sạp hàng chưa trả hết tôi lại nhận được thư cáo cấp của bà nội. Cũng chỉ là thư kêu gọi tôi phải đem con cái trở về Thiện Trường gấp. Bà nội nói nếu tôi không về, khi bà nội qua đời nhà nước sẽ lấy nhà cho người khác ở. Như vậy anh Thành sẽ không còn nơi thờ phụng tổ tiên! Tôi đem lời bà nội nói trong thư bàn với cô Hậu. Cô là người chân chất hiếu thuận nên khi nghe việc nhà thờ tiên tổ của mình có thể bị tịch thu cấp cho người khác, cô cũng đâm hoảng sợ. Tuy thế, thấy tôi bắt đầu làm ăn khấm khá quá cô cũng tiếc cho tôi. Cô nói:
- Việc mẹ con nói cũng có lý. Nếu để mất cái đất hương hỏa sau này thằng Thành có thể oán trách con. Nhưng hiện giờ con đang làm ăn được, bỏ đi cũng uổng. Theo cô nghĩ, mẹ con cũng chưa đến nỗi nào, con có thể ở lại buôn bán một thời gian để kiếm một số vốn rồi về cũng không muộn!
Thấy cô Hậu nói có lý, tôi bèn viết thư khất lại với bà nội. Thế nhưng vài tháng sau tôi lại nhận được một lá thư khác. Nội dung vẫn là những lời kêu gọi tôi về gấp để giữ ngôi nhà hương hỏa. Nhưng lần này có một đoạn lời lẽ khẩn thiết hơn nhiều:
"... Từ khi ba con qua đời, người mẹ hay bị nhức đầu, hoa mắt. Nhiều lúc đang đi đâu hay làm gì mẹ lại bị xâm xoàng muốn ngất đi. Đêm nằm một mình mẹ cứ mông mị thấy ma quỷ gì đâu đâu. Có lẽ không bao lâu nữa mẹ cũng phải theo ba con thôi. Nhiều kẻ đang chờ mẹ ra đi đó. Nếu không chịu về cho sớm, con có thể hối hận không kịp!..."
Thế này thì làm ăn gì được nữa! Cũng có thể bà nội ở một mình buồn nên đặt điều ra để kêu gọi con cháu về đấy. Nhưng nếu trường hợp bà nội nói thật thì sao?
Tôi đã đem những suy nghĩ của mình nói với cô Hậu. Người già ở một mình đêm hôm rủi xảy ra chuyện gì cũng nguy hiểm thật. Tôi là con dâu duy nhất trong khi chồng tôi đang lâm hoạn nạn, dĩ nhiên tôi có phần trách nhiệm trong vấn đề ấy! Tuy mới sống với xã hội chủ nghĩa một thời gian ngắn, tôi đã thấy những thực tế khác xa với lý thuyết người ta nêu ra. Trong thời buổi đổi đời hỗn độn này, việc chiếm hữu nhà cửa của những người vắng mặt xảy ra rất thường. Khi mẹ chồng tôi qua đời, nếu mẹ con tôi không có mặt kịp, chuyện gì sẽ xảy ra sau đó? Tất nhiên những người có khả năng chiếm hữu tài sản của kẻ khác đều là những kẻ có thế lực. Khi chuyện đã xảy rồi, một kẻ cô thế như tôi làm sao thoát khỏi cạm bẫy của họ? Nếu tôi lập được cơ nghiệp ở Đà Lạt, nuôi được các con nên người thì sau này còn có thể dễ ăn nói với anh Thành. Ngược lại, nếu thất bại, tôi sẽ phải gánh chịu trách nhiệm với chồng con về vụ để mất nhà cửa, về vụ bỏ lơ mẹ chồng trong những giờ phút cuối đời. Nghĩ đi nghĩ lại, tôi đành phải quyết định giã từ Đà Lạt để trở về Thiện Trường.
Rốt cuộc, cô Hậu cũng đồng ý như thế. Tôi đành giao sạp hàng lại cho cô Hậu. Cô đã đền bù cho tôi một số tiền bằng ba lần khi tôi sang nó. Tuy vậy, tôi vẫn tiếc hùi hụi khi phải bỏ một công việc làm ăn đang lên phơi phới để trở về quê cũ, một nơi từng nổi tiếng đói nghèo. Vì thương chồng, vì gia đình chồng, tôi đành nhắm mắt đưa chân!
CHƯƠNG 7: ĐÊM ĐẦU TIÊN TRỞ LẠI NHÀ CHỒNG
Khoảng giữa năm 1976 tôi thật sự giã từ Đà Lạt để trở về Thiện Trường. Thời kỳ này phương tiện di chuyển từ nơi này đến nơi khác hết sức khó khăn. Đường sá hư hỏng quá nhiều nhà nước chưa tu bổ kịp. Tuyến đường nào cũng đầy ổ gà, mưa thì nước đọng vũng sâu vũng cạn, nắng lên thì bụi ngập như sương sớm. Xe cộ đã ỳ ọp lại luôn chở quá tải, nhét người chật như nêm. Hành khách nhiều người vẫn sợ chuyện đi lại như một cực hình. Mẹ con tôi đã trở về quê hương trong tình trạng đường sá như thế…
*
Tôi đang ngủ gà ngủ gật trên xe bỗng nghe tiếng anh lơ xe kêu lớn:
- Tới chợ chiều Thiện Trường rồi, chị gì đó xuống đi!
Chiếc xe đò ngừng lại. Người lơ xe ngồi ở trên mui tháo dây buộc đưa xuống một cái va li, một cái giường bố xếp và một bó chiếu. Tôi bước xuống đất với đôi chân tê cứng vì phải ngồi một chỗ quá lâu, lại chịu sức dồn ép từ những người chung quanh bởi xe quá chật nên máu trong người không lưu thông được. Tôi phải vừa vịn vừa chống tay vào xe chốc lát mới đứng vững được. Người lơ xe đứng bên dưới lần lượt bồng ba đứa nhỏ trao xuống cho tôi. Thằng Sửu hăng hái giành vác cái giường bố xếp đã được tôi bó lại. Thằng Tí thì giành vác bó chiếu. Nó phải vất vả lắm mới giữ bó chiếu được thăng bằng trên vai. Tôi khích lệ chúng:
- Ừ, giỏi! Hai đứa bây vác giùm cho mẹ những cái đó đi. Cứ theo con đường này!
Tôi mang cái xách nhỏ vào vai, tay phải xách cái va li nặng nhọc lê bước. Con Hoa bước theo tôi nhưng tỏ ra không bằng lòng vì nó phải đi tay không:
- Mẹ đưa cái xách con cầm cho!
- Không được. Con cầm lỡ có ai giựt mất làm sao?
Con bé vùng vằng một chút rồi chạy theo hai thằng anh nó.
- Con cứ đếm phía bên này tới cái thứ mười một là nhà mình đó.
Lúc đó khoảng mười giờ tối. Con đường vào xóm dưới ánh trăng trông sáng sủa lạ thường. Những bụi tre um tùm rậm rạp hai bên đường đã được đốn gần hết khiến cho con đường như có vẻ rộng ra nhiều so với trước kia.
- Nhà thứ một... nhà thứ hai... nhà thứ ba...
Thằng Tý đếm nhà số nào con Hoa lập lại nhà số đó. Tôi xách nặng quá nên chỉ biết cắm đầu bước theo các con. Chiếc va li phải chuyển từ tay này sang tay khác lia lịa không biết bao nhiêu lần.
Khi tới dốc cái cổng giếng quen thuộc, tôi ngạc nhiên nghe mấy đứa trẻ đếm tới nhà thứ chín. Trước đây tôi vẫn thuộc lòng từng đoạn đất cao đất trũng của con đường nhỏ này. Tôi nhớ mồn một từ quốc lộ đến cổng giếng chỉ có sáu cái nhà sao bọn nhỏ lại đếm tới chín? Chúng đếm lộn chăng?
- Nghỉ một chút chờ mẹ với!
