1 - Bông Hồng Phố Cổ ......Bùi Kim Chi 2 - Bóng chân - Miêng Paris 3 - Khoảnh Khắc Sống ...Bùi Kim Chi 4 - Con Thuyền Chén Đĩa...Quý Thể 5 - Phế Tịch Huy Hoàng....Quý Thể 6 - Đôi Mắt Hình Chiếc Lá...Bùi Kim Chi 7 - Nàng Thơ....Quý Thể 8 - Trăn Trồi..MIÊNG 9 - Tình Thù Rực Lửa....Quý Thể 10 - Trầm Hương ... MIÊNG 11 - Chiếc Đồng Hồ ...Quý Thể 12 - Thằng Tít Rằn.. Từ Sâm 13 - Chuỗi Hạt Cườm....Nguyễn Chính 14 - Tín Hiệu Mùa Xuân...Quý Thể 15 - Người Đàn Bà Kể Chuyện....Quý Thể 16 -Mộng Bá Vương....Quý Thể 17 - Người Đàn Bà Kể Chuyện....Quý Thể 18 - Cà phê mùa xuân....Quý Thể 19 - Thành Phố Buồn Tên...Hai Hùng 20- Bức tường và đứa bé...Trần Hạ Tháp 21 - Chữ Tình ....Quý Thể 22 - Sự Trả Thù Của Tiềm Thức....Quý Thể 23 - Lời Nói Một Buổi Chiều.......Vũ Hồi Nguyên 24 -Một Bông Hồng Trắng.... Ngô Tằng Giao 25 -Song Sinh...Miêng 26 - Thuỷ Quái.....Xuân Sương 27 - CHỊ.......phần 1.....Phần 2......Lê Lành 28 - Và Mỗi Lần NOEL Đến .....Phan Trang Hy 29 - Giáng Tiên.....Quý Thể 30- Hồi Ức Thuở Biết Buồn....Hai Hùng 31-Câu Chuyện Kể Vòm Hang.....Trần Hạ Tháp 32 -Nếu Có Một Ngày......Hai Hùng 33- Sông Đời Xuôi Chảy 34- Người Đàn Bà Nỗi Nhớ.....Nguyễn Văn Phong 35 -Ghét Ơi Là Ghét.....Hai Hùng 36 -Xin Hãy Giúp Tôi......P S 37-Cõi Niết Bàn Tuổi Thơ 38 -Núi Đợi ...... B T N Lan 39 -Tuổi Thơ......Tôn Nữ Thu Nga 40- Chiếc Đồng Hồ Vàng......Vũ Thanh Hoa 41
40- Chiếc Đồng Hồ Vàng
Bố mẹ mất sớm, là anh cả của 6 đứa em nơi vùng quê nghèo nhất nước, Sinh lặn lội lên thị xã B. ở nhờ nhà ông Tuyên, ông chú họ xa bên mẹ . Vợ chồng ông Tuyên khá giả lại không có con nên thương yêu Sinh như con đẻ. Ban ngày Sinh phụ việc ở quán ăn của chú thím, tối đi học.
Một tối học về muộn, vợ chồng chú đã lên phòng nghỉ, Sinh thấy chiếc đồng hồ vàng rất xịn ông Tuyên thỉnh thoảng vẫn đeo để trên bàn. Không kìm mình được, Sinh giấu chiếc đồng hồ vào người rồi len lén ra phòng ngoài chùm chăn ngủ...Sáng sớm, Sinh đem chiếc đồng hồ ra cửa hàng bán được 3 triệu, gửi tiền về quê cho các em ăn học.
Mấy hôm sau, vợ chồng ông Tuyên mới phát hiện mất đồng hồ. Ông bà nghĩ chắc để quên ngoài quán, khách hàng lấy. Sinh nghe ông Tuyên bảo vợ:
- Tôi không chỉ tiếc giá trị cái đồng hồ mà tôi còn tiếc vì đó là vật kỷ niệm của ông thầy dạy nghề đã tặng tôi trước khi mất...
Ông Tuyên buồn bã suốt một thời gian. Sinh hối hận quá nhưng không thể thú nhận với chú thím.
Năm tháng trôi qua, Sinh đã học xong và ông Tuyên xin cho cậu vào làm việc ở một công ty kinh doanh đồ may mặc. Sáng dạ, cần cù nên chỉ thời gian ngắn, Sinh đã được ông chủ cho làm quản lý một đại lý nhỏ ở thành phố S. Đại lý ngày một phát đạt. Mấy năm sau, Sinh được đề bạt làm phó giám đốc công ty. Cậu đi xe hơi láng coóng, tay xách lap-top, tay nghe điện thoại di động, trông thật oai phong.
Rồi Sinh mở công ty riêng và trở thành một Tổng giám đốc nổi tiếng. Các em Sinh cũng đã chuyển lên thành phố, đứa lấy chồng, lấy vợ, đứa học đại học...
Một hôm đang ngồi dự tiệc với quan khách, Sinh nhận được điện thoại của bà Tuyên :
- Chú bệnh nặng lắm rồi, con nên về gặp chú...
Sinh vội lao ra cửa, trước bao cặp mắt ngạc nhiên của các vị khách quý. Trên đường lái xe về thị xã B., nước mắt rơi nhòe đôi mắt của ông Tổng giám đốc trẻ. Đến thị xã, trời đã sáng, Sinh không về ngay nhà chú mà lái xe đến cửa hàng đồng hồ ngày nào. Cửa hàng chưa mở, cậu nhẫn nại đứng bấm chuông. Một bà già to béo, nhăn nhúm như quả táo tàu, vừa mở cửa vừa làu bàu:
- Khiếp! Có chuyện gì mà cậu khủng bố cửa hàng chúng tôi sớm thế!
- Cô ơi...Cô có nhận ra cháu không
Bà chủ tiệm nheo mắt nhìn, lắc đầu:
- Chịu. Tôi bây giờ quên nhiều lắm, hình như cậu là ông lớn...
- Cô ơi, cháu là thằng bé năm xưa đã mang chiếc đồng hồ vàng bán cho cô. Khi đó cô đã bảo là sao lại có cái đồng hồ đẹp chưa từng thấy bao giờ ấy...
Bà già ngẩn ra một lát rồi gật gù:
- À, nhớ rồi! Cho đến giờ tôi cũng chưa mua được cái đồng hồ nào đẹp hơn . Dạo ấy tôi trả cậu mấy triệu, tôi thấy cậu bán ngay nên rất mừng...
- Bây giờ còn không hả cô
Bà già luồn tay vào túi áo, lấy ra một chùm chìa khóa, đi vào nhà trong, Sinh nghe tiếng bà mở cẩn thận ngăn tủ bí mật nào đó. Lúc sau bà mang ra cái hộp nhỏ màu xanh, trong đựng chiếc đồng hồ vàng còn mới nguyên, bảo:
- Nó đẹp quá nên tôi chẳng dám dùng, cất đi để xem ai trả giá thật hời mới để lại...
Run rẩy vì xúc động, Sinh vội hỏi bà chủ muốn để lại bao nhiêu, bà già hơi lúng túng rồi đưa ra một cái giá bà vừa nghĩ ra . Không chần chừ, Sinh rút ngay tiền trả.
Trên đường về, thỉnh thoảng Sinh lại liếc nhìn cái hộp xanh, thầm hứa với lòng mình sẽ thú thật tất cả với chú thím...
Sinh chạy vội vào phòng trong nơi chú Tuyên nằm. Chú bây giờ chỉ còn da bọc xương, không nói được nữa nhưng vẫn nhận ra đứa cháu yêu quý. Tia vui mừng hiện ra trong ánh nhìn của chú, Sinh nắm chặt tay chú rồi vội lấy ra chiếc hộp nhỏ, cậu vừa định mở lời thì thấy đôi mắt chú khép lại...chú đã đi về cõi vĩnh hằng...
Ngày nọ, người ta thấy một người đàn ông ăn mặc sang trọng, đi chiếc xe hơi đắt tiền, dừng trước ngôi mộ ông Tuyên, anh quỳ xuống , thầm thì gì đó khá lâu , sau đó lấy ra một cái hộp nhỏ màu xanh, rất nâng niu, anh châm lửa hóa. Chắc hẳn trong đó là một vật rất quý giá.
Vũ Thanh Hoa
***
39 - Tuổi Thơ
Đời sống của ông nội tôi lúc tuổi già thật là an bình, khi ông chết, ông cũng giã từ cõi thế một cách êm ái. Mỗi buổi chiều, ông hay thẩn thơ ngoài vườn nhổ cỏ dại, bắt ốc sên, săn sóc mấy bụi hoa trang, hoa tỷ muội. Hôm ấy, ông làm vườn xong, trở về phòng, lọc một cốc cà phê, uống xong, ông đặt lưng trên tấm phản gụ, nhắm mắt nghỉ ngơi và sau đó ông không bao giờ thức dậy nữa.
Năm ấy, tôi mới mười hai tuổi, cư ngụ tại Nha Trang, "da đen như mọi". Cô tôi chê cháu vì ham tắm biển. Buổi trưa đi học mới về, nghe tin ông mất, trái tim tôi trĩu nặng. Thế là hết những lần ông vào Nha Trang thăm cháu, đến tận trường học đón tôi về, kiên nhẫn chờ cho cháu xong việc quét lớp. Biết tánh tôi láu cá, nhanh mồm miệng đỡ chân tay, lúc nào cũng chỉ ra các chỗ dơ cho bạn quét, ông cưng tôi lắm nên thường khen cháu: Con ni giỏi tài chỉ huy, thay vì chê tôi biếng nhác không chịu làm việc. Hết rồi những chiều hai ông cháu ngồi bên cửa sổ nhâm nhi cà phê, hóng gió biển, đàm luận truyện Tàu, không còn nắm tay hai chị em tôi đi dạo trên biển, mua đậu phọng luộc hoặc cà rem cho cháu. Trưa hôm ấy sau khi nghe tin ông mất, tôi bỏ học trèo lên cành cây chùm ruột chót vót tận trên cao, ngồi yên không cho ai thấy mình, chỗ trốn tránh quen thuộc của tôi mỗi khi tâm than bất ổn.
Tối hôm ấy, anh tài xế vừa tu chỉnh xong chiếc xe Dauphine màu hồ thủy của ba. Chúng tôi chồng chất lên xe bắt đầu cuộc hành trình vội vã. Trong sự đau buồn, mặt ba thật là nghiêm nghị nên đứa nào cũng im thin thít, kể cả Lương. Chú ta vừa mới bị té vỡ đầu chảy máu hôm qua vì sự nghịch ngợm của tôi, dù đau hắn cũng không dám nhỏng nhẻo nhè khóc nữa. Đầu Lương bị quấn một khúc vải trắng như khăn tang làm hôm nay mấy cụ hàng xóm lắm miệng xuýt xoa cho đó là điềm gở.
Bốn đứa con chua mùi mồ hôi, tóc khét nắng biển ngồi băng ghế sau, nép sát vào mẹ như một bay heo con. Mẹ tôi gầy như cây liễu, dang vòng tay ôm các con lẳng lặng nghe từng hơi thở khi chiếc xe ru bầy con vào giấc ngủ.
Trong đêm tối có khi xe bị chận xét giấy bởi mấy người "phe bên kia", sau này mẹ cho tôi biết, lúc ấy tôi chỉ nhớ những gương mặt đen sạm, xương xẩu, súng kẹp bên mình, ánh mắt tò mò ngó nhìn bầy trẻ trong xe và những bàn tay lật mấy mảnh giấy tờ hộ thân của đám người lớn. Ba hôm sau qua bao nhiêu gian khổ chúng tôi mới về đến Huế.
Chuyến về lại Nha Trang, ba sợ bị " phe bên kia" bắt vì tình hình trở nên biến động, ba cho chú tài đem xe về trước, cả nhà về bằng máy bay. Đó là chuyến hành trình cuối cùng về Huế của gia đình tôi.
Xe vừa qua khỏi chợ Cống, mấy người làng đã nhận ra ba tôi, gật đầu chào và tò mò nhìn chúng tôi chăm chú qua cửa xe hơi. Xe chạy chậm trên con đường gồ ghề, tránh trẻ con và các cô bán hàng mặc áo dài, gánh hàng hóa thoăn thoắt len lỏi trong những đường kiệt. Bọn trẻ con thật là tinh nghịch, có đứa trèo lên cảng xe đánh đu tòn ten làm anh tài xế phải thò đầu ra khỏi cửa và la lối ỏm tỏi. Có người hàng xóm đạp xe đạp bấm chuông lanh canh, nhanh nhẩu chạy trước mũi xe, hân hoan thông báo lớn tiếng cho những khuôn mặt tò mò:
-Ông Quận về thọ tang...
Người trong làng quen gọi ba tôi là ông quận vì có một thời gian ba tôi được bổ đi làm Quận Trưởng trên vùng cao nguyên và chúng tôi đã sống và tiếp xúc thật gần gũi với dân Ra Đê. Đối với người dan chân thật và mộc mạc, những công việc ba tôi làm có một tầm vóc lớn và đáng chiêm ngưỡng. Vì vậy ba tôi trở thành một ông quận bất diệt trong lòng thiên hạ. Anh ta lặp đi lặp lại câu nói này cho tất cả các người làng chúng tôi thấy trên con đường dẫn về nhà nội.
Theo lời mẹ dạy, khi đến nơi, chúng tôi vòng tay chào hỏi cả mấy chục người bà con chú bác, kẻ xoa đầu, người bẹo má làm tôi rất là khó chịu, lại phải vòng tay trả lời bao nhiêu là câu hỏi lăng nhăng... Cô tôi chê:
-Bọn ni noái tiếng trọ trẹ!
Lũ trẻ con hàng xóm bu ngoài cửa tò mò ngắm nghía bọn trẻ vừa đến từ Nha Trang, như những kẻ mới đến từ một hành tinh khác. Bác Ben, tuy được chúng tôi gọi bằng bác nhưng chỉ lớn hơn tôi vài tuổi, rủ rê:
-Đi hái ổi không?
Không chờ mẹ cho phép, tôi chạy theo bác, trốn ra vườn. Ổi nhà nội năm nay sai trái, mơn mởn treo trên những nhánh vừa tầm tay với, tôi ham hố bẻ trái nhét đầy hai túi. So sánh với khoảnh vườn nhỏ bé của ba tôi ở Nha Trang, vườn nhà nội như một thiên đàng hạ giới. Tôi quanh quẩn nhìn ngắm những cây thanh trà, cây mít lủng lẳng quả, sờ buồng chuối dài ngoằn chi chít trái. Tôi rong ruổi vẩn vơ trong thiên đường xanh của mình, thẫn toĩ ngồi dưới gốc cây nhãn, nhìn lũ kiến đỏ cần cù làm việc, bên tai tôi văng vẳng tiếng đàn sáo ai oán não nề. Nghe tiếng nhạc, tôi lững thững trở ra san trước. Mấy người nhạc công mặc bộ áo lương đen, đầu đội khăn đóng, còng lưng cù cưa kéo nhạc trên chiếc chiếu cạp điều. Trước quan tài ông nội, mấy người đàn bà lạ mặt vật vã than khóc inh ỏi. Thấy tôi, cô Khánh vẫy tay:
-Nì, mi tới kêu mấy mụ nớ xuống bếp ăn cơm trưa.
Tôi nhíu mày nhìn cô:
-Họ đang khóc than như rứa làm răng mà kêu đi ăn được chớ?
-Không răng mô, mi cứ kêu mấy mụ xuống ăn cho có sức mà khóc tiếp.
Tôi dùng dằng không muốn làm theo ý cô. Cô giậm chân:
-Con ni lì quá, răng tau sai mà mi không làm? Tau khỏ một cái chết!
Tôi nhăn nhó :
-Con kêu họ bằng chi?
Tôi muốn biết cách xưng hô cho đàng hoàng lịch sự để không làm mất lòng họ khi tôi cả gan cắt đứt nỗi thương tâm của họ đối với người quá cố.
-Con ni nhiều chuyện, hỏi chi lắm rứa, mấy mụ nớ trong làng, thấy nhà có đám ma, tới khóc lóc rứa cho có tình nghĩa chòm xóm, rồi để được mời ăn uống và ba mi cho tiền đó mà... Hiểu lời cô, tôi chạy lên hiên, khều nhẹ người đàn bà đang bù lu bù loa kể lể:
-Thím ơi, cô con mời xuống bếp ăn cơm.
