1 - Tôi Sẽ Là Tôi Thôi.......Hồ Thị Mỹ Hạnh 2- Chuyện Cô Gái Rượu ......Đặng Hà Nội 3 -TỘI....Xuân Sương 4- Ngõ Hẻm Tận Cùng .....Vũ Thanh Hoa 5 - Qua Rồi Đêm Trung Thu....Phan Trang Hy 6 -Tắm Bến Sông Xuân ..... Quý Thể 7 - Kích Cổ Thôi Hoa........Quý Thể 8- Tuổi Dại.......Hai Hùng 9 - Phóng Sinh...... Xuân Sương 10 - Con Phố Nhỏ Quyến Rũ .....Lê Lành 11- Cọn Nước Đôi...... BT Như Lan 12 - Người Dẫn Hôn Lễ .... Vũ Thanh Hoa 13 - Vòng Vía.....Bùi Thị Như Lan 14- Gã Biết Chữ.....1....2...... Phi Ngọc Hùng
14 - Gã Biết Chữ...
Nhưng Chữ Không Hề Biết Gã
Phi Ngọc Hùng
Trong làng xóm văn chương ai chả hay biết là đã làm văn hóa thì phải có văn chương, một tác phẩm hay là có văn có truyện. Một truyện ngắn hay là truyện khó viết, không phải ai cũng viết được. Thêm nữa, chỉ một dúm chữ không thôi nhưng vẫn có hồn, có cốt tráng qua nét văn chương. Chữ đẻ ra chữ, có khi chỉ phảy vài nét, mà tóm lược được thần thái, lột được hết hồn vía của nhân vật, tình tiết. Chữ để đọc. Gã nhai văn nhá chữ, nhá chữ chứ không nuốt chữ. Thế mà gã cũng chẳng biết. Chuyện là đắp chữ vá câu thì gã cắc củm có một vốc chữ, lại mắc bệnh từ ám, nói cho ngay gã biết chữ nhưng chữ không hề biết gã. Chữ để viết. Vậy mà gã cũng không biết. Chẳng qua số gã ruồi vì không một ngày theo học Trường viết văn Nguyễn Du.
Chả là bấy lâu nay gã đau đáu với văn chương, vì vậy gã phải đi tìm thầy để ăn mày chữ nghĩa. Gã ghé quán bia hơi ở Phố Huế mà ông dế mèn gọi là bia bơm. Ông thường ngồi ở đấy nhưng gã đến lại không gặp. Gã biết chữ nhưng chữ không hề biết gã bèn lò dò đến trụ sở Hội nhà văn ở 65 đường Nguyễn Du, để hỏi và được trả lời thầy dậy chữ đang ở nhà viết hồi ký.
Gã tạt qua để học viết chữ.
Im ắng...Bước lên bậc tam cấp...
Gã gõ cửa và hỏi:
- Có ai ở nhà không?
Ông dế mèn thò đầu ra:
- Đi vắng rồi.
***
Tháng sau có nhút nhít thì giờ, gã tìm Ông ấm đất để kiếm ông dế mèn.
Gã trộm nghĩ muốn đi vào làng xóm văn chương nên ghé vỉa hè ồn ào, mắt gã đảo tít như rang lạc thì gặp ngay ông ta thật. Trước mặt ông ấm đất là một đĩa lạc rang, một chai rượu cuốc lủi và một đĩa thịt chó. Ông vẫy gã lại gần và rỉ rả chuyện ông từng được một ông sư đãi một bữa thịt chó độc đáo. Thịt chó ướp gia vị, đặt vào giữa bông sen, bó lại, đem đồ cho chín dừ. Món ăn vừa tục vừa thanh, vừa có vị chát của nhựa sen vừa có hương thơm của hoa sen thế mới hay. Gã nghĩ bụng, thịt chó mà cho vào toà sen thì...chó thật
***
Lấy cái ba toong đập đập vào cạnh bàn kêu đĩa tiết canh cho gã. Rồi hỏi gã vác xác đi đâu thế!. Gã nhúm nhím là vừa ghé Hội nhà văn tìm ông dế mèn, tới nhà cũng không gặp nên mò tới đây.
Ông ấm đất chép miệng bồ bã:
- Cậu tới đó làm đếch gì cho nhọc sức, nhìn chung đám hội nhà văn ấy, họ viết như đang lè nhè giữa một đám chén chú chén anh. Họ nhai chữ những miếng to tướng, vừa ăn vừa nhằn ra nham nhở, chẳng nghệ thuật vị nhân sinh tí ti nào. Cứt láng giềng thì thối, cứt đầu gối thì thơm, thế là họ vãi cứt vào mặt nhau. Họ đội khăn đống áo dài vái nhau như tế sống, bốc thối nhau.
Thì đấy, Nguyễn Huy Thiệp gọi họ là bọn vô học. Cụ tiên chỉ Nguyễn Tuân được thể nước ao mà vỗ lên bờ, cụ viết truyện tiếu lâm đăng trên báo Người Hà Nội: "Có một ông nhà văn nọ dựng chuyện khơi khơi các nhà văn nước ta "50% là vô học. Bị phản bác, ông ta xin lỗi ngay vì sai thì phải sửa và mau mắn sửa sai là 50%...có học".
Ông cười đánh hậc một cái và tiếp rằng một đĩa tiết canh đánh giỏi là "tiết canh xâu lạt" treo lên được. Gã càm ràm không hiểu tiết canh xâu lạt là...chó gì thì ông đã rề rà:
- Cậu làm văn mà sao ngu thế! Làm văn phải biết quan sát. Thí dụ, nhìn lề đường có bao nhiêu cây me, cây sấu, cây gạo, cây bàng? Nhìn cái nhà biết cửa chính, cửa phụ, cửa thật, cửa giả.Làm văn giỏi là biết quan sát và kể chuyện. Viết văn tức là kể một câu chuyện. Tất nhiên, trong quá trình kể, có rất nhiều tình huống, nhiều chi tiết vụn vặt như đĩa thịt chó với rau thơm là... lá húng chó, là lá mơ trong Nam bộ gọi là...lá thúi địt.
Và ông cười lủng lẳng:
- Ông dế mèn nói đi vắng vì ngỡ cậu đến ve con gái ông ấy!
Khuôn mặt gã như bát tiết canh sũng nước, lúc này gã quan sát gương mặt nửa thực nửa hư của ông, cái mặt của những cư dân nghĩa địa vì cũng sắp gần đất xa trời. Gã lậu bậu với ông là gã muốn viết truyện ngắn, mà chữ nghĩa nông choèn, văn vẻ nhắm khi tối như hủ nút. Ấy là chưa kể cái tai tệ nạn là đang bí lối, bí rị...đề tài.
Ông bổm bảm:
- Giả sử cậu bảo tôi viết về ‘’Rượu’’. Thế là sẽ có truyện ngắn với nhan đề ‘’Cái chai’’. Hình ảnh sinh động làm nên tư tưởng, chứ không phải tư tưởng tạo ra...cái chai.
Ực cốc cuốc lủi một cái tót, chống cái ba toong, ông khật khừ:
- Hay nhất là đi thực tế trại bồi dưỡng sáng tác Quảng Bá gặpông dế mèn đang dậy văn ở đấy. Mỗi người một khác: Tôi viết ký. Ông ta viết truyện ngắn.
Móc cái điện thoại cầm tay bấm số ông dế mèn. Cái máy kêu tít tít. Vì hoài bão chết tiệt, vì túng truyện viết để hóng cái viết nên gã đèo ông ấm đất đi tìm ông dế mèn.
***
Đang phóng nhanh, gã giảm tốc con @ còng, phía trước có người ngồi vệ đường chăn bò. Gã thắng xe sát cạnh: "Cho hỏi thăm, Trại bồi dưỡng sáng tác Quảng Bá gần đây không?". Người chăn bò vểnh vành nón lên nhìn. Hai con mắt sắc, sắc lẹm, hiện rõ sự dò xét, cân nhắc. Mắt như thế gì cũng biết, không gì qua mắt được. Ông ấm đất nhận xét và nói nhỏ thật nhỏ với gã: "Ấy là ánh mắt của ông dế mèn". Gã lặp lại câu hỏi: "Thưa ông, tôi..." - "Anh tìm ai nhẩy?" - "Tìm ông dế mèn... nhà văn." - "Các anh mua văn à?" - "Không. Chỉ học văn thôi" - "Đất nước ta nhiều trại văn lắm, Trại sáng tác văn học Đồ Sơn này, Trại dậy văn Tam Đảo này, Trại viết Đà Lạt này, Trại bồi dưỡng sáng tác Vũng Tầu này, v...v..." - Gã biết chữ nhưng chữ không hề biết gã hỏi: "Vậy trại bồi dưỡng nằm ở đâu?". Người chăn bò chỉ về phía xa xa: "Đấy, một dãy xanh xanh tre lá ấy." - "Có đường vào không, thưa ông?" - "Đi một đoạn nữa sẽ thấy bờ đê thì rẽ trái vào."
Ngồi sau lưng, ông ấm đất vừa xỉa răng vừa nói chuyện nhậu văn chương với gã:
- Ông dế mèn bảo dậy văn chả khó gì, na ná như mổ lợn, thao tác chính là lọc phần thịt, để trơ ra phần cốt tức cái nội dung của tác phẩm. Cậu học văn nên học mổ lợn hay học theo cái bệnh của nhà văn, nói như Nietzsche, là: Không viết lên được gì nếu không dựa trên trích dẫn từ kẻ khác. Tính sáng tạo viết lách chẳng qua là sự nấu nướng những gì có sẵn thành một món ăn mới. Đó là một quá trình dàn dựng sự kiện nhân sinh vào một mâm cỗ ngôn ngữ. Ẩm thực là một quá trình văn hóa chuyển hóa từ nấu nướng là thịt, là cá, là gạo và bày biện món ăn với thật nhiều gia vị.
Như cậu biết đấy, người Việt ở bắc thì ưa viết văn, người trung thì làm thơ, người nam thì viết báo. Người bắc viết văn mang cái bệnh đểu, "sâu sắc", "ẩn dụ", bóng gió, nói cay, nói đắng, lấy cái gia vị của gừng, của ớt làm cái ngon miệng. Vì thức ăn chả có gì, như một chén cơm sống trộn tỏi với nghệ. Vậy mà người đọc cứ ào lên khen hay.
Gã nổ máy, phóng vút, để lại một làn khói vẩn vơ trên khóm mai vàng. Gã im lặng lái xe, gã đảo mắt về phía trái để kiếm con đường vào làng, nhưng chạy mãi vẫn không thấy! Gã chợt nhận ra...một dãy xanh xanh tre lá ấy ở phía sau lưng mình.
Bèn nói: "Quay xe lại, hỏi lần nữa xem sao." Ông cau mày: "Cái thằng mặt lợn đó cũng đếch biết đâu!". Gã quay xe, chạy ngược lại để gặp người chăn bò. Người chăn bò vẫn còn ngồi đó. Gã rà xe lại hỏi: "Không thấy con đường nào cả!". Ông ta mắt e dè, nhưng đầy láu lỉnh, ma mãnh: "Anh hỏi gì nhẩy! Anh phải đi ngược lại như thế này chứ." - "Vậy đi như thế này đúng chưa?" - "Đúng." - "Nhưng con đường rẽ vào làng... Xin lỗi, trại Quảng Bá nằm phía tay nào?" - "Ban nãy tôi chỉ anh phía tay nào?" - "Phía tay trái." - "Vậy là tay trái." - "Nếu thế, trại nằm bên này đường, đâu phải bên kia?" - "Anh muốn bên này à? Ừ bên này đường." - "Ông có phải người làng Quảng Bá không?" - "Anh hỏi gì nhẩy!".
Búng cái que tăm cái tách bay thật xa, ông ấm đất phẩy tay thêm mắm thêm muối:
- Dân trung mang cái thi ca vớ vẩn biến thành cuộc đời với ý chí đi làm cách mạng hay vào chùa tu. Các nhà tu, chính trị gia chỉ là các nhà thơ thất chí với cuộc đời. Xứ càng khổ càng nhiều thi sĩ hiện sinh.
Còn dân nam ưa nhậu ở các quá cóc. Khi nhậu say lên là dân nam ta nói chuyện làm báo. Vì báo chí là một kiểu nhậu khác: Nhậu...văn chương.
Nếu văn chương bị bày biện vụng về trên các mâm cỗ quá tràn ngập đồ ăn chưa được nấu, sống sượng. Sự tiêu hóa của người đọc sẽ bị ngộ độc hay bội thực. Bây giờ vẫn còn như thế, nhìn đâu cũng thấy "văn học", kể cả những gì rất là "vô văn học". Trở lại để trích dẫn Nietzsche lần nữa: Con gà mà đẻ nhiều thì trứng sẽ nhỏ đi. Cái dở của văn chương ta là nhiều chữ quá mà chẳng nói lên được điều gì!.
Gã lại phóng xe, chạy quá năm phút vẫn không thấy hai bên có bờ đê nào! Gã bực dọc: "Thằng cha chăn bò chơi xỏ mình! Em nhớ là...là...". Gã bỏ lửng câu nói, la lên: "Đằng trước có phụ nữ rồi. Hỏi phụ nữ là chắc cú." Gã nhìn thấy đằng trước có một phụ nữ mặc đồ chàm, dắt một con nghé đi gặm cỏ. Gã rà rà con @ còng, và thắng lại: "Chị, cho hỏi thăm trại Quảng Bá nằm chỗ nào?". Chị ta ngước nhìn vào mắt hai người. Gã giật mình. Ánh mắt nhí nhoáy của chị ta đầy ma mãnh của người chăn bò ban nãy. "Quảng Bá nào?" - "Trại bồi dưỡng ấy mà" - "Không có trại nào ở đây sất cả". Gã chập cheng: "Thế, chị biết ông dế mèn không?" - "Nhiều ông dế mèn lắm." - "Dế mèn ranh mãnh?" - "Ranh mãnh cũng nhiều lắm." - "Dế mèn viết văn đó?" - "Văn ở đây cũng nhiều lắm."
Ông ấm đất đập đập vai gã bã bời:
- Cậu nên học quan sát theo ông dế mèn để viết văn. Ở vườn nhà ông có một cái núi non bộ lớn, ông nuôi cá, nuôi khỉ, nuôi bồ nông, cò, vạc... Cứ xích chân, xích cổ vào hòn giả sơn. Tôi thấy ông cứ đứng hàng giờ quan sát các con vật và thỉnh thoảng lại phát hiện ra một điều gì lạ ở chúng, như chân con vạc nó thế nào đấy, hay con khỉ lại biết chơi trò thủ dâm...
Hay nói khác đi, như Henry Lewis Mencken chỉ vẽ:Mấy ông nhà văn viết văn là thủ dâm với chữ nghĩa, ông ta tự làm sướng, làm khoái cho chính mình đấy thôi. Mệt!
Ông vừa dứt lời gã bực bội vọt xe. Đột dưng ông ấm đất reo lên như ấm nước sôi: "Có bờ đê rồi." Nghe thế, gã nhìn sang hai bên. Quả nhiên, bên trái có một con đường nhỏ, lát bê tông xi măng dẫn vào nơi,,,xanh xanh tre lá như người chăn bò vừa rồi chỉ. Gã rẽ xe vào. Gió nam gió nồm quét mặt đường sạch tưng. Nhưng khi đã vào làng, đường sá chỉ là đường đất. Đường ngắn, hẹp, liên tục rẽ trái, rẽ trái... Hai bên đường liên tu bất tận những tre tàn tàn tre toả bóng. Gió nồm gió nam giày vò những cành tre kêu ken két. "Quái! Làng vắng hoe, chả thấy người.". Ông ấm đất nói, giọng chắc nịch, làm như mình đã từng sống ở đây: "Họ đi làm đồng cả rồi. Đây đúng là làng Quảng Bá." - "Sao biết?", gã hỏi. Giọng ông ngang ngang: "Bệnh thằng chăn bò đấy!" - "Là gì?". Ông nói như chọc vào tai gã: "Là nó đã lây sang anh mà anh không hay! Mà này, anh có nhớ đường ra khỏi làng không?". Gã chạy xe chậm. Chó sủa vang. Nhà nào cũng nuôi chó. Chúng phóng ra cả đàn, nhỏ, to, đực, cái đều có...Chúng không đuổi theo, không bỏ nhà chạy rông. Ông bảo: "Đi ra ngay khỏi làng. Nhiều chó quá" - "Bác chỉ em đường ra nào?".
Ông ấm đất đánh trống lảng, giọng dậy văn dài, văn ngắn:
- Tôi chịu ông dế mèn dậy văn trên mặt bằng văn học chính quy. Ôngđăng đàn phát biểu: Người viết nào cũng tìm cách tiến từ truyện ngắn sang truyện dài. Dừng lại ở truyện ngắn, sợ không phải là nhà văn. Thực ra truyện dài chưa chắc đã khó. Họ viết như phóng ngựa chạy, chẳng rõ mặt mày gì cả. Nhưng họ chưa biết bố cục. Viết dài một chút, độ ba trăm trang trở lên, tôi cảm thấy có những phần đã phải độn rồi. Độn, lấy cái nọ đỡ cho cái kia, kéo nhau đi. Mệt!
Ông dế mèn thích truyện ngắn. Ông cho rằng truyện ngắn là một thể văn tập cho người viết, viết từng cái ngắn là vừa sức hơn cả. Chỉ với truyện ngắn, là nơi người ta có thể thử tìm phong cách cho mình. Người ta mới biết tận dụng từng câu, lo săn sóc từng chữ, rèn luyện đến việc dùng từng dấu phẩy, dấu chấm.
Đã có nhiều cách định nghĩa về truyện ngắn, nhưng nếu nói nôm na với nhau, đưa ra một định nghĩa thì truyện ngắn chính là cách cưa lấy một khúc đời sống. Ở đây, có thể nói ngắn gọn, nói trực tiếp. Cái ngắn thích hợp với cuộc sống nhanh bây giờ.
2
Đường có nhiều lối rẽ, hơn nữa tầm nhìn bị tre che khuất. Ông ấm đất than: "Chạy mãi thế này, hết xăng phải đổ nước mất". Gã hô hoán "A! có thằng bé cõng em đằng trước kìa.". Thằng bé khoảng mười hai tuổi, đen nhẻm, đang địu đứa em thò lò mũi xanh. Gã thắng xe và tắt máy. Thằng bé lõ mắt nhìn con @ còng. "Cháu cho bác hỏi..." - "Hỏi gì?" - "Cháu là con ông dế mèn phải không?" - "Không." - "Ông ta là gì với cháu?". Thằng bé láo liên nhìn gã: "Ông ta là người nên cháu không biết.". Gã hỏi: "Thế cháu biết gì?" - "Bò". Gã đâm nghi nghi vì ông dế mèn rất thích chuyện loài vật, như bò chẳng hạn. Bèn hỏi tiếp: "Nhà cháu ở đâu?" - "Xa lắm." - "Xa là ở đâu?" - "Làng bên kia, hai bác cứ lội bộ tàn tàn, tìm cái xe bò nào đó mà nhảy lên. Xe bò tự hành không có chủ đâu!". Gã đực ra, thằng bé tung tẩy: "Xe bò chở rơm, rạ trong làng ra. Người ngoài này đón. Xong, chỉ cần dắt nó đến đầu đường, thả ra, tự khắc nó kéo xe về lại nhà!".
Đường xa ướt đất, ông ấm đất được thể thêm đũa thêm bát:
- Ông dế mèn có lúc chủ trương viết những truyện không rắc rối như trên. Hay nói khác đi là truyện chẳng cần có cốt truyện. Và viết càng nhạt càng hay, có lần ông nói với tôi như thế. Nhưng đừng quên, đừng viết theo thị hiếu của người đọc mà bắt họ đọc những gì mình viết. Phải hé lộ những điểm thắt nút, gợi mở những gì sắp sẩy ra, những chi tiết tinh tế. Viết sao cho người ta đọc văn mình, đọc đi đọc lại, vẫn thấy hay. Có truyện đọc lần đầu hay. Đọc lại không thấy hay nữa. Văn phải đọc đi đọc lại...Cứ theo Nguyễn Công Hoan thì: Viết truyện tức là bịa. Nhưng phải dựa trên chuyện có thật, thật quá thì khô cứng nên phải hư cấu. Hiểu theo nghĩa là...bịa như...thật.
Nghe chuyện bịa cứ như thật lẵng nhẵng quá thể, gã nói với ông ấm đất: "Bác với em hút thuốc thư giãn nhá.". Ông gạt phăng: "Nhá nhem gì, biến đi". Và tiếp: "Lão chăn bò, con mẹ dắt con nghé, cả đến thằng bé kia đều là người làng thổ tả Quảng Bá này ". Ông chỉ gã: "Kìa... Có ông già kia kìa... Vào nhà hỏi trẻ nhỏ, ra ngõ hỏi ông già...". Lúc này, một cụ già chọt gậy bước tới. Lưng cụ khòm, đeo kính lão, đầu ngước lên trông như con đà điểu. Gã dựng xe, bước xuống: "Thưa cụ, cho hỏi thăm nhà ông dế..." - "Dế nào?" - "Dế mèn có râu đó." - "Dế nào mà chẳng có râu. Ông dế này có râu nhưng cạo nhẵn thín rồi" - "Sao vậy?" - "Phát tâm Bồ Đề đi tu!"- "Sao? Cụ nói sao? Đi tu rồi à?" - "Tu hú rồi." - "Chùa nào vậy?" - "Chùa nào có giời biết!" - "Xin cám ơn cụ".
Cụ già gật đầu, chấp nhận lời cảm ơn, và chọt gậy, lững thững đi tiếp ra khỏi làng. Gã biết chữ nhưng chữ không hề biết gã ngước mặt lên dòm thấy con tu hú có hai con mắt to như đeo kính lão, giống như con đà điểu lưng còng đang đậu trên ngọn tre.
Nhìn theo cụ già, ông ấm đất nhăn mặt tắp lự:
- Ông dế mèn một lần nói với tôi thì đường ra khỏi làng này đây cũng dễ thôi. Dễ hiểu như tiếng Việt trong sáng. Sao cứ bịa ra những tiếng khó hiểu. Nhiều chữ họ không hiểu: Tại sao gọi là "bát đàn, bát sứ, bát kiểu". Ông ta rất chú ý học chữ. Ông chê nhiều người viết văn bây giờ thiếu chữ và dùng chữ rất ẩu. Tiếng Việt ta có chữ "ăn nằm" rất hay, tránh nói thô. Ông phân biệt "mồm" với "miệng". Nói "miệng" sang hơn nói "mồm". Nhưng mồm miệng thì lại khác. Cờ nhà chùa thì phải gọi là cờ "điều" chứ không phải là cờ đỏ, sơn đen thì phải gọi là sơn "then", quần đen thì phải gọi quần "thâm". A! Chữ...
Mặt gã vẫn lặng như nước ao tù. Ông dắng dả.
- Chữ như cái búa. Không có chữ, không tạo ra hình ảnh đập vào đầu người đọc. Cuối cùng phải tìm từ, tìm chữ đích đáng để diễn đạt. Một bài viết hay là có được một hai từ đích đáng kết tinh được cái hiểu, cái ý của mình. Đó là cái thần của bài viết.
Đột ngột, gã đuổi theo ông cụ: "Cụ biết chú bé cõng em kia là con ai không?" - "Nó là con ông đánh xe bò". Cụ trả lời, chân vẫn cứ đi mà không ngoái lại, mồm miệng í a: Nà bò cỏ ống... Nà bò cỏ ống.... Gã trở lại chỗ ông ấm đất và nhúc nhắc cái đầu...
Ông cười khịch khịch, gật gật đầu:
- Ông phát hiện rất tinh những nhược điểm của người viết: Như văn Anh Đức là thứ văn cải lương, có lúc viết anh hùng là "hùng anh". Nguyễn Khải dựng nhân vật theo lối ghi chép rất sáng tạo, nhưng văn chưa thoát được lối biền ngẫu. Nguyễn Đình Thi xa đời sống, nên mắt không chọc thủng được tờ giấy để nhìn vào hiện thực. Thi tả cảnh chùa có cây bạch đàn. Xưa làm gì có bạch đàn ở chùa! Thơ Hoàng Cầm là thứ vàng mã trang kim. Thơ Kinh Bắc diêm dúa, lượt là xiêm y xanh đỏ, thực chất không có gì. Họ chỉ lo sản xuất cho nhiều, còn sống thế nào cũng được, cốt sao cho khoẻ, cho sướng. Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi...là như thế. Còn Tô Hoài thông minh, nhưng thẩm định xoàng, dậy văn ở trường Nguyễn Du với những lời dậy và giảng cứ lợn cợn và bốc mùi thoang thoảng của những thứ kiến thức chưa tiêu đã cũ mèm.
Gã lại nổ máy xe, rẽ trái. Gặp một chị phụ nữ đi ngược chiều, ôm bó rau muống. Gã dừng xe. Chị phụ nữ nhìn chăm chăm vào hai người, mắt chị ta lộ ánh mắt dò xét, cân nhắc như ông chăn bò. Gã vén môi: "Chị cho hỏi thăm nhà ông dế?" - "Dế nào?" - "Dế đi tu." - "Nhiều dế lắm." - "Dế mèn đó." - "Bỏ mẹ! Thế là đi tu rồi." - "Tu chùa nào?" - "Chùa Một Cột." - "Ối giời! dế mèn đi tu à?" - "Đã bảo đi tu rồi mà." - "Mà chùa Một Cột ở đâu?" - "Ai biết đó là đâu!". Gã biết chữ nhưng chữ không hề biết gã hỏi tới nữa: "Chị cho hỏi thăm đường ra khỏi làng?" - "Đi mãi thì ra." - "Chúng tôi muốn ra đến con đường xi măng bê tông." - "Thế thì đi theo hướng mặt trời." - "Nếu đến chiều mặt trời lặn không ra được thì sao..." - " Thì thôi." - "Xin cám ơn." - "Chuyện nhỏ mà."
Đợi chị rau muống đi khuất. Ông bày mực tàu giấy đỏ bên phố đông người qua:
- Theo ông dế mèn thì Lưu Trọng Lư giờ hết thời rồi. Tài năng cũng chỉ có một thời thôi. Người ta viết có thời, hồn thơ có thời, có một lúc nào đó thôi. Như ông Lư ngày xưa làm thơ mới chân thật, có hồn thơ, sau này chẳng còn nữa. Nhiều người như thế. Thơ Huy Cận, thơ Tố Hữu giờ chỉ còn là thơ thù tạc. Nguyễn Huy Thiệp giỏi viết cái ác nhưng cũng sắp cùn rồi. Phạm Thị Hoài trí thức, lại muốn làm ra vẻ dân dã...Ông dế mèn đọc cả những cây bút trẻ. Ông cho là bọn này viết được. Nhưng thiếu một cái gì đó. Thiếu chữ của riêng mình, thiếu phong cách. Họ viết mới đấy. Nhưng rắc rối, khó hiểu. Chưa mấy hay. Bọn trẻ nói chung kiêu, ngông, bất cần đời như Nguyễn Tuân.
Lúc này đã đúng ngọ. Gã lái xe về hướng mặt trời, nên xe chạy lạc bố nó mất. Nhưng gã không lạc. Ông ấm đất nhắc khéo: "Cứ đâm đầu chạy vào trung tâm làng, lẽ tất yếu là phải...ra khỏi làng". Gã biết chữ nhưng chữ không hề biết gã lau mồ hôi trán: "Cứ rẽ trái, rẽ trái mãi", ông nhắc: "Rồi cũng ra khỏi. Nhớ trái... Nhớ trái suốt nhá..."
Khi không ông ấm đất cười khùng khục chuyện ông dế mèn:
- Ông ta bia rượu, gái ghệ chẳng kém ai, có 7 con. Vợ cứ đẻ sòn sòn. Tôi thì rất ghét người đẻ nhiều, vô kế hoạch. Đi đâu ông cũng tuyên truyền sinh đẻ có kế hoạch. Tôi bực với ông ấy: "Sao đẻ lắm thế?". Ông ta có câu trả lời rất lạ là: "Sướng con cu mù con mắt". Rồi cười nhạt nhách: "Vì vợ tôi nó xấu". Tôi không hiểu được ý ông muốn nói gì. Ông dế mèn lại hay đánh vợ. Quái thật! Chả lẽ vì vợ ông ấy...xấu! Hỏi ra ông ấy tống cho một câu gọn lỏn: "Ông không biết chứ đánh vợ xong, nó chiều lắm".
Gã cứ rẽ trái, rẽ trái một chặp là ra khỏi làng thật. Nhưng không gặp con đường bê tông xi măng, mà tiến vào một nghĩa địa. "Gã bảo: "Chạy luôn vào nghĩa địa. Nghĩa địa lúc nào cũng bên ngoài làng. Khỏe quá!". Đây là một nghĩa địa nhỏ, cả hai thấy một bà đang vái hương nơi ngôi mộ mới xây. Gã dựng xe, cả hai đi bộ lại. Gã biết chữ nhưng chữ không hề biết gã hỏi bà: "Vợ ông dế mèn mới chết tháng trước, có chôn nơi đây không ạ?" - "Ông dế mèn?". Bà vỗ vỗ trán: "À, đúng là chết rồi! Tội nghiệp" và tiếp: "Không biết ông ấy học ở ai đó cầm bút viết chữ như cầm búa gõ vào đầu người ta để tạo cái của nợ gì ấy. Rồi chính ông búa vào đầu ông chết tốt!". Rồi lắc đầu: "Không chôn ở đây." - "Thế ở chỗ nào?" - "Qúy ông hỏi gì?" - "Hỏi để thắp nhang. Mà mộ ông dế mèn ở đâu" - "Chôn ở phía vợ." - "Phía vợ ở đâu?" - "Ai rỗi hơi!" - "Cám ơn bà." - "Ờ ".
Ông cằn nhằn: "Láo thật! Láo đến thế thì thôi, đến chết rồi cũng không chịu chỉ cho người ta cái mộ". Gã cãi nhắng: "Ông dế mèn chưa chết, biết mộ đâu mà chỉ". Ông ấm đất cười đánh bịp một cái như con bịp bịp gáy: "Cậu làm văn mà sao ngu thế! Làm văn phải biết quan sát. Cậu không thấy bà ta xấu lắm à! Bà ta là vợ ông dế mèn đấy".