Tôi đặt va li xuống đường vừa thở vừa nhìn quanh. Thì ra bây giờ nhiều nhà cũ đã được sửa lại, thêm vào đó lại có một số nhà mới được dựng xen vào nên trông khác lạ hơn trước. Mới hơn một năm rưỡi mà không biết bao nhiêu là thay đổi thế này!
- Thôi, để mẹ đi trước coi đường kẻo lạc.
Dù mệt nhọc, tôi cũng phải gắng nhìn bên này bên kia. Có lúc tôi phải đứng lại thật lâu mới nhận định được đã đến chặng đường nào. Khi đi qua cái ngõ nhà có các bậc cấp hơi cao, tôi nhận ra ngay là nhà ông Sơn. Tôi đặt va li xuống nghỉ tạm, mắt nhìn vào nhà ông Sơn. Đây là một ngôi nhà lớn của một gia đình điền chủ giàu có đã trải qua nhiều đời. Nhà có một cái sân tráng xi măng khá rộng, trước đây gia đình tôi cũng như những người hàng xóm vẫn thỉnh thoảng đến xin phơi lúa, phơi khoai... Đang nhớ lại chuyện cũ, tôi bỗng thấy nhiều người từ trong nhà ông Sơn túa ra, nam có nữ có. Họ nói chuyện ồn ào, nhiều người vội vã chen nhau đi ra ngõ. Mấy đứa nhỏ thấy đông người túa ra thình lình thì sợ hãi chạy tấp lại gần tôi.
Một người đàn bà bước tới nhìn ba đứa nhỏ rồi nhìn tôi hỏi với giọng kẻ cả:
- Chị là ai? Sao đang lúc đêm khuya lại mang vác đi đâu thế này?
Nghe giọng nói miền Nghệ Tĩnh, tôi hơi ngạc nhiên. Chắc đây là một cán bộ ngoài kia mới vào. Tôi nhỏ nhẹ đáp:
- Dạ, tôi ở Đà Lạt mới về. Nhà tôi ở xóm này.
Một người đàn bà khác nghe nói thế thì bước lại dòm mặt tôi rồi vui vẻ nói với giọng đầy thân tình:
- Trời, cô Ngọc! Tôi cứ tưởng cô đi luôn rồi chứ! Lại đem ba đứa nhỏ về nữa, chắc bác Thắng mừng lắm!
Nhận ra ngay chị Lâm ở kế nhà, tôi hết sức mừng rỡ nói:
- Đi đâu mà đi chị! Chẳng qua vì sinh kế em ở tạm Đà Lạt một thời gian thôi. Sống đâu cho bằng ở quê hương mình được! Chị Lâm mới làm gì về thế?
Chị Lâm cười dí dỏm:
- Họp, họp bình bầu, kiểm thảo công tác trong ngày, vạch kế hoạch làm việc những ngày sắp tới. Ở Đà Lạt chắc cũng có họp bình bầu kiểm thảo như đây chứ cô Ngọc?
Tôi để ý thấy mọi người ai cũng có vẻ vội vã. Vài người quen biết thấy tôi ở xa mới về cũng đứng lại hỏi thăm. Người đàn bà nói tiếng Nghệ Tĩnh chỉ đứng lại chốc lát, có lẽ biết tôi không phải là đối tượng đáng ngại, bà ta bỏ đi.
Thấy một toán người còn đứng giữa đường nói chuyện, một bà vừa đi vừa nói:
- Thôi, ngồi cả buổi chưa đau lưng à? Lo về mà nghỉ một chút đi! Mai còn phải ra ruộng sớm mà!
Ai nấy đều tỏ ra rất quí thì giờ. Mấy người quen với tôi hỏi thăm qua loa mấy lời rồi chào mà đi hết. Chỉ còn chị Lâm và cô Ánh, một cô bé mới lớn vốn quen thân với tôi đứng lại. Cô Ánh ăn mặc lam lũ trông già đi nhiều so với tuổi, cô hỏi tôi:
- Bộ chị Ngọc ở trong ấy làm ăn không được hay sao mà lại về đây để sống cảnh đội đoàn ngày đêm làm việc tối mặt tối mũi như tụi em thế này?
Nói xong, Ánh lắc đầu mà cười. Tôi cũng cười:
- Trong đó buôn bán cũng đủ ăn chứ không đến nỗi nào. Nhưng mẹ tôi cứ nhờ người viết thư kêu về mãi tôi biết làm sao. Bà nói cũng có lý, ngoài này còn nhà còn cửa, lại lỡ khi bà ốm đau nhờ cậy vào ai? Thế ở đây làm lụng cực lắm hả?
Ánh nhanh nhẩu:
- Chị đã về đây đương nhiên phải vô tập đoàn, ba bốn ngày nữa chị sẽ biết thôi. Đưa cái va li em xách cho một đoạn. Mình vừa đi vừa nói chuyện. Phải tranh thủ về nghỉ chứ sáng mai lại phải đi làm sớm.
Ánh vói tay giành cái va li. Chị Lâm lên tiếng tiếp:
- Cực lắm cô Ngọc ơi! Nhiều đêm cứ thức trắng mắt ra vì cái vụ họp hành này. Nai lưng làm suốt ngày thâm đêm mà không khi nào đủ gạo ăn. Tôi cũng mong tìm được con đường nào để thoát đây!
Chị lại quay sang ba đứa nhỏ:
- Con đưa bác cầm bó chiếu cho. Tội nghiệp, tụi bây sinh ra để chịu khổ...
Ba người cùng bọn nhỏ đi một lát đã tới nhà. Tôi nói:
- Chị Lâm và cô Ánh vô nhà tôi một chút đã chứ!
Chị Lâm nói với Ánh:
- Thì mình vô nhà với cô Ngọc một chút. Đằng nào cũng khuya rồi.
Tôi nhìn vào thấy căn nhà tối om. Có lẽ bà nội đã đi ngủ. Chị Lâm bước vào cổng trước, lớn tiếng kêu:
- Bác Thắng ơi, cô Ngọc và mấy cháu về đây này.
Trong nhà có tiếng lục đục rồi có tiếng bà nội khàn khàn:
- Ai kêu chi vậy?
- Con dắt mấy cháu về đây mẹ ơi!
Tiếng bà nội mừng rỡ:
- À, bốn mẹ con bây về đó hả? Tao biết thế nào rồi bây cũng về mà!
Tôi giục mấy đứa nhỏ lên tiếng thưa chào bà nội. Chúng đồng loạt la vang:
- Thưa bà nội chúng cháu về đây!
Bà nội sung sướng chạy ra ôm hôn mấy cháu một hồi. Xong bà nội lại lật đật vào nhà tìm đèn. Bà bật quẹt lên thắp vào cây đèn ngủ. Nhưng ngọn lửa không bốc được, ánh sáng chỉ tỏa mờ mờ yếu ớt cứ muốn tắt. Bà nội nói:
- Khổ nỗi hôm nay trong nhà lại hết dầu. Vừa rồi đi mua chậm chân phải đợi đợt khác. Cô Lâm cô Ánh ngồi chơi, xin lỗi nhà hơi tối một tí!
Chị Lâm nửa đùa nửa thật nói:
- Quan trọng chi chuyện đó. Nhưng cô Ngọc và mấy cháu đi cả ngày chắc đói bụng lắm rồi, bác đong gạo bắc lên vài lon là tốt nhất! Còn dầu lửa, tôi còn một xị bên nhà, đem đèn qua mà rót một ít.
Bà nội gần như không để ý đến lời chị Lâm. Bà phụ với tôi đem va li, cái giường bố và bó chiếu vào nhà rồi giục tôi đi rửa ráy cho lũ con. Tôi nói:
- Mẹ cho con và tụi nó ít nước uống đã. Chốc nữa con sẽ rửa ráy cho chúng. Giờ để con nói chuyện với chị Lâm và cô Ánh một chút. Chị em lâu ngày gặp lại mà!