Người đàn bà lấy cái khăn loang lổ sặc mùi dầu khuynh diệp, lau mặt, khều khều hai người bạn đồng nghiệp. Cả ba người nhanh nhẩu đứng lên, chợt họ lom khom xá lia lịa trước quan tài khi thấy ba tôi bước ra từ phía sau tấm trướng. Ba tôi cũng chắp hai tay xá lại mấy cái trả lễ.
Họ lui ra mép chiếu, quơ chân tìm guốc xỏ vô, le te băng qua sân đi vào bếp. Giờ này các nhạc công cũng đã ngưng chơi nhạc để xuống bếp ăn trưa. Tôi len lén đến bên chỗ họ gác nhạc khí, tò mò nhìn mấy cái đàn bầu, đàn nguyệt. Tôi khe khẽ lấy ngón tay lảy nhẹ trên sợi dây mong manh, lắng tai nghe tiếng nhạc cô độc rung lên, lòng bất chợt nghẹn ngào. Trong ánh sáng âm u của gian phòng chính, chiếc quan tài ông nội im lìm, những ngọn nến leo lét cháy, sáp chảy hai bên như những giọt lệ. Mùi sáp, mùi hương trầm thoang thoảng trong không gian, tôi hình dung gương mặt ông mơ màng sau làn khói thuốc, tiếng ông ngâm thơ nho nhỏ bên cạnh tôi ngày nào không xa lắm ...cánh hạc bay lên vút tận trời...trời đất từ đây xa cách mãi... ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi...Lấy tay quẹt những giọt nước mắt lả tả trên má, lần đau trong cuộc đời nhỏ bé của mình, tôi cảm thấy nỗi mất mát, nhìn xuống ngón tay mình trên sợi dây đàn, nghe âm thanh chìm trong tiếng ve ve mùa hạ. Tôi tiếc nuối cánh hạc vàng đã bay đi, nếm những giọt nước mắt mằn mặn trên môi và hiểu rằng từ nay, ông và tôi sẽ cách xa mãi mãi.
Bà nội tôi chết từ lâu, ông nội có thêm một bà hầu khác mà chúng tôi gọi là bà Dì. Bà Dì trẻ hơn ông nội nhiều tuổi, thích se sua chưng diện. Trong dòng họ ai cũng chịu đựng bà vì biết rằng ông nội vui lòng khi có bà bên cạnh. Bà như một cái bóng, không âm thầm lắm vì tôi hay nghe các cô, các bà trong họ nói hành nói xách bà Dì trong những ngày giỗ chạp. Những dịp này, họ tha hồ hội họp, bép xép trò chuyện những gì xảy ra trong dòng họ. Tôi thích lân la bên cạnh mẹ, bà vú già và các cô xem nấu nướng, làm bánh ít, bánh bột lọc, bánh nậm và bánh hoa hồng. Các bà vừa nấu ăn vừa chuyện trò rối rít. Tôi thường được giao nhiệm vụ hơ lá và bẻ hộp cho bánh su sê. Hơ lá có nghĩa là cầm tấm lá chuối tươi xé sẵn đúng khuôn khổ, hơ trên lửa tan âm ấm. Miếng lá chuối trở màu, mềm dịu để gói bánh cho khỏi rách. Cô Khánh dạy cho tôi cách làm hộp lá dừa cho bánh su sê.Tôi thích việc này vì hợp với tính tỉ mỉ và khéo tay của mình, hơn nữa, tôi hay được các cô xuýt xoa khen ngợi, mẹ tôi rất hãnh diện, bà thường mỉm cười nhìn tôi với ánh mắt thật đầm ấm. Bà Dì không có tài năng chi cả vì là con gái nhà quê, không được trau giồi nữ công như các mệ hoàng phái. Bà có tài đi chợ vì biết trả treo, mà cả với bạn hàng rất giỏi, không ngượng miệng. Thế mà miệng đời ác độc hay gièm pha rằng bà ăn bớt tiền chợ và giấu tiền bạc của ông nội để đem về Nam Phổ cho gia đình. Cô tôi chọc ghẹo : Con gái Nam Phổ ở lỗ trèo cau... dĩ nhiên là khi không có bà dì lảng vảng gần bên.
Cách đây sáu năm, tôi mới học xong mẫu giáo, về Huế nghỉ hè từ miền thượng du đất đỏ. Hàng ngày tôi lẽo đẽo theo bà Dì đi chợ, có khi hai bà cháu xuống Vân Dương để bà đi đòi nợ. Năm lần bảy lượt chưa chắc đã đòi được nợ nhưng bà vẫn cứ đi. Trên con đường đê nhỏ, tôi chạy nhảy tung tăng, lâu lâu trật chân té xuống ruộng giẫm bùn be bét, bà kéo tôi lên xem xét vỗ về. Tôi nắm tay bà hát nghêu ngao... Con gái Nam Phổ ở lỗ trèo cau... Bà giựt tay ra, giận dữ:
– Đứa mô dạy mi câu nớ ?
Ánh mắt bà quắt sáng long lanh, cặp chân mày nhỏ như sợi chỉ cau lại, mặt bà đỏ bừng rồi tái mét. Tôi sợ rúm cả người, biết bà giận nhưng không hiểu vì sao. Bà ray rức, căn vặn tôi làm tôi mếu máo khóc. Sợ tôi mách ông nội, bà thôi không hỏi nữa lặng im lủi thủi đi trong bóng hoàng hôn nhập nhòa, tôi nối gót bà, lếch thếch chạy theo. Lòng tôi hồi hộp sợ hãi, trên những con đường làng nho nhỏ, bóng tối bắt đầu lấn áp vạn vật, những thân tre xao xác, vươn cánh tay dài ngoằn trong gió. Bầy chim sáo về trong đám lá xôn xao rục rịch kêu lên những âm thanh thật buồn.
Từ đó, tôi không bao giờ nghêu ngao câu " Con gái Nam Phổ" nữa. Tuy nhiên tôi không bao giờ nghĩ rằng mình có lỗi gì với bà cả. Chung quanh tôi, bọn trẻ con trong xóm cởi truồng tồng ngồng, chúng nhảy xuống sông bơi như con nhái chẳng có gì là xấu hổ.
Sau bảy ngày tang lễ, linh cữu ông nội được đem chôn trên núi Ngự Bình, trong một miếng đất của dòng họ, bên cạnh ông cố và bà cố.
Đám tang ông nội rất vui, theo ý kiến non dại của tôi thuở ấy. Một đoàn người đông đảo cờ quạt, trướng liễn, vòng hoa cườm. Các cô tôi rải vàng bạc đầy đường, vừa rải vừa khóc mếu máo. Ba tôi là trưởng nam, mặc áo tang trắng te tua, cầm gậy đi ngược trước linh cữu, bọn tôi đứa nào cũng mặc áo mới ố các ông thợ may gọi như vậy khi chúng tôi vừa đến ố đeo khăn tang trắng. Ba mẹ và các cô, chú đội thêm một cái mũ đơn sơ may bằng vải thô sùm sụp. Các chắt chút chít gì đó thì đội mũ vàng. Đám rước có ca nhạc trống chiên inh ỏi, ba bà hôm nọ cũng đi theo, vật vã khóc than thê thiết, có vẻ hiếu thảo với ông nội hơn cả ba mẹ và cô chú tôi.
Trong dịp này, điều tôi nhớ hơn cả, là gánh bún bò của chị Ẩm. Tôi không thấy chị trong lúc đưa ma nhưng sau khi hạ huyệt thì tôi thấy chị ngồi múc bún cho khách ngay giữa những nấm mộ. Chị ngồi trên cái đòn gánh, bên phải chị là nồi nước bún đỏ rực ớt màu. Quanh nồi úp san sát những cái bát sành, nắm đũa, muỗng. Bên trái chị là một rổ bún trắng tươi, thêm một rổ rau răm, rau thơm và hành ngò thái nhỏ. Chị múc thoăn thoắt miệng hỏi lia: -Bác ăn chi cháu múc?
Người thì nói:
-Chị cho tui một bát không giò, nhiều thịt hỉ !
Kẻ đòi hỏi:
-Cho tui hai cái giò móng hỉ ?
-Bát tui không cay nghe.
-Răng chị ni cho ít bún rứa?
-Cho tui miếng chanh nghe!
-Chao ơi, trái ớt ni cay vô hậu!
Bây giờ tiếng sụt sùi, xuýt xoa, và những giọt lệ ứa trên mi không phải cho người quá cố nữa mà vì những tô bún bò nồng nàn của chị Ẩm. Trên nấm mộ mới, những người phu đắp mộ dùng những cái đầm đất dện ình ình cho đất nện cứng trên quan tài, vừa nện đất họ vừa hát những bài vè có vần có điệu. Trên thành mộ bà cố, ba tôi ngồi trầm ngâm, nét mặt không vui, không buồn. Tay ông cầm xấp tiền dày cộm chắc để phân phát cho các nhạc công, ba bà khóc mướn, và mấy anh phu hòm. Thấy tôi tần ngần đứng bên, ba hỏi:
-Con có đói không, tới ăn bún đi.
Bác Ben cười hì hì:
-Anh biết không, hắn ăn một bát như người lớn lại đòi hai cái giò.
Tôi trề môi:
-Đâu có sao, lần trước ông nội vô Nha Trang, ông dẫn cháu đi bún bò Bưu Điện, cho cháu ăn như rứa. Ông nói rằng cháu muốn ăn hai tô cũng được.
Nói xong, đột nhiên tôi òa lên khóc, có lẽ tôi chợt nhận thức rằng trong đời, không còn ai nuông chiều yêu thương tôi bằng ông nội cả. Ba tôi dang tay ôm tôi vào lòng vỗ về, tôi gục đầu thổn thức trong cánh tay ba, cảm thấy những giọt nước mắt nóng của ba cũng đang rơi trên tóc mình.
Tôn Nữ Thu Nga
***
39 - Núi Đợi
Truyện Ngắn - Bùi T Như Lan
Cách thị trấn vài hơi chạy ngược dốc là bản Quằng của tôi ở đầu nguồn Nặm Só. Phía sau bản, bạt ngàn màu xanh đậm của rừng chạy dài đến dãy núi Phia Sao. Dãy núi như bức tường thành án ngữ phía đông sừng sững, đỉnh nhấp nhô răng cưa ẩn mình trong sương mù sớm chiều như con rồng đang nằm phủ phục, ngoảnh đầu về phía thị trấn Khau Luổng. Từ miệng con rồng phun ra dòng nước to, dài như dải lụa trắng, vắt qua nhiều vách đá dựng đứng gọi là thác Pu Đí. Nước ở ngọn thác phơi mình trắng xóa, đuổi nhau chạy ầm ầm xuống chân núi làm nên đầu nguồn suối Nặm Só. Suối Nặm Só còn chảy ngoằn ngoèo, bơi lách, thoảng dấu mình trong rừng rậm xanh ngút ngàn, lại òa mở trước núi đồi mới đổ về Khau Luổng. Người bản Quằng uống nước suối Nặm Só từ đầu con rồng nên có nước da của núi đá vỡ...
Gia đình tôi có năm người: Bà nội, bố, mẹ, tôi và em Thào Phén ở trong ngôi nhà sàn chênh vênh cũ kỹ phía cuối bản, giáp con suối Nặm Só. Từ trong nhà tôi, nghe rõ tiếng nước suối nói chuyện rì rầm...
Khi mẹ sinh tôi được sáu mùa lúa, thì bố tôi đi bộ đội. Lúc ấy, em Thào Phén còn ngồi trong bụng mẹ. Ngày đi, bố dắt tôi xuống sân trước nhà, trồng cây bưởi dặn: "Con thay dí cho cây uống nước, chờ dí về...". Tôi khẽ níu áo bố: "Bao giờ dí về?".Bố nhấc bổng tôi lên: "Chóng thôi! Cây bưởi ngang vai em là dí về". Mẹ tôi nước mắt lưng tròng đeo cái bộc vào vai bố. Cái bộc mẹ dệt to bằng miếng vải vuông viền xanh tím có hình hai con chim nhìn ông mặt trời. Trong bộc đựng chiếc khăn còn thơm mùi hoa chàm trên núi. Mẹ nghẹn ngào: "Anh A Phàng à! Chúng mình ăn ở với nhau mới được bảy mùa lúa. Bé A Phin còn dại, đứa con nữa trong bụng chưa nhìn anh. Bây giờ anh đi xa trăm ngày đường, xa ngàn quả núi...Không biết bao giờ về?". Cái tay của mẹ giữ quai bộc trên vai bố không muốn buông ra...
Bố tôi nhẹ nhàng nói: "Em! Đừng khóc. Khi xa nhau nước mắt không thêm sức, nó làm chồn chân anh xuống núi, làm bụng anh đau như có dao cắt". Mẹ tôi vẫn thổn thức khóc. Nước mắt ướt hết vạt áo...rồi lại khô, lại ướt...
Cả nhà quyến luyến đưa tiễn bố tôi một đoạn dài, đến bãi lanh ven bờ suối. Những cây lanh ướt đẫm sương ngả mình xuống lối đi như muốn giữ chân bố tôi ở lại. Bố ôm tôi dặn: "Con ở nhà ngoan, dí đi nha...". Cả nhà tôi lặng nhìn bố, nước mắt rơi hòa vào nước suối Nặm Só.
Bố tôi đi một đoạn dài hơn cây nứa, tần ngần nghĩ rồi quay lại...ngồi bệt xuống tảng đá lớn ven suối, ôm ghì tôi, trầm ngâm. Bố bứt chiếc lá cây "xẻ ba" đang rạp mình xuống suối. Những ngón tay vụng về, xé nát thành từng mảnh... từng mảnh thả rơi lả tả xuống suối, trôi theo dòng nước quanh co, mất hút sau ghềnh đá...Suối Nặm Só không reo vui như mọi hôm, nó chảy âm thầm, lặng lẽ muốn ngăn bước chân người đi xa...Nhìn sâu vào đáy mắt bố, tôi thấy có ngấn nước. Bố tôi thở dài, nặng trĩu như đá núi, đứng dậy, cầm tay bà nội, tay mẹ đặt vào tay tôi, khẽ cúi người xuống...Trên tay tôi bỗng có giọt nước âm ấm, bỏng rát...Bố tôi xốc lại quai bộc trên vai, quay người đi nhanh xuống núi. Dáng bố in đậm trên con đường đất đỏ nằm chênh vênh bên bờ suối dốc đứng.
Bố tôi đi qua một tuần trăng thì em Thào Phén ở trong bụng mẹ ra ngoài chơi. Em bé xíu, da đỏ như quả sang trên núi. Từ hôm ấy, tôi được làm anh.
Ngày ngày khi con chim Noộc só cất tiếng gáy ba lần gọi sáng, mẹ địu em lên lưng, khoác chéo khẩu súng ra trước bụng. Bà nội cho "mèn mén" vào "lù cở", tay mang ống canh. Tôi đeo ống dao của bố. Cả nhà lên nương. Những đám mây không biết vội cứ quấn vào chân. Đến lúc, ông mặt trời trên đỉnh núi Phia Sao vén mây nhìn xuống, bà nội cùng mẹ tôi tra hạt giống đã kín vạt nương rộng. Còn tôi cũng chạy được một vòng quanh nương xem có con thú nào háu ăn sập bẫy không. Nhìn tôi, bà nội mỉm cười hài lòng: "Con dâu à. Thằng A Phin phổng phao như măng rừng, nó lớn rồi". Nghe bà nội nói, tôi thích lắm. Những lúc ấy tôi thầm gọi "Dí ơi, con nhớ dí lắm".
Chiều, ông mặt trời đi ngủ sớm, từng dòng mây nhiều màu sắc dắt tay nhau dăng kín núi. Cả nhà từ trên nương trở về. Tôi địu em gái, mẹ gùi "lù cở" hạt mạch kê. Bếp lửa đỏ lên, đàn dê lục tục kéo về, luôn miệng kêu: "e...be...bebe", ánh trăng xuyên qua phên đan bằng lá "cáp tao" đặt lên sàn nhà những mảnh tròn trắng lung linh...
Từ ngày bố tôi đi bộ đội, mẹ là đội trưởng dân quân của bản. Đêm đêm, vào mùa trăng, chị Hằng nga ngồi trong "thúng vàng", mẹ tôi tập hợp đội dân quân toàn đàn bà, con gái học cầm chắc cây súng giữ bản, săn lũ thú rừng khỏi đến phá củ sắn cây ngô. Mẹ tôi cùng cô Hài, con dâu bà Thẻn hàng xóm nhà tôi còn được xuống thị trấn Khau Luổng thi bắn...