Ông ấm đất có cái cười khinh đời, khinh mạn. Cái cười của ông không phải nụ cười, mà chỉ là sự nhăn răng, nhăn nhó:
- Nhưng nghiệm ra thấy ông dế mèn tinh đời, tinh như ma vì nói: Bọn văn xuôi chúng tôi rất dại, chỉ có bọn làm thơ là khôn. Sự thật quả có thế. Mấy ông văn xuôi thường hay bị đánh như Nguyễn Tuân (Phở, Tình rừng...), Nguyên Hồng (Con hổ ở suối Cát), Nguyễn Huy Tưởng (Một ngày chủ nhật), Tô Hoài (Mười năm), Nguyễn Khải (Đối mặt)...
Bọn thơ thẩn, phần lớn là quan chức được đảng tín nhiệm như Tố Hữu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Nguyễn Đình Thi. Sau là Hữu Thỉnh, Trần Đăng Khoa...
Từ nghĩa địa thoáng đãng, tầm nhìn không vướng lũy tre nữa, gã thấy con đường bê tông xi măng nằm phía bên trái. Cả hai thở phào, lôi thuốc ra hút để thư giãn. Khi bà đi ngang qua, gã hỏi: "Bà về ạ?" - "Ờ." - "Nơi đây có phải là trại không?" - "Không trại, mà chỉ là làng" - "Làng tên gì?" - "Trại nào?". Nghe vậy, ông ấm đất vỗ đét vào đùi gã: "Không có làng Quảng Bá. Tiên sư cái thằng dế mèn chết rồi mà vẫn còn nói láo!". Gã lạc quan thấy rõ: "Dám cái nghĩa này là trại bồi dưỡng sáng tác Quảng Bá lắm ạ!".
Đột dưng ôngấm đất đột gầm ghè ông dế mèn:
- Trời phú cho ông dế mèn có khả năng sống trong nước đục, sống giữa những cái nhờ nhờ, tối tối mà vẫn sống được. Giữa đời sống, ông ta xoay sở có chục khuôn mặt khác nhau, táo tợn một cách kín đáo, để ý từng tí một, tinh tế trong những cái vặt. Trong văn nghiệp, ông nhẩn nha kể mọi việc, ghép chuyện nọ với chuyện kia, không thuyết phục ai, ấy thế mà lại đọc được. Cái chất văn của ông nó nằm trong một cái gì ẩn dưới câu văn, ẩn dưới chữ nghĩa. Là sự kiện, là con người với những vui buồn. Ông mang khuynh hướng dân gian, nhưng nặng về bản năng, thiếu lý tính. Nhưng truyện ông viết sau 1975 là chỗ sắc sảo, lọc lõi của ông. Nhất là sau 1986 với hồi ký mới thực sự là ông dế mèn với: Chiều chiều, Cát bụi chân ai, Ba người khác...
Ông ấm đất đột biến vặc gã: "Thôi, quên cái trại bồi dưỡng sáng tác dấm dớ ấy đi. Giờ tôi phải vào làng kiếm đĩa thịt chó cái đã..." rồi thả bộ bước một và rẽ trái vào làng một mình.
Gã nổ máy xe. Đám gà tre trong mấy cái mộ đất giật mình nhao lên một lượt kêu "tác...tác...". Nhưng con @ còng lại kêu "tít...tít...", và tịt máy chắc vì hết xăng!
***
Gã biết chữ nhưng chữ không hề biết gã xục giày rời nghĩa địa. Mặt nặng như đeo đá vì đi mãi, chỉ thấy con đường vắng hoe. Trời đất ánh lên những tia hấp hối của ngày. Cuối cùng cũng xuất hiện một đốm đen phía cuối con đường. Gã tăng tốc, chạy. Nhưng chỉ mươi bước thấy sức lực tuột xuống hai chân. May cho gã, đốm đen quả thật là một chiếc xe bò. Đúng là xe bò chở rơm, rạ trong làng ra như thằng bé chỉ và chỉ cần dắt nó đến đầu đường, thả ra, "tự hành" nó về làng. Con bò bước còn chậm hơn gã. Gã đu lên nằm ngửa trên sàn xe. Cái túi kê làm gối. Mùi phân và nước đái bò ngợp vào mũi. Nao nao buồn tênh. Nắng đang dần lịm. Gã giơ tay vẫy vẫy chào...một dãy xanh xanh tre lá. Và nói lớn: "Chào!" Đoạn gã hôn "chụt" vào bàn tay mình rồi quăng bàn tay ra xa...
3
Phi Ngọc Hùng
***
13 - Vòng Vía
Truyện Ngắn - Bùi Thị Như Lan
Đêm tháng năm. Gió mang hơi thở của đá từng đợt, từng cơn ào ạt trượt từ núi xuống, ùa ập vào nhà sàn, nhấc bổng hương thơm man mác của gạo nương bay lượn. Gió lùa ngón tay vô hình bới mái tóc, làm những sợi tóc màu mây trên trán ta dựng ngược lên, nghiêng ngả, rối tung. Gió vô tư lôi nhau lách qua vách ngăn, vào trong buồng, miên man cùng mé thằng con ta đếm tháng ngày trôi. Gió mơn man ve vuốt gương mặt vô tư, trong trẻo rồi nhẹ lướt ngang người con trai, vỗ nhè nhẹ cho nó trôi vào giấc ngủ say nồng. Gió nô đùa cùng vật dụng trong không gian nhỏ bé của lòng nhà, ngân lên tiếng lanh canh bay bổng... Bất chợt, gió thích thú nhởn nhơ leo lên những cây cột gỗ, ôm ấp, bủa vây, hòa quyện vào quầng sáng diệu kỳ từ vòng vía của con trai lắc lư, nhảy nhót làm nên vũ điệu ảo huyền, sống động...
Ta khẽ thở dài, bó gối lặng lẽ ngắm thằng con say sưa ngon giấc. Gương mặt nó ngời ngợi, bừng rạng. Lửa bếp, nhập cùng hồn sáng vòng vía con đeo trên người, tạo quầng sáng phiêu diêu, xoay chuyển trong không gian nhỏ bé của gia đình ta. Con trai à, còn mấy ngày nữa là con bước vào thời khắc làm thằng trai mười sáu tuổi. Cái tuổi ấy ta tính từ lúc bồng con trên tay.
Nhanh thật! Vừa mới hôm nào con tựa như cây mầm nhỏ nhoi, yếu ớt chồi lên trên đá, qua bao tháng ngày đồng hành cùng nỗi cay cực của ta mà lớn dần lên, phổng phao. Bây giờ con là thằng bé khôi ngô, tuấn tú, thông minh... Ừ, nhìn con lớn lên từng ngày mà ta thấy những vết cắt tứa máu trong lòng thành sẹo. Cái sẹo ấy tuy chai lỳ, sơ cứng trong bụng ta, thế nhưng mỗi năm một lần, vào độ tiết trời đầu hè đong đầy gió thì sẹo lại sưng tấy, nhức buốt như thể có ai đó cầm cật giang, cật nứa cắt cứa, băm vằm.
Giá như ta có thể chia sẻ cùng con thì tốt biết mấy! Là ta nghĩ thế thôi con ạ, nếu con có hỏi thì nếp nghĩ trong đầu ta sẽ mất phương hướng, ta trả lời quanh quoéo, qua quít, rồi biến thành người nói dối trước sự trong trẻo của con thôi. Ta đã từng dối trá rồi phải không con? Nhưng mà ta không thể nói ra sự thật phũ phàng ấy, vì ta lo nếu như ta nói ra những điều chưa thể nói thì sự tủi thân, hờn giận của con bùng nổ, kéo theo những hệ lụy khó lường. Và biết đâu đấy, từ cay đắng, phũ phàng, con không thể trở thành thằng trai đi bằng đôi chân vững chãi trên đá núi, mây ngàn này...
Ngày con là thằng bé tóc khét mùi nắng, con hỏi ta, sao mé không biết nói, cười mà suốt ngày giống như cái bóng lầm lụi thế? Bàn chân mé sao chỉ có một bên thôi? Còn một bàn chân nữa đâu rồi? Sao nhà mình không có họ hàng bên ngoại hả cha?... Những câu hỏi vu vơ của con làm bụng ta có lửa cháy. Con hỏi mãi, hỏi nhiều lần làm ta bối rối, ta thở dài rồi bảo, con ăn nhiều vào, sau này cao lớn ngang ta thì con sẽ biết thôi. Từ hôm ấy, con không hỏi nữa nhưng thư thoảng đo chiều cao với ta.
Lâu rồi ta nghĩ con quên lời hỏi, không nhớ chuyện chiều cao nữa, thế nhưng ta đã nhầm phải không con? Mấy ngày trước con bảo cao hơn ta rồi, con muốn biết chuyện về mé... Hóa ra, con vẫn canh cánh nỗi buồn mà không nói. Ta phải nói với con thế nào đây? Mười sáu năm qua đi mà cái tên mé con ta không biết, bà ấy ở nơi nào đến đây ta cũng không rành, vậy thì làm sao ta có thể nói ngọn ngành cùng con?
Ta những tưởng cuộc đời của một gã trai trẻ bị lưỡi lửa nơi thâm sơn cùng cốc liếm quanh sau vụ cháy rừng năm xưa sẽ an bài với định mệnh. Lửa làm cho ta mất cha mé. Lửa ngăn ước mơ trở thành thầy giáo bản của ta... Nếu như gương mặt, thân thể ta không bị biến dạng méo mó, dị mọ thì ta cũng sẽ có một cuộc sống khác, một cuộc đời rộng mở...Nhưng ta không buồn vì điều ấy. Ta còn sống được ở bản Mạ này là may mắn và phúc phần rồi, ta đâu mong mỏi gì hơn? Và ta có một mái ấm gia đình cùng hai mé con. Thế là mãn nguyện lắm rồi.
Ừ, cũng vào một chiều nhập nhoạng giữa lằn ranh của ánh sáng và bóng tối trong tiết trời ăm ắp sương, cuộc sống đơn thân của gã đàn ông như ta đổi khác bởi sự xuất hiện của mé con cùng sinh linh bé bỏng là con. Dường như tạo hóa trao con vào tay ta như một sự ngẫu nhiên nhưng không vô tình. Ta ôm ấp, đón con trong vòng tay chai sần, gân guốc mà ngỡ lạc vào cõi mê. Tiếng khóc của con yếu ớt giữa gian nhà tràn căng trống trải làm tâm can ta rối bời. Đấy, mùa nối mùa chạy qua, nhưng cái nút thắt ngày ta có hai mé con vẫn nguyên sự thảng thốt, bàng hoàng...
*
* *
Bản Mạ của ta nằm vắt ngang sườn núi Phja Vài, bao quanh là rừng đại ngàn xanh rợp chân mây. Từ đỉnh núi đặc sương ngó xuống, bản tựa con ngựa khoang, cổ đeo chuỗi lục lạc hoa trắng, đầu vươn cao, bờm dựng ngược hòa quyện vào ngút ngát mây, bốn vó của nó vững chãi nhoài bước từ những khoảnh màu nham nhở đỏ, lam, vàng...về hướng mặt trời. Trên mình ngựa khoang cõng những nếp nhà sàn bốn mùa rực rỡ hoa trái, thấp thoáng mây bay.
Nhà ta ở giữa đỉnh đầu của ngựa khoang, là nơi cao nhất bản, cũng cao nhất xã. Nơi này giáp ranh với hai xã liền kề, thế nên người bản gọi bằng cái tên nôm na ngã ba đầu ngựa. Người trên núi xuống, người dưới thung lên thường lấy nhà ta làm chốn dừng chân, uống chút nước lá mát, ăn vài ba trái cây trong vườn, lấy lại nhịp thở trước khi bước tiếp hành trình.
Từ khi bản Mạ có con đường láng nhựa chạy vòng quanh, leo qua những con dốc dài, dốc ngắn lên bản Nà Xa, Nà Háy...trên đầu nguồn con nước, rồi thong thả xuôi thị trấn thì cuộc sống người dân đỡ khổ. Xuống huyện không phải đi bộ như trước, có ô tô khách đón đầu bản. Nhiều người trong bản bây giờ khắc tự đi bằng xe máy. Có con lợn, con gà, quả hồng, quả quít... không phải cho lên lưng ngựa thồ đi bán từ nửa đêm như ngày trước nữa. Nhiều thương lái dưới chợ huyện lên nhà hỏi mua. Nếu không bán cho họ thì cứ mang ra ngoài rìa đường bày bán cũng có người mua. Thuận tiện lắm.
Vẫn biết cuộc sống khá lên, thế nhưng bản Mạ không yên bình. Những con đường mòn trên núi, trong rừng bỗng rộng rênh mãi ra. Ô tô chở hàng kêu phành phành lên xuống đông như mùa cây rụng lá. Người lạ ở đâu đó già trẻ, trai gái kéo đến từng tốp, từng hàng đông lắm. Họ đến núi Phja Vài để đào đá, lấy quặng từ trong lòng núi chở đi. Người từ các bản trong vùng bỏ ruộng nương, nườm nượp vào khoét núi, cõng quặng thuê. Đi làm lấy tiền nhanh hơn trồng ra hạt thóc, bắp ngô. Cái bụng nhờ có tiền mà căng đẫy. Trẻ con các bản xung quanh núi Phja Vài mới hơn chục tuổi đã bỏ học chữ, mê mải theo chân người lớn kiếm tiền.
Ngày trước bản Mạ êm đềm, thanh bình, bây giờ bỗng trở nên huyên náo trong vòng xoáy của người, xe cộ. Bản trên cao mà bụi ngày một nhiều. Quầng bụi đỏ ối một vùng. Bụi bám vào lá rừng dày đến nỗi cành cây trĩu xuống. Đến mùa mưa lá cây mới được gột rửa, nước chảy xuống khe núi đỏ rực. Suối Nậm Ri chạy qua cổ con ngựa ngày trước đeo lục lạc màu trắng, bây giờ cũng bị nhuộm đỏ. Người bản mỗi khi ra đường về nhà là đầu tóc, quần áo phủ dày bụi. Cũng vì thế mà ngày nắng ráo cũng như khi mưa to hễ có việc ra đường đi xuống chợ, hay đến nhà đám ăn cỗ là khoác áo mưa.
Ta không biết ông chủ khai thác quặng là ai, nghe người bản kháo nhau, ông chủ áng chừng hơn ba mươi tuổi, đầu cạo trọc, cái bụng phưỡn về phía trước nặng nề như người đàn bà mang bầu sắp đến kỳ ở cữ. Nghe nói đây là cháu vợ của một vị chức sắc to lắm. Là nghe phong thanh thế, chứ thật giả ra sao cũng không nắm rõ. Người bản nói thế thì nghe thế. Ông chủ thoắt ẩn, thoắt hiện, thư thoảng lên trên này bằng chiếc xe ô tô đen nhoáng. Nó chỉ to bằng ba tảng đá mồ côi cộng lại, thế nhưng chạy nhanh hơn con chim bay. Việc cai quản, thuê người khoét quặng trong núi do khoảng hai chục người đàn ông, mặt mũi ai cũng bặm trợn, hùng hổ. Trong đám ấy, người có vết sẹo chạy từ đuôi mắt xuống cằm làm thủ lĩnh.
Quặng khai thác xong chở đi đâu thì không ai biết. Người ta đục núi lấy quặng để làm gì thì ai mà biết được. Cũng không biết ai cho phép họ vào cày xới rừng, khoét rỗng núi như thế. Người dân hỏi chủ tịch, bí thư xã thì bảo, ông chủ có giấy trên tỉnh, trên huyện cho phép rồi. Cái giấy phép ấy ai là người kiểm tra? Chịu thôi, không tò mò. Người bản là thế. Không phải việc của nhà mình hay của dòng tộc thì cũng không thắc mắc nhiều cho cái đầu nó nặng. Vả lại, từ khi mọc ra chỗ khai thác quặng thì dân quanh vùng có việc làm, kiếm tiền dễ như người ta nhắm mắt, mở mắt, thế nên cái miệng cứ thế ngậm lại.
Người bản không nghĩ nhưng cái đầu của người làm công an xã thì phải nghĩ nhiều. Địa bàn này giáp ranh các xã trên núi Phja Vài, cách nơi khai thác quặng vài trăm nhịp thở thôi. Từ ngày bổ bụng núi lôi quặng ra, đẻ ra nhiều chuyện phức tạp. Ngày trước người bản đi ra khỏi ngõ, nhà mở cửa không phải đóng. Trâu, bò thả vào rừng khắc lớn, đến chiều tối thì lùa đàn, con nọ nối đuôi con kia tự kéo về chuồng. Con gà, con lợn thả rông chật vườn. Nhà nào cũng có nhiều, chẳng ai lấy của hàng xóm mang về nhà mình.
Bây giờ nạn trộm cắp, cướp giật diễn ra thường xuyên. Chuyện mất trâu, bò, dê, gà... ở quanh vùng xảy ra như người ta ăn cơm. Đấy, vừa mới hôm trước lực lượng công an, dân quân xã phải tập trung trấn áp đám người dữ dằn, họ vì một vài bao quặng nhặt lại ở bãi đá thải mà chém nhau đến sứt đầu, mẻ trán. Người bản ở trong nhà của mình mà giật mình. Đêm ngủ chập chờn, không đẫy giấc, lo thằng trộm đến cướp miếng ăn của con cháu. Gà chưa lên chuồng đã phải cài then, khóa cổng... Mà canh chừng người gian thì khó lắm, mình ở chỗ sáng, còn nó ngồi chỗ tối rình mò.
Ôi dà! Nhiều chuyện lắm, toàn điều không hay, không muốn nhắc đến. Thế nên anh Sỉnh, Trưởng công an xã mới đề cử ta làm công an viên. Ừ, làm việc gì tốt cho dân bản thì làm. Ta nói với anh Sỉnh, em tham gia giữ an ninh thì thích rồi, chỉ hiềm một nỗi, cái mặt em nham nhở, nhăn nhúm dị dạng thế này, có ngại không? Anh Sính khoát tay, nói chắc như đinh đóng cột: "Mặt mũi em thế là do cứu rừng, vùng này ai mà không biết. Làm việc này phức tạp, đụng chạm nhiều. Cốt cái tâm sáng, nếp nghĩ tốt, người đi chắc, đứng thẳng...".
*
* *
Chiều ném bột tím vào rừng. Những sắc tím pha bụi đỏ mênh mang, phiêu diêu đậm dần, trải dài vô tận trong không gian tràn gió. Sương tí tách rơi. Bản trên cao là thế. Tiết trời vào đầu hè rồi nhưng nắng tới muộn, có nơi lá rừng chưa với được nắng mà bóng chiều lại đến rồi, sương cũng lũ lượt rủ nhau kéo về nhanh. Ngày ngắn mà đêm dài. Ta nhẩn nha, chậm dãi thong thả địu bó lá từ rừng về nhà. Năm nào trước ngày mùng năm, tháng năm như đã thành thông lệ, người bản không đi đào quặng thuê nữa mà nô nức vào rừng hái lá. Hái lá đủ cho nhà mình xong, hái hộ nhà người khác. Lá thì nhiều loại, dùng nhiều việc. Lá mát để đun nước uống sáng sớm cho mát mẻ, không mụn nhọt. Lá ngâm gạo nếp làm xôi ngũ sắc cúng tiên tổ... Riêng lá "Mạy ta lạng" nhà nào cũng phải leo lên núi lấy bằng được mang về, để từ tờ mờ sáng mùng năm, trước lúc mặt trời lên, cắm xuống nương ngô, ruộng lúa ngăn sâu bọ phá hoại.
Còn chừng hơn hai sải chân là ta trượt dốc rừng xuống đường. Tiếng ô tô gầm rú vang rền trời đất đập vào tai làm ta nhăn mặt. Đã cuối ngày mà ô tô bốn chân, sáu chân địu quặng vẫn đua nhau chạy ầm ầm trên đường núi. Bỗng tiếng rít "Ke...e..e...ke...é...t...két..." chói tai thảng thốt dội vào đá, rơi vào hoang vu...
Ta nhìn sững vào chiếc ô tô đen nhẫy, nó không to kềnh, không địu quặng, mà tựa con bọ giang khổng lồ thôi. Chẳng biết trong bụng nó có nhiều người không, thế nhưng sau tiếng rít, có ai đó đẩy người đàn bà từ trên xe xuống giữa đường, người ấy chưa kịp đứng dậy, nó lao vút đi như tên bắn.
Tích tắc bất thường ấy chưa qua nửa nhịp thở, cái mắt ta chưa kịp chớp, người đàn bà lồm cồm khom lưng đứng chưa vững thì từ phía sau, ô tô cõng quặng lao tới, hất người ấy ngã lăn ra... Âm thanh rú rít của ô tô nặng quặng gào lên hoang dại, rầm rầm lao nhanh xuống núi, để lại phía sau người đàn bà bất tỉnh, máu tuôn đầm đìa giữa đám bụi đỏ quạch trong trời chiều...
Bàng hoàng, thảng thốt. Ta cuống cuồng gọi anh Sỉnh mang xe máy, bế người đàn bà có cái bụng lùm lùm, máu me be bét xuống bệnh viện huyện... Người ấy là mé con. Mé con không giấy tờ tùy thân, chỉ có chiếc bộc vải, trong đó đôi vòng vía bằng bạc được bọc kỹ giữa mớ quần áo hỗn tạp cùng một nửa chiếc ảnh bị xé.
Mà đôi vòng vía ấy khác nhau đến lạ kỳ. Một chiếc vòng vía hình hoa mộc vương nhỏ nhắn, giản dị, đẹp thanh tao. Chín bông hoa dính kết cùng chín chiếc lá, tựa như đang tỏa ra hương thơm dìu dịu, quyến rũ.
Còn chiếc vòng vía thứ hai to hơn vòng vía bình thường. Trên mình nó là hai con rắn có mào, chụm đầu, thè lưỡi nâng hình mặt trời. Những đường nét chạm trổ tinh vi, cầu kỳ, khiến cho từng chiếc vảy trên mình hai con rắn nom rõ nét, như thể nó đang oằn mình trườn tới. Song, điều đáng sợ hơn đó là mắt đôi rắn này ánh lên tia giận dữ, quoái đản, rõ khiếp.
Không biết có phải do ông "phạ" thương mé con mà ngay sáng hôm sau, con đã cất tiếng khóc chào đời trong tiếng dao kéo rợn người cùng mùi thuốc ete nồng bay. Ngày hôm ấy là Tết Đoan Ngọ, mùng năm, tháng năm. Năm ấy, lần đầu ta không làm xôi ngũ sắc cúng tổ tiên, không đun lá mát, không cắm lá xuống ruộng... Ta ở trong bệnh viện chăm sóc hai mé con. Dường như, do duyên trời định, nên ta không mảy may suy nghĩ khi nhận với các bác sĩ bệnh viện ta là chồng của mé con, là cha của con.
Hai mé con con nằm viện ba tháng thì ta đón về nhà. Bác sĩ dặn dò kỹ, mé con bị ch?n thương não, giờ đã ổn, nhưng không được làm mé con suy nghĩ, lo lắng. Nếu sống trong môi trường vui vẻ, hạnh phúc ấm êm, sẽ biến chuyển tốt.
Ta không biết tại sao mé con không nói được, cũng không hiểu có phải do tai nạn gây ra hay là mé con không biết nói từ trước. Mười sáu mùa nắng mưa qua đi, mười sáu lần làm Tết Đoan ngọ, thế nhưng không một lần cái miệng mé con biết nói. Ta không biết mé con vui hay buồn, sướng hay khổ khi sống dưới mái nhà cùng ta. Cho đến bây giờ ta không phân định nổi, tình cảm ta dành cho mé con như thế có đúng không?
Làm sao đếm nổi những đêm ta thao thức ngồi tựa khung cửa trước buồng mé con nằm. Nghe rõ tiếng thở thao thiết của mé con nhưng ta không thể cất bước vào trong ấy. Vì sao ư? Vì ta tôn trọng sự lựa chọn của mé con. Cho dù mé con không nói ra, nhưng ánh mắt, cử chỉ của buổi sáng làm đầy tháng tuổi cho con đã nói rồi...
Sáng ngày Tết Đoan Ngọ năm con là đứa bé bảy tuổi. Cái tuổi mang vía lành của bé trai. Nắng vàng nhảy nhót trên tán lá rồi miên man chảy tràn khắp bản. Chim bách thanh hót ríu ran. Ta thắp hương trên ban thờ, xin tổ tiên đeo vòng vía của dòng tộc họ Lý cho con. Có lẽ khắp vùng núi Phja Vài này không người nào lại đeo ba chiếc vòng vía như thế. Con vừa ăn xôi ngũ sắc, vừa thích thú reo ầm lên vì có nhiều vòng bạc đẹp trên người. Tiếng cười rộn vang của con lan sang ta, sang mé con. Lần đầu ta thấy mé con cười.
Lúc ấy, bỗng nhiên cái miệng ta như có gió thổi. Ta nói nhiều, nhiều lắm, rằng ta thương hai mé con, rằng con đã là người họ Lý rồi, ta muốn bù đắp thiệt thòi cho hai người... Mé con nhẫn nại nghe, đến lúc ta cầm tay thì mé con rụt lại, gương mặt thoắt trắng bệch, miệng ú ớ muốn nói điều gì đó mà không thể nói được, mắt mé con ánh lên sự hoảng hốt. Bất ngờ, mé con vào buồng, lấy tấm ảnh xé đôi còn hình mé con, nhìn đăm đắm vào đó rồi òa khóc tức tưởi, con ôm chầm lấy mé khóc ré lên. Tiếng khóc của hai mé con như có trăm ngàn mũi tên nhọn bắn vào ta, cắt cứa, băm vằm vụn vỡ nếp nghĩ của ta... Từ đấy ta sống cùng hai mé con, chăm sóc con mà không than vãn, không ảo tưởng, không trách cứ...
*
* *
Thoắt đấy mà đã mười sáu năm. Bây giờ con học lớp mười một dưới trường nội trú huyện. Nhìn những tờ giấy khen dán trên vách gỗ, đủ nói lên con học giỏi đến nhường nào. Bước chân con phầm phập, rung chuyển cầu thang, tỏa ra sức vóc thằng trai khỏe khoắn. Không bao lâu nữa con sẽ như cánh chim bay đi xa, học cái hay, điều tốt. Giờ thì nỗi lo tụi người khai thác quặng thổ phỉ không còn nữa. Công an từ tỉnh xuống huyện, đến xã phối hợp với lực lượng chức năng giải tỏa khu vực khai thác quặng hơn chục năm nay rồi. Mỏ quặng trong bụng núi Phja Vài đã được ngủ yên.
Thế nhưng, vết sẹo trong ta vẫn bỏng rát. Ta canh cánh nỗi lo chưa tìm ra người đẩy mé con xuống đường. Người ấy có biết mé con không? Sao mé con lại ngồi trong chiếc xe sang trọng ấy? Còn người lái xe chở quặng cán mé con nữa... bây giờ họ ở đâu? Lương tâm họ có lúc nào đó cắn dứt không? Có phải mé con không biết nói từ trước, hay di chứng tai biến của tai nạn khiến mé con trở nên im lặng? Tấm ảnh xé đôi kia, người bí ẩn là ai?... những câu hỏi nhức buốt ấy xoáy tròn, cuộn lại rồi làm kén trong đầu ta... cho đến trưa nay.
Nắng nhuộm vàng núi rừng. Nắng kéo người lạ vào ngõ nhà ta. Bước chân lên cầu thang rón rén, nói lên cái chân quen đi đường bằng. Ta chưa kịp mời ngồi, thì người ấy bước tới, thả phịch thân hình phốp pháp xuống phản gỗ, cái miệng thở như bễ lò rèn, lúng túng:
- Chào công an xã.
Thoáng chút nhăn trán, nếp nghĩ trong đầu ta căng ra, rõ ràng người này chưa gặp bao giờ. Ta vừa chọn đỗ, vừa thủng thẳng:
- Ừ, uống nước đi, vừa pha đấy. Lên nhà ai chơi thế, còn đi xa không?
Cái đầu người lạ quay trước, ngó sau tựa như con sâu đo, rồi ậm ừ: - Lên trên xã này thôi.
Ta thăm dò: - Qua đây báo tạm trú à? Khách nhà ai đấy? Khách bản thì chủ nhà khắc báo mà.
Gương mặt đỏ au của khách thoáng ngẩn ra, bối rối. Người ấy ngập ngừng:
- Đến nhà công an xã nhờ một việc. Mong giúp cho...
- Có gì mà phải rào đón, cứ nói đi.
Người lạ thở dài thườn thượt, mặt thoáng biến sắc, tay người lạ run run, chìa ra nửa tấm ảnh bị xé. Trong nhịp thở gấp gáp, người ấy bảo, là lái xe cho người đàn ông trong ảnh, rằng người đàn ông này đang mắc bệnh ung thư di căn, mạng sống đếm từng ngày thôi. Ông ấy là chủ khu khai thác quặng trong núi Phja Vài ngày trước. Gia đình ông ta giàu có, nhưng bất hạnh. Hai người con trai của ông ta chết trong nghiện ngập. Ông ấy mong trước khi nhắm mắt, gặp người phụ nữ...
Ta sững sờ. Ngực ta thoắt đau nhức như thể ai đó đang cầm đá nhọn ghè vào.
Từ trong buồng, tiếng đập chân bành bạch liên tục dội ra, rồi tiếng khóc ai oán cất lên. Tiếng khóc như những vết dao liên hồi chém vào đá. Mé con khóc.
Miệng người lạ vẫn tuôn lời như thóc rơi vách máng.
Mé con cà nhắc thậm thịch nhào ra, một tay cầm cây gậy gỗ, tay kia nửa chiếc ảnh ố vàng, ném phịch xuống sàn nhà, mặt tím bầm giận dữ, cái miệng nhỏ nhắn liên tục há ra rồi ngậm vào... chừng mấy phút rồi đột nhiên, gào lên hoang dại:
- Ô...ô..ng...ông.. Th...ải... ông... đi ra... tôi kh...ông không...quen, ...khô...ông...không...không quen... đi...cút đi...
Người lạ hốt hoảng đứng phắt dậy, cái chân lùi dần...lùi dần rồi bổ nhào ra cổng trong tiếng nức nở, thổn thức của mé con.