Bà nội bước vào cái bếp tối om nhúm lửa. Chị Lâm thấy nhà thiếu ánh sáng không đành lòng liền băng vườn về lấy một hũ keo đựng ít dầu hỏa đem sang. Bà nội trầm trồ nói chuyện với ba đứa nhỏ. Bấy giờ chị Lâm mới đưa mắt nhìn tôi rồi hỏi:
- Cô đã dò ra tông tích chú Thành ở đâu chưa?
Nước mắt tôi bỗng trào ra:
- Ở trong đó lâu nay cứ thấy ai đi thăm tù về em đều hỏi tin tức nhưng mãi tới nay vẫn chưa thấy gì! Khi anh ấy mới vào Quân y viện Cộng Hòa đơn vị có báo cho em hay. Người ta cho biết anh ấy bị thương ở chân, không nguy hiểm đến tính mạng. Lúc đó em kẹt không đi thăm được, chỉ có ba mẹ em ở Sài Gòn đến thăm thôi. Khi ba mẹ em báo cho em biết anh ấy đã bị cưa cả hai chân em mới ngã đạn ra! Em sợ quá chuẩn bị đi thăm nhưng lại gặp lúc tình hình chiến sự đã quá trầm trọng nên không đi được. Sau đó em lại nhận được thư của ba em báo cho biết là anh ấy đã rời khỏi Quân y viện Cộng Hòa, không ai biết đi đâu. Từ đó mất tăm tích luôn!
Nói đến đây tôi nghẹn giọng muốn bật ra tiếng khóc. Ánh thấy tôi đang bị xúc động bèn vỗ vai tôi an ủi:
- Chị nín đi kẻo bác khóc theo bây giờ. Biết đâu anh ấy lại thoát qua Mỹ được rồi!
Tôi lau nước mắt, lắc đầu tuyệt vọng:
- Người lành mạnh còn khó thoát huống là một anh thương binh cụt giò! Nghe người ta kể phút chót cách mạng vào đuổi tất cả thương binh miền Nam đang điều trị, không phân biệt nặng nhẹ, kể cả hạng đang có thể bị nguy hiểm đến tính mạng đều phải ra ngoài hết. Có người phải ôm cả đùm ruột mà lết đi, có người mang cả cái chân cưa chưa kịp băng bó thuốc men mà lết... Nhiều người bị nhiễm trùng, đói khát, chưa kịp về nhà đành chết ở hốc cầu, bến xe... Tôi vẫn mong sao anh ấy không nằm trong những trường hợp đó. Nhưng cả năm rồi, nếu còn sống, dù không tự về nhà được anh ấy cũng tìm cách để thông tin cho gia đình biết chứ! Tôi sợ có khi anh ấy không còn nữa!
***
Ánh nói một câu hơi vô duyên:
- May em chưa lấy chồng hóa ra lại đỡ khổ. Thế người ta không cho chị dạy học nữa hả chị Ngọc?
Chị Lâm nói:
- Dạy chi nữa mà dạy! Không thấy mấy cô giáo ở đây phải xin học trò từng củ khoai sâu nhỏ mà ăn đó sao?
Ánh lại nói:
- Khi kia chị cứ ở trong đó rồi ra đem bác theo vẫn hơn!
- Tôi cũng muốn vậy nhưng mẹ tôi không chịu...
Chị Lâm nói xen vào:
- Cô Ánh nói vậy chứ còn nhà còn cửa đó, không về lỡ bác qua đời là nhà sang tay người khác ngay, lấy gì mà làm nơi phụng thờ ông bà? Cô Ngọc dù sao cũng còn mấy đứa con trai đấy chứ!
Nói đến đây, chị Lâm cúi người ghé miệng vào tai tôi nói nhỏ:
- Nói để bụng chứ bác gái còn sống sờ sờ mà đã có người ngắm nghé cái nhà của cô rồi đó! Hở ra là người ta nhảy vô ngay...
Trong khi mấy người đang nói chuyện, hai thằng nhỏ có lẽ đi đường mệt nhọc sao đó, đã nằm lên bộ phản ngủ ngon lành. Những con muỗi đang tha hồ chúi đầu hút máu trên trán, trên cổ chúng. Chị Lâm vói tay chụp một cái giết mấy con rồi bảo:
- Treo mùng cho tụi nó ngủ đã nè. Lúc này muỗi nhiều như ong để nằm trần vậy có mà sinh bệnh ra.
Con Hoa nãy giờ ngồi bên bếp nói chuyện với bà nội, bỗng chạy tới kê mặt lên đầu gối tôi nói nhỏ:
- Mẹ ơi, nói nội cho con ăn đi mẹ, con đói bụng.
Tôi nhìn bà nội đang loay hoay trong bếp rồi nhìn con:
- Đợi một chút...
Ánh cũng nhìn vào bếp, nơi bà nội đang làm gì đó. Xong Ánh lại nhìn tôi:
- Thôi mình về cô Lâm ơi, để chị Ngọc tắm rửa cho mấy cháu rồi còn ăn uống đi nghỉ nữa chứ. Mình cũng cần nghỉ để ngày mai dậy sớm còn đi gặt! À, khi nào rảnh chị sang nhà em chơi. Ba mẹ em vẫn nhắc đến chị hoài. Em cũng báo cho chị biết, chừng nửa tháng nữa em dời nhà đi chỗ khác rồi.
Lúc ấy nhà Ánh chỉ cách nhà tôi một đoạn đường ngắn. Trước đây, nhà Ánh nghèo nhưng lại được một người cậu làm ăn khá giúp đỡ nên Ánh vẫn được đi học. Hồi ấy Ánh vẫn hay qua lại nhà tôi để hỏi han bài vở. Khi nhà tôi có chuyện gì cần tôi cũng gọi Ánh đến giúp. Chúng tôi vẫn thân thiết với nhau như chị em. Nghe Ánh nói sắp dời nhà đi nơi khác tôi ngạc nhiên hỏi:
- Ánh sắp dời nhà đi đâu xa không? Vì sao vậy?
Ánh cười cười:
- Đi kinh tế mới! Người ta đuổi mà!
- Thật không? Vì sao người ta lại đuổi?
Ánh cười giải thích:
- Nói chơi vậy chứ khu đất em đang ở giờ ba em giao lại cho bác Lẹ em đi tập kết ngoài Bắc mới về. Xã đã thế cho nhà em một miếng đất khác ở rẫy chè của bà Năm làm lô gia cư. Rẫy chè đó giờ chính quyền chia thành năm sáu lô để cấp cho những gia đình chưa có đất làm nhà. May mắn ba em bốc thăm trúng được phần đất có một số cây chè uống khá ngon lành...
- Bà Năm nhường đất lại cho chính quyền à?
Chị Lâm trả lời thay Ánh:
- Nhường cái búa. Bây giờ đất nào cũng của nhà nước hết. Ai nhiều đất chính quyền sẽ lấy bớt chia cho những người chưa có. Thôi, bữa nào gặp lại sẽ nói chuyện nhiều hơn.
Hai người chào ra về. Tôi định rửa ráy cho con Hoa, nhưng nhìn vào ghè nước thấy chỉ còn một lớp nước mỏng dưới đáy không lút được cái gáo dừa. Người đã quá mệt nên tôi đổ lười, nói:
- Thôi, hai đứa kia đi ngủ rồi, con Hoa sáng mai tắm rửa luôn! Bây giờ vô coi bà nội cho ăn chi mà đi ngủ cái đã. Từ sáng tới giờ ba mẹ con với ba ổ mì và một mớ bánh ú đã ăn hết trơn... Mẹ nấu gì đấy mẹ?
- Nước chè, sôi rồi.
Bà nội bưng cái soong đặt lên bàn rồi rót ra mấy chén lưng lưng. Sau đó bà nội bước lại nghiêng chiếc ghè đựng nước để múc một gáo đem chế cho mau nguội. Nghe tiếng gáo cọ vào đáy ghè kêu rột rột khiến tôi thấy ghê ghê muốn quên cả khát.