Thấm thoắt, bố tôi xa nhà đã hơn ba mùa thu lúa trên nương. Bà nội chép miệng: "Thằng giặc làm dí A Phàng của chúng mày không được đón cơm gạo mới". Tôi và em gái tranh nhau vòi bà kể chuyện về bố. Những câu chuyện bà kể về bố tôi dài như nước con suối Nặm Só, chuyện nào cũng hay như chuyện cổ tích, nghe vui tai lắm, thế mà có nhiều hôm mẹ tôi tay vừa se sợi lanh, vừa chấm chấm mắt...
Trên miền núi quê tôi, đàn bà, con gái được đo sự khéo tay bằng mền chăn ấm, những bộ quần áo váy sặc sỡ hay tấm vải mịn màng đi chợ thị trấn Khau Luổng. Mẹ tôi còn khéo tay hơn những người đàn bà khác trong bản. Mẹ lên rừng tìm lá cây, nhuộm sợi nhiều màu đựng đầy các quẩy tấu. Mẹ dệt con hươu, con nai, con chim Noộc Só uống nước suối Nậm Só, mẹ dệt hình con gấu ngồi trên cây tìm mật ong, mẹ dệt hình ông mặt trời, hình chị mặt trăng đậu trên ngọn núi Phia Sao và cả hình người cưỡi ngựa đi săn ở trong rừng...Mẹ gọi những tấm vải có hình là vải thổ cẩm. Bà nội bảo em tôi: "Cái Thào Phén mang sợi, học se cho dẻo tay là vừa". Em gái, tay vụng về, lóng ngóng làm các cuộn lanh rối tung lên...Mẹ tôi phải gỡ mãi.
Một buổi tối, bên bếp lửa bập bùng, mẹ ngồi se lanh. Chiếc xa quay lúc dồn dập, lúc trễ nải cao thấp như ngọn lửa khi tỏ, khi mờ, tay luôn chấm mắt. Em Thào Phén ôm chầm lấy mẹ: "Ớ...cái mắt nỉa bị chảy nước". Bà nội khẽ thở dài. Tiếng thở hằn sâu, quặn thắt như vết dao cứa. Tôi lặng lẽ lấy chiếc khèn của bố treo trên cột ra thổi...Cái khèn "pi lè" kỳ diệu ấy, phát ra những âm thanh dìu dặt, thấm vào lòng người như nước suối Nặm Só len lỏi qua các khe đá. Mẹ tôi bỗng cất tiếng hát "gầu plềnh":
"...Nùng nho dê chúa kề
Chì cho dề cu
Lành nho dê chia nu kế
Tù trểnh cho tù dua"
(...Chim cách xa mười dặm
Không quên tổ cũ
Người cách xa trăm ngày đường
Không quên bóng hình nhau...)
Tiếng hát trầm buồn, khắc khoải của mẹ hòa vào tiếng khèn đánh thức rừng. Những chú chim "kíu cò cọt" gọi nhau vang sườn núi, con chim họa mi trong lồng bỗng hót véo von. Bà nội ngạc nhiên bảo: "Ơ này con dâu, lâu rồi cái miệng con chim lại có tiếng". Mẹ tôi dừng tay se lanh, giọng trĩu buồn: "Nó nhớ anh A Phàng đấy meệ". Ánh lửa bếp bập bùng sáng rõ cả khuôn mặt mẹ...
Sáng sớm hôm sau. Tôi gùi ống bương nước từ dưới suối Nặm Só về cho cây bưởi uống, đã thấy mẹ đứng bên lồng chim. Con họa mi xù lông vỗ nhẹ đôi cánh, đôi chân nhỏ xíu vàng óng nhảy nhót, ghếch cái mỏ màu ngô vàng ngó nghiêng, quay phải, quay trái, bất chợt cửa lồng mở, nó bay vù sang cây bưởi cất cao tiếng hót. Trên ngọn núi Phia Sao, ông mặt trời lên đỏ rực như sắc cờ...Gió đưa hương hoa rừng thơm ngào ngạt. Cô Hài chạy sang cười tươi: "Chị A Phàng à, chim họa mi hót vui nhiều rồi, các anh đi sắp về, anh Hài nhà em sẽ về...". Đôi mắt mẹ tôi hoe đỏ khẽ chớp chớp. Bà nội ở trên nhà nói vọng xuống: "Con dâu bảo cô Hài năm nay hai nhà làm nhiều bánh, mừng cơm gạo mới, đón người đi xa về". Cô Hài đang vui, bỗng nước mắt chạy dài xuống má: "Chị A Phàng có hai đứa con đẹp như hai bông hoa chuối rừng làm vui, còn em là cây khô không có lộc". Mẹ tôi an ủi: " Chú Hài sắp về rồi mà". Tôi dắt em gái đến bên cô nói khẽ: "Chúng cháu làm con chung của nỉa và cô". Mẹ hài lòng xoa đầu tôi: "Con ngoan của nỉa". Cô hài vui mừng ôm em gái tôi quay tròn, váy xòe ra...
Hôm ấy, hai nhà làm cơm ăn chung. Em Thào Phén lấy thêm bát đũa. Nó cười vui vẻ: "Để dí A phàng và chú Hài cùng ăn". Tôi lắc đầu khó chịu: "Mày làm thế, dí cùng chú Hài có con kiến đốt trong bụng, không đánh giặc được". Em tôi phụng phịu, đôi mắt ươn ướt hờn dỗi, tay khẽ đập vào đùi mẹ. Cô hài bảo: "Cùng ăn cơm để no cái bụng, khỏe cái chân đánh nhiều giặc". Cả nhà cười vui. Tôi thầm gọi: "Dí ơi"...
Năm đó lúa trên nương được mùa quá. Lúa to bằng nhau hàng trăm hạt, trĩu nặng từ đầu bông tới sát gốc. Cả nhà "lài" mãi không hết. Những cum lúa lớn, nhỏ được gánh về xếp đầy sàn phơi thóc. Mẹ chọn những cum nếp trĩu hạt xòe tròn ra đập riêng. Mẹ bảo: "Xay ra làm nhiều bánh mật, dí các con thích ăn đấy". Hai anh em bỗng cùng nhìn về con đường đất đỏ, dốc đứng chờ đợi...Mẹ quay sang tôi nhẹ nhàng: "Sáng mai A Phin đến lớp của cô giáo Tha học cái chữ". Bà nội cho ngô vào nồi cám lợn thủng thẳng hỏi: "Cái chữ có làm no bụng không?". Mẹ tôi dịu dàng mỉm cười: "Con cho cháu đến lớp học cái chữ vào đầu cho nó khôn ra". Bà nội gật đầu: "Con dâu nói phải". Tôi sung sướng thì thầm với em gái: "Tao đi học còn đọc cái chữ dí gửi về". Em tôi lại gần mẹ nũng nịu: "Cho con đi học cùng anh A Phin". Mẹ tôi để cum lúa đập dở xuống, nhấc bổng em lên nựng: "Con ngoan, con còn bé, cái chân đi chưa dẻo, để anh đi học về bảo chữ cho". Em gái không nghe, khóc nức nở gọi bố: "Dí ơi về đi, về cho con đi học"...Mẹ ôm chặt em vào lòng, gương mặt nhạt nhòa nước mắt...
Được đi học, tôi đã biết dùng cái chữ kể chuyện ở nhà để bố nghe. Nhưng cái chữ chất cao trong vở mà không biết bố ở đâu để gửi đi. Trong bụng tôi nhớ bố cồn cào như tiếng réo của dòng nước ở ngọn thác Pu Đí. Những lúc ấy, tôi mang sách xuống gốc cây bưởi học. Cây bưởi bố trồng giờ cao hơn đầu tôi, cành lá xum xuê, che mát một góc sân, mà bố vẫn chưa về. Mỗi năm, đến ngày bố đi, bà nội lại cứa một vết vào da cây, trông như từng bậc thang. Cây bưởi không giận bà, ngày càng xanh tốt, năm nào cũng cho nhiều quả. Mẹ tôi đem cho cô Hài, cho người trong bản và để lại một quả to vàng óng trên cây. Mẹ bảo: "Để phần dí các con". Mùa thu, nắng vàng sánh như mật con ong, sang mùa đông rồi qua tết lâu rồi, quả bưởi vẫn một mình đu đưa trên cành...
Khi gió ào ạt kéo về đem theo hơi lạnh trong khe núi, lá cây đào cây mơ chuyển sang màu vàng. Rừng cây sau sau đỏ rực trước nhà. Người bản Quằng của tôi nhộn nhịp làm cơm gạo mới, mừng mùa lúa tốt, ăn cơm cho ráo mồ hôi lấy sức làm nương mùa sau. Mẹ tôi mang hạt thóc ra xay. Dưới sàn nhà, đôi tay mẹ dẻo như đi múa hội làm chiếc cối xay kêu "ù...ù...ù". Cô Hài địu quẩy tấu nếp sang hớn hở nói với mẹ tôi: "Hai nhà làm nhiều cái bánh, các anh về đấy". Cả nhà tíu tít làm cơm mới. Bếp lửa cháy đỏ hơn ngày thường, tiếng củi nổ "tách...tách" nghe thật là vui...
Cô Hài nói trúng thật. Từ dưới suối già Khòn trưởng bản gọi to: "Ô hấy! Các bà, các cô ra đón người đi xa về". Cô Hài kêu to "ui da" và chạy vụt xuống, nước mắt vòng quanh...Mẹ tôi buông nhịp cối xay, chạy lên cầu thang rồi lại chạy xuống. Sàn nhà rung lên nhè nhẹ theo chân mẹ. Mẹ cuống quít gọi: "Meệ ới, anh A Phàng đã về". Bà nội mừng quá, lấy chiếc khăn mẹ vừa dệt mang ra sàn nước bảo: "Để A Phàng rửa bụi đi đường". Niềm vui đến nhanh như con nước mùa mưa lũ. Mẹ lạc giọng giục anh em tôi: "Các con xuống đón dí mau đi"...Dường như nỗi khát khao mong đợi bố tôi trở về đã làm cái chân mẹ run rẩy không bước nổi...Mẹ ngồi thụp xuống chân cầu thang, mắt mọng nước...
Hai anh em tôi chạy ào xuống dốc...Nhưng, tôi chợt sững lại, một thoáng lúng túng...Không phải bố tôi mà là chú Hài. Chú đeo ba lô, một bên chân buông thõng, tay gắn thêm cái cọc tròn, mỗi bước đi chú để lại vết tròn sâu trên bờ suối...Em gái tôi buồn ngơ ngác như nai con lạc mẹ. Bà nội và mẹ tôi giàn giụa nước mắt trong ráng chiều đỏ sậm...
Bản tôi mở hội hát mừng chú Hài trở về với người dân trên núi cao. Em Thào Phén ngồi trong lòng chú Hài, nó vuốt nhẹ lên chân chú hỏi nhỏ: "Cái chân, cái mắt nữa chú cất đâu?". Chú thơm vào đôi má em tôi bảo: "Thằng giặc lấy trộm đi rồi"...Bà nội tôi chép miệng: "Giặc ác hơn thú dữ, trở trời đau lắm đấy",
Từ hôm chú Hài về, đêm nào mẹ tôi cũng ngồi ở cầu thang nhìn xuống thị trấn Khau Luổng chờ đợi...Đôi mắt mẹ đỏ như quả dâu da trong khe núi, hai bờ vai ướt đẫm sương đêm. Mẹ tôi gầy rộc đi, mắt mẹ thẫn thờ thường nhìn xa xăm, dưới đuôi mắt mẹ có nhiều vết chân của con chim trên rừng...
Nhiều đêm. Tiếng con nai giác khuya đơn độc gọi bầy làm tôi chợt thức dậy. Bếp lửa cháy chập chờn. Mẹ ngồi xé sợi, tay cứ xé mãi, xé mãi làm sợi lanh rối lại thành búi rất to. Vừa xé sợi tay mẹ vừa chấm chấm mắt...
Sớm hôm sau, con chim Noộc Só gọi sáng mẹ lại cặm cụi, nhẫn nại gỡ sợi rối. Chiếc xa quay đều đều...sợi lanh óng mượt trở lại...
Từng đêm, từng đêm trôi qua. Đến một đêm đã khuya lắm rồi. Ánh trăng thắp sáng cả vùng rừng núi Phia Sao. Tiếng con Noộc Só dưới suối Nặm Só gọi nhau khắc khoải, da diết...Tôi bỗng giật mình tỉnh giấc. Bên khung cửi mẹ không ngồi. Bên bếp than hồng rực không thấy mẹ. Trong cái "trà pư" mẹ không nằm ngủ. Tôi vùng dậy. Dưới sân, mẹ đứng lặng bên gốc bưởi, ánh trăng dọi qua mắt lá, rơi xuống gương mặt mẹ những mảnh tròn trắng xa xăm... Tôi chợt thấy, trên tay mẹ có quả "pao" của bố. Bà nội đã kể cho anh em tôi nghe, quả "pao"ấy bố ném trúng người mẹ ở hội hát "gầu plềnh" năm xưa...Tôi thì thầm nói với mẹ: "Nỉa à, lớn lên con đi bộ đội gọi dí về". Nước mắt mẹ vỡ òa, giàn giụa. Mẹ kéo tôi ôm chặt vào lòng. Trăng treo trên đỉnh Phia Sao buồn, thao thức...
Ngày này qua tháng khác, cả nhà tôi mong mãi không thấy bố về.Quả bưởi to dành chờ bố lâu quá, trên mình quả đã lấm tấm mốc...
Một buổi trưa, bà Thẻn đi chợ Khau Luổng về gọi: "A Phin à, đón gói chữ ở xa về nhà". Tôi cùng em gái hét to sung sướng: "Ui dá, chữ của dí gửi về". Mẹ tôi cười mắt lấp lánh niềm vui. Bà nội vuốt nhẹ vào góc gói chữ có hình chú bộ đội suýt xoa: "Thằng A Phàng ăn hạt gạo nơi khác béo trắng ra". Chú Hài cười tủm tỉm: "Bà à, đây là cái tem thư, không có người anh A Phàng". Bà nội đang vui thế bỗng thở dài nặng nề...
Trong cái gói chữ, bố tôi kể nhiều chuyện lắm, nhưng tôi nhớ nhất đoạn:
"...Các con ở nhà phải ngoan, chăm học chữ, giúp bà, giúp mẹ làm nương, ngày chiến thắng đang đến gần, bố sẽ trở về..."
Vui cái bụng quá, tôi bứt chiếc lá đưa lên môi thổi bài hát cô giáo dạy: "Hành quân xa...". Trời xanh bỗng rộng ra và cao hơn...
Ăn cái tết xong qua lâu rồi, cây đào, cây mận đã có quả non to bằng đầu ngón tay mà trời còn rét nhiều. Bếp lửa đỏ cả ngày lẫn đêm vẫn lạnh. Bà nội tôi đổ bệnh, luôn gọi tên bố tôi: "A Phàng, con ơi...". Bà than thở: "Con chim rừng còn nhớ tổ, thằng A Phàng đi không biết lối về". Nghe tiếng than của bà, con ngựa trắng ở đầu hồi gõ móng "lộp ...cộp" hí lên tiếng dài rền rĩ...
Mẹ tôi lên đỉnh núi Phia Sao hái cây thuốc ngậm sương. Thầy mo cúng hai trâu, ba lợn đuổi con ma ốm đi mà bà ngày càng ốm nặng, người bà héo hon, gầy khô như lõi cây lanh phơi nắng. Mẹ tôi sang bảo chú Hài: "Mẹ chồng tôi không qua được, cứ luôn miệng gọi con trai, chú sang hộ tôi". Chú Hài trầm ngâm suy nghĩ. Một lát, chú vào trong nhà bỏ áo "tà pủ", mặc bộ quân phục cũ theo mẹ tôi sang nhà. Bà nội nằm trong "trà pư", đôi mắt nhắm nghiền...Mẹ tôi vừa khóc vừa lay bà: "Meệ ơi! Meệ, anh A phàng về đây, anh A Phàng về". Bà không mở được mắt, cái miệng khó nhọc thều thào: "A...Ph...àng....A...Phàng". Chú Hài ngồi xuống cạnh bà. Mẹ đỡ đầu bà lên: "Meệ ơi, A Phàng...con trai meệ về...đây". Bà gắng gượng hé mắt. Chú Hài òa lên: "Meệ" và gục đầu vào ngực bà. Mẹ tôi cầm tay bà đặt lên đầu chú Hài, bà phều phào được mấy tiếng: "A... Ph...àng...con" rồi lịm đi. Trên môi khô héo, bà mỉm cười mãn nguyện. Mẹ khóc, tôi khóc, em Thào phén và chú Hài cũng khóc. Tiếng khóc thương động rừng, động núi. Bà tôi mất trúng hôm ông trời rắc sương muối trắng núi, gió gầm thét, rú rít từng hồi. Gió lùa trong lòng thác Pu Đí, suối Nặm Só như vỡ ra. Trời sẫm lại. Bà không đợi được bố tôi trở về. Mẹ tôi khóc không còn tiếng, mặt trắng bợt bạt.