*
* *
Đêm khuya. Những hạt sáng li ti từ vòng vía của con trai ngày thường bàng bạc, hai dòng xanh trắng lấp lánh như sao sa, bỗng nhiên đêm nay hồng rực lạ kỳ. Từng hạt, từng hạt như những cánh hoa hồng quấn quít, ôm ấp, loay xoay làm thành vòng tròn đỏ rực phiêu du, bay bổng. Và kìa, mé con đã ra ngoài từ bao giờ, dang tay tung hứng, loay xoay theo vũ điệu huyền diệu vòng vía, miệng mé con khe khẽ hát, gương mặt ngời ngợi trong tiếng gió ào ạt thổi.
Bùi Thị Như Lan
***
12- Người Dẫn Hôn Lễ
Truyyện Ngắn
Anh soi gương lần nữa để chỉnh lại chiếc nơ bướm trên cổ, trong gương phản chiếu một hình thể "bóng nhoáng". Chả hiểu chúng "nhoáng" từ đâu, bởi cặp kính trắng lóa, bởi mái tóc vuốt keo óng mượt hay bởi khuôn mặt lúc nào cũng trơn tru, nhẵn nhụi. Anh lấy mảnh giấy ra nhẩm lại lần nữa tên cô dâu chú rể, đây là việc cực kỳ cẩn thận, nếu nhầm lẫn giữa hai đám cưới buổi trưa và buổi tối thì có mà... mo!
Nhìn thiên hạ đi dự cưới sẽ đánh giá được tình hình phát triển của một Quốc gia. Càng ngày, người ta càng đầu tư nhiều vào áo quần, còn kiểu dáng cũng... thêm "cởi mở": Mấy đứa teen bắt chước phong cách các ngôi sao Hàn: diêm dúa và ẻo lả. Các "mợ" sồn sồn thường theo hai trường phái: Cổ truyền và Hiện đại. Nhưng đa số các "mợ" tự "design" nên coi kỳ kỳ: "Phái Cổ truyền" mặc những bộ áo dài nhung, gấm với đủ loại cườm, hoa văn rồng phượng dày đặc...trông hoành tráng và cổ kính như trong viện bảo tàng. "Phái tân thời" thì lại na ná như đang dự buổi lễ trao giải gì đó của... Hollywood: Các "mợ" thỏa sức để ngỏ cổ, ngỏ lưng, ngỏ ... vân vân ngỏ, mặc dù đôi khi cái sự ngỏ ấy lại... phản bội chủ nhân!
- Kính thưa quý vị, hôm nay, ngày lành tháng tốt , khách sạn chúng tôi được vinh dự tổ chức buổi lễ thành hôn cho đôi tân lang và tân nương...
Câu ấy anh nói nhuần nhuyễn về độ nhanh chậm, độ vang, độ dẻo đến mức làm mọi người liên tưởng đến cái máy ghi âm. Anh còn có một "chiêu độc" nữa: một bài thơ "ấn tượng" do chính anh "độc quyền sáng tác", và hiện nhiều kẻ đang "lăm le" muốn "vi phạm bản quyền":
Hôm nay đám cưới ...( tên cô dâu chú rể nào thì điền vào)
Gặp nhau như đôi chim nhỏ
Tung cánh bay bay trong gió
Xa xôi từ khắp miền quê
Duyên tình hẹn nhau hội ngộ
Kết tơ se chỉ hẹn thề
Đến ngày răng long đầu bạc
Cháu con tràn một giấc mơ...
Vỗ tay váng trời. Thời kinh tế thị trường buộc người ta phải nghĩ ra nhiều chi tiết cho một vấn đề với mục đích duy nhất là câu khách. Khách sạn này có chiêu " tắt đèn" tạo cảnh Thần tiên, xuất hiện các "thiên thần giáng thế" áo sống trắng toát, đôi cánh phất phơ, lù lù một đoàn, trên tay cầm ngọn nến dài nghều "đón đầu" cô dâu chú rể, dẫn từ cổng hoa lượn mấy vòng qua những "chặng đường" khúc khuỷu và "dừng bước" tại sân khấu. Người xem nếu "nhạy cảm" sẽ rất "hoang mang" trước khung cảnh "Thiên đường" tối mù kia với nến le lói và...rợn tóc gáy! Rồi lại một đoàn "nam thanh nữ tú" mặt mũi nom rất "kịch tính" rước từng tầng bánh kem to tướng... lừ lừ tiến vào, tiếp đến ... một tốp các trai trẻ ăn mặc trông na ná "lính Hoàng gia Ăng lê" chịu trách nhiệm "nắm tay dắt " các phụ huynh của cô dâu chú rể "đi đúng hướng". Mọi con mắt sẽ bắt đầu dồn vào "Đại gia đình hạnh phúc" khi họ được "dẫn giải" đến "đích" cuối là sân khấu.
Có trường hợp, bố chú rể dù đã chuẩn bị bài phát biểu trước cả tháng, nhưng do hồi hộp bởi sự "hoành tráng " của sân khấu với muôn đèn rực rỡ và phút im lặng theo dõi của gần một nghìn "khán giả hâm mộ" thế là ông... quên tịt và... lên cơn... đau bụng (!) Báo hại anh lại phải trổ tài "cứu nguy" để từng ấy khán giả đang ngặt nghẽo cười... ổn định lại trật tự !
Sau đó anh bắt đầu vai trò "đạo diễn" nhắc cô dâu chú rể "diễn" :
- Cười tươi tươi cho có vẻ tình cảm chút!
Anh nhắc khi thấy mặt chú rể cứ lạnh như băng, mặt cô dâu hằm hằm.
- Nắm tay cô dâu rồi cùng nhau cắt bánh chứ!
Anh lại nhắc. Đôi uyên ương mỉm cười, lia mũi dao vào cái bánh cưới đồ sộ gần chục tầng dầy cộp kem, hoa, trái ngất ngưởng như toà lâu đài. Rồi màn rót rượu tân hôn cho tháp li gồm mấy chục cái li xếp chồng chất và phải rót thật tỉ mẩn cho rượu len lỏi xuống từng li một...
- Rót chậm chậm thôi, vội gì?
Anh nhắc chú rể vì thấy anh này có vẻ sốt ruột.
- Thưa quý vị, để chứng minh cho tình yêu bất diệt của mình, chú rể sẽ trao cô dâu một nụ hôn... nồng cháy, xin quý vị tràng pháo tay động viên !"
Vốn đã quen hôn cô dâu ở những nơi "vắng và kín" giờ phải hôn "công minh chính đại", nhiều chú rể cứ lúng ta lúng túng còn cô dâu thì lo nhoè môi son, má hồng nên "đáp lại" cũng hững hờ... Thế là cái nụ "nồng cháy" ấy thường hoá ra "lạnh ngắt" !
Có đám cưới, vợ cũ của chú rể đến "quậy" bên ngoài và dọa vào "làm thịt" MC! (Vì họ cho là anh tiếp tay đắc lực) thế là anh còn phải phòng thân vài "đường quyền" nhỡ ra có gì thì... tự vệ! Có đám cưới, bố cô dâu "nhậu tới bến" rồi nổi máu mê... ca cải lương, sau khi đã "cầm " được micro, thế là "quyết không trả" cho MC, vừa "tự dẫn chương trình" rồi " mần " liên tục... ba bài vọng cổ lại toàn là chủ đề "phụ tình não nề "... khiến anh dở khóc, dở cười "xuống nước năn nỉ" mãi "thân phụ tân nương " mới chịu "nhường lại vị trí" !
Khi anh nói câu :
- Kính thưa quý vị, bây giờ là lúc chúng ta nâng cốc chia vui hạnh phúc cùng đôi bạn trẻ... Một-hai-ba zô!
Và thiên hạ bắt đầu cắm cúi vào " khai phá" món đầu tiên của buổi tiệc, công việc của anh mới đến hồi thảnh thơi chút chút... Anh ra chiếc ghế kín đáo gần sân khấu và ngồi xuống lặng lẽ...
Nhận phong bì thù lao, anh trở về căn phòng vắng vẻ. Nồi thịt cũ trên bếp đậy nắp không kín, kiến đang mở tiệc liên hoan. Chồng bát đĩa chưa rửa bắt đầu bốc mùi khó ngửi... Anh nằm vật ra giường, nơi góc chăn bỗng phảng phất mùi nước hoa dịu dàng, át mùi bát đĩa một lát... Anh nhớ lại đêm thứ Bảy, cô ca sĩ Hạ Huyền đã trốn chồng ghé nhà anh... Từ khi vợ anh bỏ đi, nhiều người phụ nữ đã nằm trên chiếc giường này rồi họ lần lượt về ...
Anh có học hát mấy năm nhưng "hình thể" của anh lại lấn lướt "tài năng", nói một cách khác là người ta "ưa nhìn" anh hơn là "ưa nghe" anh hát. Nên nếu hát "khuyến mãi" ở các phong trào văn nghệ "tự nguyện" thì rất nhiều fan hâm mộ nhưng kiếm sống bằng nghề hát thì gian nan vô cùng. Cát-sê mỗi bài thường "khiêm nhường" đến tận cùng, nhận xong mà rơi nước mắt nhưng anh vẫn cắn răng không dám tỏ thái độ với các ngôi sao đương thời có khi được trả gấp 100 lần. Tình cờ, anh trở thành MC cho một cuộc hôn lễ và anh thể hiện mình rất thành công trong trong vai trò này.
Vẻ ngoài bóng bẩy, đẹp trai của anh dễ dàng ăn điểm trong mắt phụ nữ, nhất là những phụ nữ "ưa hoàn hảo ". Họ dan díu cùng anh, lên giường với anh, thậm chí yêu đương rất day dứt... nhưng khi anh cầu hôn, họ bắt đầu ngắc nga ngắc ngứ... rồi họ có những cái cớ để "câu giờ": Nào là hoàn cảnh gia đình, công việc, thời gian... rất mù mờ khó hiểu...
Rồi anh cũng ngộ ra khi một ngày, anh đột ngột gặp người tình của mình: khuôn mặt nàng rạng ngời hạnh phúc, cong lưng, áp ngực ngồi sau chiếc @ láng coóng của tay chủ quán Phở... và anh chợt thấm thía điều giản đơn...
Chiều nay, ông Giám đốc Khách sạn Prince, khách sạn số một Thành phố gọi anh lên phòng riêng. Anh rón rén gõ cửa, đích thân Giám đốc ra mở và nhã nhặn mời anh ngồi xuống bộ sa-lông sang trọng. Ông còn tự tay rót ly trà thơm lựng, mỉm cười mời anh, rồi bảo:
- Thế này nhé, đám cưới chiều nay là của một Đại gia, tôi muốn tìm người dẫn chương trình hoàn hảo nên mời bằng được cậu.
Anh bối rối. Trong nghề, có quy ước ngầm là không đạp lên niêu cơm của nhau. Anh biết khách sạn Prince là nơi Ngọc Thúy, cô MC xinh đẹp đã dẫn đám cưới bao năm nay, nếu anh đột ngột nhảy vào như thế cũng khó nhìn nhau. Anh chần chừ:
- Thưa, Giám đốc báo cho em gấp quá, em lại nhận dẫn một đám cưới bên khách sạn Royal rồi... ở đây có cô Thúy đã quen...
- Không - Ông giám đốc khoát tay - Cô Thúy dẫn nghiêm trang quá, chú rể là một Đại gia Việt kiều nhưng ... - Ông trầm ngâm một chút và thầm thì thân mật - Hồi còn nhỏ ở Việt Nam, ông này bán kẹo kéo dạo, rất thích pha trò và hát những bài nhạc nhại... Tôi nghĩ rồi, chỉ có cậu là thạo món này thôi.
- Nhưng đám cưới mà pha trò... Còn nhiều thành phần tham dự nữa ...
- Cậu không nên bình luận nhiều quá. Khách mời là bạn của chủ nhân, họ sẽ phù hợp sở thích của nhau. Chú rể là người giàu có, ông ta có thể mua cả tôi. Tôi trả thù lao cho cậu gấp 10 lần. Cậu nhận không thì trả lời luôn!
Anh lí nhí nhận lời và vội vã ra về vì ngại chạm mặt Ngọc Thúy.
- Kính thưa quý vị, hôm nay, ngày lành tháng tốt, khách sạn chúng tôi được vinh dự tổ chức buổi lễ thành hôn cho đôi tân lang Tony Trần và tân nương Nguyễn Thị Lan...
Âm thanh quen quen. Tiếp đến, anh hào sảng ngâm bài thơ "độc quyền". Đèn phụt tắt. "Đám thiên thần" bắt đầu "dẫn dắt" cô dâu chú rể "vòng vèo" đến "Thiên đường" tối mù . Anh pha trò: "Chú rể có thể tranh thủ hôn cô dâu mà thiên thần không biết đâu!" Tiếng cười rộ lên. Đèn bật sáng. Anh nói :
- Xin mời quý vị hướng lên sân khấu để cùng chúc phúc cho Gia đình cô dâu chú rể ...
Bỗng anh ngắc ngứ vì nhận ra cô dâu... Lan ! Đúng là Lan ! Mới đầu anh chỉ nghĩ trùng tên... người vợ đã bỏ anh ra đi...Anh đưa mắt qua "tân lang", người đàn ông gấp đôi tuổi nàng, cao chưa đến mét rưỡi, khuôn mặt béo mập cùng cặp mắt ti hí, rồi anh ngắm lại khuôn mặt xinh đẹp của người vợ xưa... Lan nhìn anh mỉm cười... tự hào. Cô dâu chú rể bắt đầu cắt bánh, rót rượu và dàn nhạc trỗi lên khúc nhạc vui vẻ... Anh cầm micro và cất lên một bài hát vui nhộn :
Ngày ấy yêu em không làm sao biết tên
Nên anh cứ đợi chờ có dịp làm quen...
Tỏ tình nghe anh nói
Nói mà run quá đi thôi...
...Ngày cưới anh đưa em về bên bến mơ
Bao nhiêu gã đợi chờ thất vọng ngẩn ngơ...
Tự dưng câu chuyện 10 năm trước ùa về... Ngày anh yêu thầm Lan mỗi khi nàng tan học đi qua cổng nhà anh... rồi anh kiếm cớ làm quen, ngày họ yêu nhau vượt qua sự cấm đoán của gia đình vì bố mẹ Lan không chấp nhận nghề "xướng ca vô loài" của anh... Ngày cưới giản dị và vui tươi của họ... rồi ngày nàng không chịu nổi những gian nan của cuộc sống mà bỏ anh đi... Hôm nay, anh đang hát và làm trò vui cho đám cưới của nàng với gã đàn ông "mặt thịt" kia... Có gì đó nghẹn nơi cổ và cay cay nơi mí mắt. Giọng anh lạc đi và anh thấy mấy tay trong ban nhạc nhìn anh ngạc nhiên.
-Thưa quý vị, để chứng minh cho tình yêu bất diệt của mình, chú rể sẽ trao cô dâu một nụ hôn... nồng cháy, xin quý vị tràng pháo tay động viên !
Đây là phần "hấp dẫn nhất" trong chương trình, những tràng pháo tay động viên váng trời. Tay "mặt thịt, mắt híp " nghiêng đầu, kiễng chân đặt lên đôi môi chúm chím của Lan nụ hôn say mê, kiêu hãnh... Anh quay đi, bước nhanh từ sân khấu xuống, đi qua các dãy bàn tràn ngập bia rượu và thức ăn ngon, đi qua những bộ quần áo sặc sỡ, những bộ trang sức kệch cỡm cùng những nụ cười hể hả trên những khuôn mặt nung núc, bự phấn son.... Anh nghe có tiếng gọi sau lưng. Kệ, anh không quay lại. Viên quản lý khách sạn đã đuổi kịp anh :
- Cậu bị điên sao? Làm hỏng một hợp đồng hậu hĩ thế ?
- Xin lỗi. Tôi bỏ nghề từ hôm nay !
- Quay lại đi... chúng tôi biết chữa cháy thế nào - Viên quản lý rút ra tập tiền dày cộp đưa anh - Cậu nhận tạm, chúng tôi sẽ đưa thêm sau...
- Ông cất đi !
Anh quát lên rồi hạ giọng, cúi xuống nói trước sự sững sờ của viên quản lý :
- Ông gọi cô Ngọc Thúy và bảo tôi tặng toàn bộ tiền thù lao cho cô ấy. Chào ông !
Anh ngạc nhiên khi thấy Ngọc Thúy cũng đứng ở bãi gửi xe. Bước đến bên anh, nàng bảo :
- Em hiểu tất cả rồi anh ạ. Em cũng bỏ nghề. Anh chờ em đi với.
- Em...
Anh chỉ nói vậy và nàng nhẹ nhàng ngồi xuống sau chiếc xe cũ kỹ của anh. Xe lao vút đi...
Viên quản lý khách sạn đứng há hốc mồm một lúc rồi ôm đầu, chạy vội vào đám cưới đang náo loạn.
Vũ Thanh Hoa
***
11- Cọn Nước Đôi
1
Bùi Thị Như Lan
Tôi dựa lưng vào gốc cây kháo già bên bờ suối Nậm Le, lặng lẽ nhìn ngắm không biết chán hai cái cọn nước đang nhẫn nại vòng quay. Những tiếng "cót... két...ụp...xòa...xòa" mạnh mẽ của cọn nước đôi bay bổng, phiêu diêu như muốn lấn lướt âm thanh réo dắt muôn đời của tụi nước nhàn hạ nô đùa, chạy đuổi nhau dưới lòng suối Nậm Le. Tôi đứng từ lúc những hạt nước li ti trốn vào đám mây trôi bồng bềnh, chốc chốc bị gió lôi kéo, tung từng đám bụi trắng đậu trên đám hoa mí mèng, đến lúc những bụi nước ngày một dày thêm, có vẻ như nặng nề khi bấu víu trên lá cây, ngọn cỏ, cánh hoa thì tôi vẫn mải mê nhìn ngắm, mặc cho vai áo chàm ướt dượt. Tôi muốn con mắt xuyên qua cọn nước đôi, nhìn thật lâu vào vòng tròn chắc chắn được kết nối bằng những gióng tre ngà vàng rực, để rồi mỗi vòng quay, nước đan xen, xòe nở màu trắng tinh khôi, thanh tao làm nên hai đóa hoa nước sống động, hòa quyện giữa bạt ngàn bụi phấn mưa xuân mà mỗi năm một lần đúng hẹn lại trở về. Năm nào hai cái cọn nước cũng phô diễn vẻ đẹp rực rỡ vào độ xuân sang, bởi khi ấy hai bên bờ con suối Nậm Le, những bông hoa mí mèng hé mắt, khe khẽ xòe nở những cánh hoa màu hồng, tỏa hương thơm dìu dịu làm thành thảm hoa rực rỡ, rộng ngút ngát. Thảm hoa hòa quyện vào vòng quay nhịp nhàng của cọn nước lung linh, kỳ ảo, hoang sơ giữa núi rừng.
Năm nay trời ấm lên, vì thế mùa xuân đến sớm, còn gần tháng nữa cái tết mới về, nhưng gió xuân đã nhẹ nhàng, hây hây gọi mí mèng lác đác nở hoa. Tôi chẳng biết điều này nên vui hay buồn. Từ lâu rồi, tính đốt tay đã qua gần năm mùa xuân đến, xuân đi, cái mắt tôi nhìn đôi cọn nước, chứng kiến mí mèng hồng rực mà dày thêm nỗi buồn. Nhiều lần, tôi đứng bên bờ con suối Nậm Le này ao ước, giá như ở cuối con dốc Sun bờ bên kia, cái bóng cao lớn của anh Sấn hiện ra, dù chỉ một lần thôi cũng được, anh về rồi anh lại đi, đủ để nhìn thấy thằng Di lớn lên đến chừng nào, đôi mắt to sáng, cái đầu húi cua giống anh ra sao... thế nhưng mong mỏi của tôi luôn rơi vào khoảng không lặng lẽ. Nhiều lần thằng Di nhìn thấy tôi đứng ở đây, cái mắt nhìn mà như không, cái đầu miên man mải nghĩ hết chuyện này đến chuyện khác, không nghe thấy tiếng nó gọi ời ời, cho đến lúc nó cầm tay tôi kéo mạnh thì tôi mới quay về thực tại, lúc ấy đôi mắt trong veo của thằng Di đã mọng nước. Tôi vội ôm nó xuýt xoa, vỗ về, cù vào nách thằng bé cho nó cười ré lên...
*
* *
Nhà tôi có ba người. Mé, anh Sấn và tôi. Anh em tôi không biết tại sao nhà mình không có cha. Muốn hỏi mé nhưng sợ mé đau lòng nên thôi. Trong nhà thì mé vừa làm cha, vừa làm mẹ. Mé có sự quyết đoán của người đàn ông trụ cột trong nhà, nhưng lại là người đàn bà rất đỗi dịu dàng, hiền hậu. Cái miệng cười tươi trên khuôn mặt trái táo, cùng tấm lưng ong thon thả dấu trong lần áo chàm kia nói lên rằng ngày trước, mé là người đàn bà đẹp. Người trong họ, ngoài bản chưa thấy mé to tiếng với ai. Có điều lạ, mé làm mẹ nhưng chưa biết hơi ấm của người đàn ông. Mé cũng không nếm trải cái nhọc nhằn của người đàn bà mang nặng, đẻ đau. Đấy là mé nói thế với anh, em tôi vào cái ngày giỗ ông ngoại cách đây sáu mùa con nước đầy, con nước lại vơi. Chuyện hôm ấy, không biết anh Sấn thế nào, nhưng nó làm tôi lần đầu biết đến cái khó ngủ trong đêm. Tôi cố nhắm mắt nhưng lời ké Pàng, trưởng họ cùng với lời của mé cứ âm âm trong đầu.
Tháng chín. Tuy mới ngang chiều nhưng sương đã sà xuống mái nhà. Gió hun hút thổi mang theo cái lạnh se se. Người trong họ đến ăn giỗ ở nhà tôi, lục tục rủ nhau ra về từ lúc bóng nắng tròn dưới chân. Nhà còn có ba mé con tôi với Ké Pàng quây quần bên cái sập gỗ trước ban thờ. Từ dưới bờ suối, tiếng cọn nước đôi vọng lên giai điệu ngân nga mà thủ thỉ. Ké Pàng nhìn hai anh em, thủng thẳng bảo:
- Cái cây đứng vững là nhờ gốc rễ. Là con người phải biết tổ tiên mình là ai. Giờ thì chúng mày có cái chữ hơn nhiều đứa trong bản, hai anh em phải sống tốt với mé mày.
Mé cúi đầu, giọng mé nói như hụt hơi:
- Trưởng họ à, hay là... để cái giỗ sau cho chúng nó biết vẫn chưa muộn mà.
Ké Pàng lắc đầu nhẩn nha:
- Ây da! Cho chúng biết sớm thì tốt mà. Để trong bụng mãi thì nặng lắm. Sau này nó biết thì nó lại trách ta sao không nói sớm.
Hai anh em tôi hết nhìn mé, lại chăm chắm ngó sang ké Pàng không hiểu, không biết vì sao? Có chuyện gì mà mé không muốn nói thế? Tôi nghe rõ tiếng thở ngắt quãng, khó nhọc như cố nén điều gì đó của mé.
Ké Pàng nhẩn nha nói. Giọng ké trầm xuống.
Anh Sấn với tôi là con của hai gia đình khác nhau, được mé cưu mang, nuôi nấng. Sấn là con của một gia đình ở bản Pháy, cách đây mấy ngàn nhịp chân thả bộ. Cái chuyện bố mé đẻ của anh Sấn cho con trai ở với mé thì dài lắm, khó có thể kể ra. Chỉ biết rằng, cái ngày Sấn cất tiếng khóc chào đời, chưa kịp hé mắt nhìn ánh mặt trời thì thầy mo bấm ngày giờ sinh của anh bảo, tuổi của anh xung khắc với tuổi bố đẻ, sau này gia đình lụi bại, nuôi lợn chết lợn, nuôi trâu thì trâu bỏ đi. Người với của trong nhà cứ đội mũ, nón khắc đi thôi. Phải cho anh làm con nhà khác. Chuyện đến tai mé, cứ như ông "Phạ" xui giục, mé cuống lên, chạy đi tìm ké Pàng, nói với dòng họ Lý đón anh về làm con trong nhà. Ké Pàng bảo cái ngày anh về, họ Lý làm cơm cúng tổ tiên, ông bà. Trong mâm cúng có đĩa xôi bảy màu, bảy thứ quả hái trong rừng, bảy bông hoa đang nở chúm chím... nhiều thứ lắm, mỗi thứ đếm đủ đến con số bảy, đấy là tượng trưng cho bảy vía của anh. Chính ké Pàng đã đứng trước nhà thờ dòng họ mà khấn rằng:".... Ơi thần núi, thần rừng, ơi ông bà tổ tiên, về đây chứng dám cho dòng họ Lý từ hôm nay có thêm sinh linh bé bỏng, mong các vị thần linh, tổ tiên phù hộ cho nó hay ăn, mau lớn thành thằng trai cứng cáp, khỏe mạnh...". Hôm ấy mé lội xuống cạnh cọn nước đôi, múc chậu nước giữa nguồn, thả vào bảy giọt rượu nếp nương, rửa mặt cho Sấn. Khi mé rửa xong thì Sấn cất tiếng khóc to, người trong họ bảo cái tiếng khóc vang núi như thế, cho biết nó sẽ là chàng trai tốt. Sau ngày cho Sấn đi làm con mé, gia đình bố mé đẻ của Sấn đã chuyển nhà đi xa lắm, vào làm ăn sinh sống mãi trong Nam. Dường như họ ra đi là để chạy trốn...
Còn chuyện tôi về ở với mé, với anh thì như là định mệnh. Một buổi sáng mé xuống chợ huyện, vào cái lúc mặt trời bơi trên ngọn cây mác kham, thả những ngón tay vàng xuống, cũng là lúc chợ đông người lắm. Khi bán xong hai thạ đỗ tương, còn mấy chai mật ong rừng, có người phụ nữ trẻ, đẹp đến hỏi mua. Cứ nhìn cách ăn mặc cũng biết không phải người vùng núi. Trên tay người ấy ôm đứa trẻ con bé xíu đang ngủ. Mua xong mật ong người ấy nhờ mé bế đứa trẻ, dúi vào tay mé cái túi đựng nhiều đồ trẻ con, bảo với mé đi tìm mua cái túi to. Mé bế đứa trẻ bụ bẫm ngóng trông, đợi đón mãi mà không thấy người ấy quay lại. Mấy chai mật ong vẫn còn ở đấy, nhiều người hỏi mua mà mé bảo của người ta gửi. Mé hết nhìn ngược, lại nhìn xuôi, trong bụng nóng như có lửa đốt. Đến lúc chợ tan, người ta về hết, mé mới vội vàng cùng đứa bé ngược núi. Đứa bé ấy là tôi.
Nghe chuyện ké Pàng kể, anh Sấn mặt đỏ như uống rượu, anh mím môi bảo:
- Ké Pàng với mé à, con là người họ Lý, con không biết ai khác.
Còn tôi, tự nhiên thấy cái buồn tủi dâng lên tưng tức trong ngực. Mắt tôi cay xè, ứa nước.
Nhưng rồi cái chuyện buồn ấy cũng nhanh chạy theo gió. Ba mé con còn nhiều việc phải lo, không ai muốn nhớ đến cái chuyện không vui ấy. Cái gì không hay, không tốt thì cho qua đi. Mà cũng đừng trách người mang nặng, đẻ đau ra mình. Dù sao thì chuyện cũng đã xảy ra lâu rồi mà. Giờ thì chúng tôi chỉ biết có mé thôi.
Nghe người bản nói, cái lúc anh Sấn về ở với mé, thì mé là người con gái đếm gần ba chục mùa mưa, nắng. Không biết là do số phận hay do người trai hò hẹn đi bộ đội không trở về mà mé không gắn đời mình với ai. Tuy mé không nói, nhưng tôi biết, mé phải tần tảo, vất vả lắm mới nuôi hai anh em tôi thành người.
Đứng từ trên sàn nước đầu nhà tôi, ngước cái mắt về phía dãy núi Phja Leng, thấy dòng nước trắng màu bạc, ở đâu đó trong bụng núi, trào ra ngoài qua miệng hang to, rộng, ào ào tuôn xuống chân núi làm nên đầu nguồn suối Nậm Le. Tụi nước kéo nhau chạy đến bãi đá mẹ, đá con đầu bản Pẻn thì cọn nước đôi chặn lại bằng những bàn tay lực lưỡng làm từ cật tre ngà, vốc nước vào những cái máng vầu. Theo như người già trong bản thì đôi cọn nước này không có tuổi, đấy là vật báu của bản, nó có lâu lắm rồi, từ lúc các cụ tiên tổ lên vùng núi Phja Leng này khai khẩn, lập bản. Không biết bao nhiêu mùa mưa, nắng, từ hạ sang đông, từ xuân qua hè trôi đi, hai cọn nước vẫn miệt mài đứng giữa đầu nguồn con suối, đưa nước về bản gần, bản xa, đến từng nếp nhà sàn trong bản, đổ đầy biết bao cái "lìn" đựng nước. Dòng nước từ những cái máng vầu đá còn chảy vòng vèo ngược lên, nhảy xuống, bước sang lớp lớp thửa ruộng bậc thang, làm nên những ruộng lúa trĩu hạt, chắc bông, nương ngô xanh mướt trổ cờ...nuôi người bản cái chân đi vững, cái tay chắc khỏe, con người rắn rỏi. Đôi cọn nước này được người trong vùng gọi bằng cái tên cọn poò và cọn meè. Theo tiếng địa phương ở đây cọn poò là cọn đực và cọn meè là cọn cái. Cọn poò làm bằng những ống tre ngà tốt lấy từ cây tre đực, còn cọn meè làm bằng cây tre ngà cái. Nhìn vào đôi cọn nước này thì biết, cái cọn nước poò bao giờ cũng có những vòng quay chắc khỏe, từng gióng tre đực hất tung nước lên cao, mạnh mẽ mà dứt khoát, tạo nên âm thanh "ụp...xòa...ụp xòa" trầm hùng mà kiêu hãnh. Riêng cọn nước meè uyển chuyển như múa, mỗi khi vớt nước nó như nghiêng mình, soi bóng rồi mới từ từ, nhẹ nhàng đổ nước vào máng, tiếng "cót...két...ụp...xòa" thanh thoát, bay bổng như là tiếng reo mừng vui.