- Uống đi, nước chè ngon lắm!
Tôi hơi ngạc nhiên, nhìn bé Hoa mà tội nghiệp:
- Con tưởng mẹ nấu cơm chứ!
Bà nội cười chống chế:
- Gạo trong nhà bữa ni không còn một hột. Ngày mốt nhà mình mới mua lúa điều hòa được con ơi. Tiền mẹ vẫn để dành sẵn đó có dám mua chi mô. Mấy hôm ni mẹ cứ ăn ba cái bí.
Thấy tôi im lặng, bà nội cười giả lả tiếp:
- Khi nãy có con Lâm con Ánh mẹ không dám cắt bí ra nấu, thôi ráng chờ một chốc bà nội nấu bí cho ăn nghe!
Tôi thấy vừa thương xót vừa hơi giận bà nội. Không ngờ cảnh nhà tôi lại bi đát đến thế. Những lá thư gởi cho tôi bà nội có bao giờ đề cập đến cảnh này đâu?
- Thôi mẹ, khuya quá rồi, mẹ đi ngủ đi, sáng mai nấu ăn luôn thể.
Thế rồi tôi trải chiếu giăng mùng ép bé Hoa đi ngủ.
*
Vừa nằm xuống tôi liền đánh một giấc chẳng còn biết trời trăng mây gió gì nữa. Tới khi nghe mấy hồi kẻng báo thức vang lên tôi mới giật mình thức dậy. Trời vẫn còn tối om. Đôi mắt ngái ngủ cay sè, tôi định nằm lại thì nghe tiếng bà nội hỏi:
- Ngủ được không con?
- Được mẹ, ngủ như chết! Ở đây sáng nào người ta cũng đánh kẻng báo thức sớm như thế hả mẹ? Bây giờ là mấy giờ?
- Thường là bốn giờ, phải báo thức để người ta dậy sửa soạn đi mần chứ!
Tôi cảm thấy ngao ngán cái cảnh nghe kẻng dậy sớm như thế này lắm. Xưa nay tôi vẫn có thói quen thức dậy trưa. Nhất là thời gian ở xứ Đà Lạt mù sương, tuy nói thức dậy sớm nhưng thực sự tôi cũng chỉ thức dậy sau khi mặt trời đã mọc. Mỗi lần có chuyện gì bất đắc dĩ phải thức dậy sớm, tôi vẫn phải mắt nhắm mắt mở để làm việc.
- Mẹ à, ở đây ngoài việc làm ruộng rẫy với hợp tác xã, còn có việc gì làm được nữa không?
- Có chứ, như nuôi heo, chăn vịt, chạy máy xay xát, nhưng đều có người mần cả rồi. Mình thì cứ công việc ruộng rẫy thôi con ơi!
Tôi nói như than thân:
- Như thế sợ con làm không nổi đó chứ. Khi kia cứ ở trong ấy buôn bán còn đỡ hơn.
- Lâu ni con có thư từ với anh chị giáo không?
- Dạ có, ba mẹ con vẫn khỏe và cũng hay gởi lời hỏi thăm mẹ. Nghe đâu mới đây thành ủy Sài Gòn có giao cho ba con dịch mấy quyển sách Pháp ra tiếng Việt. Con cũng mừng vì việc đó hợp với khả năng của ba con. Cũng hi vọng nhờ việc đó, ba con cũng kiếm được một ít tiền. Chứ cả hai ông bà đều lớn tuổi quá rồi đâu có làm gì được! Trước đây ba mẹ con còn lãnh được hưu bổng, giờ còn gì đâu. Khi sắp ra đây con cũng đã gởi thư báo cho ba mẹ con biết rồi.
- Dịch sách rứa người ta trả tiền cho mình hả con? Có khá không?
Câu hỏi của bà nội khiến tôi nghĩ tới cha tôi. Ông là một giáo sư dạy Pháp văn giỏi có tiếng. Trước 1975, dù cha tôi đã đến tuổi về hưu nhưng một số trường học vẫn mời ông ở lại dạy tiếp tục. Ngoài việc dạy học, ông còn dịch một số sách từ Pháp ra Việt và đôi khi dịch cả từ Việt văn ra Pháp văn nữa. Tôi trả lời bà nội với giọng hãnh diện:
- Như ngày trước thì cũng khá đấy. Bây giờ không rõ ba con đã được nhận ít nhiều chi chưa nhưng theo thư gởi cho con thì ba con đã được ông Trường Chinh và ông bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh khen ngợi lắm. Ba con vốn tánh tình cẩn trọng, làm chi cho ai là làm tới nơi tới chốn. Mẹ con nói vừa được giao cho việc dịch sách, ba con liền đi sắm lại ngay bốn cuốn tự điển lớn mặc dầu lúc đó loại sách ấy hiếm và rất đắt. Thật ra theo con biết ba con không cần thiết mấy cuốn sách ấy lắm đâu, nhưng ba con muốn bất cứ ai thắc mắc chữ nghĩa sẽ cho họ thấy minh bạch. Ba con có được công việc ấy con cũng an tâm lắm.
Bà nội lại hỏi:
- Rứa lâu nay ở trong ấy con có dồn độ được ít nhiều chi không?
- Dạ cũng có chút ít. Ba mẹ con có nói nếu ba con dịch sách mà khá được, sẽ phụ giúp thêm cho con một ít vốn nữa để buôn bán.
- Thôi con ơi, thời buổi ni cứ ruộng rẫy là được rồi. Buôn bán bị người ta dòm ngó cũng khó lắm.
Sau một hồi nói chuyện với bà nội cũng như tôi đã tỉnh ngủ hẳn. Bấy giờ tôi mới cảm thấy đói bụng, tôi cười:
- Con dậy chặt bí nấu cháo nghe mẹ. Không biết mấy đứa nhỏ có chịu ăn không đây. Rồi mình đi mua gạo ở đâu? Chắc đứa nào cũng đói chết cha nó cả rồi.
- Ừ, con dậy chặt bí nấu đi!
Rồi bà nội ngập ngừng nói tiếp:
- Còn gạo mua ngoài mắc lắm. Để mẹ qua bác Thập mượn một ít rồi ngày mai mình mua lúa điều hòa xay ra trả lại cũng được.
Tôi vừa thắp đèn vừa nhăn mặt khó chịu:
- Trước sau cũng phải mua, lúa điều hòa của mẹ có đủ cho cả nhà ăn không? Con mới vừa về nhà đầu hôm mà buổi sớm mẹ đi mượn gạo coi sao được?
Bà nội thấy tôi nói có lý lặng lẽ cúi xuống giường lôi ra hai trái bí đỏ nhỏ cùng cái dao phay đưa cho tôi:
-Dùng dao ni chặt mới bể. Bí tra vỏ cứng quá mẹ phải vằm nhiều lần mỏi cả tay.
Sực nhớ ghè nước đã cạn, tôi vội tìm gàu thùng để đi gánh. Khi nước tạm đủ dùng, tôi lấy tấm thớt đặt lên một cái tẹt rồi kê trái bí lên. Tôi cầm dao phay dùng sức chặt mạnh xuống một cái. Nhưng trái bí không bể mà lăn ra một góc xa.
- Trời đất, dao đùi quá mà bí lại cứng như đá!
- Từ từ mà chặt con. Muốn nấu một trái mẹ phải chặt hơn chục lần mới xong đó. Mấy hôm ni mẹ ăn toàn bí không à.
Tôi không khỏi vừa thương hại vừa tức cười hỏi lại:
- Thế mà mẹ chịu nổi? Mẹ ăn bí với đồ ăn gì? Một trái thế này ăn được mấy bữa?
- Còn một ít đậu xanh, mỗi lần nấu mẹ bỏ vô một dúm, thêm một ít muối. Một trái mẹ có thể ăn được một ngày hay một ngày rưỡi không chừng.
Tôi càng ngạc nhiên và tội nghiệp cho bà nội. Trái bí loại nhỏ một người mạnh ăn một bữa không đủ thế mà bà nội có thể chia ra ăn một ngày rưỡi?