Làm ma cho bà nội xong, cái miệng mẹ ít nói ra lời. Đêm, mẹ ngồi bên khung cửi. Những tiếng "lạch xạch a..." dệt vải gấp gáp hòa cùng tiếng đôi chim "Khảm khắc" gọi nhau suốt đêm làm anh em tôi lo sợ phấp phỏng...
Tôi bỗng nhớ câu chuyện bà nội kể: "Chim Khảm khắc, hậu thân của hai người yêu nhau, không về được với nhau vì vua núi bắt người con gái về làm vợ... Hai người cùng chết vì đau buồn, biến thành chim Khảm khắc. Đêm thanh vắng mới dám lên tiếng gọi tìm nhau".
Không biết đã mấy nghìn đời, mấy vạn kiếp chim mà tiếng gọi của lòng chung thủy, đợi chờ nhau trong đêm vẫn khắc khoải nỗi buồn trắc ẩn sâu thẳm...Đêm càng về khuya, tiếng chim càng vang vọng.
Một sớm mai, "con rồng" Phia Khao còn chìm trong sương mờ bồng bềnh. Tiếng ngàn chim ríu rít gọi bầy trong rừng hòa vào tiếng suối Nặm Só đánh thức tôi dậy. Tôi thấy mẹ đầu tóc rối bù, gục xuống khung cửi. Tôi hốt hoảng: "Nỉa, nỉa ơi!", mẹ từ từ ngẩng đầu lên, mí mắt chớp mọng nước. Tôi không tin vào mắt mình. Trong tấm vải lớn có hình bố tôi. Thì ra, đêm đêm mẹ ngồi bên khung cửi, dệt thác Pu Đí có suối Nặm Só, dệt dãy núi Phia Sao, dệt hình bố...Tôi gọi em gái dậy nói: "Dí đấy, dí của chúng mình đấy". Em gái tôi cười hơn hớn, đứng sán lại, thỉnh thoảng thò bàn tay sờ vào khuôn mặt bố. Mẹ ôm hai anh em tôi vào lòng, đôi mắt mẹ ánh lên niềm vui.
Tháng Tư năm ấy, nương trên, rẫy dưới tràn ngập tiếng ve năn nỉ. Ông mặt trời tưới nắng vàng lên núi rừng. Cây bưởi đang sai hoa, hương thơm ủ ấp quanh nhà. Đất trời cây cỏ thơm. Bỗng nhiên, tán lá bưởi ủ rũ. Mẹ tôi rất buồn. Sáng sáng, mẹ địu ống bương nước về đứng rất lâu bên gốc bưởi. Môi mẹ mấp máy như trò chuyện. Chú Hài sang nhà tôi nhìn xuống núi thắc mắc: "Đuổi hết giặc, giải phóng rồi sao anh A Phàng chưa về?". Em gái tôi cầm tay chú nói hờn dỗi: "Dí cháu quên đường về nhà". Tôi cau mày mắng nó: "Vớ vẩn, mày chỉ nói dại".
Chiều hè. Nắng gắt, oi nồng. Mặt trời không có đám mây nào làm bạn cùng. Cây bật bông cho những chùm quả thắp sáng sườn núi. Tôi cùng mẹ địu quẩy tấu lớn, quẩy tấu bé quả bông về nhà. Mẹ giục tôi: "Nhanh chân lên, nắng nhiều, chiều ông trời gọi mưa về đấy". Em gái tôi chơi ở sàn phơi, cả người dính bụi bông như cây hoa trắng, bỗng nó vẫy tay rối rít: "Nỉa kìa, anh A Phin à, lên đây".
Kìa! Dưới con đường đất đỏ dốc đứng, có hai người mặc quần áo bộ đội giống của chú Hài đang lên dốc.
Mẹ tôi đứng sững buông quẩy tấu bông rơi xuống sàn, những quả bông chạy lăn lóc...Gương mặt đỏ bừng ướt đẫm mồ hôi của mẹ thoáng nhợt nhạt. Mẹ thấp thỏm, bồn chồn, đi ra, đi vào, bước chân ríu vào nhau...Bỗng mẹ như bừng tỉnh cuống quít giục: "Dí các con đã về, lau bụi bông xuống đón đi".
Cái miệng mẹ thắm như hoa đào, mắt lấp lánh niềm vui.
Hai anh em tôi ào xuống bãi lanh ven suối đón bố. Tôi cùng em gái đứng trên tảng đá lớn – nơi in dáng bố ngồi trước lúc đi bộ đội.
Nhưng không phải bố tôi, người mà chúng tôi đỏ con mắt ngóng chờ sau nhiều năm vắng tiếng nói, tiếng cười. Cái buồn tủi thân lớn dần ttong tôi khi hai người đến gần. Tôi giật tay em gái: "Không phải bố, về thôi!". Gió ào ào báo trời sắp nổi giông, trên đỉnh Phia Sao ông trời đánh lửa sáng trắng, thổi sấm ầm ì...
Thấy hai anh em tôi ỉu xìu bước lên cầu thang, mẹ tôi nói hẫng hụt như để an ủi chính mình: "Mẹ con ta lại đón nhầm người"...Thẫn thờ, mẹ ôm hai anh em tôi vào lòng, gương mặt đẫm nước mắt. Tôi bối rối thấy tóc mẹ lốm đốm có sợi bạc.
Khách xa lên đến nhà. Đấy là hai chú cùng đơn vị với bố tôi. Ba mẹ con tôi sững sờ trước ba lô sạm khói, kỷ vật của bố tôi để lại...Đôi tay mẹ run run nâng chiếc bộc từ trong ba lô. Trên hình đôi chim bị cháy xém có vệt máu khô loang đậm. Mẹ cắn chặt môi, dòng máu ứa ra tự lúc nào, ôm chiếc bộc vào ngực, mẹ ngồi bất động như hóa đá.
Cây bưởi ngoài kia ủ rũ, khô héo...Mây đen vần vũ, trời đổ nước ào ào xối xả. Thác Pu Đí réo ầm ầm, giận dữ dựng cao cột nước lũ, đổ xuống suối Nặm Só. Đất trời chuyển động.
*
* *
Đêm, đêm. Mẹ ngồi bên khung cửi cần mẫn dệt vải. Mẹ gieo vào tiếng thoi đưa nỗi đau âm thầm. Những tiếng "cách...cách...a" khắc khoải chìm vào đêm sâu vắng...
Những tấm vải mẹ tôi vẫn dệt hình con hươu, con nai, mẹ dệt bản Quằng có thác Pu Đí phun nước chạy ầm ầm xuống chân núi, có con Suối Nặm Só dài ra vô tận, cây rừng xanh ngút ngàn đang vươn mình trỗi dậy. Mẹ vẫn dệt nhiều hình bố tôi mặc quần áo bộ đội đứng trên đỉnh núi Phia Sao cao vời vợi – Nơi ông mặt trời lên đỏ rực như sắc cờ đang vén mây mỉm cười...
Bố tôi đã trở về với người dân trên núi cao.
Bùi Thị Như Lan
***
38 - Cõi Niết Bàn Tuổi Thơ
Quê tôi, làng Nguyệt Áng*, một làng nhỏ ở miền Trung. Cách làng một quãng đồng, phía nam, có một ngôi chùa nhỏ. Cửa chùa mở về hướng tây, nhìn về Thần Đinh, ngọn núi linh thiêng thuộc dãy Trường Sơn.
Chùa được xây khoảng vào đầu thế kỷ 20, nằm giữa đồng vắng, bốn bề nắng gió. Lên năm, sáu tuổi, tôi vẫn chưa một lần vào chùa nhưng tôi cảm nhận được qua tiếng chuông, qua lời mẹ tôi. Khi gà gáy phiên cuối, tôi còn mơ ngủ, mẹ tôi chuẩn bị gồng gánh đi chợ Cổ Hiền*, bố tôi pha ấm trà đặc trầm ngâm nhìn ánh trăng hạ tuần chiếu qua khe cửa là lúc tiếng chuông thức giấc. Tiếng “boong, boong” thả vào khoảng không mờ đục, xuyên qua làn sương sớm, lay động giọt trăng đậu trên cành lá. Tiếng ngân dài lan xa, rất xa rồi chìm vào tiếng sóng của dòng Kiến Giang* có mái chèo khua nhẹ, xuôi theo tiếng gió tràn qua phá Hạc Hải* mênh mông. Tiếng ngân như tiếng hò khoan, lúc thưa lúc nhặt, như tiếng lúa hát, như lời mây bay. Tiếng chuông đưa mùi hương cốm ai giã sớm, bay xa, hòa vào tiếng dế ríu ran thành bản nhạc. Tiếng chuông như bàn tay chị nhẹ nhàng đánh thức giấc ngủ vùi. Tiếng chuông dìu mặt trăng xuống núi, nâng mặt trời từ biển lên, một ngày mới bắt đầu.
Mẹ tôi không theo đạo Phật, tôi đoán thế, vì bàn thờ không treo ảnh Phật Bà Quan Âm, nhưng ngày rằm, mồng một bà vẫn thường ăn chay. Rằm tháng bảy, nghe tiếng chuông lúc trầm lúc bổng, mẹ tôi bảo đó là ngày người dương thế gặp người cõi âm nên tiếng chuông cũng vậy. Tiếng trầm là âm thế, tiếng bỗng là trần gian. Khi tiếng chuông nằm lại, cũng là lúc những nén nhang đã tàn. Mẹ tôi rắc gạo muối quanh vườn và cầu khấn. Mẹ nói là cầu mong có chốn lưu thân cho những âm hồn phiêu bạt.
Tôi lớn lên trong tiếng chuông chùa, sự vật đổi thay, tiếng chuông cũng khác. Năm đói kém, tiếng chuông buồn thao thiết như cố làm đầy chén cơm vơi nửa của tôi. Mùa lạnh giá, tôi run cầm cập đến trường, tiếng chuông ngắn lại như áp vào tấm lưng nhỏ bé ngọn lửa ấm. Mùa lũ lụt, tiếng chuông đục ngầu trôi nổi lênh đênh...
Tôi thường theo mẹ lên thăm cô tôi ở thôn Trường Dục*, con đường mòn nhỏ đi qua trước cửa chùa. Cách vài chục bước, tôi thấy mẹ thường chỉnh lại áo quần, cất nón trên đầu và nhắc tôi im lặng. Mẹ tôi bảo để cho phật tịnh tâm cõi Niết Bàn.
Lần đầu tôi sợ hãi khi thấy trước cổng tam quan những ông Hổ nhe răng, vuốt móng, những Quan hàm én cầm búa cầm đao. Mẹ bảo, các ông ấy dữ nhưng là dữ với cái ác, che chở cái hiền. Phật ở trong tâm, mình làm điều lành phật thì phù hộ, trời cao thấy hết chúng sinh.
Năm tháng đi qua, tôi đã là niên thiếu, mẹ tôi thành người cõi âm. Một mình lên thăm cô tôi, nghe lời mẹ, tôi xõa quần, xách dép và lặng lẽ khi đi qua cửa chùa. Những lúc trời tối, tôi không sợ vì có ông Hổ, ông Quan che chở cho mình.
Vài năm sau, phong trào chống mê tín dị đoan rầm rộ, cúng tế thưa dần và tiếng chuông chùa cũng tắt lịm. Một đêm, trăng sáng đến nỗi tôi không nhìn thấy trời, trời chỉ là bóng đen u uất. Bọn trẻ xúm nhau nhỏ to gì đó rồi chạy về phía chùa, tôi chạy theo. Đến nơi, tôi chen qua đám đông và lẫn vào trong. Lần đầu tiên trong đời tôi được vào chùa. Chỉ có mấy năm vắng tiếng chuông mà ngôi chùa như nhà hoang, mái ngói hở ra từng mảng, ánh trăng rách rát chảy xuống rưng rức vỡ tan dưới nền nhà loang lổ. Những ông Phật già nua, ốm o lưng trần lạnh lẽo, mặt đầy bụi, mắt ngấn lệ. Những ông Phật áo xống tả tơi chau mày đau khổ như gánh hết cơ cực của nhân gian. Phía góc xa, chân hương gió bạt. Ở chính điện nước mưa đọng vũng bệ thờ.
Người ta đưa phật đi về phía Bình Thôn*, ở đó cũng có một ngôi chùa.
Tôi không biết vì sao đêm ấy trăng sáng đến thế. Trăng sáng để soi rõ mặt người, tôi nghĩ thế.
Tôi nhớ lời mẹ dặn “trời cao thấy hết chúng sinh”.
Vài ngày sau, dân quân súng ống, cuốc xẻng đập chùa một cách rầm rộ, họ san bằng như bom phá. Ông Hổ, ông Quan dưới tay họ lặng lẽ đầu hàng và tan tác từng mảnh.
Người ta xây trên nền chùa một lò gạch, do có nền cao không bị ngập lụt.
Mỗi lần tôi lên thăm cô tôi, trời tối không còn ông Hổ, ông Quan che chở, tôi sợ hãi cắm cổ chạy thật nhanh.
Lớn lên. Xa làng. Về quê, tôi trở lại thăm nơi chùa cũ. Trong tiếng còi inh ỏi, tiếng nhạc xập xình giữa khu dân cư ồn ào náo nhiệt. Trên nền đất, trong phế tích vẫn còn hồn xưa nếp cũ, cỏ vẫn xanh rì mải miết như cố níu lại hơi ấm chân người qua đây một thuở có còn không?
Tôi cởi giày, bỏ mũ, lặng im như lời mẹ dặn thuở nào. Những hồi chuông dội vào hồn tôi, từng hồi, từng hồi mừng rỡ như gặp lại người xưa, như nức nở sẽ chia những oan ức nghiệt ngã. Tiếng gươm đao, tiếng hổ gầm giữa thời loạn lạc. Tiếng kinh cầu râm ran trong khói hương huyền ảo, tiếng đất dậy sóng một thời. Trong tiếng kinh cầu đó có tiếng sám hối của những người đập chùa hay không ???
Cũng vầng trăng đó, cũng bầu trời đây, thiếu tiếng chuông chùa thế gian cô đơn như đời tôi vắng mẹ. Rằm tháng bảy, có còn ai vẩy gạo muối trong vườn để những âm hồn trẻ thơ đỡ phần hờn tủi.
Mấy chục năm rồi, đau đáu trong tôi câu hỏi, những ông Phật giờ lưu lạc nơi nao???
Bỗng vang lên thong thả tiếng chuông chùa và câu hát mẹ ra tôi còn văng vẳng đâu đây:
Ru ru riến riến rà rà
Voi ông đi trước ngựa bà đi sau
Đi sau lủng lẳng con cau
Ngó nhà mấy cột ngó cau mấy buồng
Cõi Niết Bàn là nơi cực lạc. Với tôi, tuổi thơ cơ cực nhưng cám ơn đời đã cho tôi đã gặp cõi Niết Bàn.
Từ Sâm
****
36- Xin Hãy Giúp Tôi
Truyện Ngắn P S
Lặng người , lá đơn trên tay tôi chưa ráo mực. Lẽ nào một chuyện rất bình thường theo cách nghĩ của tôi. Có thể đưa chúng tôi đến ly hôn ư?
Sao anh không cố hiểu tôi một chút, không thông cảm cho tôi một chút...nước mắt tôi trào tuôn không dứt trong nỗi xót xa.
- Cô hãy chọn lựa đi, Một là tôi , hai là bạn cô!.