Mỗi khi cái đầu ngơi việc học chữ, cái tay không làm giúp mé việc nhà là hai anh em tôi lại ra bờ suối thỏa thuê ngụp lặn, vẫy vùng rồi thi nhau đếm vòng quay của cọn nước. Anh Sấn nói với tôi, cọn nước poò là anh, cọn nước meè là tôi. Thường thì những lúc ấy, tôi tròn mắt, nhỏ nhẹ bảo anh đừng có ví vật báu của bản với hai anh em, như thế không tốt đâu, nhỡ ra các thần linh phạt thì sau này sẽ khổ nhiều đấy. Anh Sấn cười vang núi, bảo ví như thế vì muốn hai anh em mãi ở bên nhau. Sau này tụi trẻ trong bản có nhiều chữ, sẽ cùng nhau đắp đập, chặn dòng nước, làm thành cái trạm phát ra ánh sáng giống như dưới phố huyện, rồi bản cũng có vô tuyến, có đài điện... Rồi nơi đây sẽ là khu du lịch sinh thái giống như trong sách cô giáo dạy, có nhiều người đến tham quan, đông vui nhiều đấy. Ôi da! Những việc ấy của anh Sấn sao mà xa thế? Tôi nghĩ anh hào hứng nên nghĩ ra đủ thứ chuyện viển vông, cái ngày ấy biết bao giờ đến?
***
Đêm. Sương rơi lộp độp trên mái nhà. Dưới suối tiếng cọn nước đôi đánh nhịp vọng lên, nó không hát vui như mọi hôm, mà cất lời tỉ tê, thủ thỉ, trầm đục, buồn buồn. Tụi nước chảy vào máng lớn, máng bé không réo rắt mà lặng lẽ, rầm rì. Bên cái bếp vuông đỏ lửa, mé bực mình lấy tay dúi mãi gốc củi to vào lòng bếp, cho tàn than đốm đỏ quấn quít cùng đám khói theo gió bay lên, tản mát khắp nhà. Mé nói mãi, nói nhiều. Những lời của mé sao xót xa, nghiệt ngã đến thế? Từng câu, từng lời có vị mặn mòi của mồ hôi, nước mắt, có nỗi nhọc nhằn, gian truân của người đàn bà vừa làm cha lại vừa làm mẹ. Nhưng biết mấy lời mé là tình yêu thương con đến thắt ruột, thắt gan.... Mé nói nhiều rồi mé khóc. Tiếng khóc của mé cứa vào thịt, vào da anh Sấn và Tôi. Mé khóc. tôi khóc. Anh Sấn cắn môi, miệng đắng ngắt, cái mắt sẫm lại. Ba người trong nhà từ sáng đến giờ chưa có cái gì lót bụng, nhưng cũng không thấy đói. Còn đâu bụng dạ mà ăn uống nữa, chuyện đã đến nước này thì cũng không ai nuốt nổi cơm mà ăn. Cái nồi cơm tôi đặt từ sáng sớm vẫn vần bên bếp, chốc chốc bén than tỏa ra mùi khen khét. Tôi rùng mình ớn lạnh, có cái gì đó nhộn nhạo trong bụng, ứ đầy lên cổ muốn trào ra ngoài. Tôi cố nuốt khan để ngăn nó lại. Khổ nỗi, mỗi khi mùi khét của cơm cháy thoảng bay là tôi lại sởn gai ốc...
Mé dằn giọng: - Hai đứa mày có chữ mà sao lại nghĩ tối như thế? Con người khác cái cây, con thú là biết nghĩ cái phải, cái hay. Giờ chúng mày muốn bôi nhọ vào người hay sao? – Sau phút ngưng lời mé thở dài: - Mà chúng mày nói đi, không dám cạy răng ra a?
2
Tôi sợ. Mắt nhìn mãi xuống sàn nhà dát gỗ, tôi cố thu người cho nhỏ lại trong dáng ngồi so ro. Tôi sao dám nói gì bây giờ? So với anh Sấn thì mé giành tình thương yêu cho tôi hơn. Có miếng ngon mé chia cho tôi nhiều, nếu tôi mắc lỗi thì mé cũng nói ít. Từ nhỏ tôi chưa biết cái đau của roi vọt quất vào người. Mé dạy tôi từ cái nết ăn, nết ngủ, đến dệt vải, nhuộm chàm, thêu thùa... Mé vẫn thường nói, là đàn bà, con gái thì phải khéo cái tay, giỏi cái làm, nếu không thì thành gái đoảng thôi. Thế mà bây giờ tôi nỡ làm mé đau lòng. Tôi mang lửa đốt bụng mé rồi.
Từ lúc nghe mé hết than vãn, lại trách mắng, cái miệng anh Sấn dính lại không thốt ra lời. Tuy thế, cái đầu anh không đổi nếp nghĩ. Nhìn vào khuôn mặt cương nghị của anh đủ nói lên rằng, cái việc anh thương yêu tôi thì làm gì có tội? Cho dù mé có nói những lời khó nghe, anh cũng cho là mình đúng. Khổ nỗi, ké Pàng trưởng họ thúc giục mé quá, ké bắt phải họp họ Lý. Mà đã họp họ là chuyện lớn rồi. Nghe mé nói còn hai hôm nữa là người trong họ kéo đến đây. Mỗi nhà một người thì đông lắm. Vùng núi Phja Leng này người họ Lý không nhiều bằng các họ khác, nhưng khi có việc trong họ thì người chủ trong từng nhà, dù có bận đến mấy cũng phải thu xếp mà đến. Đây là cái nếp có từ thời ông bà rồi, đời này sang đời khác cứ theo như thế. Mỗi năm thường niên họp họ một lần trong dịp cái tết về để nhớ là người trong họ, còn nhà ai có việc cưới xin, ma chay mới được xum vầy cùng nhau. Nhà nào xảy ra chuyện lớn thì họp họ để khuyên giải. Nghe nói lâu lắm rồi, trong họ không có chuyện trái chiều xảy ra làm họ hàng phải để mắt, lưu tâm. Bây giờ chuyện nhà tôi phải để họp họ là bị phạt nặng đấy. Phải bày ra cái ăn giống nhà có đám, có việc. Như thế thì khổ rồi. Có con bò, con lợn nào trong chuồng cũng phải thịt làm cỗ thôi. Biết thế, nhưng trong bụng anh chỉ có tôi thôi. Nghĩ sâu xa thì anh với tôi kết thành đôi cũng được mà, có làm sao đâu?
Đầu tôi nhức nhối, tai ù ù như có gió quẩn. Tôi nghe mé nói mà bụng đau nhói như có ai đó cầm nứa nhọn cứa cắt. Anh Sấn nhăn mãi cái trán lại, hai chân lông mày muốn dính vào nhau. Dường như anh đang cố vắt óc ra nghĩ cách nói để mé thương hai đứa. Anh vân vê xoáy hai bàn tay vào nhau, ngập ngừng:
- Mé à, tụi con có lỗi làm mé buồn bực, héo hon, nhưng... nhưng con thương em Liển. Không có em, con sống cũng như chết thôi. Tụi con có gì sai đâu mà dòng họ phạt nhà ta?
Mé bực mình, đứng bật dậy như dẫm vào lửa, chỉ tay vào anh bảo:
- Mày dám nói thế a? Mày muốn đi bằng cái chân hay muốn đi bằng đầu? Mày sắp được đi học làm bộ đội nhớn rồi sao nghĩ quẩn thế? Bao nhiêu đứa gái bản, mày ưng ai tao hỏi nó làm vợ cho mày. Còn cái Liển tao cấm!
Anh nài nỉ: - Mé, mé đừng thế, con chịu dòng họ phạt mà. Con mong mé gật đầu thôi.
Bỗng dưng, mé dậm chân thình thịch, sàn nhà rung bần bật, mé trợn mắt, quát to:
- Mày u mê, lú lẫn rồi. Mày ra khỏi nhà, đi cho khuất mắt tao. Tao không có thằng con như mày.
Tôi ôm chân mé, nước mắt đầm đìa:
- Mé! Con xin mé, mé đừng... mé đừng đuổi anh con. Tại con mà, tại con...
Mé cúi xuống, hất mạnh tay, gạt tôi ra, dằn giọng: - Còn con này nữa, cướp công tao, chúng mày là cú, là cáo cả rồi, đừng có gọi tao là mé nữa.
Nói xong, mé bậm bịch đi vào trong buồng. Đến vách ngăn bằng nứa, mé quay lại, bảo:
- Tao cho chúng mày suy ngẫm, đến lúc tụi "cáy cúm" nó gọi sáng thì cho tao biết cái điều chúng mày nghĩ. Nhớ là đi vào đường sáng, đừng lao xuống vực sâu mà khổ.
Càng về đêm, trời càng lạnh. Lửa trong bếp không đủ để sưởi ấm. Cái lạnh từ trong bụng người lan tỏa ra, ngọn lửa cháy to cũng không làm ấm lên được. Anh Sấn nhẹ nhàng ôm tôi. Người tôi run lên lẩy bẩy như cái hôm cách đây một mùa con trăng.
... Trưa tháng tám, nắng vàng tưới đẫm nương trên, nương dưới. Nắng miên man chạy từ trên núi xuống rừng. Tụi chim noộc thúa, từng cặp, từng đôi ríu rít cất lên bản hoan ca trên những vòm cây, chúng sà xuống vạt bắp, nhảy lên đầu hồi chòi canh, lách tách nhẩy nhót, ngó những cặp mắt đen lay láy nhìn tôi. Hai anh em tôi hái xong vạt bắp, xếp đầy mấy cái thạ mang vào chòi canh trên nương. Ui da! Tôi vừa bê cái thạ lên thì anh Sấn chạy tới, anh bảo để anh làm. Những cái thạ ngô nặng trĩu, thế mà anh nhấc lên nhẹ nhàng, loáng cái là xong. Anh cười hồ hởi:
- Việc nặng để anh nha, đừng có làm cố không tốt đâu.
Bỗng nhiên, anh ngẩn mặt nhìn tôi. Cái mắt anh lạ thế? Nó như có lửa.
Tôi đỏ mặt: - Anh à, mặt em có...có nhọ đúng không?
Anh lắc đầu, đôi bàn tay to chắc cầm lấy tay tôi: - Em là người đẹp nhất vùng này đấy Liển à.
Anh nói qua hơi thở gấp gáp:
- Anh muốn nổi xung khi thấy những thằng trai theo em.
Người tôi như có gió chạy vào, tôi rùng mình ớn lạnh. Thật ra, linh cảm của người con gái mách bảo tôi nhiều lắm. Những việc anh làm cũng vì tôi thôi. Mới cái tết tháng bảy vừa qua, hai anh em tôi xuống nhà ké Pàng, tụi trai bản Páy theo chân tôi, thả lời ong bướm bị anh chặn lại, không biết anh nói gì mà chúng nó tản ra, nhìn anh nem nép. Hôm nay, nghĩ đến chuyện ấy tôi thấy bụng cồn lên nỗi lo...
Đúng lúc tôi đang mải mê nghĩ thì từ trong bìa rừng, tiếng ầm ào nổi lên, mỗi lúc một gần, rồi gió rú rít, quăng quật, bẻ cành cây dẻ răng rắc, lá rụng rào rào. Anh Sấn căng con mắt nhìn lên, anh chỉ về phía trên nương cao, kêu thất thanh:
- Trăn gió!
Tôi hoảng hốt, run rẩy nhắm nghiền mắt lại vì sợ. Anh vơ vội những đám cỏ khô, mấy cành cây, nhen lửa. Khi ngọn lửa bén cành, anh kéo tay tôi, chạy nhanh vào chòi canh, đốt khói bếp bay lên. Cứ theo lời già bản thì đi rừng mà gặp con trăn gió nếu không mang theo lửa thì nguy lớn rồi. Trăn gió nó sợ mùi khói, sợ cái nóng rừng rực của lửa. Tiếng gió quăng mỗi lúc một gần, chòi canh rung bần bật. Tôi ôm chặt anh, mặt tái mét. Anh thầm thì:
- Nó đi ngay thôi, em đừng lo, có anh mà.
Anh ôm tôi trong vòng tay khỏe khoắn, nằm lăn ra sàn chòi canh, lấy những túm rơm nếp dành để bện chổi trong góc chòi phủ đầy hai người. Tôi nằm sát bên anh, mùi rơm nếp thơm nồng hòa trong mùi mồ hôi của anh làm tôi như ngấm thứ men say kỳ lạ. Nó làm tôi chếnh choáng. Tôi cố thu mình lại sao cho tôi có một chút khoảng cách với anh mà không thể. Trống ngực tôi đập từng nhịp, từng hồi như sắp vỡ. Tôi run lên, ấp úng nói với anh mà như tự răn mình:
- Anh! Mình là anh em mà.
Anh ôm tôi chặt hơn, ghì tôi vào vồng ngực khỏe mạnh, tràn căng của anh mà nói nhiều lắm. Anh bảo, tôi với anh không phải là anh em ruột. Rằng anh yêu tôi lâu lắm rồi, rằng tôi sẽ là vợ anh... Tai tôi ù đi, người tôi mềm như muốn tan chảy thành nước. Anh ghì chặt tôi. Hai thân thể bừng bừng sức sống như muốn hút vào nhau. Đôi môi nồng nàn, bỏng cháy của anh mơn man tìm bờ môi trái chín của tôi. Anh đam mê, khao khát và mãnh liệt. Không biết từ lúc nào, tôi với anh quấn vào nhau như dây mây bện xoắn. Anh đưa tôi phiêu diêu bay trong gió, rồi lại êm ái nhẹ lướt trên mặt đất bồng bềnh. Tôi mê đi trong vòng tay anh, cho đến lúc tiếng chim nháo nhác gọi chiều về, sương buông lành lạnh, chúng tôi mới giật mình tỉnh giấc. Và chúng tôi cũng không biết, con trăn gió ấy bỏ đi từ khi nào...
Đêm dần tan, trong buồng mé trằn trọc trở mình. Cái mắt mé dường như không nhắm nổi để gọi giấc ngủ về. Con "cáy cúm" đầu đàn trong bản đã cất tiếng gọi trời sắp rạng. Anh vuốt nhè nhẹ mái tóc tôi, lấy đôi môi lau nước mắt đầm đìa trên khuôn mặt buồn của tôi, anh dặn tôi phải thương mé, mé ngày một yếu không để mé làm việc nặng nữa, ở nhà tôi thay anh đối tốt với người trong bản. Anh bảo, tôi cố mà học xong cái chữ, còn một năm nữa thôi, rồi thi vào trường sư phạm, làm cô giáo dạy chữ cho tụi trẻ trên quê. Còn anh, các giấy tờ gọi nhập học, hồ sơ lo đầy đủ rồi, còn chờ đến ngày nhập trường nữa thôi. Học trong Trường Sĩ quan Lục quân 1 thì không phải lo gì cả, đã có quân đội lo cho rồi. Anh dặn đi, dặn lại rằng tôi phải đứng vững như cái cây trước gió to, cố đợi anh trở về. Anh thầm thì:
- Em à, anh phải ra đi thôi, anh đi là mọi chuyện êm mà, dòng họ nhà mình không đòi nộp phạt nữa.
Tôi lắc đầu quầy quậy mà không thốt lên lời, nước mắt tong tả đầy vơi.
Anh lấy cái áo chàm sờn vai, bạc màu của mé cùng cái khăn mặt của tôi treo ở trên dây phơi, ấn vào tay nải. Anh bảo để có hơi ấm của mé, của tôi, và cũng để anh vơi đi cái nhớ thương đang đè nặng trong người. Đeo cái nải vào vai, anh thở dài nặng trĩu:
- Bao giờ anh học làm bộ đội xong, mé hết buồn, dòng họ cho anh lấy em thì anh về.
Nói xong anh lướt nhẹ xuống cầu thang. Tôi cuống cuồng chạy theo anh mà không thể cất lên tiếng gọi. Bóng tối cùng hơi sương duềnh lên của trời đêm về sáng như nuốt trôi anh. Tôi chạy đến chỗ cọn nước đôi, nhoáng nhoàng lội ào xuống. Nước lạnh ngắt làm chân tôi tê cứng. Đá cuội trơn truội khiến tôi ngã dúi dụi, quần áo ướt sũng. Mặc, tôi phải chạy theo anh, để nói anh biết trong bụng tôi có gì đó đang hình thành và lớn dần lên. Anh đừng bỏ mé với tôi ở lại trong nếp nhà trống vắng mà đi biền biệt. Đôi chân trần ran rát của tôi mải miết chạy mãi, đến khi vấp vào hòn đá trên dốc Sun, ngã lăn ra triền hoa mí mèng tỏa mùi ngai ngái, thơm nồng, thì tôi không thể chạy nổi nữa. Tôi nằm gục xuống, úp mặt vào những cây mí mèng, tiếng thổn thức của tôi lẫn vào nhịp vòng quay của cọn nước mãi không thôi. Đến khi có tiếng khỏa nước của ai đó, tôi mới vùng dậy, ào qua suối. Trời ăm ắp sương mù. Mé đứng ở bậc đá chỗ cây kháo già nhìn tôi. Mắt mé đỏ như quả vả rừng trên khuôn mặt đầy âu lo. Mé thở dài, tiếng mé như lạc đi:
- Nó không thương tao, thương mày con ơi. Nó mang tro trấu đổ đầy nhà rồi.
Cái mắt mé trào nước. Tôi run lẩy bẩy. Mé cầm tay tôi:
- Về thay quần áo đi, cảm lạnh bây giờ.
Tôi bước về nhà mà cái chân trĩu nặng. Đầu tôi đầy ắp cái lo. Tôi phải nói với mé thế nào đây? Chuyện đã như thế này rồi làm sao dấu nổi mé? Liệu mé có tha thứ cho tôi, cho anh không? Mé và tôi sẽ nói thế nào với họ hàng, người bản khi cái bụng tôi ngày một to ra? Còn cái chữ nữa, tôi phải bỏ dở dang giữa chừng rồi. Biết làm sao bây giờ? Mé đã khổ, giờ tôi lại làm mé khổ thêm. Tôi lo mà không biết phải làm thế nào. Còn con tôi nữa, liệu cái ngày tôi sinh nó ra thì anh có biết lối mà về không? Nếu anh không về thì tôi sẽ đứng trước những cái khó, cái khổ của người làm mẹ. Thế thì cũng cố mà cắn răng chịu thôi. Nói ra không có ai thương mà người ta còn cười thêm.
*
* *
Nước suối trong vắt nhìn rõ tụi rong rêu đung đưa, nhún nhảy lẫn giữa bạt ngàn đá cuội trắng, cuội đen. Mà sao hôm nay tụi nước réo rắt mãi thế? Nó như muốn cùng cọn nước poò, cọn nước meè tấu lên giai điệu nhân nga, vời vợi. Mưa bụi ngày một dày lên, mây trắng từ trên núi, trong rừng sà xuống suối, quấn quít lấy tôi. Hương hoa mí mèng nồng nàn. Cái tụi hoa này đến lạ, càng về tối lại càng ngát hương. Ngày ấy anh Sấn thường nói, người tôi đẫm ướp hương thơm mí mèng. Tôi không biết anh nói có đúng không? Mới đấy mà đã mấy mùa mí mèng qua đi, anh không về. Cũng không biết vì sao nữa. Tôi muốn đi tìm anh, để nói với anh là anh đã làm cha, rằng thằng Di ngoan lắm, nó mới ăn được gần năm mùa lúa mà đã biết ghép vần, đọc chữ trong những quyển sách ngày xưa của anh với tôi học rồi. Nó luôn mồm hỏi sao cha đi đâu mà không về nhà? Tôi cũng muốn khoe với anh, năm trước, cho dù thằng Di còn bé, nhưng tôi đã thi xong Trường Trung học phổ thông, nghe lời anh thi đỗ vào Trường Cao đẳng sư phạm tỉnh rồi. Kết quả này, tôi xin được bảo lưu để sang năm thằng Di cứng cáp thêm, tôi sẽ xuống trường nhập học. Nhưng bây giờ tôi biết anh ở đâu mà tìm? Anh cũng lạ thật đấy. Cái chân đi là đi thẳng một mạch, anh không nhớ tôi không sao, nhưng anh không thể mang tiếng là người con không có hiếu thuận. Bao năm nay mé vẫn ngóng chờ anh đấy thôi. Mé không nói ra, nhưng mỗi khi thằng Di nghịch ngợm, mé mắng:
- Dà! Cái thằng này cái nết giống hệt cha mày.
Như thế đủ biết mé nhớ anh đến chừng nào rồi.
Mà tôi rất sợ, một ngày nào đấy, thằng Di nó biết anh bỏ đi từ lúc nó là một sinh linh bé bỏng trong bụng tôi, thằng bé sẽ buồn nhiều đấy. Tôi tủi thân vì cha mẹ bỏ rồi, giờ tôi không muốn con tôi lại gặp cái chuyện buồn ấy. Hằng đêm, tôi vẫn mong mỏi anh trở về. Bây giờ thì họ Lý cũng không bắt tội anh nữa. Ngày tôi sinh thằng Di, mé nộp phạt cho dòng họ và người bản hai con trâu, ba con lợn tạ rồi. Tôi bỗng thở dài day dứt...
Thằng Di đến bên bờ suối từ khi nào tôi cũng không biết, nó nhẫn nại vớt những viên đá cuội đủ hình thù đẹp mắt từ suối lên, xếp thành hình tròn. Nó chọn những viên đẹp nhất, ngắm nghía một lúc lâu và nói:
- Đây là đá bà, đá pò, đá mé và đá Di.
Thằng Di chợt đứng phắt dậy, chạy ào đến bên tôi, bàn tay bé xíu, ướt dượt của nó chỉ sang thảm hoa mí mèng. Tôi dụi mắt, ở giữa đám hoa, có ai đó không mặc quần áo chàm của người bản, mà mang bộ quân phục màu xanh, vai đeo cái ba lô to tướng đang ve vuốt những cánh hoa hồng rực. Trước mắt mé con tôi, dáng cao cao của người trai ấy nhòa trong vòng quay của cọn nước đôi, quấn quít cùng thảm hoa mí mèng, làm nên đóa hoa lung linh rực rỡ sắc màu. Bất chợt, từ trên vòm trời đầy mây trắng, từng bầy chim rừng nghiêng cánh, ríu rít rủ nhau bay về tổ trong bóng chiều chạng vạng.
Bùi Thị Như Lan
***
10 -Con Phố Nhỏ Quyến Rũ
Lê Lành
Cả kinh thành bao la nghìn năm này chỉ độc một con phố ấy không ngang bằng sổ ngay quy chuân phố xá đô thị văn minh mà lại uốn như rồng lượn khúc. Hơn nửa cây số, nó lượn theo đường sin hàm số bậc hai - đầu xiên lên đường Lê Duẩn tấp nập người và xe xuôi ngược tối ngày, đuôi hạ xuống vào phố Nguyễn Thái Học xô bồ, huyên náo ngày đêm xình xịch xe lửa vắt ngang . Nơi đây vốn là đường hào chân tường thành Thăng Long thời Nguyễn, từ cửa đông-nam sang cửa tây-nam.
Người Pháp trọng phép phong thủy của người bản xứ mà du di qui tắc qui hoạch khoa học ô vuông kỉ hà khoa học văn minh châu Âu. Song giữ nghiêm nguyên tắc qui hoạch đến đâu trồng cây đến đó. Nhờ thế, con đường không bề thế thênh thang như đại lộ Hoàng Diệu oai phong đâm ngang, cũng tăm tắp hàng cây xanh rì làm tươi xanh hai hè phố, khiến "Người ra đi đầu không ngoảnh lại. Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy " (Nguyễn Đình Thi), tôn nét yên ả những ngôi biệt thự xinh xắn không chọc lên thô kệch ống khói lò sưởi , nhưng thấp thoáng qua kẽ lá ô cửa sổ uốn vòm mềm mại kiến trúc Pháp miền nam ôn hòa hoa oải hương Provence .
Dạo trước, những đôi lứa lãng mạn chọn con phố nhỏ này làm nơi hẹn hò, lần bước thủ thỉ những lời ngọt ngào tình yêu . Con phố quyến rũ ở nét duyên thầm kín, thanh cao. Về khuya lại đằm hương hoa nhài, hoa sói, hoa lan... từ vườn cây bên trong các ngôi nhà im lìm kín cổng cao tường lan tỏa . Đôi khi còn được thả hồn phiêu lãng theo sóng nhạc dặt dìu từ ngón đàn ghi ta Hạ uy di diệu nghệ của tài hoa Đoàn Chuẩn
Giữa thập niên 50 thế kỷ trước, ca khúc Gửi ngươi em gái miền nam vừa mới viết chỉ đề tặng người tình "... tuổi chớm dâng hương, mắt nồng rộn ý yêu thương..." đã bị chính quyền cấm ngặt, Đoàn Chuẩn khí khái lẳng lặng ở ẩn, giam mình trong ngôi nhà tự chọn trên con phố êm ả này cho đến ngày xa lánh cõi đời, để lại dấu ấn tài hoa yêu nhạc, yêu người
Phải lòng cô ca si Saigon qua một lần tao ngộ, Đoàn Chẩn lẳng lặng đặt khoản tiền lớn cho một tiệm hoa trên đường Nguyễn Huệ để mỗi sáng cô ca sĩ mở cửa liền được trao tay bó hoa hồng thắm Giọng hát Mộc Lan được mến chuộng tài sắc thời ấy nào biêt người tặng hoa là ai, vì đâu, Với tâm hồn nhạy cảm nghệ sĩ, Mộc Lan dần quyến luyến với người ẩn danh và nôn nóng mỗi sớm mai được ôm bó hoa thơm ngây ngất vào lòng.
Suốt ba tháng trời, không thể dằn lòng được nữa, Mộc Lan ra tiệm hoa nhờ chuyển lá thư mong manh cho người ấy với lời cám ơn tha thiết và một chút ẩn ý ngọt ngào. Được lời cởi tấm lòng, ngay trong đêm, Đoàn Chuẩn ngây ngất thả hồn để sớm hôm sau ra bưu điện, gởi thư chuyển phát nhanh. Mộc Lan sững sờ trước nhưng khuông nhạc kẻ bằng tay , ca từ nắn nót "gửi bướm muôn màu tìm hoa, gửi thêm ánh trăng màu xanh, lá thư về đây với thu trần gian..." Ca khúc ấy do vua slow Đoàn Chuẩn ở Hanoi viết tặng cô ca si Sai gon. Ngay hôm sau, trên sân khấu Sài Gòn, Mộc Lan cất tiếng hát "Gửi gió cho mây ngàn bay" để thành giai điệu nằm lòng nhưng người yêu nhau... nhưng không thành.. Khi ấy, cả Đoàn Chuẩn và Mộc Lan đều đã yên bề gia thất.
Tốc độ đổi mới phi mã làm vỡ òa con phố nhỏ thanh bình, hướng tới sự phồn thịnh ồn ào . Đối nghịch với trầm tư mặc tưởng một thời nơi đây là lối sống mới gấp gáp, bạo liệt. Chen lấn các cơ ngơi bề thế, tôn nghiêm Bảo tàng mỹ thuật quốc gia, Văn phòng giáo dục - văn hóa Liên hợp quốc, Trường quốc tế tiếng Anh... cơ man nào là hàng quán, dịch vụ, môi giới...đủ hạng khang trang, kiểu cách, màu sắc lẫn tuềnh toàng, nhếch nhác. Không gian bị co lại, trật trội, tiều tụy, ô nhiễm... Chỉ riêng khách từ khắp nơi tới tấp đến rủa xe, bảo dưỡng máy, làm đỏm ô tô, xe máy cũng đã hơn nửa nghìn lượt người mỗi ngày. Không ít thực khách lẩu bình dân bực bội bị khước từ vì không còn bàn. Đôi khi lại còn ầm ỹ tiếng tru tréo của chị em phản bác phun màu mắt, hút mỡ bụng, trị mụn cóc...không như quảng cáo lẫn vào tiếng xập xinh xăm ba của nhà hàng đồ nướng liên doanh Việt - Ba Tây. Khiếp nhất mỗi khi dân anh chị sinh sự.
Ngày xưa, khi nhà Nguyễn rời đô vào Huế , tránh sỹ phu Thăng Long bất thần phục, đất kinh kỳ phong lưu, đài các liền xuống cấp , kẻ chợ, dân tứ chiếng nhập thành làm ăn sinh sôi , Bà huyện Thanh Quan tức cảnh đến ba bài tuyệt tác tiếc nuối "Thăng Long hoài cổ" : Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo. Nền cũ lâu đài bóng tịch dương. Nhưng, Thăng Long xưa, Hà Nội nay vẫn được xếp hạng tốp đầu những địa điểm hấp dẫn trên thế giới.Theo nhà xuất bản du lịch Frommer ở Mỹ , Hà Nội đậm nét châu Á , lại phát triển mạnh phong cách cổ điển Pháp.
Sức cuốn hút hấp dẫn của một đô thành, một con phố đâu chỉ ở cảnh vật do tạo hóa hay con người đắp lên mà còn ở bề dày quá khứ những ký ức, hoài niệm.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp năm 45, con phố này mang tên Cao Bá Quát lạ lẫm. Nguyễn Tuân chỉ dám ám chỉ trong truyện ngắn Chũ người tử tù là Huấn Cao, thế mà vẫn bị kiểm duyệt lên xuống, khiến một số câu, chữ đến này chưa được phục nguyên. Trong sách sử ký thưở trước ,Cao Bá Quát là giặc, bị chu di cả nhà, thơ phú bị cấm lưu hành. Trong dân gian, bị gán tiếng kiêu ngạo chiếm hai trong số bốn bồ chữ của cả thiên hạ, lại đam mê ả đào xướng ca vô loài. Thực ra Cao Bá Quát không những văn hay chữ tốt mà còn là thủ lĩnh khởi nghĩa chống cường quyền. Đúng chí khí, nhân cách sỹ phu Thăng Long : " Mười năm giao thiệp tìm gươm báu. Một đời chỉ cúi trước hoa mai " Trên hết, Cao Bá Quát vừa làm thơ, vừa cầm trống chầu, đưa ca trù thăng hoa thành di sản văn hóa đặc sắc thế giới hôm nay.
Người đặt tên phố ấy, đốc lý Hà nội đầu tiên người Việt, bác sỹ Trần Văn Lai không chỉ đức độ - mở phòng mạch không lấy tiền người bệnh nghèo , làm quan đầu tỉnh vẫn ở nhà riêng trong ngõ Tức Mạc, sát ga Hàng Cỏ... mà còn thâm nho. Trước khi gắn biên tên phố mới đặt, đốc lí Trần Văn Lai vào Văn miếu, bên này đường, đôi diện với chân con phố được đổi tên , dâng hương, đánh trống, dóng chuông, khấn vái, thỉnh Cao Bá Quát về ngự trị với dân chúng Hà nội ngàn năm văn vật.