- Mẹ ăn vậy làm sao mà no?
- Chứ lấy mô mà ăn cho nhiều?
Sực nhớ đến việc buôn bán đang thịnh lợi của mình ở Đà Lạt, tôi tiếc rẻ:
- Khi kia mẹ theo con vô trong đó ở nhà giữ cháu để con buôn bán có hơn không?
- Con nói rứa chứ mồ mả tổ tiên còn ở đây cả đi răng được? Ngày tết ngày giỗ ai lo hương khói? Có phải sống mãi như ri mô mà con sợ? Con không nghe ông thủ tướng nói là năm ni trong bước đầu ít nhất mỗi nhà sẽ có một cái đồng hồ à? Chừ người ta khổ thì mình cũng phải khổ, tới khi người ta sướng thì mình cũng sướng theo chứ lo chi? Bác Hồ nói: "Nhà tan cửa nát cũng ừ, Đánh xong giặc Mỹ cực chừ sướng sau", chừ đã đánh thắng Mỹ rồi cứ đợi mà sướng thôi con à!
Bà nội nhiễm lý thuyết của mấy ông cách mạng rồi! Tôi cười thầm. Mỗi nhà ít nhất sẽ có một cái đồng hồ? Chắc không? Tôi sực nhớ là trước đây trong nhà vẫn có một cái đồng hồ để bàn tuy khá cũ nhưng vẫn còn chạy tốt. Đầu hôm tới giờ không còn nghe cái tiếng kêu tích tắc quen thuộc của nó, tôi hỏi:
- Thế cái đồng hồ của mình đâu rồi mẹ?
- Để ở nhà ông Sang rồi. Khi mới giải phóng, ông Sang đi tập kết ngoài Bắc vô hay ghé nhà mình chuyện vãn với cha con lắm. Thấy ông ta nhìn cái đồng hồ ấy có vẻ thèm thuồng, cha con hiểu ý nên đã tặng cho ông ấy.
- Cái đồng hồ đã cũ mèm đáng giá chi, trong nhà lại đang dùng mà ông nội lại đem tặng cho người ta?
Có lẽ không hiểu ý tôi, bà nội nói:
- Có lẽ cha con nghe ông thủ tướng nói trên đài là sang năm 1976 ít nhất mỗi gia đình Việt Nam sẽ có một cái đồng hồ, trước sau mình cũng có cái khác, nên đem tặng để lấy lòng ông Sang đó. Nói rứa chứ dẫu là đồng hồ mới cha con cũng sẵn sàng tặng nữa huống chi là… Cũng được thôi, mai mốt thằng Thành về biết mô lại chẳng phải nhờ cậy đến ông ta?
Lòng tôi chợt xúc động. Có thể ông nội nghĩ đến chuyện nhờ cậy ông Sang sau này thật. Ông nội hiền lành chất phác, thương con cháu rất mực, lúc nào cũng nghĩ đến tương lai lớp hậu duệ. Bình sinh, ông nội vẫn đi khuya về tối cần cù chăm chỉ làm ăn, nhưng gặp bà nội có mạng "thảnh thơi" nên dù ông nội cố gắng mấy cũng không thể đưa gia đình khá lên được. Ông nội đã qua đời trong một hoàn cảnh hết sức túng thiếu và đơn chiếc, chỉ có người vợ bên mình chứ chẳng thấy được con cháu gì cả.
Tôi cũng hơi tức cười chuyện ông cán bộ tập kết ra Bắc trở về được bạn tặng cái đồng hồ cũ mèm mà cũng lấy! Ông ta đâu có khó gì việc kiếm một cái đồng hồ mới trong năm 1976 khi mà mỗi gia đình đều sẽ có một cái?
Thấy nồi cháo bí đã nhừ, tôi bưng xuống rồi thay vào bếp một soong nước uống. Sau đó, tôi múc ra nhiều tô cho chóng nguội. Xong xuôi, tôi nói với bà nội:
- Đứa nào thức dậy mẹ bảo nó súc miệng rửa mặt rồi ăn kẻo đói. Con phải đi gánh thêm vài đôi nước cho xong để rồi sáng còn phải lo đi mua gạo và ít thức ăn chi nữa. Tụi nó ăn bí không quen chịu không nổi đâu.
- Thôi, để trưa trưa rồi gánh. Ban ngày người ta đi mần hết giếng ít người đỡ mất công chờ đợi. Sáng sớm và buổi tối người ta gánh đông quá nước mạch ra không kịp mô!
Bấy giờ tôi mới để ý nghe tiếng người huyên thuyên quanh xóm. Con đường kiệt trước nhà nàng người ta đang đi lại rộn rịp. Tôi nhớ tới lời chị Lâm và cô Ánh hồi hôm rồi thở dài qua tiếng ngáp:
- Vài bữa nữa mình cũng phải hòa nhập với người ta rồi, lại lỡ bước mất rồi!
CHƯƠNG 8: NHỮNG CHUYỆN MỚI LẠ Ở QUÊ CHỒNG
Gánh đôi thùng không lên vai, bước chưa ra khỏi cửa ngõ tôi bỗng nghe tiếng la hét khác thường của một người nào đó. Ngạc nhiên, tôi dừng lại lắng nghe. Tiếng la hét vang lên đều đều theo một nhịp điệu hẳn hòi. Đó là giọng khàn đục khó phân biệt của đàn ông hay đàn bà. Âm thanh mỗi lúc một rõ hơn chứng tỏ người la hét đang tiến về phía tôi. Dần dần tôi nghe rõ vỏn vẹn chỉ có năm tiếng lập đi lập lại: "Thu mua là thua mu! Thu mua là thua mu! Thu mua...". Tôi bước ra đường, hướng mắt về phía có tiếng la hét. Trước mắt tôi là một người đàn bà dáng điệu ngúng nguẩy trông như người đang múa hát. Tôi hơi ngại, vội bước lùi vào ngõ để tránh.
Người đàn bà đã đến gần. Thân xác bà ta gầy teo, áo quần rách rưới, đầu trần chân đất lem luốc bù xù trông rất dễ sợ. Đôi chân bà ta đi ngoằn ngoèo nhưng thoăn thoắt trong khi đôi tay bà múa men liên tục. Chốc chốc bà lại đấm ngực, vỗ đùi như ấm ức điều gì. Vài lúc bà ta lại vỗ bôm bốp cả hai tay vào háng mình như khoe khoang, thách thức. Miệng bà ta vẫn la hét đều nhịp "Thu mua là thua mu! Thu mua là thua mu!...". Khi đi ngang qua ngõ nhà tôi, bà ta quay nhìn tôi một cái với ánh mắt giận dữ, man dại khiến tôi rùng mình. Nhưng rồi bà ta lại hướng về phía trước tiếp tục đi...
Hình như trong ánh mắt dữ tợn của người đàn bà này tôi thấy có chút gì quen quen. Có lẽ tôi đã gặp bà ta ở đâu rồi! Khi bóng bà đã khuất tôi vẫn còn thẫn thờ suy nghĩ. Tôi cố nặn óc mình một hồi để nhớ xem người đó là ai? Nhưng cuối cùng tôi đành chịu thua!
Khi tôi gánh nước đã đầy đủ thì bà Nhiêu ở cùng xóm sang thăm. Vừa bước vào nhà bà ta giở ngay cái lồng bàn đậy mấy tô cháo bí để giữa bàn ra rồi quở:
- Dân đi Sài Gòn về cũng ăn bí ngô à?
Bà nội nói đỡ:
- Tôi mua lúa điều hòa chưa kịp, tụi nó về bất ngờ quá... Mà mẹ con nó ở Đà Lạt chứ không phải ở Sài Gòn.
Bà Nhiêu ra vẻ ân cần hỏi tôi:
- Thế bây giờ chú Thành ở đâu? Sao cô không ở Đà Lạt nữa mà trở về đây? Trong đó làm ăn không được à?