Thái độ lạnh lùng và cương quyết đến không ngờ. Nói xong anh quăng lá đơn trên bàn rồi bỏ đi . Không muốn nghe bất cứ lời giải thích nào của tôi. Theo anh, lời giải thích nào cũng không có giá trị, không đủ thuyết phục . Quan điểm của anh. Khi phụ nữ lập gia đình thì không được xem ai quan trọng bằng chồng , con . Tôi thật may mắn đã lấy được người chồng mẫu mực , không quan trọng ai bằng vợ , con. Chỉ biết vợ con là trên hết!
Còn tôi , tôi chưa thể hiện như vậy được, chưa làm đúng như ý nguyện vọng của chồng:Vì một trường hợp đặc biệt buộc tôi phải có trách nhiệm cộng với tình nghĩa trời biển tôi không thể bỏ mặc làm ngơ .
Đã nhiều lần tôi bỏ gia đình chạy đến chăm sóc chị. {Thùy người bạn gái hơn tôi vài tuổi} mỗi khi chị ốm. Cho dù lúc ấy chồng và con cần có tôi bên cạnh.Sự việc lập đi lập lại gây khó chịu cho anh , cho mọi người thân của tôi, ai cũng phản đối đồng thời lên án tôi gay gắt, khi thấy tôi càng ngày càng lún sâu vào mối thâm tình đặc biệt với người bạn gái mà theo anh là hết thuốc chữa.
- Cô đi hỏi tất cả mọi người , có ai như cô không. Cô có thể bỏ con cô trong lúc ốm đau để lo cho người khác. Cái đó là tình gì? Cô nói cho tôi nghe!
Trong cơn nóng giận anh hét toáng lên . Từ đó mọi người đã bàn tán xôn xao Thùy và tôi là một cặp đồng tính.
"Đồng tính" từ này tôi nghe hoài , nhưng với tôi thật sự xa lạ. Để hình dung một cặp cùng phái yêu nhau tôi không mường tượng hình dung ra nổi. Chắc chắn tôi không va vào vấn đề éo le này. Nhưng tôi lại gặp phải một éo le khác. Tôi cho là có thể còn khó giải quyết hơn nhiều . GIỮ KÍN đó là trách nhiệm và bổn phận của tôi. Tôi phải bảo vệ cho Thùy , bảo vệ người ơn của mình cho đến chết. Vì vậy tôi không bao giờ nghĩ sẽ kể với ai, kể cả với chồng mình . Sự khó hiểu một mối thâm tình "dị biệt" của tôi đã dẫn đến lá đơn tôi đang cầm trên tay. Hạnh phúc gia đình tôi đang trên bờ vực!
Trước đây, Thùy và tôi nghèo lắm. Không vốn liếng. không nghề nghiệp.Tìm công việc làm thuê cũng không ra. Lúc nghèo khó ai bày biểu gì cũng làm. Có người chị cùng xóm hay đi buôn bán. Thấy chị có đồng ra đồng vào chúng tôi cũng muốn mua bán như chị. Khi được chị gợi ý cho đi theo chúng tôi mừng lắm. Nhưng thời bao cấp nói đến đi buôn thì mọi người hiểu là đi buôn lậu . Vì khi đó cái gì cũng do nhà nước quản lý . Không có tiền chúng tôi đi vay mượn khắp nơi. Cuối cùng cũng có số vốn kha khá.Chọn một ngày đẹp trời chúng tôi ra quân.
Tay chân thì cứ run bần bật. Khi xe ngừng trạm để kiểm soát . Tôi cố nhắm mắt làm như đang ngủ để tránh phát hiện. Nếu ai có bệnh đau tim thì chết như chơi.Tôi nói nhỏ vào tai Thùy khi xe bắt đầu chạy tiếp:
- Em mà biết vầy , chắc em không đi ... chị ơi!
Mỗi lần xe chạy đi qua các trạm kiểm soát, chị em chúng tôi mặt cắt không còn chút máu. Thùy cố giữ vẻ bình tình trấn an tôi:
- Không sao đâu, còn hai trạm nữa thôi. Mà hai trạm này dễ lắm!
Nghe chị nói vậy tôi cảm thấy an tâm một chút. Nhắm mắt hình dung nghĩ chuyến đi này suôn sẻ, nhất định có lời. Tôi sẽ chạy ra chợ mua ít cá nấu canh chua cho ba. Kho một ít thịt thật kẹo quẹo cho mẹ... Lâu lắm rồi chỉ toàn rau muống luộc với nước mắm mà cũng thiếu lên hụt xuống. Còn thằng Tí , thằng Tèo em tôi. Suốt cả năm rồi chưa biết ăn sáng là gì . Đi học lúc nào bụng cũng trống trơn. Đã nhiều lần không chịu nổi tụi nó đã xỉu trên lớp.Nghĩ đến đó nước mắt tôi cứ ứa ra, ứa ra.cảm thấy sao mà buồn tủi cho sự nghèo hèn của mình quá. Thương cha , thương mẹ , thương em muốn đứt cả ruột , gan. Mãi chìm trong nỗi đau... Giật thót mình khi nghe tiéng quát tháo
-Mấy thùng gì đây, hàng của ai?
Tiếng của gã đàn ông mặc đồ giống bộ đội. nhưng sau này tôi biết họ là quản lý thị trường.
Chị Thùy và tôi không khác gì nhau. Ngồi im như tượng .Tay nắm chặt tay mà như lên cơn sốt. Tiếng của một hành khách thúc dục:
- Của ai thì nhận đi cho xe chạy chứ trễ lắm rồi!
Chưa biết làm gì thì bác tài nhìn chị em chúng tôi , như muốn sự việc cho mau, ông ta chỉ điểm:
- Hai cô xuống nhận đi, có gì năn nỉ người ta . Xong việc đón xe sau về . Xe không đợi được.
Không thể làm khác . Bước xuống xe mà như người bị mộng du. Xe chạy lúc nào không hay. Khi tỉnh hồn thì mấy thùng hàng đã đưa vào trạm. Trạm nằm một nơi hoang vu vắng vẻ chung quanh là đồng hoang bạt ngàn cỏ dại , thỉnh thoảng mới có một vài chiếc xe xuôi , ngược.Bên trong khỏang chừng bốn mét vuông .Ngoài những thùng phân thuốc trừ sâu của chúng tôi ra thì có một cái bàn làm việc, bên cạnh có một cái giường cá nhân bằng sắt... Bây giờ tôi mới biết, không phải một gã quản lý thị trường mà là hai. Trên túi áo có bảng tên. Gã lớn tuổi tên Quân và gã nhỏ tuổi hơn tên Hòa . Hai chị em khúm núm. Co ro, răng va vào nhau không kiểm soát được hành vi của mình, sợ sệt tột độ, cảm giác như tên tội phạm sắp đưa ra pháp trường . Gã lớn tuổi có bộ mặt hung dữ cất lên giọng lạnh lùng :
-Chuyến này là chuyến bao nhiêu rồi ?
Thùy bình tỉnh hơn tôi líu ríu:
- Dạ thưa chú... chuyến đầu tiên !
Gã quắc mắt :
- Mấy con buôn lậu . con nào cũng vậy, lần nào cũng là lần đầu.
Thùy tỏ ra dạn dĩ hơn :
- Con nói thiệt mà chú
- Ai mà tin nổi tụi mày, Tụi mày có khác gì mấy con bia ôm, gái làm tiền. Lúc nào cũng nói hoàn cảnh nên mới thế này , thế nọ. Ngủ cả trăm thằng đàn ông ... chứ đụng tới hả... « Em mới lần đầu » nghe phát ói !
Gã đang đại diện cho pháp luật, cho nhà nước quản lý hàng hóa, gã có quyền sinh sát những con buôn lậu, huống chi là nhục mạ họ. Chúng tôi hiện giờ là người có miệng ăn chứ ko có miệng nói. Nghĩ đến số nợ , nghĩ đến nỗi đau ê chề của gia khi bị mắng mỏ của những chủ nợ. Tôi không còn tâm trí để nghĩ đến những lời xúc phạm của gã. Chị Thùy bấm vào tay tôi như ngầm an ủi « kệ gã , đừng để ý »
- Bây giờ đưa hàng đi đâu xếp ?
Gã nhỏ tuổi hỏi sau khi lập xong biên bản
- Chờ xe xuống đưa người và hàng về thị xã . Bao nhiêu hàng này cũng đủ đi tù...
Tên vừa được gọi bằng xếp trả lời
Không biết đó là lời nói thật hay cố tình hăm dọa. Nhưng cũng đủ tôi bấn loạn. Không giữ được bình tĩnh ,tôi bật khóc kèm theo lời van xin. Bao nhiêu từ ngữ dùng mong một sự thương cảm ,tôi đã xử dụng hết nhưng không hề lay chuyển. Họ là ai ? Con người chân chính có trách nhiệm giữ gìn sự bình yên cho đất nước. Quyết diệt trừ những thói hư tật xấu của xã hội trong đó có những kẻ buôn lậu, để nền kinh tế không bị suy thoái ,cho đất nước giàu mạnh ư ? Vì vậy. họ không thể mềm lòng trước hoàn cảnh của chúng tôi. ? Nếu quả thật họ là những con người như thế thì đã không đưa đến cho chúng tôi sự bất hạnh và nổi đau xé lòng như ngày hôm nay .
Chạng vạng tối, bóng đen mỗi lúc mỗi gần hơn. Cái gì nói mãi cũng nhàm., hơn nữa hai chúng tôi cũng đuối lắm rồi, không còn sức lực để van xin . Trời tối như mực mà xe... {Theo lời gã lớn tuổi lúc nảy là sẽ đến đón} nhưng không thấy. Lúc này hai gã chụm vào nhau to nhỏ , như đang hội ý điều gì. Một chút hy vọng mong manh lóe lên, biết đâu có tín hiệu vui cho chúng tôi . Nét mặt gã nhỏ tuổi cười cười pha một chút bẽn lẽn vui vui dưới ánh đèn dầu chập chờn , từng cơn gió nhẹ từ cánh đồng lùa về lành lạnh nhưng người tôi như người xuất hạn, mồ hôi ướt đẫm quần áo
- Này hai em !
Giọng gã lớn tuổi . không còn bẳn gắt, to tiếng hay xỉa xói như ban đầu mà ngược lại , gã ngập ngừng như đang khó nói điều gì. Gã đưa mắt nhìn chăm chăm từ trên xuống dưới , từ đầu đến chân chúng tôi như đang thẩm định một món hàng
- Hai em có muốn mang hàng về không ?
Sắp chết trôi mà quơ được tấm phao. Không còn cơ hội nào tốt hơn, không kìm được niềm vui Chị Thùy nhào tới nắm tay gã lắc lắc :
-Chú nói thiệt hả chú ?
Gã hất tay chị Thùy ra quát nhẹ một cách thân thiện
-Thiệt , nhưng không được gọi anh bằng chú !
Trời Ơi !lúc này gã bắt chị em chúng tôi gọi gì cũng gọi , chứ sá gì tiếng anh.
-Dạ được , anh thả tụi em nha anh . Tụi em mang ơn anh suốt đời.
Vừa nói Thùy vừa nắm tay gã nhỏ tuổi hơn như tiếp cứu
Gã lớn tuổi đặt thẳng vấn đề :
- Mang ơn chi cho nặng vậy em . Trả... bây giờ phải hay hơn không. ? Ở đây đồng không mông quạnh, lạnh lẽo buồn quá, chỉ có bốn người ... sao không biến thành một đêm ấm áp vui vẻ... sau đó các anh sẽ đưa hai em đi đến nơi về đến chốn mà không sợ ai quấy rầy.
Đang toát mồ hôi, giờ thì người tôi muốn xuất hạn, ướt đẫm như tắm. Tay chân tôi run như đang bị co giật.
-Tội nghiệp tụi em mà anh, Tha cho tụi em ... Tụi em xin đội ơn hai anh mà...
Choáng váng, tôi như người mất hồn, không còn cảm nhận điều gì khác ngoài sợ hãi, tiếng van xin của chị Thùy mỗi lúc mỗi yếu và thưa dần, thưa dần vì sự quyết liệt của hai gã. Hình như không được đáp ứng, hai gã có thái độ gay gắt khó chịu hung dữ hơn.
- Được rồi, hai đứa mày uống rượu mừng không uống mà chịu uống rượu phạt. Tịch thu hàng còn bị tù là cái chắc. Đồ chó cái ngu xuẩn.
Nói xong, gã lớn tuổi bỏ ra ngoài. Gả nhỏ tuổi cũng đi theo.chị Thùy nắm tay tôi bóp nhẹ trấn an:
- Không sao đâu, đừng sợ. Làm gì mà run dữ vậy em, phải bình tĩnh hơn, để sáng suốt chứ em!
- Biết làm sao giờ hả chị?
Thùy quyết định:
- Chị không còn chọn lựa nào khác. Bằng mọi giá chị phải giữ lại vốn liếng lại, không thể chết đói, không thể nợ nần. Chị đồng ý ngủ với hắn .
Vừa nói nước mắt chị vừa lăn trên hai má bầu bỉnh xinh đẹp của một thiếu nữ vừa mới tuổi hai mươi lăm. Còn tôi, tôi phải làm sao? Tôi cần tiền còn hơn bất cứ điều gì. Nhưng mới lớn chưa qua mối tình nào, tôi chưa biết cảm giác đôi lứa ra sao tôi e ngại quá... tôi rụt rè :
- Còn em thì sao hả chị?
- Biết làm sao bây giờ hả em. Tụi mình nghèo quá, không có sự chọn lựa nào tốt hơn đâu.
Nói đến đây chị ngưng với vẻ bối rối, ái ngại:
- Cái này tùy em , chị không kêu đâu nhen!
Tôi muốn đem về cho gia đình một nụ cười, chứ không phải tiếng than khóc của mẹ. Không muốn mặt cha hằn nét khắc khổ hơn. Thằng Tí , Tèo không phải thường xuyên xỉu trên lớp và nhất là không có chủ nợ nào đến nhà chửi bới, nhục mạ... Chỉ cắn răng nhắm mắt một tí là được việc thôi mà...Chị Thùy làm được , mình cũng sẽ được!
- Chị sao em vậy đi. Em muốn về nhà ngay. Ở đây em sợ quá chị ơi!
Chị vui ra mặt vì sự đồng ý của tôi . Chị bước vội ra ngoài tìm hai gã thương lượng .
Không lâu, gã lớn tuổi bước vô cùng chị Thùy với nét mặt cởi mở, vui vẻ:
- Em ra ngoài nói chuyện với thằng Hòa đi. Nhường hotel này cho tụi này nha.Tí nữa thì là của tụi mày.
Bước ra ngoài. Bầu trời tối mịt . Những áng mây đen che phủ những vì sao. Gió lồng lộng rít lên kêu như ma quái. Tôi sợ đêm đen, bóng tối... bây giờ kèm theo nổi hải hùng . Một chút nữa thôi ,tôi sẽ chôn đời con gái mình tại đây, với một người không quen biết, không một mảy may yêu thương. Nhưng tôi sẽ có được cái tôi đang cần... tôi giật mình khi bàn tay gã nắm tay tôi. Phản ứng tự nhiên tôi rụt tay lại. Ít ăn , ít học tôi không biết triết lý với gã như trong tiểu thuyết tôi đã từng đọc "Vui sướng gì khi anh quan hệ với một người không yêu thương mình mà gần như anh đã cưỡng bức họ?" "Có phải anh là người không? Là người sao anh có thể chà đạp lên con người để thỏa mãn những nhu cầu tầm thường như vậy?" nhiều câu để hỏi lắm , nhưng trước mặt tôi giờ này có lẽ họ không là người rồi. Một con thú chờ ăn thịt tôi. Nghĩ đến chị Thùy ... Nổi uất ức và nhục nhã tôi muốn bỏ chạy biến vào đêm đen...
- Em bao nhiêu tuổi?
Giọng gã nhỏ nhẹ và ấm. Nếu không ở vào hoàn cảnh này . Gã thuộc phần dễ thương , đẹp trai . Biết đâu gã cũng làm cho tôi xao xuyến!
- Em vừa hai mươi.
- Có người yêu chưa?
Tôi nghĩ mình nói có , biết đâu gã tha cho mình
- Dạ, có rồi!
- Vậy người yêu em cho em cảm giác "yêu" là thế nào chưa?
Tôi thấy bối rối và xấu hổ trong nỗi nhục nhã ê chề. Tôi lắc đầu .
Đưa tay kéo tôi vào lòng, gã sờ mó bỡn cợt:
- Vậy hôm nay anh dạy cho em biết nha.?!