Thật tiếc, nặng lễ giáo và quá khích, ông đốc lí Trần Văn Lai trực tiếp ra lệnh hạ ngay tượng Bà đầm xòe ở vườn hoa Cửa Nam, đầu đường Nguyễn Thái Học, để xóa nhanh dấu tích thực dân. Mà không hay nôm na tượng Bà đầm xòe ấy là một trong hai phiên bản tượng Nữ thần tự do người Pháp tặng người Mĩ thực hiện lý tưởng của C.L Montesquieu, F-M Voltaire J.J.Rousseau :. Tự do - Bình đẳng - Bác ái, trên đất thuộc địa Anh. Nhưng không thể nào khác.
Thế kỉ trước, nặng " Mối tình lớn, mối tình con " , Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu đã ngao ngán : " Dân hai lăm triệu không người lớn. Nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con " Mà nay, trong bài thơ tự tình " Đất nước mình ngộ quá phải không anh " Trần Thi Lam, sinh năm 1973, dạy văn chương bậc tú tài, cũng tỉnh ra vì đâu Hà Tình mình chết biển " Những con thuyền nằm nhớ sóng khơi xa " vì buộc phải chấp nhận để người ta làm " sắt thép " thay vì " chọn con cá, con tôm " đắp điếm cuộc sống hằng ngày : " Nước bốn nghìn tuổi dân không chịu lớn "
Lê Lành
***
9 - Phóng Sinh
Xuân Sương
Mình vốn rất ghét chuyện phóng sinh. Nhiều phóng sự đã viết về đề tài này, thấy hình đám chim bị nhốt mỏi mệt lừ đừ sắp chết, có con chỉ còn lơ thơ lông cánh, xót lắm. Nghe nói phóng ra, chim bay không nổi, người bán lại bắt về bán tiếp. Thành ra phóng sinh mà thành hành hạ chúng. Lại có lần nhân dịp lễ gì gì hay đầu năm, truyền hình chiếu cảnh hai ông to diện bộ áo dài khăn đóng bằng gấm đỏ có chữ thọ tròn vo tổ bố, khiêng cái thùng có con cá ghi cá chép gì đó, đổ xuống hồ Tây, đám đông bộ hạ xun xoe chung quanh vỗ tay chẳng khác banh sút vào lưới đối phương. Thấy hoàn toàn trình diễn, đóng tuồng. Mệt quá. Càng ghét cái vụ phóng sinh.
Ấy nhưng nghe cô làm tóc ca tụng nhuần nhuyễn sự kỳ diệu của phóng sinh, mà chẳng nói gì chi tiết. Còn đề nghị chở đến Tịnh xá nơi cô thực hành nghi thức này. Thì đi, hơi xa thành phố, vòng vèo nhiều con đường. Tịnh xá nho nhỏ hai hàng dừa thẳng tắp cao vút trên lối vào từ cổng, bên dưới ảng nước thả bèo xen kẻ ghế đá công viên. Nhiều cây xoài đang mùa, cây sa kê trái chưa chín tới, chớ chín rồi thì chiên ngon phải biết (miệng ăn mắm ăn muối, nhìn gì gì cũng nghĩ đến cái soong cái chảo). Phía sau là con sông rộng nước ngầu ngầu, nơi lát nữa sẽ đón chào đoàn sinh vật được may mắn kéo dài tuổi thọ. Hai bên bờ nhà cửa cây vườn sum suê mát mẻ trông thật thanh bình. Vài ba chiếc thuyền nho nhỏ neo bên mép nước. Nhà Phật cứ ta dại ta tìm nơi vắng vẻ, chớ dại kiểu "nhà sàn bác Hồ" này không phải ai cũng được dại.
Trước đó cổ đi mua cá, nhìn mình khích lệ, thì mua. Nhưng chẳng biết đọc kinh Phật nên cổ bảo vái tên tuổi rồi muốn cầu xin gì thì nói. Tên tuổi thì dễ, từ nhỏ đã thuộc làu làu, nhưng cái mục cầu xin chuyện gì thì chưa chuẩn bị.
Cầu xin gì bây giờ? Cái gì cũng đã ở phía sau rồi, và đói có rau đau có thuốc rồi, thì cầu xin gì đây. Chợt nhớ 2 chiếc máy bay SU và CASA mới rớt với 10 quân nhân tử nạn trên biển Đông, mà theo những kẻ xấu miệng thì là kẻ lạ chơi khăm Việt Nam. Nghĩ sợ chiến tranh quá, bèn van vái đừng đánh nhau cho dân Việt Nam đỡ khổ. Rồi hoan hỉ mở miệng bao ny lông đổ ra, đàn cá tung tăng bơi đi, uốn éo như nhảy đầm, chúng nó khỏe mạnh, mang theo thông điệp cầu nguyện hòa bình.
Xong xuôi ra ngồi ghế đá, cổ kể các sự nhiệm mầu bản thân từng trải nghiệm. Nhiệm mầu thiệt. Nhưng các nhà khoa học sẽ trố mắt ngạc nhiên tại sao mẹ cổ bán ốc luộc, khi đau ốm thì lưỡi le ra, mà cổ lại cho là quả báo? Bèn đi mua ốc, tháng 2 kỳ, đem ra sông phóng sinh. Đâu ba lần, một hôm tình cờ có anh chạy xe ngang qua, A Di Đà Phật, chị ơi chị hoan hỷ cho em góp ý nghen. Ốc nó sống ở đồng ruộng mà chị bỏ xuống sông thì nó chết hết. Chú bèn dẫn tới chỗ ngoại ô xa hơn, có ruộng. - Chị ở đây em đi xem tình hình cái đã. - Ủa chớ anh ơi, đi phóng sinh gì mà giống đi ăn trộm vậy, phải xem tình hình? - Chẳng là chị ơi, ruộng lúa mà thả ốc xuống nó ăn lúa của người ta, họ thấy là chửi chết.
Rắc rối. Có nơi biết thiên hạ phóng sinh thì bên dưới đã có lưới dọc lưới ngang đón tiếp rồi. Từ đó nghe lời chú, cổ tới Tịnh xá này phóng sinh, mua cá trê loại còn nhỏ cho nhiều, thay vì vào nồi canh chua ngay thì chúng vẫy vùng thêm được vài ba tháng nữa. Lại lặn hụp trong cuộc nước đầy rẫy khổ đế chớ ích gì. Nhưng tâm cổ an lành, với các lời niệm cầu bài bản có pho có phách không nhớ nổi, Nhờ vậy mới có kết quả nghe cô. Từ đó mẹ con hết vặn vẹo, hết le lưỡi như ốc. Mầu nhiệm ghê chưa cô, vì tất cả những gì con làm đều xin hồi hướng cho mẹ con… Bắt tức cười, vậy mà mình chỉ mới phóng lần đầu tiên 120-125 con cá trê (nếu đúng theo lời bà bán), mà lại xin cho cả dân tộc bớt khổ, thì mỗi con vui vẻ lướt mình trong nước phải có bổn phận cõng suýt 700.000 mạng người tránh đạn! Chúng nó mà biết vậy thì sẽ lắc đầu chui ngược vào bị, thôi cho tui vào nồi canh chua cho khỏe.
Phúc cho những kẻ nào không thấy mà tin. Một lần cô kia cực kỳ ngoan đạo nhất định muốn mình đọc quyển Kinh mỏng, bìa sau có vẽ hình Chúa trắng đen với lời dặn nhìn chăm chú vào đó một lát rồi nhìn lên tường. Thế là ai cũng gặp Chúa hiển hình, sinh động. Cô này có con em coi chồng không bằng cái núm vung, khi làm theo lời dặn thì thấy rõ ràng Chúa đang lung linh bước đến, còn mim mỉm cười nữa mới kinh, mặc dù hình vẽ Chúa không có miệng. Sợ quá, bèn từ đấy cải tà quy chánh, thành vợ hiền dâu thảo. Niềm tin cao độ vậy quả là tốt, ai ai cũng như bụt và cuộc đời sẽ thuận hòa, an lạc. Xét thế này chứng tỏ là dân VN bây giờ "vô phúc" lắm, vì họ chẳng còn tin vào cái gì nữa cả!
Chả bù một lần dịp lễ Phục Sinh, khi Cha xướng lên đại khái Có tin là Chúa toàn năng không. Có. Có tin là Chúa sẽ làm sống lại thế gian không. Không. Tiếng Không chìm nghĩm giữa 400-500 tiếng Có, nên mình còn nguyên vẹn tứ chi sau buổi lễ. Mà thiệt tình, nếu Chúa đứng trước mặt bảo Thầy sắp làm phép cho thế gian của anh em sống dậy đây, thì mình sẽ khẩn khoản cầu xin Chúa đừng. Bởi nạn nhân mãn chưa đủ khổ sao Chúa ơi, còn tạo ra rắc rối gia đình cha mẹ sống lại mà trẻ hơn con cái! Chỉ cần trong hơn 90 triệu sinh linh đang thở đây, Chúa làm phép lạ để trên biết yêu nước thương dân cho dưới an cư lạc nghiệp là đủ rồi.
Cứ gì phóng sinh. Và dù không có mẹ đang ốm đau le lưỡi hay gì gì, ở cuộc đời rẫy đầy cái ác này, cứ dang tay ra, giúp con cá con chim trong cơn hoạn nạn cũng là một cách tạ ơn Trời mình được còn khỏe mạnh. (Nhưng lạy Chúa, thấy con gián nằm ngửa con cứ lờ đi, để nó tự chết, tòa chỉ phạt con "không cứu gián trong cơn nguy khốn" thôi, Chúa ạ).
Xuân Sương
***
8 - Tuổi Dại
Hai Hùng
Ngày nào cũng vậy, tan học về khi tắm rửa cơm nước xong, tôi thả bộ đến xóm trên để ráp lại với lủ trẻ nơi này bày trò mghijch ngợm, cái khoảnh sân nhà ông Sáu là nơi lý tưởng để cả đám nô đùa, vì nơi đây nó rợp bóng mát bởi tàn của những cây Vú sữa được trồng khá gần nhau, ở đây được bày nhiều trò chơi do thằng Cảnh cầm đầu, nào là chơi ăn ô quan, chơi trò trốn tìm, đánh bông vụ ( con quay), bắn bi, đá cầu, dá dế . v.v... Nhưng cái trò đám con trai hồi đó thích nhất là chơi u và chơi Rồng rắn lên mây, sở dĩ cái đám " Đực rựa" mê trò này vì có dịp để nắm tay mắm chân thậm chí ôm eo ếch các cô nàng trong xóm mà không bị xem là "Dê xồm" , vì trò này bắt buộc phải có những động tác như vậy mới thành trò chơi, cũng thành thật mà nói mấy cô nàng ngày xưa tuy to xác mà trong tâm hồn thật hồn nhiên vô tư trong các trò chơi, thậm chí các nàng khi nắm tay nắm chân hoặc ôm eo ếch thì giữ thật chặt, vì các nàng ta sợ nắm hoặc ôm lỏng lẻo sẽ bị vuột ra thì sẽ thua phía bên kia khiến cho đám con trai ngượng ngùng, đám con trai tuy tinh ranh phá phách kèm theo chút tò mò nên có thằng trong bọn biết thằng này ,thằng kia có lúc làm bộ quá trớn té vào các nàng để có điều kiện khám phá cái cảm giác thơm ngất ngây mùi bồ kết trên mái tóc dài của các nàng, cái hương thơm toát ra từ làn da mái tóc của các cô nàng làm cho cả bọn khoái chơi cái trò "Chung đụng" này là vậy.
* * *
Từ lúc có thêm vài ba gia đình dọn về cư ngụ trong xóm, cả nhóm chúng tôi thầm mừng bởi lẽ từ đây sẽ có thêm vài ba đứa trong số gia đình này nhập bọn để cùng đi học cùng chơi với mọi người , trong số họ có gia đình của cô Hai chạy nạn chiến cuộc từ một tỉnh miền núi về đây, tôi công nhận cô Hai là một người thật giỏi giang, một thân một mình mà cô lo cho cả bầy con sáu đứa an học đến nơi đến chốn, Mai con gái lớn của cô Hai nàng cũng giỏi giang không kém mẹ, thấy mẹ nhà đơn chiếc bởi cha của mình tử trận nơi chiến trường ví như căn nhà mất đi trụ cột có thể xiêu vẹo và sụp đổ lúc nào không hay, ý thức của đứa con gái đầu lòng , Mai vùa đi học vừa làm thật chăm chỉ khiến đứa nào trong nhóm cũng phải kính nể, và điều làm cho cả đám con trai thật sự kính nể là nàng Mai nhà ta học rất giỏi vì lúc nào bảng vinh dự trong lớp nàng ta đều nằm ở ngôi vị "Bá chủ võ lâm" thử hỏi làm sao chúng tôi không phục...
Mai về ở cũng gần cả tháng, tôi cố lân la làm quen mãi nhưng chưa có dịp thuận tiện, vì khi đi học về cô nàng ôm cái cặp trước ngực, nàng đi thật nhanh về nhà , từ xa xa tôi nhìn đôi tà áo dài trắng của nàng phất phới bay trong gió , tôi liên tưởng nàng như cánh bướm trắng vờn bay, biết được trong lòng tôi đang cố đeo đuổi làm quen với Mai, thằng Cảnh bạn tôi nó bèn này tôi một " Chiêu thức" để lấy tình cảm với Mai, tôi thấy cũng hợp lý bà hợp với hoàn cảnh thời bấy giờ nên tôi nghe theo lời thằng "Quân sư" , nhưng tôi cũng làm bộ nói như không quan tâm lắm đến chuyện này để thằng Cảnh nó không có cớ ghẹo tôi sau này, tôi nói với nó :
- Ái chà , ông bày cách này tui thấy cũng có lý à nghe, nhưng ....
Tôi chưa kịp bày tỏ hết sự e ngại thì bị thằng Cảnh nói chặn họng tôi liền:
- Ông này ngộ ghê, cái vụ này tui áp dụng rồi, lúc trước mần quen với nhỏ Thúy tui áp dụng y chang kiểu này nè
Nóng ruột muốn biết kết quả ra sao, tôi bèn cướp lời nó:
- Vậy là em Thúy quen với ông bằng cách này đó hả, chắc ăn không ông, ông xúi dại , nàng Mai mà lắc đầu thì có nước tui độn thổ nghe ông .
Thằng Cảnh nó lườm tôi bằng cặp mắt " mang hình viên đạn" , nó nói:
- Thôi , nếu ông ngại thì thôi đi, ông muốn làm quen kiểu nào thì tự lo, coi như tui chưa nói gì hết nhe.
Bết cái tánh hờn mát của thằng quỷ này lớn hơn cái tuổi của nó nhiều, chơi với nhau hàng ngày ai nói gì không vừa ý nó hay làm mặt giận, tôi bèn nói :
- Nói vậy thôi, cảm ơn ông không hết chứ có gì đâu mà nghi ngại, ngày mai tui áp dụng liền :
( Thằng Cảnh nó bày kế cho tôi, mua một phong bánh in nhân đậu xanh ở tiệm tạp hóa của cô Ba bán trong xóm, gói ghém cẩn thận rồi viết vài dòng chữ kèm theo bảo đảm nàng Mai sẽ nhận lời làm quen,vì đâu có cô gái nào mà không hảo ngọt).
Vài ngày sau, tôi chắt mót được một ít từ số tiền tôi được ba má cho đi học mỗi ngày, vậy là dư sức mua một phong bánh in và có thể mua được thêm cái kẹp tóc màu hồng có con Bướm trang trí bên trên, chưa có mua quà cho nàng mà tôi đã thấy vui sướng lâng lâng trong lòng rồi, khi mua xong phong bánh in và cây kẹp tóc, lúc này tôi mới lúng túng không biết trao cho Mai bằng cách nào, lúc này tôi mới thấy mình lơ đễnh không hỏi kỹ càng cách thức trao cho Mai bằng cách nào, chặn đường đưa tận tay thì thú thật tôi không có thừa can đảm để thực hiện, mà nhờ trung gian thì không nên vì sẽ " Lộ bí mật", suy đi nghĩ lại chỉ còn một cách tự mình thực hiện ...
Tôi canh giờ nàng học bài xong Mai sẽ ra sau nhà để lo cơm nước cho gia đình, chắc chắn phía nhà trên chẳng còn ai, tôi rón rén đến bên cửa sổ , may là cửa sổ nàng không đóng tôi nhìn vào bên trong , giật mình vì có thằng Bình em nàng nó đang nhìn tôi , thời may Bình lúc này còn nhỏ và nói chuyện chưa rành nên tôi cũng tạm yên tâm, tôi có nhoẻn miệng cười với Bình cho nó đừng sợ hãi khóc thét lên bất tử, lại thêm một cái may nữa thằng Bình nó cười với tôi, cười với một kẻ lạ hoắc,.. Tôi đặt phong bánh in và cây kẹp tóc cùng một lá thư ngắn bày tỏ ý muốn làm quen, tim tôi lúc này nó đạp thình thịch trong lòng ngực vì hồi hộp , lúc này mà Mai xuất hiện bất chợt chắc tôi sẽ vỡ tim mà chết vì sợ sệt. Cố nén lòng tôi đưa tay ra hiệu chào từ giả thằng Bình rồi cười với nó lần nữa và Bình cũng cười với tôi khiến tôi thấy vui vui trong lòng vì đã làm trót lọt mưu tính của riêng mình ...
Hôm sau nàng đi học về , vẫn tha thước trong tà áo trắng học trò, tôi đạp xe đến gần Mai và cố tình đạp thật chậm , tôi nín thở và tưởng tượng sẽ nghe được tiếng gọi tên mình thốt ra từ cửa miệng của nàng, thời gian trôi thật chậm tôi cố đợi chờ, chừng nghe tiếng của thím xẩm đang gánh cái gánh chè la lên tôi mới hoàn hồn :
- Cái thằng nhỏ này, chạy xe "li lâu", để con mắt lên trời hả, may thôi "lụng" tui té xỉu rồi "ló" .
Tôi lật đật nói lời xin lỗi thím rồi nhấn " pê đan" vọt thẳng về nhà trông thật bẽ bàng, chừng tỉnh táo lại tôi tự đặt câu hỏi , bánh và thư có tới tay nàng không? Nếu tới tay nàng rồi, bánh in đã ăn rồi sao không trả lời thư hoặc nói lời gì với tôi cho phải phép, nàng làm thinh có nghĩa là có thể nàng không thích tôi nên cố tình làm lơ, hoặc có thể món quà không đến tay của màng, nếu thất lạc thì quà đó ai đã cưỡm mất rồi, tôi bèn nghĩ ra cái kế để kiểm tra lại thật sự món quà ở đâu , nàng có sử dụng rồi mà làm lơ với tôi chăng, nghĩ là thực hiện ngay , tôi nóng ruột muốn tìm ra đáp số cho " bài toán" này, chờ đến trưa khi mọi nhà đều nghỉ trưa, tôi đến nhà nàng, tôi chạy ngay đến thùng rác để bên hông nhà , tôi dùng cái que nhỏ lục tung cái thùng rác ra xem coi có cái chứng tích gì của phong bánh in hoặc tờ giấy gói quà thì sẽ hiểu được vấn đề, " Dã tràng se cát biển đông" đó là ám chỉ cho hành động moi thùng rác nhà của Mai, tôi thất vọng không thấy gì ngoài rác của gia đình Mai bỏ ra, tôi thất thiểu ghé nhà thằng Cảnh, đến trước nhà tôi bắt gặp nó đang nhai mấy cái bánh in đậu xanh, dưới chân nó cái kẹp màu hồng nằm chỏng chơ, cạnh đấy đúng là lá thư của tôi viết bị ai vò nhàu nát, tôi hiểu ra sự việc bèn nhào tới cốc lên đầu thằng Cảnh một cái khiến nó đau điếng, tôi lên tiếng trách nó :
- Ông ngon quá há, quà tui tặng cho Mai mà ông dám " chôm chỉa" về đây ngồi ăn ngon lành vậy hả?
Tuy đang bị đau vì cái cốc của tôi, thằng Cảnh cũng lên tiếng phân bua:
- Ai nói ông tui chôm chỉa quà của ông tặng cho Mai.
Thấy bị “bắt tận tay, day tận mặt” mà thằng quỷ này còn lên tiếng chối bài hãi, giận qúa tôi lớn tiếng với nó :
- Cái này là cái gì đây ông , sờ sờ ra đó ông còn chối nữa hả , nghỉ chơi với ông luôn, bạn gì xấu hoắc.
Thay vì bực tức khi bị tôi mắng xối xả, vậy mà nó vẫn cười thành tiếng, nó nói với tôi :
- Ông bình tĩnh nghe tui nói nè , ông tặng quà cho Mai đúng không?
Tôi hỏi vặn lại nó :
- Ừa thì sao nữa ?
- Mai nhận rồi, nhưng Mai không xài, Mai đem lại đây nói Mai tặng cho tôi, nói xong nàng bỏ thí trên bàn rồi quầy quả quay về, màng không xài thì tui xài cũng vậy thôi đúng không, còn phân nửa phong bánh in kia chừa ông đó ăn đi cho hạ hỏa ông ơi! .
Thế là đã rõ , Mai đã gián tiếp cho tôi biết nàng không chấp nhận tình bạn với tôi, khỏi nói chắc mọi người cũng hiểu, tôi buồn đau vô cùng , nhìn đâu cũng thấy bầu trời u ám, tôi không tha thiết với mọi việc chung quanh nữa ,ánh mắt của Mai nhất là nụ cười thật tươi và không kém phần duyên dáng nó đã hốt hồn tôi trong cái nhìn đầu tiên khi nàng chính thức cư ngụ trong xóm tôi , sau này lớn lên tôi mới biết mình lần đầu bị "sét đánh" là đây.
Dân gian mình câu " Thua keo này, bày keo khác", tôi nỗ lực rất nhiều lần để cố lọt vào đôi mắt xanh của Mai nhưng càng ngày càng vô vọng , vậy là tôi mang cái bệnh thất tình từ dạo ấy, tôi học hành bắt đầu sa sút, khi biết được tình trạng của tôi mắc phải, ba tôi giận dữ ông cho đã bố tôi một trận bằng cây " chả lông gồi" đau điếng, sau trận đòn này dường như hiểu được tình cảm và nỗi đau trong lòng tôi, ba lấy lời khuyên giải.
- Tụi con còn nhỏ , chuyện bạn bè yêu đương sẽ ảnh hưởng việc học , con Mai nó làm vậy phải rồi con cũng đừng buồn, nhà Mai nghèo , đông anh chị em nó cố gắng học hành đỗ đạc để sau này còn phụ cho thím Hai nữa, yêu đương sớm qúa không nên con ạ.
Nghe ba tôi phân tích về Mai như thế,chẳng những tôi không để tâm ghét bỏ nàng, vì nàng chẳng thèm đoái hoài gì đến tấm chân tình của tôi mà tôi còn cảm phục Mai nhiều hơn.
* * *
Tôi lên đường nhập ngũ, đi chinh chiến miệt mài nơi những vùng xa tít tận miền trung nắng gió, nhớ nhà, nhớ bạn bè trong xóm nhỏ thân yêu, dĩ nhiên trong lòng tôi cũng còn chổ để chứa cái tình đơn phương với cô bạn nhỏ ngày nào, nhưng cuộc chiến khốc liệt khiến tôi tạm quên những chuyện buồn nơi miền hậu tuyến, một hôm tôi được một phong thư, phong thư mà tôi nghĩ chẳng bao giờ mình sẽ vinh hạnh có được, Mai gửi cho tôi một lá thư kể về tình hình hậu phương, chuyện xóm làng , chuyện những đứa bạn thuở nhỏ , đọc thư của Mai tôi thấy mình sống lại tuổi còn thơ, như cuộn phim chiếu chậm , tôi đã khóc khi hay tin vài ba đứa bạn đã " Ra đi" không hẹn ngày về, và tôi đã khóc trong Hạnh phúc nàng cố tình đối xử tàn tệ với tôi không phải nàng không hiểu tình tôi, mà nàng đã nói y như ba tôi phân tích sau trận đòn bằng chổi lông gà , tôi xúc động thật sự, tôi không thể là người tình của nàng , nhưng tôi có vị trí đặc biệt trong trái tim nàng, là một người anh kính mến của nàng .
* * *
Miền Nam gãy súng, cuộc sống hàng ngày của mọi gia đình bị đão lộn, gia đình của cô Hai trở về quê sinh sống, riêng Mai thì theo bạn đi định cư nơi xứ người quanh năm giá rét, tôi trở về sống lại nơi xóm nhỏ ngày nào, mỗi lần có dịp đi nganh căn nhà cũ của Mai nó làm lòng tôi lại xao động như Thuở nào.
Được tin cô Hai mang căn bệnh ung thư giai đoạn cuối, tôi thẩn thờ cả ngày, tuy không bà con họ hàng gì với cô nhưng đã từ lâu tôi xem cô như mẹ mình, nên tôi thật sự sốc khi nghe hung tinh này, tôi lật đật vào bệnh viện thăm cô , mấy chục năm gặp lại mừng mừng tủi tủi, cô nằm trên giường bệnh mặt vẫn tươi cười cho dù tóc trên đầu cô rụng sạch nhẵn, cô nói đùa với tôi một câu khiến tôi già hai thứ tóc trên đầu mà phải bẻn lẻn vô cùng:
- Bây giờ bây còn thương con Mai không? Mầy là thằng rể hụt của cô đó.
Tôi xúc động tột cùng với câu nói đùa của cô, bởi vì rốt cuộc cũng đã hiểu được tấm chân tình tôi dành cho cô và cho cả gia đình Mai bấy lâu, từ giả cô tôi ra về với tâm trạng buồn vui lẫn lộn trong người.
Cô Hai .mất một chiều cuối đông sau ba ngày tôi gặp cô nơi bệnh viện, cô ra đi rất thanh thản không chút vướng bận, vì cô đã dốc hết sức để nuôi nấng , dạy dỗ cho đàn con yêu dấu thành đạt nên người, trong đó có Mai cô em gái của tôi đang là một khoa học gia danh tiếng nơi xứ người.
Cô Hai ơi! Con chúc cô " an giấc ngàn thu" nơi miên viễn cô nhé.
Hai Hùng
***
7 - Kích Cổ Thôi Hoa
Truyện Ngắn Quý Thể
" Kích cổ thôi hoa" là đánh trống giục hoa nở. Điển tích nầy lấy từ sự tích Võ tắc Thiên hay còn gọi là Võ Hậu mùa xuân ra thăm vườn thượng uyễn, thấy muôn hoa còn run rẩy trong ngọn gió cuối đông, chưa chịu khoe sắc.Võ Hậu giận lắm, hạ chiếu cho hoa viên quan bảo lính ngự lâm đem trống chầu, trống đại ra vườn hoa mà đánh thật mạnh, tiếng trống như tiếng sấm rền đánh thức hoa, giục cho hoa nở. Uy lệnh đức vua bà nghiêm khắc vô cùng, khiến bao nhiêu loài hoa vườn ngự, tuân chỉ răm rắp, nở ra những đóa hoa đẹp nhất kính dâng lên đấng kim thượng ngự lãm. Có một loài hoa, cây cao, lá to, hoa đỏ, một màu đỏ ánh lên sắc tím cánh sen, là loài hoa ngoan ngoãn hơn cả, mới nghe tiếng trống đầu tiên, cả họ hàng thức dậy, đồng lọat nở ra những đóa hoa màu đỏ rực rỡ tràn lan khắp nơi. Đó đây trong nhà ngoài sân ,ngoài vườn, một màu đỏ, màu của niềm vui, phúc lộc tràn trề. Vua bà hài lòng lắm hạ chiếu ban cho hoa ngự danh Mãn đường hồng( đầy nhà một màu đỏ). Hoa trà khoe sắc trinh trắng, hải đường khoe lòng chung thủy sắc son đỏ vui mắt, rồi thì mẫu đơn đủ màu sắc, nguyệt quế trắng trinh nguyên, mấy nàng hồng mang danh hoa hậu, huệ của hoa của nhà thờ, sen cua chùa chiền, phong lan vương giả. Chỉ riêng nàng cúc không chịu nở hoa.
Thời sơ khai ấy hoa cúc chỉ có mấy cánh, cánh to thô, mộc mạc, nhạt sắc phai hương, rất ít được yêu chiều và cũng chỉ mọc ở miền Hoa bắc. Có một nàng cung nữ lớn tuổi hết duyên bị thất sũng, biếm vào lảnh cung, suốt ngày chỉ biết ngồi bên hoa trò chuyện với hoa. Hoa với người đều tủi thân. Cả hai cùng chung cảnh ngộ và tâm sự. Nàng cung nữ nói, để ta ban cho ngươi sắc đẹp. Hoa không tin, hỏi:" Nàng là tiên nữ giáng trần sao? Nàng có phép lạ sao?" Cung nữ: - Không, ta chỉ là một cung phi bất hạnh, phép lạ của ta phát xuất từ lòng tốt. Chỉ với lòng tốt con người bình thường cũng có thể hóa thần thánh, đoạt quyền thượng đế phóng tay tạo phép màu nhiệm làm cho thế gian nầy tốt đẹp dễ chịu hơn. Ta sẽ tặng cho ngươi nhan sắc mới làm món quà xuân. - Cúc không tin. Cung nữ lấy chiếc trâm vàng mũi nhọn tước mấy cánh hoa to thành rất nhiều cánh nhỏ và dài uốn cong, phả vào hoa hương thơm. Từ đó cúc mới có nhiều cánh dài và toả hương, và sau nầy tự hoàn thiện và làm phong phú hơn lên bằng cách lai tạo với nhau và với loài khác thành nhiều loài như cúc ngày nay. Hoa cúc chỉ chịu rét, rất ghét cái nắng nóng phương nam.
Hôm "kích cổ" Cúc còn say giấc đông miên, không nghe tiếng trống " thôi hoa" chưa kịp thức dậy đón vua bà. Lệnh bà giận lắm, cho cúc phạm tội khi quân, xuống chiếu đày cả họ nhà cúc từ nay xuống ở miền hoa nam , không cho bén mảng lên hoa bắc.