- Anh Thành hiện giờ ở đâu thiệt tình cháu cũng chưa biết. Ở Đà Lạt cũng sống được lắm, nhưng mẹ cháu cứ kêu về cháu biết làm sao?
Bà Nhiêu quay lại hỏi bà nội:
- Sao chị không để mẹ con cô Ngọc ở luôn trong ấy làm ăn có phải hay hơn không?
Bà nội chống chế:
- Thím thử nghĩ, nếu tôi ở nhà một mình mãi lỡ nửa đêm nửa hôm có chuyện chi bất thường biết nhờ ai?
- Chị nói vậy chứ ở đâu chẳng có xóm có làng! Bộ người ta để chị chết sao?
Bà Nhiêu lại quay sang tôi:
- Thế cô Ngọc có dành dụm được ít nhiều vốn liếng chi để làm ăn không? Nói vậy chứ thời trước làm quan làm quyền chắc gom bó cũng nhiều, đâu đến nỗi phải không?
Bực mình trước cái giọng khích bác, tò mò của bà Nhiêu, tôi trả lời nhát gừng:
- Nếu có chút tiền cháu đã đi tìm chồng cháu rồi!
Như chẳng để ý đến lời tôi, bà Nhiêu hỏi tiếp:
- Thế bây giờ cô có định đi mô để sống nữa không?
- Cháu đã về đây thì sống ở đây chứ còn đi đâu nữa!
Trong khi bà Nhiêu hỏi chuyện, bà nội cứ đưa mắt nhìn tôi nháy nháy. Tôi hiểu ngay bà nội dặn tôi phải dè chừng. Bà Nhiêu lại tiếp tục:
- Cũng được thôi. Tôi khuyên cô nên lo làm ăn cho thật tốt rồi chúng tôi sẽ vận động hội phụ nữ Thiện Trường làm tờ thỉnh nguyện xin chính phủ sớm tha chú Thành về nếu như chú ấy đang học tập cải tạo.
Chồng tôi đã bị cụt cả hai chân mà cách mạng vẫn bắt đi học tập cải tạo sao? Tôi giật mình. Ừ, biết đâu anh ấy chẳng bị cầm giữ? Có lẽ bà Nhiêu đang giữ một chức vụ gì đó nên mới ăn nói lớn lối như thế - tôi nghĩ. Cũng được. Nói gì mặc bà, tôi cứ vâng vâng dạ dạ chứ không có ý kiến. Sực nhớ tới người đàn bà đã gặp hồi nãy, tôi hỏi:
- Hồi nãy đi gánh nước con gặp một người đàn bà điên, thấy nét mặt quen quen mà con không nhớ là ai. Mẹ với thím Nhiêu biết bà đó không?
Bà Nhiêu nói với giọng thản nhiên:
- Cái con mẹ cứ la hét "thu mua là thua mu" đó phải không?
- Dạ, đúng rồi thím!
- Thế thì con mẹ Hào thợ mộc chứ ai! Cô Ngọc không nhớ à?
Tôi ngạc nhiên hết sức, kêu lên:
- Trời ơi, thím Hào thợ mộc sao đến nỗi ra thân như thế? Thế chú thợ Hào sao không lo chạy chữa cho thím ấy?
Bà Nhiêu nói tỉnh bơ:
- Thằng cha Hào chống lại lệnh cách mạng nên người ta đưa vô trại cải tạo rồi, đâu còn ở ngoài nữa mà lo cho con mẹ đó!
- Chú thợ Hào cũng phản động hả thím Nhiêu?
- Không phản động mà cũng như phản động! Chính quyền đã ra lệnh ai có vàng bạc phải khai báo, có trữ lúa chỉ được trữ vừa đủ ăn, thừa ra phải để nhà nước thu mua. Vợ chồng thằng cha thợ Hào ỷ giàu sắm vàng cả hũ, mua lúa trữ cả hầm trong khi nhân dân ta đang thiếu thốn, ác ôn chưa? Nhưng làm sao qua mặt nhân dân nổi? Cách mạng đã khám phá ra tịch thu hết. Thằng chả lại còn già mồm cãi lại cán bộ nên người ta phải bắt đi cải tạo. Con mẹ ấy tiếc của nên giả điên giả khùng thôi chứ gì. Có ngày người ta đưa con mẹ đó vào trại cải tạo cho coi! Thật thà như tôi với chị Thắng đây ai làm gì được?
Hèn gì! Hình ảnh chú thím thợ Hào chợt hiện về trong trí tôi. Ở xã Thiện Trường cũng có năm bảy người làm thợ mộc nhưng chú thợ Hào nổi tiếng khéo tay bậc nhất. Chú làm ăn phát đạt, dựng được một rạp mộc ngay bên ngôi nhà chú ở. Thiên hạ ai cũng cho là chú Hào mát tay, chỗ nào cất nhà người ta cũng muốn nhờ chú đến "phở mộc" (hay "động mộc", một động tác tượng trưng như đẻo vài nhát gỗ đầu tiên ở đòn dông vào giờ tốt đã được thầy phong thủy chọn khi khởi công). Người ta tin rằng nếu được người thợ mát tay "phở mộc", ngôi nhà đó ở sẽ không gặp rắc rối, gia chủ sẽ làm ăn phát đạt... Nhờ được tin tưởng như vậy nên việc làm ăn của chú Hào cứ mỗi ngày một khá thêm. Bình thường thím thợ Hào chỉ biết lo công việc nội trợ. Tánh tình thím hiền lành, luôn tử tế vui vẻ với mọi người nên xóm làng ai cũng mến. Không ngờ qua cuộc đổi đời chú thím ấy lại trở thành nạn nhân!
Thím Nhiêu nói thêm:
- Vợ chồng nó cả gan mua hàng tạ lúa đào hầm ngay dưới rạp mộc để giấu! Vàng thì chôn dưới một gốc mít cạnh nhà. Nhưng thiên bất dung gian, đoàn cán bộ đi xăm hầm thấy chỗ nào khả nghi người ta chú ý liền làm sao qua mặt được? Của không đăng ký là của lậu, nhà nước tịch thu là phải rồi, oan ức nỗi gì! Thế mà thằng chả ngoan cố cứ cãi bướng đó là do mồ hôi nước mắt của nó làm ra! Cuối cùng nó phải đi cải tạo thôi!
Kể đến đây bà Nhiêu cười hăng hắc ra vẻ thỏa mãn lắm. Sau đó bà lại nhìn tôi một hồi rồi nói với giọng có vẻ chế nhạo:
- Sắp đến cô Ngọc định đi dạy học lại hay làm công việc gì khác? Chứ chẳng lẽ một người trí thức đẹp đẽ như cô lại đi làm hợp tác xã chân lấm tay bùn như tụi tôi?
Lối nói châm chích ấy làm tôi bực mình thêm nhưng tôi vẫn nhã nhặn trả lời:
- Cháu nghỉ đã lâu rồi ai mà cho dạy nữa. Bây giờ đã về đây hợp tác xã cho làm việc gì cháu làm việc nấy thôi!
Lúc đó mấy đứa nhỏ con tôi đã thức dậy. Có đứa kêu đói đòi ăn. Tôi chỉ mấy tô bí ngô cho chúng. Bà Nhiêu cười xen vào:
- Tụi nhỏ ăn cao lương mỹ vị quen miệng chắc nuốt cháo bí không vô?
Nghe cái giọng đâm hông đó tôi lại càng bực mình:
- Giàu có gì mà cao lương mỹ vị thím?
Bà Nhiêu cười khảy:
- Thì lương hai vợ chồng bạc bó không lẽ để con cái ăn dưa ăn mắm?
Tôi đã quá chán nói chuyện với bà ta nên quay sang nói với mấy đứa con:
- Tụi con ăn tạm cháo bí đi đã! Mẹ ra chợ một lát sẽ về ngay...
Rồi tôi quay lại bà Nhiêu:
- Thím ngồi chơi với mẹ cháu nhé, cháu phải ra chợ một chút vì hồi hôm về trong nhà không còn gì hết.