Gả hôn thật nhanh vào má tôi.. Sự đụng chạm của gã làm tôi thấy tởm lợm . Giây phút này đối với tôi quá khó khăn. Chuyện gì sẽ xảy ra khi tí nữa đây tôi phải hiến dâng thân xác cho hắn. nghĩ đến đó , gai gốc nổi khắp người...Chuyện gì đến sẽ đến. Tiếng của gã đàn ông lớn tuổi sang sảng khác thường. { Bây giờ có gia đình rồi tôi mới biết đàn ông họ là vậy. Sau khi được thoả mãn họ phấn chấn hưng phấn trong lời nói và hành động.}
- Hai cưng vào đi, thiên đường ở đây chứ không phải nơi nào khác.
Vừa nói, gã vừa cười hô hố , thật nham nhở đến bẩn thỉu.
Tôi như người sắp bị đưa lên máy chém. Nỗi sợ hãi ngập tràn ,tôi vụt chạy đến ôm Thùy thật chặt như cầu cứu. Thùy cũng ôm lấy tôi không buông .Chị cũng muốn bảo vệ cô em gái mong manh bé bỏng của mình. Hai chị em khóc ngất. Bỗng dưng chị buông tôi ra và quỳ xuống hai tay chấp lại lạy lia, lạy lịa như tế sống về phía gả trẻ tuổi:
- Em lạy anh! Anh tha cho nó đi, nó còn khờ dại lắm. hơn nữa nó sắp lấy chồng rồi., anh tha cho nó ... nếu cần giải quyết anh hãy vào đây với em ... anh tha cho nó... hãy tha cho nó... tiếng chị van xin văng vẳng bên tai.Tôi ngất đi vì sợ hãi, vì xúc động trước tấm chân tình của chị khi nào rồi.
Tôi tỉnh lại, cũng là lúc chị hoàn thành xong công việc thương lượng với gã trẻ tuổi .. Chỉ khác một điều là chị đã thay tôi làm điều đó!
Lá đơn ly hôn ướt đẫm nước mắt trên tay tôi....
Làm sao để anh hiểu ? Làm sao cho gia đình không tan nát. Không muốn con tôi thiếu cha hay mẹ. Không muốn mất đi người chồng tốt mà tôi rất yêu thương và tôi càng không muốn xa chị .Chị Thùy ơi! "Em đã thề, đã hứa không bao giờ em thố lộ với ai điều bí mật này và em sẽ mãi giữ lời thề cho tới hơi thở cuối cùng... Người mà tôi mang ơn suốt cuộc đời này!" , Nhưng gia đình tôi thì sao? Làm sao để chồng tôi hiểu ??? Tôi phải làm sao đây? Xin hãy giúp tôi!!!
P S
***
35 - Ghét Ơi Là Ghét
Hai Hùng
Đang nằm đong đưa trên chiếc võng được mắc từ thân hai cây mận mọc sát bờ con rạch trước sân nhà, Bảy Nguyên cảm thấy tâm hồn thư thái vì cái bóng mát của vườn cây và cộng thêm vài cơn gió hiu hiu từ mé rạch thổi lên, Bảy Nguyên vừa lim dim ngủ thì tiếng Ông Ba Gà từ đâu vọng đến tai của Bảy Nguyên:
-Mới sáng sớm mà ngủ nghe gì thằng Bảy ơi! Dậy dậy đi tao nói chuyện này mà nghe, tao cam đoan thằng Bảy bây không khoái tao làm con của bây luôn.
Nghe ông Ba Gà nói kiểu tiếu lâm, Bảy Nguyên ngồi bật dậy vừa dụi mắt vừa càu nhàu:
- Tía ơi ! Tha cho con đi, cứ một hai bữa nghe tía kể một câu chuyện, khoái đâu hổng thấy mà thấy say xỉn gần chết, hôm nay tía tính " Gài độ" thằng Bảy này vụ gì nữa đây?
- Nghe Bảy Nguyên nói mới chừng đó, ông Ba Gà dường như "Tự ái" nên "Đớp" lại :
-Mèn ơi! Bây làm như tao ham ăn ham nhậu lắm, gài độ bây để kiếm rượu uống hả, thôi bây ngủ tiếp đi tao dìa, mai mốt có chuyện gì đừng kiếm tao hỏi này nọ nhe.
Nghe ông hàng xóm cạnh nhà thằng em ruột của mình nỗi giận vô cớ, Bảy Nguyên lật đật đứng dậy chạy đến nắm tay ông Ba Gà rồi nói nhanh:
-Hôm nay làm gì nóng tánh như "Trương Phi" vậy tía, con nói chơi chút mà tía giận dỗi rồi, có gì tía nói đi, tối qua có ngủ nghê gì đâu, mấy đứa cháu ở bển nó điện thoại qua nói chuyện hết mấy giờ luôn, mệt lắm tía ơi, có gì tía nói con nghe đi, rồi con dẫn tía làm vài xị chổ quán bà Mười nhe tía.
Nghe Bảy Nguyên hứa sẽ dẫn mình đi lai rai ở quán của bà Mười, ông Ba Gà mừng như: "Lân thấy pháo", nhưng ông không vội vã tỏ thái độ cho Bảy Nguyên biết, ông nói theo kiểu "Mại hơi":
-Đó đó, chưa gì hết mà bây muốn mua chuộc Ba Gà này rồi, thôi được vô nhà pha trà uống rồi tao kể cho bây nghe tức thì.
* * *
Bên kia con rạch là nhà của cô Tám "Cà nanh" đối diện với với căn nhà mà Bảy Nguyên "tạm trú" từ lúc ở bên kia nửa vòng trái đất về đây thăm, sở dĩ cô Tám có cái biệt danh "Cà nanh" đi kèm là vì thuở thiếu thời còn ở chung với anh chị em trong nhà, mỗi lần tía má cô Tám ra chợ quận mùa quà bánh về cho bầy nhỏ trong nhà, ai cũng có phần dĩ nhiên đâu thể thiếu phần của Tám, nhưng cái tính hay so bì, nên cho dù có quà trên tay Tám cũng cho là tía má thương đứa này, đứa kia trong nhà hơn Tám, nên riết rồi anh chị em trong nhà gán cho cái chữ "Cà nanh" phía sau tên gọi, kêu hoài làm kêu riết khiến cho Tám "chết tên" luôn đến tận giờ.
Cả tháng nay ngày nào cô Tám cũng nhìn sang bên kia con rạch, cô thấy thấp thoáng dáng một người rất lạ, kiểu cách ăn mặc nhìn vào là biết ngay người xứ nào mới đến, người này mặc áo Thun, quần shot, giày vớ đều trắng toát, duy nhất cái " Bao tử" đeo sệ trước bụng là màu đen, thắc mắc trong đầu cô Tám tự hỏi:
- Cha nội quỹ này ở đâu mà xuất hiện ở nhà ông Hai Liều vậy cà, ăn mặc gì mà trắng hếu, cha chả ban đêm gặp ông này giữa đường sợ chạy vắt giò lên cổ quá, y như ma vậy đó, không biết đeo cái giống gì phía trước bụng chi nữa, ngó dị hợm vô cùng.
Vậy là trong bụng cô Tám không ưa Bảy Nguyên từ dạo ấy, riêng phần Bảy Nguyên về quê nhà chơi được ít hôm, có bữa mấy đứa cháu trong nhà xúm xít lại làm giỗ chạp gì cho ai trong thân tộc mà Bảy Nguyên chẳng hề quan tâm, lúc cúng kiến xong đám nhỏ dọn mấy bàn ngoài sân để mọi người cùng nhau ngồi lại ăn uống và hàn huyên tâm sự cho vui, Bảy nguyên lựa cái bàn sát bờ rạch ngồi nhằm đón gió cho mát, đang ngà ngà hơi men bổng thấy bờ rạch phía bên kia có một bóng hồng dáng đi tha thướt, Bảy Nguyên để ý từ dạo đó và chờ có dịp nào đó sang bên kia gặp người đẹp để làm quen, không ngờ những suy nghĩ thầm kín của Bảy Nguyên không qua khỏi cặp mắt " Lão luyện" của ông Ba gà, là tay "Bợm nhậu" ông Ba gà bèn nhân cơ hội này để " kiếm chút cháo" từ Bảy Nguyên, và cái ngày để kiếm chút cháo đã đến...
Sau khi hớp gần cạn tách trà của Bảy Nguyên rót cho, ông Ba gà chưa chịu nhập đề theo kiểu trực khởi khi làm văn, ông xài chiêu nhập đề lung khởi, tức là ông mói lòng vòng làm cho Bảy Nguyên sốt ruột vô cùng:
- Nãy giờ tía có nói cái gì đâu không hà , vậy mà tía nói hay chổ nào đâu, vụ gì tía nói thẳng ra cho rồi để con còn tính nữa, chứ tía cứ nói lòng vòng hoài mệt lắm tía ơi!
Hớp hết phần trà còn lại trong cái tách , ông Ba gà đưa tay lùa cái tách sang cho Bảy Nguyên và nói :
- Cha chả, hôm nay bây cho tao uống trà gì mà thơm phức vậy bây? Rót cho tao ly nữa đi, uống " Đủ đô" tao mới hứng kể cho bây nghe cái tin vui này .
Bảy Nguyên cố cười cầu tài với ông Ba gà rồi nói :
- Trà này mấy đứa cháu đi Sài gòn về chơi, bạn bè nó biếu cho mấy hộp, đây là trà ô Long đó tía, mà ô Long bây giờ đủ loại , đủ chổ sản xuất hết, con thấy ô Long của mấy ông " Cầu tre" là thượng hạng luôn, chút nữa con gửi tía một hộp uống lấy thảo.
Chưa chi đã "Vô mánh" hộp trà đắc tiền khiến ông Ba hứng chí nhập đề tức thì:
-Bây biết con Tám nhà bên kia không?
Nghe ông Ba "Gãi đúng ngay chổ ngứa" Bảy Nguyên cười cười hỏi lại:
-Mà chi vậy tía, nó có ăn nhập gì chuyện sắp kể không đó ?
Thấy Bảy Nguyên "Đóng kịch" còn khá vụng về, ông Ba Gà cũng đóng kịch theo luôn:
-Cái con nó Tám vậy đó, mà ta nói đầu trên xóm dưới trong ấp mình mấy tay sồn sồn theo đuổi nó dữ lắm nghe bây, mới hôm qua nè, tao đi ra tiệm bà Hai mập mua xị rượu về ăn cơm, leo qua chưa hết cái cầu khỉ tao nhìn qua bên kia lộ tao thấy thằng Mười Một, con của thằng cha Tư Nên bạn nhậu tao nè, cái thằng này tao nghe đồn nó đang "de" con Tám dữ lắm nghe bây, hình như hai đứa này nó " Chịu đèn" nhau dữ lắm rồi, chà chà không biết chừng nào hai đứa nó cho bà con uống rượu mừng đây?.
Bảy Nguyên cảm thấy bực trong lòng khi nghe câu chuyện của ông Ba Gà vừa kể cho mình nghe, anh ta lầm bầm trong miệng:
- Chèn ơi! Về đây muốn tìm vợ đem về bển cho tía má mừng, mới chấm được cô Tám là có thằng " Phỏng tay trên" rồi , làm sao bây giờ ta?
Bảy Nguyên đang suy nghĩ cách nào để tìm cách " Lọt vào mắt xanh" của cô Tám, chưa kịp có ý nào hay thì tiếng ông Ba Gà nói tiếp:
- Ậy nhưng mà tao nghe nói tía con Tám nó đang kèn cựa, nó không ưa cha nội Tám xe đò chút nào, hai tay này nhậu chung lần nào cũng cự cãi nhau om sòm, dễ gì hai chã chịu ngồi sui với nhau, tao đang tìm mối khác cho con Tám nè, Bảy Nguyên bây xem bên Mỹ có đứa nào coi được được bây mần mai cho con Tám đi, xong vụ này tao với bây có đầu heo nhậu mệt nghỉ.
Mừng như " Bắt được vàng" sau câu nói của ông Ba Gà, Bảy Nguyên lật đật nói ngay sợ ông Ba Gà đỗi ý :
- Gì chứ vụ đó dễ ẹc tía ơi, bên Cali bạn con lính " Phòng không" còn cả đống ở bển, thằng nào cũng có nhà, có xe , công ăn việc làm đàng hoàng, chuyến này cô Tám có chồng Việt kiều là cái chắc .
Thấy vở kịch đã hoàn hão, tuy hai người chưa từng tập chung một kịch bản mà tự nhiên nó ăn khớp tình tiết một cách tài tình nên ông Ba gà diễn tiếp cho tròn vai :
- Ừ bây nói dậy phải rồi, rồi chừng nào bây tính tiến hành cái vụ này, chậm tay không khéo bạn bây "Trâu chậm uống nước đục" ráng chịu nghe bây.
Chờ có bấy nhiêu, Bảy Nguyên thúc hối ông Ba Gà luôn:
- Thôi sẳn đây nè, uống trà xong, tía chịu khó dẫn con qua nhà cô Tám để làm quen đi, con dò ý cổ coi sao, nếu thấy cái mòi cổ ưng ý thì con giới thiệu cho cổ luôn, làm sớm nghỉ sớm luôn tía .
Vở kịch đến đây hạ màn kết thúc màn một cảnh một, ông Ba gà cùng Bảy Nguyên leo cầu khỉ qua bên kia con rạch để hy vọng Bảy Nguyên không phải hát bài " Tôi đưa em sang sông". Lâu lắm rồi Bảy Nguyên đã quên đi cảnh lội ruộng bắt cua bắt cá ngày xưa, quên cả những buổi trưa hè cùng cả đám trẻ trong xóm tắm mát dưới con rạch nơi đây, Bảy Nguyên chắc cũng quên cách đi vắt vẻo trên cây cầu khỉ mỗi lần qua sông qua rạch hay chăng, nên khi thấy Bảy Nguyên loạng choạng sắp rơi xuống con rạch lúc đang qua giữa cầu, ông Ba Gà chụp ngay lưng áo ghị Bảy Nguyên lại cho khỏi té, ông Ba lên tiếng:
Chèn ơi! Tao quên mất đất , bây tháo đôi giày ra, phải đi chân không như tao đây nè , bây lạng quạng lọt xuống rạch hư bộ đồ vía hết.
Nghe lời ông Ba , Bảy Nguyên lột đôi giày ra khỏi bàn chân nên việc qua cây cầu khỉ không còn khó khăn nữa.
Đến trước nhà cô Tám cà nanh, ông Ba Gà kêu lớn lên:
-Anh Tư ơi! Có nhà hông, tui Ba Gà ghé thăm anh nè, không có tiếng trả lời sau câu hỏi của ông, ông bèn kêu lần nữa:
- Anh Tư ơi, Tám cà nanh ơi! Có nhà hông, ăn trộm vô rinh bộ chưn đèn trên bàn thờ dông mất tiêu rồi kìa.
Công nhận sau tiếng kêu thứ hai, chẳng những ông Tư nên mà còn có cả cô Tám cà nanh cùng xuất hiện bởi nghe nói trộm rinh bộ chưn đèn trên bàn thờ ai cũng hoảng vía, vì bấy lâu nay đám đạo tặc ở đâu không biết , họ đỗ xô về đây đóng vai người đi mua tiền xưa bạc cắc cũ, mua những loại đồ xưa ,đồ cổ và kiêm luôn nghề đạo chích, họ lân la vô nhà hỏi mua đủ thứ , nếu có chủ thì không sao, nhà nào đi vắng mà cửa nẻo hớ hênh thì sẳn cái bao bố đem theo họ ẳm hết bộ chưn đèn , lư hương rồi chuồn êm, đến tối mịt chủ nhà về thắp nhang cho ông bà thấy bộ lư đồng không cánh mà bay, tức giận lắm mà chẳng biết đâu mà lần, cho nên khi nghe ông Ba Gà hù bộ lư bị "Chôm chỉa" mất tiêu khiến hai cha con ông Tư Nên tưởng thiệt chạy lên nhà trước xem thiệt hơn, chừng thấy đồ đạc còn nguyên si, thấy ông bạn già cười khằng khặc vì gạt được hai cha con chủ nhà , ông Tư Nên lên tiếng:
- Lâu ngày anh ba xí gạt tía con tui hén làm hết hồn, may thôi tưởng ăn trộm đột nhập tui phang cho cây đòn gánh què giò là có nước tụi nó đi ăn xin luôn.