***********
Anh Viễn tìm đọc sách xưa xem thử có truyền thuyết nào về hoa mai vàng của ta không? Không thấy, phương bắc cũng có mai nhưng khác, loài ấy là mai cho quả, trong Kiều có câu : " Quả mai ba bảy đương vừa..." Phương Bắc không có hoàng mai như miền nam. Hoàng mai là cây của phương nam, cây của miền nhiệt đới nắng lửa. Hiện tại Viễn cũng đang có" Vấn đề" với cây mai. Vấn đề cũng tại anh. Anh rất cần giục cho cây mai nhà mình nở hoa để chào đón người anh yêu là nàng ca sĩ ngôi sao tên Liễu Mai, một người nổi tiếng trong làng ca nhạc thành phố và cả nước nầy.
Có một lần anh đi phòng trà nghe hát. Nàng hát rất hay, anh vô cùng cảm phục, đợi nàng hát xong anh vội vàng cầm bó hoa lên sân khấu tặng. Anh được nàng kề má sắc hương. Hát xong nàng ca sĩ Liễu Mai cảm cái lòng ái mộ của anh, nàng xuống ngồi chung bàn. Bao nhiêu cặp mắt nam thanh nữ tú đổ dồn về phía anh. Họ không biết anh là ai , tất cả đều đoán anh là chàng công tử hào hoa giàu có ở nơi nào mới đến. Hai người quen nhau từ đó. Anh nhớ hôm ấy trong bài hát có câu:"...và anh sẽ tặng em mùa xuân..." Lúc nầy đã qua hạ nhiều tháng rồi. Song trong cơn hứng khởi không kềm chế được, anh âu yếm nhìn nàng nói :" Vâng, anh sẽ tặng em mùa xuân, đúng như lời bài ca..." Cô ca sĩ nghe thế chỉ thốt lên :" Xạo hoài ! Đang giữa mùa hè nóng thấy mồ nầy ông lấy mùa xuân đâu tặng tui?" Theo cô " xạo" nghĩa là láo, không thật, nói khóac, nói tướng... Tóm lại đều mang ý nghĩa xấu. Liễu Mai cô ca sĩ đầy thanh sắc song lại xuất thân trong cảnh quê mùa bần hàn, học vấn thấp, văn hóa kém, biểu lộ rất rõ trong cách nói năng. Thế nhưng đã yêu rồi anh thấy cách ăn nói đó thật hay, anh vẫn yêu, và tự hứa, với tình yêu khi cô ta về làm vợ, anh sẽ mài giũa để, nói theo kiểu cường điệu anh biến đá thành ngọc và sắt thành vàng, than hoá kim cương! Tình yêu làm được nhiều thứ kì diệu. Anh sẽ biến hóa để nàng thành người thuộc đẳng cấp thượng lưu, quí phái, học thức...Hôm ấy anh đã hứa chắc :" Cứ chờ đó! Không lâu đâu. Lúc nào thuận tiện dù mùa xuân chưa đến anh sẽ đem tặng công chúa của anh, một mùa xuân đẹp"
Nhà anh có cây mai, năm nào mai cũng ra hoa rất đẹp. Tết đến người ta tốn tiền mua mai, riêng anh thì không. Năm nay cũng như mọi năm cây mai nhà đã trổ hoa rất đẹp, hoa nở lai rai từ 27 tết đến đêm giao thừa sáng mồng một hoa nở rộ lên, rồi sau đó nở chậm lại cho tới hết tháng giêng. Nhờ anh biết chăm sóc và năm nào cũng trảy hết lá mai vào đúng ngày rằm tháng chạp, nên hoa nở đúng kì , trước tết mấy ngày và nở rộ vào ngày đầu xuân. Khách khứa vào nhà thấy cây mai đầy hoa từ gốc đến ngọn, hoa kép, nhiều cánh, tỏa hương thơm lừng ai cũng quở:" Năm mới hoa nở như thế nầy thì tha hồ hưởng tài hưởng lộc nhé!"
Thế nhưng không rõ tại sao năm nay mai lại chẳng cho một hoa nào. Viễn nhớ suốt năm qua anh vẫn bỏ công chăm sóc mai, lâu lâu lấy bớt đất cũ ra, vô phân mới, đất mới và đôi khi được bạn bè tặng gói phân phun lá, nhúm phân vô cơ, phân vi sinh anh đều bón cho hoa. Và hồi tháng chạp, nhân dịp nghỉ phép năm anh dành nhiều thời gian cho khu vườn nhỏ. Trước tết 20 ngày anh đã vặt trụi lá từ gốc tới ngọn. Sắp đến tết Viễn không còn hồi hợp chờ hoa như những năm đầu, vì giờ đây anh đã có nhiều kinh nghiệm và hiện tại cây mai đã nhú những mầm non trông như những chiếc ngòi bút tí hon. Anh hi vọng năm nay mai còn đẹp hơn mọi năm. Thế nhưng năm nay lạ quá, những mầm nhọn như đầu ngòi bút ấy chỉ là mầm lá. Tòan mầm lá, không hề có lấy một chiếc búp. Lúc đầu anh nghĩ tại thời tiết khác thường, năm mất mùa mai, song không phải, mai vườn nhà người ta cũng đã vàng rực. Thế thì tại cây mai nhà anh trở chứng hay có vấn đề gì đây? Mùa xuân này cũng là lần đầu tiên anh phải thân hành ra chợ mua mai, chở xích lô đem về chưng tết, vừa tốn tiền lại không được như ý. Mai không ra hoa làm anh buồn, song cùng với nỗi vui chung của mùa xuân, anh chóng quên.
Bây giờ đã giữa tháng năm dương lịch, hết xuân lâu rồi mà vì yêu vì rượu, vì hứng bất tử, dám nói tặng người ta cả mùa xuân. Mai là loài hoa riêng của mùa xuân. Lấy mai tượng trưng cho mùa xuân trên đất nước mình là tốt nhất. Mấy năm trước, thường vào ngày 20 tháng chạp anh đã nhờ người bê chậu mai rất to rất nặng vô nhà, đặt nơi phòng khách và những năm trước thời kì đó trên cành đầy nụ xanh và đã lác đác vài đóa hoa vàng. Anh cũng đã bắt đầu trang trí cành mai, treo chùm đèn nhấp nháy nhiều màu và cột các tấm danh thiếp bạn bè gần xa gởi tới chúc tết.
Riêng năm nay cây không ra hoa nên anh không bê chậu mai vào nhà. Những chiếc búp như ngòi viết chỉ nở ra chùm lá xanh tươi, thay áo mới cho cây, thắp lên màu xanh lá non cho những cành khô trông cũng đẹp , nhưng vẫn thiếu sắc vàng điểm xuyết . Giờ đây, sau mấy tháng cuối xuân khô hạn, thêm một nửa mùa hè không được tưới giọt nước mưa nào, lá non trở thành lá già. Trừ truyền thuyết " Nhị độ Mai" thì mai không thể nở hai lần. Viễn nghĩ, cây mai nhà mình còn nợ mình một mùa hoa, còn giấu trong nó cả một mùa xuân, làm sao cho nó bật ra? để mừng sinh nhật Liễu Mai.
Anh nghĩ ra rồi. Chẳng cần "kích cổ thôi hoa" như sự tích xưa. Anh đã có cách "thôi hoa". Cách ấy là phải làm một mùa xuân giả để lừa cho cây ra hoa. Viễn bắt đầu thay thế quyền tạo hóa làm thêm cho năm nay một mùa xuân nữa, ấy phải là mùa xuân thứ hai trong năm, đi ngược qui luật đất trời song anh nghĩ , với sự giúp đỡ của khoa học kĩ thuật bây giờ anh có thể làm được. Vậy thì chỉ cần đánh lừa cây, làm ra một mùa xuân nhân tạo.
Muốn thế việc trước tiên là phải chống nóng, chống nóng đã có máy lạnh. Anh nhờ người khiêng chậu mai vào phòng làm việc, họ hỏi khiêng vào trong đó làm gì? Anh nói để nơi làm việc có màu xanh nhìn cho mát mắt. Viễn mở máy lạnh để chạy suốt ngày đêm. Không khí lúc nào cũng 20 độ, anh quan sát thấy cây có vẻ tươi tốt hơn lúc ở ngoài vườn chịu cái nắng tháng năm. Thế nhưng nhiều ngày sau, mọi thứ trên cành đều trở nên nhợt nhạt. Anh chợt nghĩ ra, trách mình ngốc. Cây xanh cần ánh sáng để quang hợp. Nhưng không lẽ ngày nào cũng nhờ người khiêng ra khiêng vào? Anh cần phải làm ông mặt trời giả thôi. Anh bắt thêm mấy ngọn đèn néon thước hai mở sáng suốt ngày. Cây có khá hơn, lá lại xanh tươi. Thế nhưng vẫn còn thiếu một cái gì, anh nghĩ ra rồi. Thiếu độ ẩm trong không khí, lạnh làm cho bao nhiêu hơi nước trong không khí ngưng tụ thành sương, không khí khô quá, cây không chịu. Anh đặt mấy thau nước gần cây, song thấy không hiệu nghiệm, mấy chậu nước có mặt thoáng nhỏ quá, bốc hơi chậm, không đủ, phải tạo mặt thóang rộng hơn, có một cách hiệu quả và đơn giản hơn cả là đổ nước lên sàn nhà. Bây giờ nhà anh lúc nào cũng lênh láng nước. Rất bẩn, không quét nhà được, nhưng đã lỡ hứa làm ra mùa xuân nên anh đành chịu bao khổ sở bực mình. Bây giờ chẳng cần máy móc đo độ ẩm , mới bước chân vào phòng đã thấy không khí đầy hơi nước.
Cái "tiểu thế giới " ( Biosphère) đi ngược qui luật đất trời cốt tạo một miền cao nguyên mát mẻ đầy hoa giữa lòng thành phố nắng nôi ngột ngạt nầy đã thành công. Một lần anh ngồi ghế mây nhắm mắt lại tưởng tượng thấy chỉ còn thấy thiếu tiếng thông reo tiếng, tiếng chim hót, tiếng suối róc rách, nữa là hoàn toàn giống Đà Lạt. Anh tính toán thời gian và thấy đã đến lúc ép xác cây, bỏ nó nhịn khát, và tuốt lá. Sau thời gian ngừng tưới, cây có vẻ khô cằn. Nó đang trong thời kì thối lui để lấy đà lao vào mùa xuân, nở ra những bông hoa đẹp nhất. Sau thời kì khắc khổ anh cho cây thêm phân thêm đất và thêm nước. Trên những cành trụi lá đồng loạt nhú lên những chồi non, chồi lá và rất nhiều chồi nụ.
Hoa chẳng phụ công người. Cây mai sống trong mùa xuân giả, một mùa xuân nhân tạo cũng theo qui luật sinh học, làm tròn nhiệm vụ thiên phú, nghĩa là đến kì cũng nở nhụy khai hoa... Cũng vừa đúng lúc sinh nhật lần 22 của nàng Liễu Mai. Viễn tính toán phi phỏng thôi nhưng sao lại đúng phóc, sinh nhật của người yêu cũng là lúc cành mai nở rộ! Viễn vô cũng mừng rỡ, anh chắc Liễu Mai sẽ ngạc nhiên, còn hơn cả sự ngạc nhiên, là sự thán phục, về điều chỉ có người yêu của nàng làm được, và có lẽ chưa ai yêu ai, chưa ai khổ vì một lời hứa một cách công phu như chàng. Đó là cách anh nghĩ.
Hôm nay Liễu Mai chưng diện rực rỡ như những lần nàng lên sân khấu, một bà hòang ca nhạc. Nàng cũng chính là một đóa hoa đầy hương sắc. Mới bước vô nhà, Mai nhìn xuống nền nhà ẩm ướt, ái ngại than: " Nhà cửa..." Anh Viễn thực thà không hiểu hỏi:" Gì? Nhà cửa ai?..." Mai không cần trả lời. Nàng mang đôi dép gót cao cả tấc, thấy cao hẳn lên hơn ngày thường, cái váy nàng mặc hôm nay thuộc loại maxi kiểu rất mới, rất dài, thấy tha thướt lượt là, đứng thẳng váy chỉ còn cách nền nhà một vài phân. Ngồi xuống, thế nào chiếc váy viền đăng ten nầy thế nào cũng chấm nước. Mai kéo váy rón rén bước vào. Khi đã ngồi lên ghế ý tứ gác đôi chân thon dài và rất đẹp, nàng rất kiêu hãnh về đôi chân dài và rất sung sướng khi nghe bọn đàn ông, giới ăn chơi thì thầm " Trường túc bất tri lao"( Chân dài chẳng biết mệt) nàng nhìn quanh, ánh mắt khó chịu, than: " Anh sống trong căn phòng kín như cái hang nầy mà chịu được, cũng lạ. Sao không mở tung cửa sổ ra cho ánh sáng vào nhà? Ban ngày lại thắp làm gì hai ba ngọn đèn thước hai?"
Viễn thấy không nên giải thích, chàng cần giành cho nàng sự bất ngờ, sự kinh ngạc. Anh ngầm quan sát từng cử chỉ nhỏ nhặt của người yêu, trước tiên là ánh mắt rất khó chịu khi nàng nhìn xuống nền nhà. Sau đó là khó chịu vì sự chật chội và ngột ngạt. Nàng xít xoa nho nhỏ, lấy hai tay xoa vào nhau và xoa hai cánh tay để trần, rên rỉ: " Lạnh quá, tay chân nổi da gà hết trơn hết trọi rồi đầy nè! Da thịt người ta ngày thường được tiếng trắng mịn màng mới ngồi có một tí nổi cả mốc meo lên, gớm chưa?" Viễn cầm cái điều khiển chỉnh số nhỏ cái máy điều hòa không khí. Mai nói vẫn còn lạnh, gắt: "Thôi tắt mẹ nó đi!" Mai nói: " Mở toang cửa ra, ngột ngạt quá ai chịu cho nổi?" Anh đứng lên làm theo, ánh sáng tràn vào căn nhà lâu nay đóng kín cửa, mọi thứ đều sáng trưng, đẹp nhất là những bông mai vàng đa cánh rực rỡ.
Liễu Mai tỏ ra hoàn toàn không thích thú gì về cái vi khí hậu, cái mùa xuân nho nhỏ người yêu mình bỏ ra bao nhiêu công sức tiền bạc. Nàng chú ý đến mọi thứ lặt vặt song không hề nhìn cây mai vàng đang khoe sắc vì nàng. Viễn ban đầu mới hơi buồn, sau thì hơi thất vọng, sau nữa thì hoàn toàn thất vọng rất buồn về cô gái nầy. Anh thấy mất hết hứng thú. Anh mong nàng về để anh còn lại một mình với hoa. Hoa đẹp thơm tho tử tế còn người vô duyên ngốc nghếch, xấu xí, người chỉ gây sự thất vọng. Anh tức giận mình vô cùng, sao lại chọn người như thế để khổ công yêu dấu và tôn thờ?
Lúc gần về Liễu Mai mới vờ ngạc nhiên:
- Ủa! Anh mua cành mai giả nầy hồi nào? Bao nhiêu tiền? Mình người tử tế nhà cửa đàng hòang, chưng chi đồ giả?
Viễn thất vọng chua cay, anh thấy với người kém cỏi như thế. chẳng cần biện bạch, phân trần chi cho mệt, anh trả lời cho qua chuyện:
- Ừ , chưng cho vui , rẻ thôi...
Chẳng cần nhìn lâu, Mai nói:
- Không đẹp chi cả! Xấu òm! Không giống bông thiệt , mới bước chân vô nhà đã biết đồ dỏm... Mùa hè chưng cây mai làm chi? Thấy lãng xẹt!
Rồi Mai tiếp, giọng tỏ ra rất sành sõi:
- Nơi góc đường Nguyễn Tri Phương, Trần Hưng Đạo trong quận 5 Chợ lớn, có hàng bán vật liệu làm bông giả, bông, búp, lá, và cả cành nữa...Mua mỗi thứ vài trăm cà-ram đem về, lượm cành cây khô gắn vô, đẹp mất hồn giống hệt thứ thiệt, mà lại còn rẻ nữa. Còn nếu có tiền bỏ ra kha khá mua cành mai giả bằng nhựa, bằng vải. Hoa vải đẹp mất hồn! Còn cành mai nầy mua bao nhiêu tiền, mới liếc qua đã thấy là đồ giả, đồ dỏm trăm phần trăm !!! ./.
Quý Thể
***
6 - Tắm Bến Sông Xuân
Quý Thể
Sông Hương đêm trăng trông như dải lụa xám ánh bạc màu da con rái cá, mềm mại thướt tha uốn lượn giữa hai bờ, lấp lánh ánh đèn trong hàng cây ven bờ run rẩy ngã bóng xuống mép nước. Vài con thuyền cắm sào đậu giữa dòng giống những chiếc đinh đóng trên mình lụa tạo thành nếp nhăn hình mũi tên nhọn kéo về phía hạ lưu . Mặt sông mát rười rượi, ngồi trên thuyền nhắm mắt lại tưởng như có muôn vàn chiếc bong bóng mỏng như bọt xà phòng chứa đầy hơi mát vỡ ra làm mặt sông tràn ngập trong làn hơi lạnh và ẩm. Không khí đứng yên hoặc xao động nhè nhẹ như hơi sương bên sườn những chiếc thuyền nan .
Dòng Hương đêm nay vắng lặng lạ thường, đến khuya ngưng cả tiếng súng. Thành phố nhọc nhằn lịm trong giấc ngủ vội vàng để mai đây lao vào cuộc trường chinh sinh tử tìm chút hy vọng tiến về phương Nam, phương của tự do. Phải rất lâu dòng sông mới có được một đêm êm ả lạ thường bất ngờ như đêm nay. Đó là đêm vào tháng hai năm bảy lăm. Thời điểm này thành phố Huế sục lên như một nồi nước sôi. Những tin tức dồn dập đưa về báo trước sẽ có một cuộc biến chuyển long trời lở đất, thay chủ đổi ngôi, may rủi ra sao chưa ai lường trước được. Đủ sắc lính từ vùng một, địa đầu hoả tuyến hốt hoảng dồn về đây, mang theo cả sự hỗn độn náo loạn cho một vùng đất vốn xưa nay yên tĩnh. Huế trông như chiếc túi đựng đầy người với bao nỗi hoang mang và bằng mọi thứ phương tiện cố tìm cách chạy về phương Nam trong một chuyến đi cuối cùng định mệnh, trên con đường vô vọng không chắc đã có đích tới .
Chỉ có tôi, một con người thường làm chuyện ngược đời và điên rồ, lựa đúng vào cái thời điểm hấp hối của một chế độ, làm cuộc len lỏi giữa dòng người hằng hà sa số như con cá ngược dòng ra chốn đế đô tìm chút hương vị phong lưu muộn màng của đất thần kinh. Và giờ đây, mười hai giờ khuya tôi đang nằm trên chiếc đò dọc thả trôi trên dòng Hương Giang thơ mộng. Có lẽ đêm nay tôi là lữ khách duy nhất, con đò này là con đò suy nhất, và người chèo thuyền là kỹ nữ cuối cùng, tìm hưởng chút phong lưu trong giờ phút mà lịch sử chuyển mình sang trang. Cô lái đò lúc đầu tưởng tôi là người điên, sau lại tưởng tôi là triệu phú vì tôi trút hết cho cô ta số tiền rất lớn mà tôi đang có. Tôi biết nay mai nó sẽ hoá thành giấy lộn cùng với cái chế độ đã sinh ra nó và ngự trị trên đất này hơn hai mươi năm .
Lên thuyền không hẹn mà chúng tôi vẫn không đá động chuyện thời cuộc sôi động trên bờ. Mấy ngày hôm nay mắt và tai chúng tôi đã tràn ngập tin tức và hình ảnh tang thương hỗn độn chết chóc rồi. Tôi bảo cô gái chèo ra giữa sông, bỏ mặc đó cho thuyền muốn trôi đi đâu thì đi. Tôi cũng phó mặc đời mình cho dòng đời đưa đẩy tới đâu cũng được. Chúng tôi vừa tìm thấy một đề tài thú vị : bàn chuyện mấy món ăn xứ Huế, những thức ăn tiêu biểu mà nghĩ đến ai cũng thấy nhớ Huế. Cũng may cô lái đò sành chuyện nấu nướng, bánh trái. Tôi hỏi về cách làm bánh bèo, bánh nậm, bánh ướt...Lúc này mà lại đem cái thú phong lưu ăn nhậu ra bàn thì hẳn phải là kẻ đại anh hùng hào kiệt, còn không thì phải là một thằng điên mới có thể chịu đựng nỗi sự tác động mạnh mẽ như những nhát búa của tin tức thời sự đập vào đầu óc, trái tim và hệ thần kinh của mọi người. Tôi nhờ có cách riêng của mình để thoát tục. Cô gái nói giọng Huế, giọng cô rặt một thứ âm sắc lờ lợ như muối pha đường. Cô nói:
- Bánh chi thì bánh, gạo chi thì gạo, ngon dở cũng ở cách lấy trùng...
Về sau tôi mới hiểu "lấy trùng" là tuỳ kinh nghiệm mà dùng bột lỏng hay đặc, xay nhuyễn hay xay thô. Riêng món bánh khoái (bánh xèo) xay bột hơi thô bánh mới giòn, còn mấy thứ khác xay càng nhuyễn càng tốt. Tôi hỏi :"Gạo gì làm bánh ngon nhất?". Cô đáp:"Gạo gie An Cựu". Sẵn dịp tôi hỏi luôn :
- Có phải "Gạo gie An Cựu, cá rô bà Bầu" không ?
Cô gái sửa :"Không phải cá rô bà Bầu, mà cá rô bàu Bà" rồi cô giảng bàu là chỗ đất trũng chứa nước ở cánh đồng rộng. Chỗ này mọc đầy sen súng có nhiều cá, nhất là cá rô. Về mùa khô hạn bàu là nơi lấy nước làm đồng, cũng là chỗ trâu dầm. Bàu Bà là cái bàu ở làng Lang-Xá-Bàu, muốn đi tới đó đến An Cựu qua cống Phát Lát đi tiếp sẽ gặp. Cá rô bàu Bà ngon có tiếng, cá vàng ươm đầy mỡ vì chúng được ăn lúa gie cánh đồng An Cựu. Những hạt lúa rơi rụng ngoài đồng sau mùa gặt mưa trôi xuống bàu cho cá ăn. Cũng có khi nước lớn cá tràn lên đồng kiếm lúa, nước rặt lại trở về bàu. Cô gái giải thích : "Bà đây không phải là bà nào cả. Người mình cái chi to thì gọi là bà, như dơi bà, bướm bà, trầu bà..." . Cô còn cho biết gạo gie nhưng phải là gạo lúa mới, mới dẻo và thơm. Gạo lúa cũ, mùa trước, nấu lợi cơm, hạt nở, ăn "hiền" người già và người bệnh ăn rất tốt. Lúa mới ngon nhưng độc, khó tiêu. Tôi bắt chước giọng Huế hỏi :
- Còn "dưng, dụy" (nhân bánh) thì sao ?
Cô gái cười đáp :" Nói như rứa là theo kiểu Huế nhà quê, như "xuốt cái dà" (quét cái nhà), người Huế thành thị không nói như rứa mô! ". Theo cô thì nhân mấy loại bánh này đều làm bằng thịt heo nạc, thịt mỡ, nấm mèo, hành tiêu và cần nhất là tôm. Cô dừng lại giải thích rất rõ về khoản này :" Có tôm bạc mỏng vỏ thì ngon nhất, không có mới dùng tôm đất, tôm sú. Tôm tươi mới tốt, cực chẳng đã không có mới lấy tôm khô. Đã là tôm nó có màu tự nhiên, cho màu là dở rồi. Bánh nậm gói bằng lá chuối hột, lá không già không non, hơ qua lửa cho héo mềm, lấy mỡ heo bôi trơn, đổ bột đã lấy trùng nửa sống nửa chín lên lá, cho nhân vào gói lại, không dày lắm, không mỏng lắm, hấp vừa chín, ăn nóng bánh còn mềm chưa ngon, phải ăn khi bánh âm ấm. Cô gái dừng lại bàn chuyện hành mỡ. Theo cô dùng mỡ heo tốt nhất, dầu chi, khử cách chi, người sành ăn cũng chê, gia vị vừa phải. Cô nói :" Ngày xưa đâu có vị tinh (bột ngọt, mì chính, từ chữ "min-chin" tiếng Tàu ) mà vẫn đậm đà ý vị."
Cô gái sành chuyện bếp núc này tự nguyện cung cấp cho tôi khoảng hơn hai mươi cái công thức chế biến món nước chấm, vì theo cô nước chấm quyết định giá trị món ăn. Tôi mở sổ ra ghi, cô đọc tỉ mỉ cân lượng chẳng khác gì công thức chế tạo ngòi nổ cho bom hạt nhân và cô bảo tôi giữ bí mật mấy loại nước chấm này như bí mật quốc phòng! Cô mở bánh nậm dọn ra dĩa cho tôi thưởng thức. Bánh còn ấm, bột dẻo mềm, nhân thơm phức. Cô hỏi tôi :
- Anh thấy nước chấm bánh nậm ra răng ?
Tôi thấy nó mằn mặn, lờ lợ, ngòn ngọt, có quả ớt gì không biết nhưng còn xanh, xắn ra bằng muổng, hột ớt rất to nổi lềnh bềnh. Tôi chịu không trả lời được. Cô nói :
- Nó ngọt là vì dùng nước mắm Lăng Cô hạng nhất pha với nước luộc tôm, không dùng bột ngọt mô. Bột ngọt ăn lủng bao tử !
Chiếc thuyền trôi chầm chậm. Tôi nằm ngữa nhắm mắt để không thấy thuyền đã trôi về đâu. Con thuyền thật giống với cảnh đời tôi, đời cô gái và cảnh đời của hàng vạn con người đang ngủ thiếp trong những căn nhà hai bên bờ sông Hương đêm nay. Tôi lắng nghe sóng vỗ róc rách mạn thuyền, mở mắt ra, một trời chi chít đầy sao như ai ném những vụn thuỷ tinh lên đầy trời. Mặt trăng cuối tháng méo mó trắng bệt như khối bạch lạp gọt không được tròn. Tất cả bầu trời lệch nghiêng về một phía giống như có ai cầm đầu dốc xuống. Thuyền và rượu làm cho tôi chóng mặt. Tôi thấy sao và trăng lặn về phương Nam . Đêm nay trong giấc mơ của hàng vạn con người, chắc cũng hiện cảnh trôi dạt về một phương trời vô định .
Thuyền chúng tôi chẳng bị ai quấy rầy như mọi khi, các khách làng chơi, những thuyền bán chè cháo, thuốc lá bia rượu trốn đâu cả. Thực là một đêm để nhớ sông Hương suốt đời. Tôi ước chi có tiếng hò. Cô gái nói cô không biết hò mái đẩy, nam bình nam ai, cô chỉ biết nhạc mới. Tôi nói không muốn nghe nhạc mới, chắc cô buồn song cô cũng nên thông cảm cho kẻ này đã chán ngấy cảnh đờn ca son phấn nói cười nhộn nhịp ồn ã "xứ đàng trong" rồi. Tôi hỏi :
- Người ta chạy hết sao em không chạy?
- Chạy mô?
Hồi đó tôi cho rằng thực là một câu trả lời ngớ ngẩn. Bây giờ nghĩ lại tôi thấy đó là câu trả lời thông minh nhất. Phải chi mọi người đều biết trả lời như thế thì sẽ đỡ biết bao nhiêu hao tốn vô ích cho cuộc Nam tiến đầy thất vọng này. Tôi hỏi :
- Sông có sâu không ?
- Sâu, hỏi làm chi ?
- Để nhảy xuống ...
Cô gái hốt hoảng thét lên :"Đừng!". Tội nghiệp cô tưởng tôi tự tử, cô đâu có biết tôi là quán quân bơi lội trên biển. Sông Hương thì sá gì. Cô gái sợ cũng phải, trên dòng sông rộng mênh mông, giữa đêm khuya không một bóng người, trên con thuyền tre mỏng manh với một thằng say, còn hơn say nữa, có thể đây là thằng điên chán đời. Cũng may lúc đó bỗng đáy thuyền chạm cát lòng sông kêu sạt sạt. Cô gái nhìn lên bờ kêu :" Mới đó mà đã trôi đến cồn Hến rồi ! ". Con thuyền mắc cạn dừng hẳn lại. Cô gái xắn quần lội xuống đẩy thuyền. Tôi là nam nhi, đấng trượng phu, người quân tử không lẽ vào phút nguy nan nằm đờ ra đó cho gái thuyền quyên lôi thuyền đi ? Tôi cũng leo xuống đẩy. Một lúc thuyền đã ra chỗ nước sâu. Tôi nổi máu càn rỡ, lao tới ôm cô gái. Cô la oai oái, áo quần ướt sũng. Tôi thường hay bị kích thích bởi cảnh trí thiên nhiên hoang dã thế này. Bỗng tôi "giác ngộ" khám phá ra một diều... Không biết các nhà bác học mỗi khi tìm ra chân lý có sung sướng như tâm trạng của tôi đêm nay không? Tôi cũng vừa phát hiện ra một bí mật hay ho tuyệt vời. Tôi cười rú lên. Cô gái tưởng tôi hoá điên hỏi :
- Cười chi dữ rứa ?
- Tôi hiểu ra do đâu thức ăn ở Huế ngon rồi.
- Nghĩ ra rồi sao, nói nghe thử coi .
- Thực là bí ẩn, nếu không có cuộc tắm sông với em đêm nay... thì không thể nào biết được. Không phải nhờ gạo gie An Cựu, cá rô bàu Bà, cũng chẳng phải cách "lấy trùng" bột, cũng chẳng phải tôm bạc, tôm đất, hay tôm sú... mà thức ăn Huế ngon là "dờ"...
- Nhờ cái chi?
- Thức ăn ngon là nhờ ...
- Nhờ chi ?
- Nấu bằng nước sông Hương...
- Nước nào chẳng là nước. Chỗ mô cũng có sông có nước.
Tôi bắt chước giọng Huế:
- Chỗ mô cũng có sông có nước, nhưng nước sông Hương là ngon "dất"( nhất)
- Mần răng mà nước sông Hương lại ngon dất?
Bây giờ tôi mới lật con bài tẩy:
- Nước sông Hương ngon là nhờ gái sông Hương !!!