********
Khi tôi trở về bà Nhiêu đã đi mất. Bà nội giúp tôi soạn đồ ra rồi hai mẹ con cùng lo chuyện cơm nước.Khi cả nhà ngồi ăn, bà nội dặn nhỏ tôi:
- Khi con đi, có mụ Tẩn ngồi đây nên mẹ không tiện dặn. Từ nay đi chợ con nhớ mua thêm một ít thức ăn độn như khoai, sắn. Tốt nhất là sắn khô vì mình có thể để dành lâu được. Nếu con thèm thịt cá muốn mua ăn cũng phải kín đáo một tí. Hồi sáng mụ Tẩn qua nhà mình không phải có ý tốt mô! Mụ ta muốn kiểm soát coi mình ăn cái chi đó! Ngày ngày rảnh rỗi mụ cứ chạy xợt xợt nhà ni qua nhà khác để tìm hiểu rồi tới một buổi họp mô đó lại đưa ra phê bình kiểm thảo chứ không phải đi chơi không mô!
Nghe bà nội gọi "mụ Tẩn" hơi lạ tai tôi hỏi:
- Mụ Tẩn là thím Nhiêu đó hả mẹ? Cái tên này sao con chưa nghe tới bao giờ?
Bà nội hạ giọng:
- Từ ngày cách mạng vô, cặp vợ chồng nớ lên mặt lắm, người trong xã mình ai cũng né hết. Người ta ghét vợ chồng lão nên cứ gọi là lão Tẩn, mụ Tẩn. Mẹ cũng không hiểu cái tên Tẩn ấy có ý nghĩa chi nhưng chắc là không được hay. Thấy người ta chỉ gọi lúc vợ chồng họ vắng mặt. Có lẽ vợ chồng mụ cũng không thích chi cái tên đó.
- Thím Nhiêu đi dò la hàng xóm ăn gì để phê bình chỉ trích thật hả mẹ? Làm gì mà quá đáng như thế?
- Răng không thật được! Ở xóm ni rất nhiều người bị phê bình nào là không chịu ăn độn, nào là thường xuyên ăn cá ăn thịt... Nhà mụ ta theo cách mạng cả nhà lâu nay mà chẳng mấy ai biết! Lão Tẩn hiện chừ là an ninh thôn đó, con phải coi chừng.
Hóa ra cách mạng muốn kiểm soát luôn cả việc ăn uống của người dân! Lời bà nội dặn tôi khi đi chợ phải mua một ít thức độn mới nghe qua cũng tức cười, nhưng nghĩ lại cũng có lý lắm chứ! Bây giờ một mình tôi đi làm để nuôi một lũ con như thế sợ ăn độn cũng không đủ nữa, mong gì đến chuyện cơm trắng cá tươi? Với tôi, chuyện đó chẳng phiền hà chi cả! Tôi chỉ thắc mắc về hành động của vợ chồng ông Nhiêu:
- Con không hiểu sao chú thím ấy lại ưa làm mất lòng thiên hạ như vậy?
- Chi mà không hiểu? Lập công! Mần cho người ta nể oai! Chừ thì vợ chồng họ còn sợ ai nữa!
- Con cũng không ngờ. Ngày trước chú thím ấy trông hiền như cục đất!
- Con mới về mần dâu trong làng không biết chứ ngồi đó mà hiền như cục đất? Lúc còn trẻ lão Tẩn đã từng chỉ điểm cho cách mạng giết không biết bao nhiêu người rồi. Hồi đó làng mình có một người đàn bà giàu có, ăn học khá nên nói được tiếng Tây. Mỗi lần lính Tây đi lùng bắt bớ người trong làng, bà đó hay tiếp xúc với bọn chỉ huy của chúng để xin tha cho họ. Chỉ có rứa thôi, nhưng cách mạng kết tội bà ta là Việt gian, phải xử tử. Khi bà ta bị giết rồi, lão Tẩn lấy dây thừng buộc cổ bà vào một chiếc đò rồi cho kéo mấy vòng trên các sông hói để cảnh cáo dân làng.
Bà ấy có mấy cái răng bịt vàng lão Tẩn cũng dùng kềm bẻ ra lấy hết. Về sau dù bên quốc gia đã vãn hồi trật tự người trong làng vẫn sợ trả thù nên chẳng có ai dám tố cáo lão. Kể ra dưới thời quốc gia vợ chồng lão cũng chịu khó cúi đầu mần ăn thiệt. Ai cũng tưởng lão đã hối hận chuyện cũ, ai ngờ cách mạng vừa vô là lão lập tức ngoi đầu lên mần mưa mần gió. Chính lão và lũ con cháu lão đã dắt cán bộ đi xoi hầm từng nhà để tìm chỗ người ta giấu lúa, giấu vàng chứ ai! Con mẹ thợ Hào dở chết dở sống như thế cũng vì con cháu của lão chứ ai! Lão độc như con rắn mai gầm, con phải coi chừng mới được!
***
Tôi lắc đầu thở dài:
- Thế mà hồi nãy bà Nhiêu khuyên con cứ làm việc cho tốt bà sẽ vận động hội phụ nữ làm thỉnh nguyện thư xin chính phủ tha anh Thành về!
- Phớt phớt lỗ miệng! Nói rứa chứ cả nhà mụ mong tụi bây đi khỏi xã lắm đó!
Tôi hơi tức cười:
- Họ mong mình đi thì lợi gì cho họ?
- Cái nhà ni chứ chi nữa? Bán có người mua liền!
- Thì ra thế. Hèn gì chị Lâm đã nói tới hồi hôm. Bây giờ tụi con về đây chắc họ không vui?
- Tống được người mô đi hay người nấy chứ! Con mẹ Hiền nhà cửa vững vàng như rứa mà người ta cũng khuyên đi vùng kinh tế mới nữa là!
Tôi sực nhớ tới gia đình chị Hiền, chỉ cách nhà tôi một hàng rào mà từ hôm tới giờ không thấy động tịnh chi cả. Tôi hỏi:
- Mẹ này, anh Hành chị Hiền đi đâu hết không thấy ai bên nhà cả?
- Thằng Hành mô còn nữa! Nó chết hồi di tản vô Đà Nẵng rồi. Còn con mẹ Hiền chừ đang đi mần với hợp tác xã. Vừa rồi con nó đau phải chở lên nằm nhà thương. Hôm qua nghe nói nó xin nghỉ để đi thăm con không biết đã về chưa.
- Tội nghiệp chưa! Hóa ra chị Hiền đã thành góa bụa! Thế con chị ấy đứa nào bị đau gì mà phải đi nằm nhà thương?
- Thằng Tương con thứ hai của nó đó. Thầy giáo cắt nó đi làm "kế hoạch nhỏ" chỗ mô đó đạp nhằm thép gai nên bị nhiễm trùng, cái chân sưng vù lên không đi được. Nghe nói có thể bị cưa như chơi.
- Khổ chưa! Nhưng làm kế hoạch nhỏ là làm việc gì mẹ biết không?
- Con có đi dạy học còn không biết tao mần răng biết được?
Gần trưa, tôi nấu một nồi chè đậu xanh vỏ cho cả nhà ăn thay cơm luôn. Ăn xong, tôi mời bà nội lại xem mớ áo quần cô Hậu đã cho mấy mẹ con tôi. Tôi mở va li, lấy ra từng chiếc để khoe với bà nội. Thấy phần nhiều là loại hàng đắt tiền thường dùng ở xứ lạnh, bà nội cứ than thở về sự hao tốn của cô Hậu mãi. Nãy giờ con Hoa ngã ngớn chưa chịu ăn, lúc ấy nó đang bưng tô chè cũng sấn lại xem. Bất ngờ nó sảy tay làm tô chè rớt đổ cả vào va li quần áo. Tôi nổi giận thét:
- Thế là bày việc thêm cho mẹ rồi!