Nói xong ông Tư Nên giao cây đòn gánh lại cho cô Tám cầm, ông kéo vai ông Ba gà và Bảy Nguyên vô nhà ngồi uống nước, ông Tư hỏi:
- Chẳng hay chú em này là ai mà đi với anh vậy anh Ba.
Sau một hồi chủ khách cùng làm quen, đến khi cô Tám chuẩn bị cho tía đồ nhậu và dọn sẳn ngoài sân, ông Tư mời hai khách ra sân để cùng nhau đối ẩm, chừng cả hai bên yên vị, ông Ba lên tiếng: Anh Tư kêu con Tám ra ngồi chơi, người trong nhà không chứ có ai xa lạ đâu mà khách sáo, nghe vậy ông Tư gọi ngay con gái liền:
-Tám ơi! Ra tía biểu nè .
- Dạ con ra liền tía ơi.
Cô Tám vừa ra đến, ông Tư chỉ cái ghế đẩu còn dư kế bên Bảy Nguyên ông nói:
- Con ngồi đó đi, ăn cơm với tía
Nghe ông Tư nói vậy, cô Tám bẻn lẻn ngồi cạnh Bảy Nguyên mà trong bụng cô chẳng thích chút nào.
Cũng nên nói thêm cô Tám không ưa Bảy Nguyên bởi cách ăn mặc một phần, cô ghét nhất là mấy anh Việt kiều từ tận đâu đâu khi trở về thăm quê nhà, có anh nói chuyện "nổ" banh ta long , nào là bên đó không cần đi làm cũng có nhà có xe và có cả tiền trong nhà băng nữa, nào là các bà các cô bên đó không đáng " xách dép" cho họ, rồi bỏ ra một ít tiền lẻ cho người này người kia để tỏ ra sự giàu sang của mình, họ tìm đến những nhà có mong ước cho con gái được lấy chồng Việt kiều để cuộc sống gia đình bớt cơ cực, sau thời gian quen biết, ăn nằm với các cô đến khi các cô nàng bụng mang dạ chữa thì mấy anh lộ nguyên hình chàng sở khanh, cũng vì vậy Cô Tám cà nanh có ác cảm nếu không muốn nói " Ghét ơi là ghét" các anh chàng này, chỉ tội cho Bảy Nguyên bị vạ lây bởi những tay Việt kiều kia.Tuy nhiên cũng còn rất nhiều anh Việt kiều về đây bị các cô gái gạt gẫm mất hết tài sản, mất hết niềm tin với những người ở quê nhà .
* * *
Gắp cho cô Tám cái phau câu của con gà mái tơ đã chặt sẳn trên dĩa, Bảy Nguyên nói :
-Tui ..ý anh mời Tám nhé
Tám bực mình gắp bỏ lại vào dĩa, rồi cô ta nói :
- Anh cứ ăn tự nhiên đi, tui chủ nhà mà anh khỏi phải lo.
Mới mở màn trận đấu vậy mà Bảy Nguyên bị hạ 1-0, khiến hai ông già ngồi kế bên ú ớ nói không mên lời, bởi thái độ của cô Tám làm cho hai ông thấy ngại ngùng với Bảy Nguyên, ông Tư Nên rầy nhẹ nhàng con gái:
- Con kỳ quá, thằng Bảy có lòng sao con từ chối, thôi ăn đi, thằng Bảy là dân cố cựu ở đây, con lúc trước ở với ông Bà Ngoại bên Trà Vinh nên con không biết đó thôi, chứ cái thằng này hồi nhỏ hiền khô hà.nó đi nước ngoài khá lâu nên tía không nhìn ta, bác Ba Gà nói tía mới nhớ lại nè....
Ngồi ăn uống một lúc, vô tình cô Tám làm đỗ chén nước mắm gừng vô người Bảy Nguyên, mọi người trong bàn tiệc nhìn Bảy Nguyên với thái độ ái ngại trong lòng, cô Tám cũng chột dạ sợ Bảy Nguyên hiểu lầm mình trả thù vì chuyện tía rầy mình lúc nãy.
Được cái Tám rất lanh trí, không nói không rằng cô ta nắm tay Bảy Nguyên kéo chạy ra phía sau hè phía con rạch chảy ngoằn ngoèo trước khi chảy sang khu đất nhà nên cạnh, cô Tám tự tay lột đồ Bảy Nguyên, để chàng ta mặc cái quần lót trông thật ngượng ngùng, Bảy Nguyên chưa hiểu được sao cô Tám tự dưng bạo dạn với mình, dám cả gan tự tay lột đòi mình mà cô không ngượng, chưa kịp nghĩ ngợi thêm điều gì Bảy Nguyên bị cô ta xô mình lọt xuống con rạch, Bảy Nguyên chới với nhưng anh ta cũng chợt hiểu nàng Tám yêu cầu anh tắm để hết cái mùi nước mắm gừng.
Sau khi tống anh chàng Việt kiều rơi xuống rạch, Cô Tám chạy u vô nhà lấy chiếc khăn tắm và bộ Pijama của tía mình đem ra cho Bảy Nguyên mặc tạm, đến khi hai người quay lại bàn tiệc thì ông Tư nên và ông Ba Gà cùng cười rân lên khi thấy Việt kiều mặt đồ " Khính" của nông dân nam bộ chánh gốc, ông Tư nói :
- Con Tám giỏi đa, tía sẽ thưởng cho con, con rất lanh ý, thôi giờ thì dô mấy ly với tui nè ông " Việt kiều lai nông dân". Ha ha ha.
Suốt buổi tiệc sau cái tai nạn đó đã khiến cho Cô Tám cà Nanh và Bảy Nguyên có tình cảm với nhau hơn, nói chuyện thấy hạp hơn bà đôi lúc họ còn liếc nhìn nhau như đã quen nhau tự kiếp nào, ông Ba Gà thấy vậy nhân lúc đôi trẻ mãi tíu tít chuyện trên trời dưới biển cùng nhau,ông bèn khiều ông Tư Nên vào hai ông to nhỏ điều gì coi bộ tâm đầy ý hợp lắm.
Thời gian thắm thoát thoi đưa, xuân qua hè đến thì thu lại về, và chàng Bảy trở về quê vào mùa thu năm sau cùng song thân, họ dông thẳng về quê để làm lễ cưới cho Bảy Nguyên và cô Tám cà nanh.
* * *
Mọi người vui vẻ chúc mừng tân lang và tân nương được bền duyên giai ngẩu, khi đi chào bàn tiệc , hai anh chi đến bàn của ông Ba Gà và ông Tư Nên, hai cô cậu bị hai ông già níu lại gần , ông Ba Gà nháy mắt ra hiệu cho ông Tư Nên bật mí chuyện động trời cho cô dâu chú rể nghe:
- Chén mắm gừng hồi trước đâu phải tại con Tám vợ bây nó làm đỗ vô quần áo bây đâu, Tía với anh Ba Gà cố tình khi hai đứa bây không để ý tía và ông ba giật cái khăn trải bàn khiến chén mắm gừng đỗ vừa lúc con Tám nó cũng bị trợt cái ghế nó lôi luôn tấm khăn trải bàn, vậy là con Tâm lảnh đủ , ha ha ha , mà cũng ngộ nghe bây, cái này ông tơ bà nguyệt cũng se duyên cho bây đó, chứ con Tám nhà này mỗi lần tía nói để tìm Việt kiều gả cho nó nó hay nói con " Ghét ơi là ghét", bây giờ tía với anh Ba mới thấy câu:
" Ghét của nào trời trao của đó"
Trúng phóc " y như trong kinh" ha ha ha.
Bảy Nguyên cùng Tám cà nanh nghe âm mưu hai ông già bèn nhào vô dùng tay đấm thình thịch vài lưng hai ông rồi nói :
- Tại tía , tại tía nè , con mắc đền tía.
Các bàn tiệc biết chuyện cũng cười rân theo khiến cho tiệc miền quê thêm phần ấm cúm.
Hai Hùng
***
34 - Người Đàn Bà Nỗi Nhớ
Chúng tôi gần nhau tới độ một cái với tay là chạm đến nụ hôn. Tình cờ như thế vừa có lợi lại vừa có tác động của bàn tay thần tình ái. Nhưng tại điểm cái xoay mình để nhìn vào ánh mắt nữ thần, người đàn ông lúng túng trở thành đứa trẻ. Chồng nàng bắt đầu nhìn tôi đầy sinh sự. Điều đó thật nực cười vì tôi không cướp của hắn thứ gì. Nàng chỉ tình cờ cùng tôi ý tứ, chúng tôi bất chợt nghĩ về nhau. Tôi hiểu rằng có một cái gì đó rất huyền bí trong chuỗi diễn biến tưởng như bất tận có một cái chớp mắt của tháng năm, nên rất khó chối bỏ khoảnh khắc ngắn ngủi ấy đã hiện lên âm thầm.
Có phải câu chuyện giữa chúng tôi sẽ chẳng đi về đâu; tôi là kẻ đi làm thuê. Ban đêm, khi nàng đã ra về, chỉ còn lại tôi và hắn; lúc này giữa hai người đàn ông đúng là chẳng có gì để nói. Trông hắn trống rỗng, chỉ còn là cái xác ra sức lao động để duy trì mái ấm. Điều này hơi thiên lệch với vẻ đẹp đầy đặn của nàng.
Chúng tôi lại gần nhau ngay trước mặt hắn một cách hợp pháp khi xếp gạch lên một đống; trong chốc lát sân gạch đã vơi, từng khối gạch ngay ngắn.
Lại nói về nét đẹp sang trọng của nàng, chủ cơ sở sản xuất là em ruột nàng, điều đó có nghĩa là người đàn ông trước mắt chúng tôi đang làm thuê cho em vợ. Một người em nữa của nàng nghe đâu tốt nghiệp đại học và làm ở Hà Nội. Con gái đầu của nàng đã 18 tuổi, chuẩn bị thi Đại học. Đó là giây phút gia đình họ hân hoan trước tin tức bay về mà hẳn là tin vui. Có một cái gì đó rất thịnh vượng làm người đàn bà ấy trở thành tài sản chung của những đứa con, của người cha; nhưng là bức tranh mà tôi đứng ra xa để ngắm nhìn.
Tôi mơ ước đến ngày được dắt nàng về nhà. Bố mẹ tôi, họ sẽ nghĩ gì khi tôi mang người phụ nữ đã ba con về làm con dâu của họ (Nếu ngày ấy xảy ra thật thì đó hẳn phải là một ngày kinh khủng). Chưa có ai chuẩn bị cho họ tình huống con trai mình mang người phụ nữ đã gần 40 về ra mắt bố mẹ chồng. Có khi nào tôi tưởng tượng rằng mình sẽ phải lòng một người đàn bà đã 3 con? Ấy vậy mà giờ đây điều đó đã là sự thật. Và cuộc sống là nơi mang lại bất ngờ, đặt chúng ta vào tình huống phải cư xử với người mà mình yêu như là một kẻ rắp tâm phá hại mối quan hệ với đấng sinh thành; nếu phải chọn một thì tôi sẽ chon ai?
Có lẽ tình huống buộc nàng phải dàn xếp để sự quý mến mà nàng dành cho tôi khẽ bay đến ông chủ chứ không làm hại đến ai. Không bao giờ có chuyện gia đình tan vỡ, những đứa con xa mẹ. Tôi chỉ là một thằng làm thuê, có chăng đã mang đến niềm vui chốc lát cho một người đàn bà.
Tôi được làm công việc nhẹ nhàng hơn, có cảm giác như được che chở bởi một thế lực liên quan đến nàng. Nhưng điều đó cũng rất có thể chỉ mang một ý nghĩa tầm thường nhằm giữ chân người làm. Đương nhiên là tôi muốn giả thiết đầu hơn vì nó êm dịu như chuyện cổ tích. Tôi chờ đợi một sự kiện bất ngờ nào đó sẽ làm mình vỡ òa trong hạnh phúc, hoặc sáng tỏ những hoài nghi.
Đứa con trai của nàng chuyện trò với tôi rát tự nhiên. Có lẽ cậu ta còn quá nhỏ để hiểu rằng người đàn ông rất kỵ với giống nòi của kẻ đã ngủ với người tình của mình. Nhưng cuộc sống không bắt chúng ta phải đoạn tuyệt với những gì chưa hiểu. Và đứa con gái út của nàng cũng rất dễ thương. Ngoài nàng ra thì vợ của ông chủ là người đàn bà quyền lực nhất. Cô ta khá trẻ, và có lẽ đang chờ đợi chuyện thú vị sẽ xảy ra giữa tôi và người chị chồng.
Qúa khứ về người chồng của nàng là một chi tiết khá bất ngờ. Và tôi cũng luôn đặt ra câu hỏi là tại sao một người đàn bà đẹp lại lấy gã. Chuyện liên quan đến đứa con gái đầu, khi nàng có mang cô bé, người yêu của nàng là một chàng trai tương lai xán lạn và là bạn của em trai nàng, khi chuyện tình vỡ lỡ đã không thừa nhận mối quan hệ với người đàn bà lớn tuổi. Người đàn ông " đổ vỏ" đã đảm đương công việc mà vốn đầu tư chính là khoản bồi thường tình ái. Tạo ra một bí mật động trời giữa nàng và ông chủ- bạn của chàng sinh viên ăn vụng thuở nào- khiến nàng rất được tôn trọng dù cũng chỉ là một người làm thuê ở đây.
Có đôi lúc tôi chợt thả mình vào khung cảnh đồng quê, nhận ra thôn giã đẹp vô cùng. Màu của buổi chiều nâu sậm như màu đất, lũy tre xanh mát gió trước ngưỡng hoàng hôn; triền sông thong thả từng vạt ngô khoai không biết đến dòng chảy đang hững hờ êm ả. Vẫn nếp chiều mênh mang khói bếp, học sinh khăn quàng đỏ, quang gánh về vội vã... tất cả đều không lạ chợt rất đỗi thân thương.
Ngồi viết ra những dòng này là lúc tôi đã nghỉ làm. Xa mãi vùng quê yên bình ấy, với nỗi nhớ có lúc chợt đầy lên từng đợt sóng. Tôi đã không tận dụng thời cơ để tiến xa hơn trong quan hệ với một người đàn bà, dù tình tiết được gần nàng đều gần như là ngụy tạo. Tất cả mọi người đều muốn nàng được hạnh phúc, trong khi tôi lại không tự tin trước quá khứ dằng dặc trải nghiện của người đàn bà. Nàng hiện về trong những buổi chiều cô đơn nhàn tẻ, khiến tôi tự hỏi tại sao mình không ghé thăm nàng dù chỉ để nhìn ngắm cuộc sống yên ả ấy. Sao không làm đầy lên những khao khát và say đắm? Tôi đã không cùng nàng đi đến một nơi xa không những người quen biết và không những lời dị nghị.
Tôi thực sự tin rằng nỗi nhớ nàng sẽ còn trở lại trong những ngày khác nữa, với cô đơn rợn ngợp và ân hận chợt đầy vơi.
Nguyễn Văn Phong
***
33 - Sông Đời Xuôi Chảy
Trên cao chín tầng trời có tiếng người phán:
- Hạt bụi trần gian kia còn lưu luyến tục luỵ ư? Kia là dòng sông đời hãy rụng xuống và trôi đi!
Tôi bay lang thang trong cõi ta bà thế giới, bay qua phố phường chợ búa làng mạc lạc giữa chúng sinh chen chúc ngổn ngang trong cõi hồng trần. Ngọn gió định mệnh đưa đẩy hạt bụi rụng xuống đậu vào lòng một người nữ, người mà sau này tôi gọi là mẹ. Không có sự chọn lựa nào cả, ngẫu nhiên, hoàn toàn ngẫu nhiên. Hạt bụi tôi lớn dần chín vàng rụng xuống trôi chầm chậm về xuôi, nơi đây tôi gặp một nửa phần của mình, ấy là cái phần của người nam, người mà sau này tôi sẽ gọi bằng cha. Sự kết hợp nhiệm màu và sự hiện hữu của ái tình làm cho hai nửa thành một hình hài, lúc ấy mới là tôi trọn vẹn. Tôi tiếp tục lăn, tôi là chiếc trứng lăn mãi, ra cuộc đời với khai tấu bi tráng oa oa! Và tôi tròn đi theo năm tháng nhọc nhằn. Dòng sông đời đẩy tôi về một mờ mịt không ai thấy trước, cõi tương lai. Trên dòng sông bao nhiêu điều đã quên, bao nhiêu điều còn nhớ, bao nhiêu cái còn, bao nhiêu cái mất. Đời là gì? Câu hỏi vớ vẩn đó tôi chưa bao giờ đặt ra cho mình. Tôi không chịu trả lời nhưng đời cứ bắt buộc tôi làm nhân chứng cho sự mất còn trùng điệp, miên viễn hư vô. Này đây tôi ghé vào bến mười lăm, tuổi hoa niên ngào ngạt hương đời khó quên.