Cô gái ngẫm nghĩ một lúc, thấm ý, cười rú lên :
- Đồ quỉ quái! Ăn nói chi lạ rứa ?
Sông Hương lặng lẽ trôi. Dòng đời chậm rãi trôi, không ngờ hai mươi năm sau tôi vẫn còn "trôi". Tôi trôi khắp nơi kể cả trôi qua bên kia bờ đại dương, đến nay vẫn chưa có bến đỗ. Hồi đó ai ngờ có ngày mình sẽ ngồi viết lại câu chuyện "Dòng sông xuân " này.
Quý Thể
****
5 - Qua Rồi Đêm Trung Thu
Truyện Ngắn Phan Trang Hy
Gần đến Trung thu. Bọn trẻ con đứa nào cũng náo nức đón chờ. Không phải chúng chờ bánh kẹo, chờ phá cỗ. Mà chúng chờ được làm lân, được múa lân.
Thằng Bảo tập hợp bọn trẻ lại phân công làm lân. Đứa mua dây thép, đứa kiếm tre làm khung đầu lân. Đứa thì tìm giấy dán, đứa thì tìm sơn xanh, sơn đỏ...Rồi đầu lân hoàn thành. So với lân bán ở thị trường thì lân của chúng không đẹp bằng, nhưng được cái là tự chúng làm thì mới thú.
Bọn chúng bỏ ra ba đêm để tập múa. Tiếng trống lân làm ồn cả xóm. Bà Sáu thường có tính không ưa ồn ào vì bà đang chữa bệnh, thế nhưng, những ngày này bà như khoẻ ra. Bà cười nói với bọn trẻ. Bà lại xuất tiền hưu của bà thưởng cho bọn chúng gói quà to tướng để chúng bồi dưỡng tập múa. Mấy đứa con nít hay làm nũng, giờ thì cũng hết, không cần dỗ, cũng ăn nhanh để còn kịp xem lân tập múa. Đến nhà cô Hải mở trò chơi điện tử, ngày thường đông bọn trẻ đến chơi, còn giờ thì vắng tanh, những chiếc máy được giải lao. Cả xóm xem bọn trẻ tập múa. Cả xóm ồn theo tiếng trống. Cả xóm vui theo tiếng trống. Cả xóm rộn ràng theo tiếng trống.
Trăng lên. Hoà trong ánh điện là ánh sáng bập bùng của những ngọn đuốc. Tiếng trống rộn ràng như mờị mọc mọi nhà mở cửa đón lân. Tiếng trống đánh thức tuổi già về với trẻ con ; đánh thức đàn ông, đàn bà về với tuổi vô tư ; đánh thức con trai, con gái về tuổi mới lớn ; đánh thức cả trời cổ tích về mừng Thạch Sanh chém được Xà tinh... Tiếng trống đánh thức giấc ngủ cả năm ở cái xóm này.
Lân đi từng nhà. Không nhà nào từ chối bọn trẻ. Bọn trẻ như làm chủ cả xóm. Lân của xóm khác không dám đến đây múa. Phần vì sợ lân ở đây đánh, phần vì không có ai mời múa. Hầu như đã thành lệ, lân xóm nào thì múa ở xóm đó, trừ trường hợp những đoàn lân chuyên nghiệp.
Trăng đã lên cao. Bọn trẻ đã múa hết các nhà trong xóm. Bọn chúng mệt. Từng ngọn đuốc rụi dần. Cả xóm hầu như không còn đoái hoài đến chuyện múa lân.
Gần hết rằm. Thi thoảng từng tiếng trống rời rạc ở đâu đó như nuối tiếc đêm rằm Trung thu.
Bọn trẻ tập trung ngoài ngã ba. Bọn chúng kháo nhau:
- Anh Bảo! Múc chè ra ăn đi! Múc chè ăn đi!
Bọn trẻ đã chuẩn bị chè hồi chiều tối. Lệ thường, năm nào cũng vậy, sau khi múa lân xong là chúng ăn chè quanh lân được đốt. Thằng Bảo nói như ra lệnh:
- Mấy đứa bay đợi đốt lân đã.
Thằng Nhật mới tham gia múa lân lần đầu, thắc mắc hỏi:
- Sao đốt uổng thế, anh Bảo? Để dành sang năm múa.
Một thằng như từng trải, nói:
- Đốt để lấy hên. Để lại xui lắm. Sang năm làm cái khác.
Bọn chúng chẳng biết có xui hên không. Nhưng thằng Bảo thì biết rất rõ là mỗi lần gần tới tết Trung thu, được làm lân, được múa lân là niềm vui. Bỗng thằng Bảo thở dài:
- Đốt đi bay!
Ngọn lửa bùng lên. Từng tiếng húp xột xoạt quanh những chén chè. Bọn trẻ nhìn ngọn lửa rụi dần. Thằng Bảo nói với bọn trẻ:
- Bọn bay nghe tau nói đây. Trung thu này, sau khi làm đầu lân, mua dầu lửa, mua nước uống, nấu chè, nói chung là mọi thứ mua sắm, thì còn được hơn năm chục ngàn. Số tiền này, tau giao lại cho thằng Long giữ để sang năm làm đầu lân mới.
Thằng Nhật lên tiếng:
- Sao anh Bảo không giữ để sang năm làm?
Thằng Bảo giọng buồn buồn:
- Tau lớn rồi! Sang năm tau không còn làm lân, không còn múa lân nữa đâu.
Bọn trẻ nhao nhao:
- Còn chè không? Cho thêm chén!
Trăng xuống dần...
Phan Trang Hy
***
4 - Ngõ Hẻm Tận Cùng
Truyện Ngằn - Vũ Thanh Hoa
Có tiếng đổ rầm của vật nặng rồi tiếng rên rỉ. Chị đoán là một con chó. Cái góc cống nằm tận cùng con hẻm bẩn thỉu và lắt léo này thường tiếp đón những con chó ốm hoặc bị đánh vì ăn vụng vào những buổi khuya khoắt. Kệ, chị cố nhắm mắt. Đêm đông Sài Gòn không rét nhưng vẫn đủ giá lạnh cho người đàn bà cô độc đang tuổi hồi xuân. Đôi mắt vẫn mở chong chong vì cơ mắt chẳng co kéo được hàng mi dày đã bị biến dạng hai mươi năm nay. Hai mươi năm, chị chưa một lần dám nhìn lại khuôn mặt mình. Chị nhớ trước đó, chị đẹp lắm, đẹp mê hồn và lãng đãng...Hai mươi năm, chị chỉ bước ra ngoài khi trời xâm xẩm tối, khi đã trùm kín mặt mày .
Tiếng rên to hơn, như khắc khoải cầu xin, chị nhận ra tiếng người...Khiếp quá! Chị co rúm lại trong chiếc chăn dày, lần này thì nghe rõ: "Hừ hừ...đau quá...cứu tôi, đau quá...”. Chị bật dậy hé cửa và giật bắn mình: Một người đàn ông đang quằn quại, máu loang bê bết trên đầu, cổ, ngực...
- Làm sao thế này ? - Chị run rẩy hỏi và toan đóng cửa lại.
- Cô ơi, hãy làm ơn...tôi chết mất...- Người đàn ông lết tới và túm được đầu gối chị. Chị sợ run bần bật. Chung quanh vắng lặng và tối tăm, lâu lắm rồi chả có ai mò vào tận cuối con hẻm nơi có góc cống bẩn thỉu và căn phòng dột nát của người đàn bà ẩn dật. Bàn tay càng bíu chặt, hình như người đàn ông bật khóc. Chị sẵng giọng:
- Buông chân tôi ra!
- Tôi không hại gì cô đâu, tôi sắp chết rồi, mong cô làm phước cứu giúp một con người... - Giọng gã đứt quãng và yếu dần. Chị bối rối. Chưa ai "làm phước" cho chị và chị cũng chưa từng "làm phước" cho ai. Cuộc đời chị đong đầy bội bạc. Nhưng giờ chị có thể mặc gã đấy và đóng cửa ngủ lại được không nhỉ? Chị mở cửa, bảo:
- Thôi được. Vào đi.
Người đàn ông ráng sức gượng dậy nhưng lại ngã vật ra, gã thì thào:
- Cô ơi, tôi...không nhìn thấy gì, tôi... mệt quá...
Chị nhìn gã: Từ hai hốc mắt, máu vẫn đang ri rỉ, khiếp thật! Chị gắng sức giúp hắn bò vào căn phòng của chị. Gã còn cẩn thận quờ tay đóng ngay cánh cửa lại. Chị lấy khăn mặt, vắt nước lạnh rồi chấm qua khuôn mặt loang lổ máu me. Gã rú lên khi khăn chạm vào những vết thương. Ánh đèn soi rõ dần: một người đàn ông khoảng hơn ba mươi tuổi, lực lưỡng, dữ tướng, tóc húi cua, râu ria lởm chởm, xăm trổ khắp người. Chị giã mấy viên thuốc kháng sinh trong cái lọ vẫn để dành dưới gối, rắc lên vết thương của gã. Gã nhét cái khăn vào miệng để dằn những tiếng kêu đau đớn. Chị đặt nồi nước lên bếp, thả nắm gạo vào. Bát tép định để sáng mai ăn, chị đổ vào luôn. Cháo chín. Gã gục đầu vào bát cháo, húp một hơi. Hai bát, ba bát, bốn bát...Nồi cháo cạn. Gã nằm vật ra. Khi chị rửa xong nồi niêu thì thấy gã đã ngáy rung cả góc nhà. Khe khẽ nằm xuống chiếc giường ọp ẹp cạnh cửa, chị trở mình mãi rồi mới thiếp đi...
Những tia nắng chả bao giờ phân biệt biệt thự hay góc cống, nơi nào chúng cũng len vào lúc sớm mai. Chị choàng dậy, nhìn về phía góc nhà. Gã vẫn nằm nguyên. Chị bỗng lo lắng: Gã còn sống chứ? Chị chạy lại chỗ gã. Bất động. Chị đặt tay lên ngực gã: tim vẫn đập.
- Tôi vẫn còn sống cô à nhưng tôi không thấy gì hết.
Chị giật mình nghe giọng nói phát ra từ khuôn mặt đã sưng phù của gã, chị hỏi:
- Thanh toán nhau à?
- Ừm...Tôi ẩu một chút nên thua.
- Người ta thuê hả?
- Chứ tôi có cái mẹ gì để người ta thịt chứ!
- Giờ mà thò đầu ra là kể như xong hẳn!
- Đúng vậy. Cô làm ơn cho chót cô nhé.
Chị quan sát các vết thương của gã, đôi chỗ bắt đầu mưng mủ, hai mắt nề phù. Chị bảo:
- Nhưng vết thương nặng lắm, không đi bệnh viện rồi cũng toi.
Gã chồm lên:
- Không được, không được! Nếu vậy thì thà cô bỏ tôi chết từ hôm qua hoặc bây giờ cho tôi liều thuốc chuột. Tôi không thể ra bệnh viện, không thể!
- Sợ bị tóm hơn chết à?
- Sợ cả hai...
Gã bỗng khóc nấc lên, chị thấy bần thần cả người. Kể cũng tội, nếu mình là gã, có lẽ cũng sợ vậy. Chị lúi húi nhóm bếp chuẩn bị cơm. Khi bưng lên tô cơm và tô canh nóng hổi, chị hoảng hồn thấy gã đang run bần bật, toàn thân nóng rẫy... Chị cuống quýt gọi nhưng gã cứ mê man ú ớ không còn biết gì... Chị vội trùm chiếc khăn quen thuộc, đeo cặp kính đen che kín mặt, lao ra đường. Bây giờ tìm ai đây? Chị bối rối. Chị chưa bao giờ dám vào một phòng mạch tư nhân nào, nơi y tế công cộng thì lại không thể...nhưng bây giờ...gã ấy sắp chết? Làm sao đây? Chị không nghĩ ra gì thêm được nữa thì chợt trông thấy trên một cánh cửa cũ kỹ trong hẻm nhỏ bên đường có treo tấm biển xộc xệch đề "Bác sĩ Thắng". Vừa mừng vừa lo, chị liều đẩy mạnh cánh cửa... Một căn phòng tồi tàn chẳng có gì ngoài cái bàn và tủ thuốc nghèo nàn. Một ông già đang ngủ gật. Chị lên tiếng:
- Bác là bác sĩ Thắng?
- Đúng tôi đây - Ông già vội mở mắt, cười niềm nở - Cô bệnh gì?
- Không phải tôi - Chị lúng túng - Người nhà tôi ốm nặng, mời bác sĩ đến khám giúp...
Ông bác sĩ nhìn chị e dè, có lẽ ông hơi ngạc nhiên bởi bộ dạng trùm kín mít của chị. Chị nói, chưa bao giờ mạch lạc và quả quyết như thế :
- Bác sĩ hãy làm ơn giúp gia đình tôi, khó khăn thế nào tôi cũng xin chịu cả !
Ông bác sĩ ngẩn ra một chút rồi gật đầu, xếp vài dụng cụ cần thiết vào cái túi vải có gắn hình chữ thập rồi dắt xe máy ra cổng, bảo chị ngồi sau chỉ đường.
- Tình hình khá nặng, bệnh nhân này để ở nhà tôi không bảo đảm đâu!
Ông lắc đầu sau khi xem xét vết thương của gã. Chị nói nhỏ :
- Nhưng anh ta không thể đến bệnh viện được.
- Tội phạm à ? - Bác sĩ do dự - Tôi ngại quá, chắc cô tìm người khác vậy nhé...
Chị đứng chặn cửa, hai tay chống nạnh, chị nói nhỏ nhưng giọng đanh lạnh :
- Chúng tôi đã đến bước đường cùng, xin bác sĩ rủ lòng nhân từ cứu giúp. Chúng tôi không còn cách nào nữa...
Bác sĩ nhìn khuôn mặt trùm kín mít và cặp kính đen của người đàn bà, nhìn người đàn ông đang run bần bật dưới sàn nhà với những vết chém và những hình xăm trổ trên vai... Ông gật đầu :
- Được rồi, tôi sẽ gắng hết sức, cô làm theo những điều tôi dặn nhé.
Ông cẩn thận lau rửa vết thương, tiêm thuốc tê và khâu vài chỗ rách toác. Gã đàn ông quằn quại, mê sảng. Sau khi uống liều thuốc ngủ nhẹ, trông sắc mặt hắn có vẻ ổn hơn. Bác sĩ bảo :
- Cô mua toa thuốc này cho anh ta uống trong 10 ngày, cố gắng giữ vệ sinh các vết thương, nhất là cặp mắt. May mà tôi đến kịp, mắt anh ta còn hi vọng, không thì...
- Vâng... vâng, tôi nhớ. Vậy là xong hả bác sĩ ?
- Tôi chữa miễn phí, cô để tôi về là được rồi...
Chị chần chừ. Rồi chị vội mở nắp cái rương gỗ dưới gậm giường, lôi ra một bức tượng nhỏ bằng đồng hình một cô gái khoả thân tuyệt đẹp, chị bảo :
- Đây là bức tượng một đại gia đã thuê đúc trên hình mẫu tôi cách đây 20 năm. Xin bác sĩ nhận coi như chi phí.
Ông bác sĩ ngẩn người ngắm pho tượng , thốt lên : " Trời ! Đẹp quá ! ” Rồi ông lắc đầu lia lịa :
- Ồ, không không, tôi không dám nhận đâu, bức tượng này chắc đắt giá lắm! Tôi là bác sĩ, chữa bệnh từ thiện là việc tôi thường làm mà...
- Bác sĩ ơi...- Chị quỳ xuống - Bác sĩ đã làm một việc không gì trả nổi, xin bác sĩ nhận cho tôi an lòng. Chỉ mong bác sĩ giữ bí mật cho chúng tôi.
- Ôi, kìa, cô đứng lên đi ! Trời ơi, cô làm tôi khó xử quá ! Rồi rồi, tôi nhận vậy. Cô mở cửa cho tôi về nhé, tôi xin hứa sẽ không nói gì cả !
Ông bác sĩ đi như chạy ra khỏi con hẻm ngoằn ngoèo, âm u.
- Sao cô lại làm vậy ?
Chị giật mình khi nghe tiếng hỏi như từ cõi âm của gã. Chị quay lại, gã đã tỉnh lại từ lúc nào. Chị bảo :
- Tôi không biết nhưng tôi không muốn nợ nần ai...Anh đỡ rồi hả ?
- Tôi nợ cô suốt đời.
- À - Chị cười - Mình mắc nợ người này, người khác lại mắc nợ mình, tùm lum ấy mà. Nhớ làm chi cho mệt !
Trời xẩm tối, chị mua toa thuốc về bắt gã uống cẩn thận như lời bác sĩ dặn. Gã đã ngồi dậy được, sau bữa cơm ngon lành, trông gã khá hẳn lên.
- Cô làm tôi nhớ mẹ tôi quá. - Gã bảo.
- Sao ngộ vậy ? Anh có thấy tôi đâu ? - Chị bật cười.
- Chỉ mỗi mẹ tôi là chăm sóc và lo cho tôi như vậy, tôi toàn bị đàn bà " ép phê " từ trước tời giờ.
- Là sao ?
- Tôi xài họ rồi họ xài tôi và tôi trở mặt với họ, họ lại trở mặt với tôi. Sòng phẳng.
- Ủa, chẳng lẽ không gặp ai tốt sao ? - Chị nghi ngờ.
- Có, nhưng cô ấy chết rồi, sốc thuốc.
Giọng gã nghẹn lại. Chị không dám hỏi nữa, chị bảo :
- Bác sĩ nói viên thuốc hồi nãy uống là thuốc ngủ cho đỡ đau đó, ngủ sớm cho mau khỏe nghe.
Gã nín lặng. Chị tắt đèn và đặt mình xuống giường, chị thấy mắc cười vì gã đâm thuê chém mướn giờ nghe lời mình như con nghe lời mẹ, vui thiệt. Rồi giấc ngủ đến với chị thật dễ chịu...Đêm thăm thẳm...
Chị giật mình vì ai đó chạm vào chăn...Vẫn còn đang mơ màng, chị nghe hơi thở gấp gáp và giọng gã thì thầm bên tai :
- Anh đây...
- Ôi, ôi...
Chị chưa kịp nói gì thì nụ hôn mãnh liệt, hun hút sâu đã cuốn lấy chị, vòng tay cường tráng, hừng hực sức mạnh ôm siết chị...Chị như nghe thấy tiếng nhạc du dương bổng trầm quấn đôi chân thon dài của chị trong các bộ váy áo lộng lẫy tha thướt, chị thấy những anh chàng hào hoa đang quây chung quanh chị cố gắng trổ hết tài nghệ mong được người đẹp để mắt đến... ...mùi đàn ông, những sợi râu lởm chởm, những sợi lông mịn màng... phủ ồ ạt lên chị như cơn sóng... Chị buông hết mình vào cơn sóng ấy...Hai mươi năm...chị tưởng mình sẽ không bao giờ còn được đón nhận đợt sóng đam mê tràn trề ấy nữa, không bao giờ...Chị ôm chặt gã, ôm chặt... Chị ngấu nghiến gã, chị cười rồi chị khóc...
- Thân hình em đẹp không thể ngờ...- Gã nằm vật ra, vừa thở vừa nói.
- Trước đây em là vũ nữ, nhìn thấy em khiêu vũ, không người đàn ông nào có thể thờ ơ được...
- Anh may mắn quá, chưa bao giờ anh được chạm vào một cơ thể hoàn hảo thế...
- Anh có nhìn thấy đâu nào, anh chỉ tưởng tượng thôi...
- Không, anh có nhiều kinh nghiệm ngủ với đàn bà rồi.
- Nhưng nếu anh nhìn thấy mặt em, anh sẽ phát khiếp!
- Tại sao?
- Gần hai mươi năm trước, em cặp bồ với một đại gia khét tiếng, vợ ông ấy đã thuê người tạt axít vào mặt em.
Gã lặng đi. Gã muốn khóc. Gã ôm chặt chị. Gã bảo:
- Dù trông em kinh khủng đến đâu thì anh vẫn yêu em.
- Anh đừng nói gì cả. - Chị nói và lấy tay che miệng gã.
- Tại sao? - Gã ngạc nhiên.
- Khi còn là một vũ nữ hơn hai mươi tuổi nổi tiếng xinh đẹp, em nghe không biết bao lời hứa hẹn, thế rồi khi em thành thế này, chẳng một ai đoái hoài...
- Cả tên đại gia khốn kiếp kia sao? - Gã phẫn nộ.
- Hừm...Ông ta trốn chạy trước tiên, căn phòng này lại do chính bà vợ mua cho em.
- Vậy hả?
- Sau khi thuê người tạt axít em, bà ta suốt đời sống trong dày vò. Ông chồng cũng quá khiếp sợ, bỏ đi luôn. Bà ấy mò đến bệnh viện, lén lút thăm nuôi em rồi chuyển cho em số tiền khá lớn, em dùng một ít mua căn phòng này.
Không nghe gã nói gì. Gã đã ngủ ngon lành, chị vuốt ve khắp người gã và gối đầu lên vòm ngực nở nang của gã, chị chìm vào giấc mơ...
Bữa cơm hôm ấy , chị làm một nồi cá kho với ớt xanh thơm lựng, rau lang luộc, tép rang. Gã ăn phăm phăm, chị nhìn gã ăn, vui lắm. Chị bảo:
- Khi nào anh "thua", anh lại về với em nhé.
- Nghề của anh không được phép "thua", không có lần thua thứ hai đâu.
- Nếu hai đối thủ cùng thuê anh thì làm sao?
- Dễ ợt, ai thuê nhiều thì anh theo, có lần vậy rồi.
- Anh có bao giờ do dự khi ra tay không?
Gã có vẻ nhớ rất lung rồi gật:
- Có.
- Khi nào?
- Có lần người ta thuê anh tông xe một ông giám đốc, khi coi kỹ mặt ông ấy, anh thấy giống cha mình quá nên lúc hành sự, thay vì đâm thẳng vào ông ta, anh lại né qua một bên và vụ đó anh suýt mất mạng.
- Sao vậy? Mấy người thuê anh định thịt anh à?
- Không - Gã cười chua chát - Chính tay giám đốc ấy định thịt lại anh chứ! Và anh có bài học: Hắn giống cha mình chứ đâu phải là cha mình. Không có ai giống cha mẹ mình đâu.
Chị mủm mỉm cười khi nhớ đến hôm nọ gã từng nói chị giống mẹ gã. Chị không để bụng nhưng sẽ nhớ mãi, chị thu xếp sớm để mau lên giường với nhau...
Gã bừng tỉnh, cảm giác chói gắt làm gã vội đưa tay lên che mắt...gã thấy cái cửa lờ mờ rồi rõ dần dần màu xanh cũ kỹ, thì ra tia nắng sớm len qua khe cửa đã đánh thức gã...căn phòng dột nát, đồ đạc xiêu vẹo hiện lên rõ nét...Gã quay qua bên cạnh, người đàn bà khoả thân đang quay mặt vào tường ngủ ngon lành, thân hình nàng quả là tuyệt mỹ: sóng eo quyến rũ, bầu ngực căng tròn và cặp đùi thon dài nuột nà... Gã khẽ ngồi dậy, bỗng nàng cựa mình rồi quay hẳn về phía gã...Gã giật bắn mình, toan rú lên nhưng rồi kìm lại được : Một khuôn mặt dúm dó, hai con mắt ngủ nhưng vẫn mở trừng trừng kéo hàng mi méo mó, hốc mũi biến dạng...Chỉ còn đôi môi chúm chím là vẫn nguyên vẹn, đôi môi đẹp và đa tình...Gã hốt hoảng tụt xuống giường. Cửa không chốt, gã chần chừ một chút rồi đẩy cửa...Lâu lắm rồi, không khí quen thuộc của buổi sáng lại ùa vào gã...
Chị nghe thấy gã dậy, chị biết gã đã hồi phục và nhìn thấy tất cả, chị ghé mắt qua khe cửa để nhìn thấy gã lần cuối cùng, chị nghĩ thế.
Chị thấy gã đi rất nhanh rồi bỗng dưng gã quay ngược lại, dừng trước cửa. Gã quỳ xuống, nói: "Anh sẽ quay lại nếu anh còn sống." Nước mắt chị rơi lã chã từ đôi mắt tật nguyền, chị cố lấy tay gạt đi để nhìn rõ hình dáng của gã khuất dần sau những ngoằn ngoèo, dích dắc của con hẻm.
Vũ Thanh Hoa
***
3 - TỘI
Xuân Sương
Tiếng Việt có nhiều từ riêng lẻ, độc thân, dùng toàn quốc hay vùng miền, địa phương, thổ ngữ..., và ngữ nghĩa thay đổi muôn hình vạn trạng nhưng khó giải thích nghĩa chính là gì, mà lại được nam phụ lão ấu dùng thường xuyên, dùng kiểu nào trong trường hợp nào, mọi người đều mặc nhiên... thẩm thấu. Ví dụ chữ TỘI.
Tội ở đây đơn thân độc mã, nó không đi kèm với Lỗi để thành gánh nặng đè vai rồi ân hận sám hối, cũng không đi cùng với Nghiệp để thành cái nhân duyên cho kiếp luân hồi, không đi với Tình để tỏ bày một tâm trạng não nùng bi thiết... Nó không đi với từ nào cả vì vậy nó như tấm lụa đào phất phơ giữa chợ, cô độc mà kiêu kỳ, chẳng cần quấn vào anh nào cũng mang mang tình ý.
Đủ kiểu tội
Năm 1997 về VN ăn cưới đứa cháu gọi cô, bố chồng cháu nhìn mình cực kỳ ... ấn tượng (mà trong ngữ cảnh nào khác có thể dám bị chụp mũ), chép miệng: Từ bển mà về đây ăn cưới cháu, tội chưa ! Ở bển mấy chục năm chẳng bao giờ nghe chữ đó, bất chợt nghe lại, thấy ngồ ngộ là lạ mà cũng chưa thấm lắm mình... tội chỗ nào, chỉ biết là nhìn ánh mắt âu yếm bao la tình cảm thế kia (tiếng thời thượng là "tình thương lan tỏa" đây) thì mơ màng hiểu có ẩn chữ nghiệp trùm khăn theo sau, nghĩa là cái nghiệp trần ai gia đình ràng buộc mà Đức Phật gào khản cổ bảo hãy rũ bỏ đi để cầu tìm an lạc.
Đứa bé phá phách hay làm bậy gì đó, bà mẹ vừa chép miệng vừa nói Tội quá con ơi, sao con hư vậy. Chỗ này tội gì đâu, đáng lẽ nói khổ quá con ơi mới phải chớ. Nó phá phách với tất cả niềm thú vị thì chẳng tội gì nó cả, ở đây cũng chẳng cho phép chữ lỗi hay bất kỳ chữ gì khác theo sau, vậy thì phải chăng tội nghiệp mẹ nó phải dọn dẹp? Không tầm thường vậy đâu. Nên xin làm ơn vẫn cứ gọn gàng một chữ tội giùm cái đi. Phải là tội thì mới thấm. Có thể chính tả sai bét, nhưng ý rất hàm súc, diễn đạt trọn vẹn, mà nếu kêu khổ quá con ơi thì nghe lại kém phần ai oán càm ràm, là bà mẹ này chưa kinh qua môn ngôn ngữ học, nói tiếng Việt chưa rành.
Thường người ta dùng rất đa dạng, rất trái ngược, rất gọn cho nên nhiều khi rất bí hiểm, nhưng khỏi cần nhờ pháp sư can thiệp, chỉ là kiểu lời vắn tình dài rồi tự nó làm ảo thuật gỡ khúc mắc ra. Ví dụ chị đó nghèo mà tội lắm; anh đó giàu mà tội lắm; con bé đó học giỏi mà tội lắm; hay nhiều khi nói khơi khơi : thằng nhỏ đó tội lắm. Không cần đố trời mới biết ai tội cái gì, chỉ cần nói vậy là quý nam phụ đều gật gù kiểu ta đây thấu suốt ngõ ngách ruột non ruột già những kẻ giàu nghèo học giỏi dù mơ hồ chưa rõ kiểu tội nào, nhưng có tội cái đã, và thường mang ý tử tế ngọt ngào. Nếu không tử tế ngọt ngào, lạ chưa, là sẽ không có tội! Chớ nếu thằng nhỏ đó học dở tội lắm thì đã rõ ràng chữ nghiệp vô minh níu đuôi, lại phải trình lên Đức Phật cầu xin hóa giải cho rồi.
Loại tội này rất thường, như cứ bảo đừng nói vậy tội ảnh tội chỉ; tội ghê, nó không tới được; thấy người ta có vẻ quan tâm tới ai thì nói với nhau tội ha; nó nói nghe tội lắm (chỗ này là thương lắm đây, nhưng thương thì thường quá, cạn quá, hẹp quá, ngữ nghĩa nghèo quá, cho nên xin làm ơn vẫn cứ gọn gàng một chữ tội giùm cái đi). Còn biết bao tội nữa mà dùng kiểu gì cũng khó nêu đích tội danh và vì phải là tử tế ngọt ngào mới có tội thì chẳng phải là tội ác gì ghê gớm nên chẳng bao giờ thành tội trạng cho nên cứ thoải mái nêu tội đi bởi dẫu sao cũng chẳng là một thứ tội đồ khiến mình trở thành tội phạm thì tội quái gì không dùng nó một cách vô tội vạ để tỏ ra mình có lòng biết tội người ta mà chẳng cần phải là tội nhân mới bẽ bàng thấm thía bao nỗi tội tình? Ouf !
Nghĩ cho cùng, các kiểu tội này coi bộ ít nhiều ai ai cũng có. Bởi vì dù gì đi nữa thì cũng có vẻ có bé nghiệp rình đòi đi theo. Nếu "chị đó nghèo tội lắm", tức là nghèo tàn canh, cái tội quấn chiếu co ro dưới mái tranh vách đất; còn nghèo mà tội lắm tức là đang bồng chén cơm trên tay mà thấy có người rách rưới liểng xiểng đi ngang biết là họ bụng trống bèn xẻ chén cơm làm hai, nôm na là miếng khi đói bằng gói khi no. Nếu "anh đó giàu tội lắm" thì phải nhanh trí hiểu ngay là tội của ảnh đếm không xuể, kín đáo có kèm chữ lỗi bên cạnh, thì nên tức tốc tấp vào lề ngay kẻo vạ lây; còn giàu mà tội lắm, là tiền bạc thừa mứa lột da tôm hùm căng trống búng nút rượu XO làm ná bắn chim hít xì gà thượng hảo hạng cho thơm lừng thành phố thường đổi xe khủng liên miên chích thuốc lắc lái ngược chiều trên xa lộ rượt đuổi bạn bè giải trí ngoài ra còn nhớ để vài mẩu da tôm hùm nấu cháo thết người nghèo, nôm na là lá lành đùm lá rách. Học giỏi mà tội lắm là không ta đây hợm mình điểm cao nhất lớp vì biết bước ra khỏi cửa là có đứa còn giỏi hơn mình, nghĩ cho cùng là sành mấy câu chữ nho Tri bỉ tri kỷ và Cao nhơn tất hữu cao nhơn trị. Vân vân và vân vân. Ai dám bảo tiếng Việt ta nghèo ?