Bé Hoa sợ hãi bỏ đi chỗ khác. Tôi phải vất vả gần hai tiếng để giặt mớ áo quần dơ đó. Sau đó tôi phải giăng thêm mấy sợi dây trong vườn mới đủ chỗ để phơi.
*
Khoảng 9 giờ tối chị Hiền mới sang chơi. Vừa thấy mặt tôi chị nói liền:
- Chị Diệu Ngọc thấy khổ không? Cách nhau chỉ một bước chân, biết chị về hồi hôm mà đến giờ này tôi mới sang thăm được! Công việc cứ túi bụi, đừng trách nghe. Hôm qua tôi mới lên nhà thương đem thằng Tương về. Còn may, bị kẽm gai xước chút nữa mà cưa chân...
Tôi sực nhớ ra điều thắc mắc của mình, liền tiếp lời:
- À, tôi có nghe mẹ tôi nói rồi. Cháu không việc gì cũng mừng cho chị. Có điều tôi không hiểu, thầy giáo cắt cháu đi làm kế hoạch nhỏ là làm việc gì vậy?
Chị Hiền thiểu não cười:
- Chị nghỉ dạy học rồi không biết cũng phải. Cái đó người ta mới bày đặt ra. Họ bảo là tập cho học trò lao động. Nào cho học trò đi nhặt bao nylon, lượm chai lon, lượm sắt vụn... Nào cho đi mót lúa, mót khoai sắn... Đứa nào làm tốt được điểm cao, cũng được biểu dương là "anh hùng lao động" nữa. Đồ thu hoạch được dồn lại bán gây quỹ cho nhà trường. Nhiều khi thấy tụi nhỏ giành giựt nhau vài cái bịch nylon ở bãi rác mà tội nghiệp! Chúng bị đạp mảnh chai, kẽm gai, sướt vai, rách áo thiếu gì! Thằng Tương cũng vì thế làm tôi tốn hết một mớ tiền đó.
- À, kế hoạch nhỏ là vậy! Thế chị Hiền bây giờ đang làm việc gì?
- Ở đây thì làm ruộng làm rẫy với tập đoàn chứ làm gì nữa chị!
- Làm việc có dễ chịu không?
- Tôi bết lắm chị ơi. Nhưng mình còn biết làm chi hơn!
- Tôi muốn hỏi mình làm có đủ ăn không ấy mà!
- Đủ ăn chi nổi!
- Hằng ngày người ta giao cho mình làm những việc gì?
- Bây giờ đang đi gặt, phải đợi ra rơm xong tôi mới về được nên ghé chị hơi trễ! Thường thì ban đất, nhổ mạ, cấy lúa, đạp nước vào ruộng, vớt rong cho cá ăn, lên vồng khoai lang... Người ta làm gì mình làm nấy thôi. Chỉ khác cái là người ta có sức khỏe lại quen việc, còn tôi quá chậm chạp bị người ta nạt nộ, xỉa xói coi không ra gì cả. Khổ nhất là nhiều đêm họp hành người ta cứ phê bình kiểm thảo mình nghe nhức đầu lắm.
- Chị làm không đủ ăn chắc tôi cũng vậy quá?
- Những người làm thiệt giỏi may ra tạm đủ. Cỡ như tôi nói thiệt làm không đủ húp cháo. Khổ nỗi mình đâu còn con đường nào khác!
- Chị nói làm không đủ húp cháo vậy lấy gì mà bù vào?
- Chị Ngọc không tin à? Tôi phải bán lần bao nhiêu áo quần, đồ đạc trong nhà để ăn đó. Không biết khi hết đồ đạc rồi phải làm sao đây? Thế mà người ta cứ chực dòm vào tận đáy nồi của mình. Chán ơi là chán. Mới đây đã xảy ra không biết bao nhiêu vụ ăn trộm lúa ngoài đồng, nhổ trộm khoai sắn ở trong rẫy, tất cả chỉ vì người ta không cách nào làm đủ ăn mà ra. Mai mốt đây rồi chị sẽ thấy! Khổ lắm chị Ngọc ơi!
Tự nhiên tôi thấy tội nghiệp cho chị Hiền quá. Chị vốn thật thà, vụng về, xưa nay mọi sự chỉ biết trông cậy vào ông chồng. Bây giờ chồng chị không còn nữa, chị phải gánh chịu bao nhiêu sự thua thiệt. Tôi tìm lời an ủi:
- Tạo hóa an bài cả chị Hiền ơi. Chẳng lẽ tình trạng này cứ kéo dài mãi hay sao?
Chị Hiền lắc đầu:
- Tôi chưa nói hết đâu chị. Chị sẽ gặp hàng vạn chuyện bất bình khác nữa! Miệng người ta độc địa tàn nhẫn lắm. Lúc nào họ cũng chực nói móc nói méo mình nghe muốn điên đầu. Có lúc tưởng chừng độn thổ được tôi cũng độn. Giờ nói có thể chị chưa tin, nhưng tôi cũng phải báo trước để chị chuẩn bị tinh thần...
Đang chuyện vãn tôi bỗng sực nhớ một điều, bèn hỏi:
- Tại sao người ta lại gọi ông Nhiêu là lão Tẩn chị biết không?
Lần này nét mặt chị Hiền lộ hẳn vẻ thích thú:
- Ồ, do mấy ông lão đồng lứa với ông ta đặt ra cả! Ông ấy hay xoi mói bắt bẻ người khác nên ai cũng ghét. Người ta gọi ông ấy là Tẩn Nhiêu, nói lái đó mà! Nói vậy chứ chị cũng không nên gọi cái tên ấy, lão tức giận sinh oán thù cũng mệt đó. À, chị về lại đây đã báo cáo với tập đoàn hay thôn xã chưa?
Tôi cười nói tếu:
- Chút nữa tôi quên mất. Nhưng cũng chẳng đáng lo. Tôi chưa trình diện thôn đội gì cả nhưng bà an ninh thôn đã đến trình diện tôi rồi!
Chị Hiền cũng cười:
- Đùa vậy chứ chị cũng nên đến báo cáo với tập đoàn một chút cho phải phép để họ khỏi lý lẽ lôi thôi. Ở đây chuyện cái mảy xảy thành cái vung là chuyện thường! Nhà anh Sự tập đoàn phó cũng gần đây thôi, giờ anh ấy cũng về rồi. Chị cũng nên đến báo một tiếng cho xong.
Suốt ngày phải làm nhiều việc, lại phải tiếp mấy người hàng xóm tới thăm nên tôi khá mỏi mệt. Sau khi chị Hiền về tôi liền đến gặp anh Sự rồi trở về ngủ một giấc khá dài.
Nửa đêm thức giấc tôi mới sực nhớ tới mớ áo quần phơi ngoài vườn chưa lấy cất. Thế là tôi lật đật vùng dậy chạy ra vườn. Nhưng hỡi ơi, chỉ còn trơ mấy sợi dây! Toàn bộ số áo quần tôi phơi đã biến sạch! Tôi hoảng hốt chạy vào kêu bà nội dậy nói cho bà nội biết. Tiếc nhất là bộ đồ vải xoa màu tím nhạt anh Thành tặng tôi hồi chưa cưới! Bà nội nghe tôi nói liền phẫn nộ kêu lên:
- Người trong xóm lấy chứ ai vô đây nữa?
- Bao nhiêu đồ bận mùa lạnh mất sạch rồi. Bây giờ làm sao đây mẹ?
Qua giây lát giận dữ, bà nội đã có vẻ định tĩnh trở lại:
- Tức hộc máu đi được, nhưng đành chịu chứ biết mần răng chừ con? Con mới về một hai hôm nếu làm ồn ào lên không tiện chút nào. Có trình với thôn xã cũng vô ích thôi. Có khi họ làm lớn chuyện gây phiền phức, người ta lại đổ oán cho mình. Gia đình mình đang bị người ta ghét bỏ, ráng mà chịu vậy! Biết mô nó lấy của mình là nó rước giùm hoạn nạn cho mình...
DEC 24 - 2024
&&&
Truyện 9 - 17