Nói chung đây là loại tội mở, ngữ nghĩa nó mênh mang được hiểu không bằng từ vựng mà bằng ý, đậm đà tình dân tộc. Cứ nói tội lắm là mọi người tha hồ diễn cảm, diễn sao cũng không sai, không đúng bề ngang cũng đúng bề dọc. Nếu cắc cớ dài dòng thêm chữ nghiệp vào thì tội lại bị nhốt kín trong chùa chiền, thiền viện hoặc tịnh xá suốt ngày nghe kinh kệ chớ không được ôm Iphone 6S "phượt phây", sẽ kém sang đi.
Vậy nói chung có tội là tốt, là ở đời muôn sự của chung hơn nhau một tiếng tội mà thôi. Dù vậy Đức Phật vẫn khều khều Tội quá, nghe lời Phật dạy đây nè chúng sanh, rũ bỏ hết đi con, tội gì mà cứ ngoằn ngoèo trong vòng khổ đế luân hồi.
Xuân Sương
***
2 - Chuyện Cô Gái Rượu
Đặng Hà Nội
Đời người có bốn cửa ải phải trải qua: sinh, lão, bệnh, tử với đầy hỉ, nộ, ái ố.Cuộc sống như là món ăn Việt Nam phải đầy đủ hương vị ngọt bùi, cay đắng, mặn nồng, chua chát thì mới cho là ngon, cuộc sống mới xứng đáng là đầy đủ. Nhưng có lẽ phải thêm một cửa ải nữa mà phần đông ai cũng phải bước qua đó là lúc hai người đồng ý ăn ở với nhau thành gia thất. Chúng tôi vừa mới làm đám cưới cho cô gái rượu duy nhất và bây giờ mới có thì giờ rảnh rang tạp ghi lại vài trang giấy để kỷ niệm ngày Thanh bước lên xe limousine cùng với người bạn trăm năm.
Tôi được may mắn di tản sang Mỹ bốn ngày trước khi thành phố Sài Gòn bị cưỡng chiếm. Lúc đó tôi là sinh viên Đại học Sư phạm ban Anh Văn năm chót và đang khám sức khoẻ để hai tháng sau ra trường nhận nhiệm sở. Lúc đầu sang bên Mỹ´ chỉ mong đi dạy và đi học ban đêm không màng tới việc vợ con. Các bạn trong lớp tôi sang Mỹ đều "mất dạy". Phần đông không chịu theo nghề giáo, cái nghề bạc bẽo ít lương nhưng đối với tôi đó là một nghề lương thiện có nhiều ngày nghỉ để giang hồ ngày tháng hè. Thấy tôi còn đọc thân anh chị họ từ Pháp sang chơi có giới thiệu cho tôi một cô Việt Nam mới sang Mỹ ở California. Sang gặp cũng thấy hay hay ngộ ngộ nhưng cô giáng cho một câu: "Anh đã mua nhà chưa?" nên đành nói gút bai hẹn kiếp sau.
Vào khoảng năm 1980 người tị nạn sang Mỹ ào ạt. Trường tôi dạy ở Minneapolis số học sinh tị nạn gia tăng gấp bội làm giáo sư Mỹ than phiền quá. Nhưng tôi thì vui mừng quá cỡ vì là giáo sư song ngữ nên job vững vàng. Thời gian này thì bà xã tương lai của tôi cũng di cư sang Mỹ cư ngụ tại Georgia với gia đình. Nàng là em của bạn bà chị tôi. Nàng bị ở lại Việt Nam trong khi phần đông gia đình đã sang Mỹ. Thấy tôi còn cô đơn mà nàng thì cũng lẻ loi nên bà chị tôi và bà chị nàng đồng ý giới thiệu chúng tôi với nhau. Hơn năm sau chúng tôi làm đám cưới tại Georgia và nàng theo tôi về Minneapolis.
Hai chúng tôi đều là người lấy nhau muộn, nàng ba mươi ba còn tôi ba mươi lăm nên chúng tôi tranh thủ thời gian có con sớm. Năm sau đứa bé đầu lòng ra đời. Lúc mang bầu mẹ tôi nói thế nào cũng là con trai. Chúng tôi cũng tin tưởng lắm vì mẹ tôi là người có kinh nghiệm đẻ ba con trai và sáu con gái. Khi nàng đi khám bác sĩ chúng tôi muốn biết thằng cu hay cái hĩm thì bác sĩ nói không biết. Hóa ra bé Thanh là con gái. Bé xinh xắn nhất nằm trong nôi tại phòng sơ sinh. Chúng tôi nghĩ rằng bác sĩ Mỹ họ cho rằng dân Á châu thích có con trai đầu lòng nên bác sĩ không giám nói thật. Hai năm sau, một bé nữa ra đời. Cũng đi khám và hỏi trai hay gái thì bà bác sĩ nói ngay:" Ông bà sẽ có con trai. Nè! Thấy cái bị dái của nó không?" trong khi bà cho coi hình ultrasound. À! Ra thế!
Thanh lớn lên là chị cả với hai thằng em trai. Ra tay đàn chị từ nhỏ nên nó nói gì hai em đều phải nghe răm rắp. Nhưng khi ra ngoài Thanh rất nhút nhát và hay ngượng ngùng không thích giao thiệp với người lớn. Dạy học bên Mỹ cũng gay go lắm nhiều khi sáng không muốn ra khỏi giường đi làm nhưng khi mà nghe bé Thanh cười một cách hồn nhiên rộn rã là quên nỗi buồn lo và sẵn sàng đến lớp dạy học.
Vì là thầy giáo thích du lịch mà bà xã tôi cũng có máu giang hồ nên chúng tôi hè nào cũng đi chơi xa. Nhét ba đứa nhỏ trong xe mini van với đầy đủ lều chõng có khi còn thêm con chó. Chúng tôi lên đường khi thì cắm trại khi thì ngủ motel, hotel. Chúng tôi đã đi California, Canada, Washington DC, Chicago, Disneyland, Disney World... và các công viên quốc gia hùng vĩ như Bryce, Zion ở Utah, Yosemeti ở California, Yellowstone ở Wyoming, Badlands ở South Dakota và Grand Canyon ở Arizona.
Có lần tôi lái xe hơn 6,000 dặm từ Minnesota qua các tiểu bang miền Tây và lên tận Vancouver, Victoria ở Canada và về lại Minnesota. Có năm cũng đi California bằng xe mini van, tôi vì mệt quá buồn ngủ xe bay xuống ruộng ở Wyoming. May không ai bị thương. Nhưng xe không chạy được nên hãng bảo hiểm bồi thường vài ngày sau chúng tôi mua xe mini van kh´ác tiếp tục hành trình.
Có lần đến Công viên Yosemite cắm trại nhưng không đặt chỗ trước nên chúng tôi phải ngủ ngoài cửa công viên mà không có điện, nước hay cầu tiêu. Thức ăn phải treo lên cây sợ gấu đến lục ăn. Tôi phải lái xe hơn 10 dặm lấy nước đem về để uống, xúc miệng. Nàng Thanh thấy sô nước thích quạ cho chân vào rửa!
Tụi trẻ ngồi trong xe lâu và mệt. Có khi chúng trêu chọc nhau, đánh nhau trong xe nhưng chúng tôi thông cảm hứa hẹn cho đi ăn fast food, ngủ motel có hồ bơi hay đốt lửa trại. Thanh vẫn có tính ngang bướng không chịu xuống xe khi đến chỗ thưởng ngoạn, hai đứa em cũng làm theo không thèm bước ra nhìn dù có cảnh đẹp thiên nhiên như Grand Canyon và Bryce Canyon.
Chúng tôi còn bay sang Trung hoa, Nhật bản và Việt nam vào dịp hè với cả gia đình. Lương giáo sư không cao thì làm sao có tiền đi chơi ngoại quốc? Tôi thường viết grant trong chương trình "Funds of Teachers" và họ cung cấp ngân khoản đi du lịch với điều kiện phải dạy lại cho học sinh những gì đã học trong chuyến phiêu lưu. Các nhà giáo nào muốn biết thêm chi tiết về chương trình này cứ tìm kiếm trong google. Tôi may mắn được ba lần về thăm Việt Nam dẫn theo cả gia đình. Có lúc tôi đi dạy hè ở Trung hoa và Việt nam tại Phước Lộc gần Bà Rịa và thăm trường ở Nhật bản trong chương trình khác. Nhà giáo như tôi không bị giam cầm trong lớp của mình nhưng có cơ hội bay nhảy mở mang kiến thức, mở rộng tầm nhìn thế giới nhờ tài viết văn của tôi.
Các con tôi cũng nhờ các chuyến đi xa này mà chúng học được nhiều điều không có trong sách vở. Chúng biết được quê hương nơi chúng sinh ra và quê hương của bố mẹ chúng. Đó là cách cho chúng biết chúng là người Việt nam. Cuộc đời như một cuốn sách mà khi đi du lịch´ như là mở một trang sách mới. Nếu cứ ở nhà với mẹ mãi thì chỉ biết một trang biết ngày nào khôn!
Hiện giờ Thanh là một cô giáo ESL được sáu bẩy năm´. Hai chúng tôi là đồng môn tại Đại học Minnesota và tôi có bằng nào nó có bằng đó.Có năm tôi được đi sang Xian, Trung hoa dạy Anh văn mùa hè cho học sinh tiểu học.trong chương trình "Teaching in China". Họ cung cấp nhà ở, ăn uống và thăm viếng miễn phí. Bà hiệu trưởng phái tôi dạy một lớp còn nhà tôi lớp khác. Nhưng vì ngại không quen dạy nên nhà tôi phái cho Thanh và hai đứa em. Tuy lúc đó Thanh mới 15 tuổi nhưng nó có khiếu dạy học và làm cho lớp vui nhộn với các bài hát, các bài đàm thoại. Bà hiệu trưởng thích lắm. Kinh nghiệm quí giá này đã quyết định nghề nghiệp tương lai của nó.Chúng tôi chỉ hơn ngạc nhiên chút ít khi Thanh sau khi ra trường trung học và nói muốn làm giáo sư Anh văn.
Trước khi nhận dạy học ở Xian, chúng tôi đến Bắc Kinh trước. Điểm đầu tiên là chúng tôi đến thăm Thiên An Môn. Với con chúng tôi sau khi vượt nửa trái đất, đánh thức tụi nó khi hãy còn say ngủ mà dẫn đến đây như cái bãi đậu xe mênh mông chả có gì là đáng coi nên mặt ba chị em bí xi khi phải đứng chụp hình tại quảng trường này. Chúng nằng nặc không chịu vô thăm Cấm Thành. Sau khi dạy xong chúng tôi tính bay về nhà nhưng không có chuyến bay thẳng nên chúng tôi ghé qua Narita, Nhật ở mấy ngày. Narita có ngôi chùa rất lớn và đẹp nhưng tính nào tật nấy cô con gái rượu và hai thằng em ngồi ngoài không chịu vào. Nhưng chúng lại cười tươị hơn bao giờ hết khi thấy thấy tiệm Mc Donald's trong thành phố vì suốt hai tuần phải ăn cơm Tàu, cơm Nhật chúng nhớ cơm Mỹ.
Lâu lâu các con tôi ngồi ôn lại những kỷ niệm du lịch đáng ghi nhớ. Chúng thật là may mắn sống trong nước tự do có nhiều cơ hội đi chơi đó đây trong khi bố mẹ chúng trưởng thành trong chiến tranh ít khi được ra ngoài vòng đai thành phố.
Ngày mà Thanh thời trung học đi hẹn hò với anh bạn Mỹ lần đầu tiên chúng tôi cũng lo lắng lắm. Tôi phải làm tài xế đưa đón hai cặp này. Sau buổi này hai anh chị bỏ nhau không biết vì sao nhưng sau đó Thanh lại có anh chàng bạn trai Mỹ khác. Đứa này kém Thanh hai tuổi học cùng lớp với thằng em. Chúng tôi thấy thằng này cao ráo trông tàm tạm được nhưng tính tình ít nói, đến nhà không chịu chào hỏi một câu, học hành kém xa Thanh của tôi. Một hôm nó gõ cửa nhưng Thanh bảo chúng tôi đừng mở và nằm trốn trong phòng. Chúng tôi nghe bài 'Tình Lỡ" sao thấy thấm thía và mừng quá!
Chẳng bao lâu Thanh lại có bạn trai khác. Chúng tôi lại mừng hơn lúc trước vì anh chàng này là người Việt Nam sinh tại Mỹ, cao ráo, đẹp trai, trẻ hơn Thanh hai tuổi và có nghề đàng hoàng. Chúng tôi bắt đầu quen biết gia đình của bạn trai Thanh. Họ là người Bắc, theo đạo Công giáo và nhà có tám người con trai. Tuy khác đạo với chúng tôi nhưng thật là quí hóa thấy Thanh có chồng là người Việt nam. Anh chàng xin hỏi cưới Thanh khi tôi ở nhà một mình. Sau đó nó cầu hôn với Thanh theo kiểu Mỹ. Nó bí mật không cho Thanh biêt´ và rủ Thanh tới công viên ngay cạnh dòng sông ở Saint Paul và quì xuống xin bàn tay và trao nhẫn đính hôn với sự chứng kiến của các bạn bè. Trời ơi sao mà lãng mạn thế!
Sau đó đôi trẻ lo tổ chức đám cưới.. Bốn tháng trước ngày cưới chúng gửi thiệp "Save the Date" in bằng tiếng Anh tức là người nhận dành ngày này cho tụi nó. Sau đó hai tháng trước ngày cưới chúng mới gởi thiệp cưới, thiệp mời và thiệp phúc đáp. Người nhận có thể trả lời đi hay không bằng online hay gửi thư. Chúng tôi về Việt nam chơi và mua vải, kiếm thợ may áo dài cho cô dâu, chú rể và sáu cô phù dâu.
Sống ở đất Mỹ mà là người Việt nam khi có đám cưới hay đám ma là cả một vấn đề phải làm sao hợp với phong tục cổ truyền mà cũng không quá´ cổ hủ. Ma chê cưới trách không ai tránh khỏi. Khi hai đứa con Mỹ này viết gửi thiệp cưới mà chúng không biết cách xưng hô chỉ đề tên không. Thế là chúng tôi bị hai bà chị la. Con dại cái mang!
Thế là đám cưới cũng xong. Lễ gia tiên bắt đầu khi sáu chàng phù rể mang lễ vật tới với bánh quế, trà, rượu, trái cây và xôi gấc để trong mâm quả đỏ cùng con heo quay. Chú rể xúng xính trong áo dài thụng xanh đi sau. Anh tôi và chúng tôi ra chào đón nhà trai.. Sau khi nhà gái có sáu cô phù dâu nhận mâm quả nhà trai được mời vào trong nhà.
Cũng có bàn thờ với hai cặp nến đỏ, hai mâm ngũ quả và hình người đã khuất của hai họ. Tuy nhiên không được đốt nhang nên chúng tôi phải dùng nhang điện. Sau khi giới thiệu hai họ bởi anh của tôi và người đại diện nhà trai., Thanh, cô con gái rượu bước ra trong chiếc áo dài voan đỏ tân thờỉ, vạt sau dài lê thê và hở nửa lưng. Sau đó đôi trẻ đứng trước bàn thờ làm lễ gia tiên.
Cô dâu được hai bà mẹ tặng nữ trang. Sau đó cô dâu chú rể rót trà mời bố mẹ hai bên và họ hàng. Hai đứa gọi lễ này gọi là lễ trà "Tea Ceremony". Và chúng được trao tặng phong bì với những lời chúc trăm năm hạnh phúc. Sau đó là tiệc trưa potluck cho hai họ và bạn bè.
Ngày hôm sau thì là lễ cưới tại nhà thờ. Vì Thanh không vào đạo Công giáo nên lễ cưới cử hành đơn giản nhưng không kém phần trang trọng. Tôi khoác tay Thanh trong chiếc áo đầm dài trắng diễm lệ hở lưng đi vào nhà thờ với bao nhiêu mắt theo dõi. Đây là lần đầu và cũng là lần cuối.cho tôi. Thật là cảm động. Nhớ ngày nào tôi còn bế bé Thanh, dỗ dành´ khi bé khóc và dạy vài câu tiếng Việt. Bây giờ bé đã trưởng thành, sắp sửa nắm tay đi với chồng quãng đời còn lại.
Sau lễ nhà thờ là tiệc cưới tại Minneapolis Event Center ngay gần bờ sông Mississippi. Đám cưới thiệt là vui vì phần đông là giới trẻ bạn của hai đứa, khách gần 350. Đánh trúng tâm lý khách Việt nam, hai đứa chọn thực đơn Trung hoa phần đông là đồ biển và cho uống rượu thả dàn. Tiệc bắt đầu đúng giờ ´´ không như các đám cưới khác khách chờ bụng đói meo. Sau màn giới thiệu hai họ và trình diện đoàn tùy tùng và đôi trẻ là thức ăn nóng hổi được đưa ra. Chúng cũng mời chúng tôi đi chào bàn nhưng chỉ vài bàn người lớn tuổi thôi. Các bàn sau với đám khách trẻ ồn ào hơn, chúc tụng vang trời. Sau khi ăn xong, hai cặp ra sàn khiêu vũ mở đầu. Sau đó tôi được hân hạnh nhảy với cô con gái rượu lần đầu tiên trong bài "La Vie En Rose". Còn gì sung sướng hãnh diện bằng tay trong tay với cô dâu con mình!
Không như đám cưới bên Việt nam, bố mẹ thường chọn vợ chồng cho con cái, bố mẹ đặt đâu con ngồì đó, tổ chức lễ lạc ăn uống cũng do bố mẹ. Nhưng với chúng tôi thì khác hẳn. Chúng tôi chỉ giúp phần tài chánh và tổ chức lễ gia tiên còn bao nhiêu đôi trẻ lo lấy. Ngay cả việc ngồi bàn tiệc, chúng xếp chỗ cho chúng tôi. Đúng là con cái đặt đâu bố mẹ ngồi đấy! Tuy hai đứa sinh đẻ bên Mỹ, nói tiếng Anh sõi hơn tiếng Việt nhưng không quên văn hóa Việt nam. đó là một điều vinh hạnh cho chúng tôi. Mong trong tương lai con của chúng cũng vẫn giữ phần nào văn hóa Việt Nam trên đất Mỹ.
Đặng Hà Nội
***
1 - Tôi Sẽ Là Tôi Thôi...
Trong đời, tôi rất sợ bất cứ cái gì có liên quan đến...thi! Tôi cũng không hiểu tại sao người ta vô cớ lại nói là "thi cử" mà không nói là "Cử thi", nếu gọi như vậy thì có phải là vẹn vẻ cả đôi đường cho những người như tôi! Ít ra thì tôi cũng còn có cớ mà nói rằng "Đấy! Người ta bảo cử thi có nghĩa là kiêng thi, mà đã kiêng thì còn thi làm gì cho...xúi quẩy!". Nhưng ngôn ngữ vốn đã vậy nên tôi chả có cách nào khác để mà tránh nó, nên dù không thích, tôi cũng ngậm ngùi đối mặt với cái sự thi vài lần.Đầu tiên là thi tốt nghiệp...tiểu học! Hành trình để chuẩn bị bước vào lớp đệ thất của tôi "gian nan" không thể nào kể xiết, mẹ tôi là người đồng hành với tôi trên từng cây số đoạn trường, vì lo tôi ôn luyện quá sức mà tổn hao sức khoẻ nên bà tuyển không biết bao nhiêu là loại đậu đem về tẩm bổ cho tôi, nhân thể lấy cái hên từ chữ "đậu". Thế là đậu đỏ, đậu nành, đậu xanh, đậu ngự tôi ăn tuốt luốt mấy chục loại đậu nên yên chí lớn chữ rớt đừng hòng còn chỗ chen vô.
Đến ngày, khu vực thi dù giám thị đi qua đi lại dòm dòm, ngó ngó tôi cũng chẳng lo gì sất. Tôi làm bài một mạch là xong, chắc ăn như một với một là ba rồi. Chưa kịp rời bàn thì từ ngoài cửa sổ phía sau lớp ai đó bắn vèo vào một tờ giấy, tôi tò mò nhặt lên vừa mới mở tờ giấy chưa kịp đọc thì tôi bị bắt quả tang! Thế là tôi bị trân trọng mời ra khỏi phòng thi và không cần phải hỏi, sau đó kết quả số phận của tôi ra sao cũng biết rồi. Cuộc thi đầu tiên trong đời tôi bị trượt vỏ chuối. Tôi ngờ rằng trong các loại đậu mẹ cho tôi ăn có nhằm một loại là Đậu-Phải-Cành-Mềm nên tôi lộn cổ thẳng vô một trường tư thục thay vì trường công như các bạn bè của tôi. Tiếp đó tôi vẫn ba chìm bảy nổi thi với chả cử, có lẽ vì yêu mến chiếc bàn lớp cũ nên cứ hai năm tôi mới nỡ lòng từ giã nó để lên lớp trên. Mẹ tôi bực quá nói "Học dốt quá thì thôi nghỉ học ở nhà tập nấu cơm, nội trợ cho quen việc bếp núc đi, con gái học cho lắm cũng chỉ để viết thư cho...mèo thôi!". biết làm sao được, thực ra tôi rất muốn mình...thông minh để không phụ lòng cha mẹ, nhưng chữ nghĩa tại nó không chịu ở trong đầu tôi chứ nào phải tôi không cho nó ở!
Nhắc lại việc mẹ tôi mắng!Nói câu gì không nói lại nói câu "...học cho lắm cũng chỉ để viết thư cho mèo...", nên câu này ám ảnh vào trí nhớ khiến tôi suy nghĩ mãi đến chữ "mèo". Mèo là gì? Tất nhiên không phải là con mèo tam thể suốt ngày lười biếng nằm khoanh ngay bục cửa nhà chỉ chờ dịp để ỏng ẹo mỗi khi có ai đưa tay vuốt vào bộ lông mượt êm của nó. Tôi nghiền ngẫm và hiểu rằng mèo phải là một thứ gì đó quan trọng lắm với con người để đến nỗi có học cho nhiều vào thì (trước hết) cũng chỉ để viết thư cho "nó" thôi.
Hết lòng khám phá điều gì người ta sẽ đạt được điều đó! Cuối cùng tôi cũng biết khi một hôm tôi nghe bác hàng xóm ngắm nghía anh con trai của mình rồi buột miệng:
-Dạo này mày cứ hay cười mím chi một mình, tóc tai còn xức dầu dừa láng mướt, có mèo rồi hả con?
Rồi thím láng giềng khác quở con gái:
-Tự nhiên mày chững chạc hẳn ra, một ngày mấy sắc áo. Chắc có mèo rồi chứ gì?
Và trong một đoạn vọng cổ, tôi nghe chú Văn Hường diễn tả nỗi nhớ:
-...nhớ em như tết nhớ bánh chưng, hừng đông nhớ rượu, nửa đêm nhớ mèo...
Tôi vỗ tay vào trán la lên "Tôi hiểu ra rồi!". Như vậy "mèo" đích thị là tên gọi để chỉ một người được yêu thương, là hai người dưng khác họ như ba với má tôi. Vậy có mèo, có nghĩa là có người yêu sẽ giúp người ta biết trau chuốt nhan sắc của họ hơn và dĩ nhiên ở nhiều phương diện khác, họ cũng sẽ hoàn thiện hơn, chứ đâu có gì là xấu...
Nhưng với tôi lại khác, từ khi mẹ tôi kết thúc cuộc đời học sinh thơ mộng của tôi bằng câu "...học cho lắm cũng chỉ để viết thư cho mèo..." thời gian thấm thoát cứ đi qua mà việc ấy vẫn không xảy ra dù tôi đã đến tuổi cặp kê. Trong khi bạn bè của tôi ai cũng có một mảnh tình vắt vai để đêm nằm thao thức nhớ nhung thì tôi vẫn không lọt được vào mắt xanh của ai để mà có cơ hội...viết thư! Không phải là tôi thiếu những cuộc gặp gỡ, tiếp xúc với bạn khác phái, nhưng tôi không hiểu tại sao chỉ qua vài câu chuyện là họ tìm cách lảng đi, hoặc tiếp tục thì họ cũng lơ là có vẻ không nghe tôi nói. Tôi phải gây sự chú ý bằng cách cười thật to, nói thật lớn và nếu vẫn không khiến họ quay lại nhìn thì tôi sẽ tìm cách chen ngang vào câu chuyện họ đang nói với nhau, nhưng cuối cùng tôi chỉ nhận ở họ cái cau mày, lắc đầu rồi im lặng...
Nhưng phận tôi sao mà hẩm hiu được, vì tôi còn con Mận, con Đào, thằng Vui, thằng Tốt. Tụi nó là bạn học cũ của tôi, tụi nó rất có tình nghĩa. Con Mận nói:
-Tụi mình là bạn với nhau, dù lúc còn đi học mày luôn đội sổ không theo kịp tụi tao thì cũng là học cùng thầy, cùng lớp. Tụi tao không phân biệt nên rất thương mày...
Con Đào an ủi tôi:
-... mấy người kia nói mày ăn nói vô duyên. Nồi nào thì úp vung đó, bộ trên đời này không có ai vô duyên để hợp với mày? Chắc chắn có ngày sẽ gặp, chỉ là chưa đến lúc thôi. Cứ lo bò trắng răng...
Thằng Vui trấn an tôi:
-Mày yên tâm không sợ ế, sau này nếu tao không tìm được ai là người thích hợp, thì tao sẽ cưới mày...
Thằng Tốt gợi ý:
-Sách luôn cho ta những điều hay, mày nên dành thời gian đọc nhiều sách để học hỏi. Dần dà đầu óc cũng mở mang ra, mày sẽ biết cách làm sao cho mình tốt hơn khi đã tiếp xúc nhiều với kiến thức của nhân loại.
Vì tôi là người biết lắng nghe lời góp ý của người khác nên tôi thực hiện ngay theo lời các bạn thân mến của tôi. Tôi ra quày sách đầu tiên là thuê truyện chưởng về đọc ngấu nghiến mong học hỏi từ sách như lời khuyên của bạn. Tôi ráng học những câu đối thoại của các nhân vật trong đó để áp dụng khi gặp trường hợp tương tự. Rồi tôi cũng có vài đổi thay nhờ...sách! Nhưng con Mận phản đối:
-Dạo này mày dùng ngôn ngữ thấy kỳ kỳ sao ấy. Cái gì mà bổn cô nương với tại hạ rồi còn đòi điểm huyệt...
Tôi thay truyện chưởng bằng truyện trinh thám, lại ghi nhớ những điều mà tôi thấy đáng nhớ. Tôi kể lại những gì xảy ra quanh tôi;
-...tao thấy có một anh chàng mới xuất hiện, hình tung rất khả nghi không biết có phải là học trò không? Cần phải theo dõi rồi mới kết luận được, hôm qua hắn hát bài gì đó hay lắm, tao đang điều tra xem đó là bài gì...
Con Đào lắc đầu ngao ngán khi nghe tôi nói chuyện:
-...Cứ vắn tắt là có một anh chàng mới đến thuê nhà trọ gần nhà mày, chưa biết anh ta là người thế nào, chứ phải rắc rối suy diễn làm gì rồi điều tra với lại theo dõi...
Tôi không đọc truyện trinh thám nữa mà chuyển sang truyện...ma! Lần này thì các bạn của tôi không dám bén mảng đến nhà tôi ban đêm vì tụi nó nói nghe tôi nói chuyện cứ tưởng đang lạc vào nghĩa địa. Trời ạ! Thế thì tôi sẽ là tôi thôi với những cái mà ai đó cho là nói chuyện vô duyên! Trời sinh sao để vậy, tôi có cố thành...người khác cũng không xong.
OoO
Vỹ! Tên gã con trai mới đến làm hàng xóm của tôi chồm qua hàng rào đưa cho tôi một tờ giấy, tự nhiên nói:
-Lan này! Đây là bài Gởi gió cho mấy ngàn bay tui chép dùm cho nè, Lan hát hay lắm nhưng sai lời tùm lum.
-Tui thích hát sai cho nó đặc biệt mà, sao có người tốt chép dùm...(Rồi tôi đưa tay đón lấy tờ giấy chứ ngu gì không nhận)
-Lan vui tính quá... (hắn cười nhận xét trước khi quay lưng)
...thời gian thấm thoát thoi đưa, Vỹ lại chồm qua hàng rào đưa cho tôi một tờ giấy. Lần này thì không tự nhiên như lần trước:
-...ơ...ơ...Lan! Cho tui gởi cái này!
-Gì vậy? (Tôi nhướng mắt nhìn tờ giấy trên tay Vỹ)
Vỹ đưa tay gãi gãi đầu không nhìn tôi, ngập ngừng:
-Thì...thì nhận đi, chút nữa xem rồi biết.
Tôi đưa tay ra đợi:
-Thì đưa đây.
Vỹ thả tờ giấy vào tay tôi rồi quay lưng chạy nhanh vào nhà. Tôi cũng vội vàng trở vào để xem hắn viết cái gì. "...từ hôm đến đây làm hàng xóm của Lan, tui rất muốn xin làm bạn với Lan mà sợ Lan không chấp nhận.Hôm nay sau mấy đêm suy nghĩ, tui quyết định viết đôi dòng gởi đến Lan, mong Lan đừng từ chối tấm chân tình này. Tui xin thành thật nói rằng tui rất mến Lan...được làm bạn với Lan chắc là tui hãnh diện lắm..."
Tôi đứng ngớ ra mấy giây! Hổng lẽ đây là người vô duyên mà các bạn tôi nói chắc chắn có ngày tôi sẽ gặp, đã xuất hiện rồi sao?...
Hồ Thị Mỹ Hạnh