***
Năm ấy tôi thi hỏng. Ngày hè tôi không được về quê cỡi trâu tắm sông bắn chim. Tôi phải ở lại phố thị học tại nhà thầy nhờ thầy kèm thêm môn toán. Tôi vốn nhiều mơ mộng nên dốt toán thi hỏng cũng vì cái môn học chết tiệt này. Cạnh nơi tôi trọ học là nhà Bác Thị. Thời trước bác làm công chức, không hiểu do đâu bác được cái phân hàm Nam Triều Thị Độc. Bác Thị có khu vườn trước nhà trồng toàn hoa hồng. Vợ bác mất đã lâu để lại cho bác năm cô con gái. Để an ủi, có khi tôi nói: "Ngũ nữ vô bần" (Năm cô con gái thì không nghèo). Tôi nói là nói thế song tôi biết là không ứng nghiệm. Sống gần bác tôi thấy gia cảnh bác ngày càng sa sút. Bác lên sao được khi cả gia đình sáu con người không có ai làm ra tiền chỉ sống nhờ vào đồng lương hưu ít ỏi.
Năm cô gái suýt soát tuổi nhau, khuôn mặt, mái tóc, dáng vóc và giọng nói cũng tương tự như nhau. Năm cô lại cũng tên là Vân: Khánh Vân, Ngọc Vân, Diệu Vân, Tường Vân, Giáng Vân. Cho nên dù tôi là hàng xóm của các cô trong một thời gian lâu tôi cũng chỉ mang máng phân biệt được cô Vân này với cô Vân kia nhưng không chắc lắm. Có lần tôi đã nói đùa: "Sao không có cô nào tên là Phù Vân?" (Mây nổi). Hình như câu nói đùa này lọt vào tai các cô, họ giận, hễ thấy bóng dáng tôi họ bỏ đi vào nhà. Nhưng cũng may họ không giận lâu. Sau này mỗi khi họ thấy bóng dáng tôi bén mảng ra sân, chỗ họ hay tụ họp, họ chui cả vào nhà bếp khép hờ cửa lại, nhìn trộm. Họ nói gì với nhau rồi cười rúc rích. Họ chơi giỡn chọc phá nhau suốt ngày. Năm cô ít khi xuất hiện ở thềm nhà trước, ở sân và ở vườn hồng. Giang sơn của họ là phía sau nhà ngang, chỗ có cây khế chua toả bóng mát che một nửa mái ngói.
Suốt ngày tôi thấy Bác Thị bỏ công ra chăm sóc khu vườn hồng. Bác làm việc một mình. Bác không sai bảo năm cô con gái và năm cô cũng chẳng giúp bác việc gì. Có mấy việc nặng nề như chuyển mấy chậu hồng rất nặng và đầy gai cũng chỉ thấy ông già làm một mình. Ông vần cái chậu từng chút một trông tội nghiệp lắm. Thấy thế tôi qua giúp. Mấy cô gái đứng trong nhà hé cửa nhìn ra. Bác thị nói : "Không có con trai khổ rứa đó, việc nặng chẳng có người làm giúp". Tôi lại an ủi bác :" Lo gì,sau này bác có năm chàng rể lực lưỡng xốc vác tha hồ mà sai". Bác nói : "Chưa chắc đã trọn vẹn năm đứa..." Tôi cho rằng bác nghĩ tới nhan sắc năm cô con gái không lấy gì làm xuất sắc và gia cảnh bác không thu hút được đám con trai thời buổi này. Bác lại nói :"Khó lắm, thời buổi trai thiếu gái thừa". Tấm lòng người cha lo cho tình duyên năm cô con gái thực đáng thương. Tôi cầu mong cho các cô duyên may phận đắc nhưng tôi không mấy tin tưởng cả năm cô kiếm được tấm chồng xứng đáng.
Cuối hè năm đó tôi thi đỗ. Tôi từ giã gia đình thầy lên tỉnh học. Bẵng đi một dạo khá lâu tôi mới có dịp trở về ngôi nhà cũ. Nơi đây đã có một lớp học trò mới trọ học. Tôi ra sau giếng rửa mặt. Sân sau nhà bác Thị vẫn không thấy gì thay đổi. Mấy cô gái thoắt biến thoắt hiện, hình như họ thông tin cho nhau về việc tôi trở lại. Tôi biết họ đã tới tuổi trổ mã con gái, họ có đẹp lên hay không tôi chưa kịp nhìn thì cô này biến cô kia hiện. Tôi phân vân không biết đã có năm anh chàng nào quanh quẩn bên cạnh năm áng mây này hay không? Tôi trở lại sân trước nhìn qua hàng rào ngắm khu vườn hồng. Mấy chậu hồng vẫn còn đó nhưng tất cả đều um tùm như bụi rậm vì không có người chăm sóc. Thấy quang cảnh vườn hồng tôi biết chắc lâu nay bác Thị già cả, đau ốm hoặc đã qua đời. Quả nhiên hỏi ra bác mất gần giáp năm.
Khi tôi trở lại lần này khu vườn vừa trải qua một mùa mưa. Mưa xứ Huế rả rích hàng tháng. Chiếc sân gạch nhà bác Thị lát bằng những viên gạch vuông to bản. Tôi không biết đó có phải là gạch bát tràng hay không? Ở Huế mấy ngôi nhà cổ đều lát sân bằng thứ gạch này. Qua nhiều năm tháng có nhiều viên gạch mòn trũng xuống bởi gót sen của những nàng Tôn Nữ. Đã có lần tôi hỏi bác Thị tại sao không tráng sân bằng xi măng, bác nói nhà xây hàng trăm năm rồi thời ấy làm gì có xi măng. Mấy ngôi biệt thự của người Pháp cũng toàn bằng vôi với mật đường phủ bên ngoài bộ xương bằng tre. Gạch ngoài sân tẩm nước mưa lâu ngày hoá thành mầu thẫm và trong lên như tẩm mật. Lần này chiếc sân gạch cổ dầy lên một thứ rêu xanh non ánh như lớp tuyết trên chiếc áo nhung rất đẹp. Cỏ dại chen từ những kẻ gạch mọc tràn lên sân. Tôi chắc trong suốt mùa mưa năm cô Vân không bước ra sân mà khách khứa chẳng có ai vào nhà. Thực giống như câu Kiều:"Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày". Mấy cây hồng giờ đây chen chúc với cỏ dại, nó cố rướn mình nở ra cống hiến cho đời những bông hoa cuối cùng. Lần đó tôi ở lại vài giờ rồi đi. Tôi buồn vì người mất, cảnh vật tiêu điều. Khu vườn nhà bác Thị còn có phần của tuổi tôi niên thiếu.
Cuối năm ấy tôi dẫn đứa em trai lên phố thi trọ học. Tôi muốn nó đi con đường mà tôi đã đi. Hình ảnh của nó làm cho tôi nhớ lại thuở tôi mới tới đây. Tôi buồn, tôi nhớ nhà, tôi sợ, tôi sợ đủ thứ, sợ ông bà chủ nhà, sợ mấy đứa học trò lớp lớn ở nơi này trước tôi, đến trờng tôi sợ thầy cô, sợ lớp học bàn ghế bảng đen phấn trắng và sợ hơn cả là buổi sáng thức dậy nghe tiếng trống trường. Ôi sau này khi đã mất những cái đáng yêu đó tôi thương tiếc biết bao nhiêu!
Tôi ra sân trước nhìn sang nhà bác Thị nơi đây lúc này trải qua một mùa nắng kéo dài gay gắt. Chiếc sân gạch phủ rêu không còn màu xanh nõn; lớp rêu khô lại bong ra từng mảng trả lại màu gạch cũ kỹ. Mấy chậu hồng già cỗi cành lá xác xơ trơ những chiếc xương gai. Tôi nhìn khắp vườn không thấy một bông hồng nào. Tôi nhớ ngày trước lúc nào trong vườn cũng đầy hoa. Mấy cành hồng Elizabeth thân mỏng manh nhưng hoa lại rất to, cánh thật dày trông như làm bằng chất bột. Loài hoa này người ta dùng cánh của chúng để làm mứt dùng trong những ngày tết nhất. Mấy cây hồng giống Boléro có một màu rất đặc biệt, nó giống như giấy quyến nhúng phẩm hồng, chỗ đậm chỗ nhạt. Cây Mascara màu da cam khi còn hàm tiếu hoa có mùi thơm ngọt ngào. Giờ đây nhìn khắp vườn hồng không có lấy một màu hồng ấm áp như ngọn lửa nhỏ khi xưa. Buồn lắm tôi hỏi :"Hoa hồng trong vườn đâu hết cả rồi?". Một người đáp :
- Mấy cô gái hái hoa hết rồi!
Nghe thế tôi bỏ đi. Những cô gái bên kia hàng rào thực là ác, họ không trồng chỉ có bẻ hoa. Tôi mường tượng ra hình ảnh ngày xưa năm cô Vân nhởn nhơ vườn sau cười khúc khích nhưng vẫn sống âm thầm khép kín trong căn nhà ám khói đây mùi dưa cải muối chua chứa trong chiếc vại sành chôn ngập dưới đất một nửa để giành ăn quanh năm và bóng dáng các cô tha thướt trong vườn hồng vào lúc bác Thị ngủ trưa. Hoa của tuổi tôi niên thiếu các cô đã hái đi tất cả rồi. Tôi hết hơi hết sức làm sao chạy ngược thời gian đuổi bắt níu lại tuổi mười lăm ?
Nhiều năm sau tôi mới có dịp quay về chốn xưa. Nhà của bác Thị vẫn còn đó chỉ có điều nó mỏi mòn cũ kỹ hơn nhiều. Thời tôi ở mái ngói đỏ tươi như gò má năm cô thiếu nữ. Khi tôi đi nó ngả màu tê tái. Lúc này mùa mưa dầm dề xứ Huế phủ lên mái ngói một lớp rong rêu dày. Cây khế chua ngả bóng che một nửa mái nhà sau, lá khế và quả chín rụng trong bao nhiêu năm làm thành một lớp dày chất mùn thối rửa. Cây tầm gửi, cây bồ đề và cả những cây khế bé tí lá màu xanh non mọc lên làm thành khu vườn treo trên mái nhà. Tôi nhìn qua thấy hoa khế rụng đầy trải một lớp trên thành bể chứa nước mưa. Cái giếng vôi vữa nứt ra trơ lớp xương gạch màu hồng nhạt. Tôi không còn thấy bóng dáng năm cô Vân và nghe giọng cười của họ nữa. Căn nhà giống như đã bị bỏ hoang từ lâu. Thực ra hiện nay vẫn còn có người sống ở bên trong nhưng là ai thì tôi không biết. Dấu vết của sự sống là mái ngôi nhà bếp thở khói cơm chiều. Tôi không biết năm cô gái bỏ mái nhà này trôi dạt phương trời nào, tôi hỏi :
- Các cô gái đi dâu ?
Có người trả lời:
- Họ theo chồng tất cả rồi!
Tôi chưa hề yêu ai trong năm cô, thế nhưng khi nghe họ đã đi theo chồng tôi buồn vô hạn. Cả năm, cô gái là một phần của tuổi hoa niên của tôi. Một lần nữa tôi lại bỏ đi. Tuổi thơ tôi như hàng cây đứng lại bên đường còn chiếc xe đời tôi vun vút phóng về phía trước vô định. Tôi đã mỏi mòn gần muốn đứt hơi trên những nẻo đường đi tìm một cách vô vọng thế giới hoang tưởng tốt đẹp cho mình, cho đời. Trong cuộc hành trình đó đôi khi tôi hạnh phúc, đôi khi tôi đau khổ, tôi còn rồi tôi mất. Cuộc đời thực không mấy khi dành chỗ cho sự lãng mạn về một ý tưởng nào đó. Và chiến tranh. Chiến tranh như một định mệnh khắt khe phủ cái bóng đen xuống cả một dân tộc.
Lũ sinh viên chúng tôi lúc đầu tưởng chiến tranh là việc của người khác, không phải việc của mình. Nhưng rồi những quân trường của chế độ trước đây há cái mồm khổng lồ nuốt bao nhiêu là chàng trai ưu tú. Chúng tôi một lớp người mà định mệnh buộc phải tham gia vào trò chơi gớm ghiếc này.
Thuở nhỏ ở nhà quê chúng tôi vẫn thường chia nhau làm hai phe chơi trò chơi chiến tranh. Chúng tôi nhặt những quả cau già màu đỏ rụng rất nhiều trong vườn giả lựu đạn ném vào nhau. Đứa nào bị ném trúng phải chết. Chết nghĩa là không được tham gia trò chơi ấy nữa, chết là đứng một bên xem những đứa khác ném vào nhau những quả cau xinh xinh. Chiều lại cả hai phe thắng và thua kể cả những đứa đã chết kéo nhau ra sông cỡi trâu lội tắm về nhà cơm chiều cùng với gia đình, sau đó mới chạng vạng đã lên giường ngủ sớm như gà. Giờ đây người ta trao cho chúng tôi súng thực đạn thực. Giờ đây không có cái chết giả đáng yêu thuở thiếu thời. Những đứa trúng mìn thân thể như thịt băm người ta lấy đũa gắp từng mảnh tống vào bao nhựa. Những chiếc túi ni lông sản xuất tận bên Hoa Kỳ. Loại túi này bền bỉ một cách tàn nhẫn.Hai mươi năm sau vẫn không chịu tan rữa, nó chứa bên trong một thứ nước lầy nhầy kinh tởm không thể tưởng tượng được.
Và rồi cuối cùng chiến tranh cũng đến hồi chung cuộc. Trận chiến này chẳng phải của lớp người chúng tôi nhưng chúng tôi lại chịu nhiều hậu quả bi thảm nhất. Tương lai cả một thế hệ mang màu xám tro. Tôi trở về thân thể lành lặn nhưng tâm hồn mang đầy vết thương.
Tôi lại trở về thăm mái nhà xưa. Mái ngói oằn xuống vì sức nặng của thời gian. Chỉ có một điều hoàn toàn bất ngờ. Cả năm cô Vân đã quay lại chốn này. Giờ đây họ là năm thiếu phụ già nua lặng lẽ buồn thảm giống như năm chiếc bóng. Tôi hỏi vì sao năm cô không theo chồng mà quay lại thì được biết: Chồng của họ ra mặt trận chẳng có ai trở về...
***
"Người ơi hoa của tôi đâu?"
Người trả lời : "Hoa thời mộng mơ của nhà ngươi những cô gái hàng xóm hái đi tất cả rồi".
- Người ơi các cô gái thời trẻ trung của tôi đâu ?
Người trả lời :"Họ lấy chồng và bỏ đi tất cả rồi".
- Chồng họ vì sao không thấy trở về?
Người trả lời:"Chết trận cả rồi!".
- Người ơi sông đời xuôi chảy đưa tôi về đâu?
Người thở dài không nói đứng dậy rủ áo ra đi.
(Phỏng theo ý thơ cổ)
Quý Thể
***
32- Nếu Có Một Ngày
Hai Hùng
"Nếu có một ngày ta xa nhau có vầng trăng làm chứng ..... "
Tiếng hát của ca sỹ Đức Huy vang lên trong cái loa trên chiếc xe đò liên tỉnh , ông tài xế già vừa cầm lái vậy mà ông cũng lắc lư theo điệu nhạc, anh lơ xe đứng cạnh cánh cửa xe chân nhịp nhịp và miệng hát khe khẻ theo chàng ca sỹ này, bản nhạc
" Người tình trăm năm" Hoàng nghe không biết bao lần mỗi khi có Show tại California nơi chàng trú ngụ, vậy mà hôm nay trên chuyến xe đò này bản nhạc đã làm Hoàng phấn khích vô cùng vì nó hợp với tâm trạng của mình .
Vừa bước xuống chiếc xe chạy suốt từ Sài gòn về đến bến xe của tỉnh nọ ở miền Tây, đang loay hoay với cái valy hành lý cùng cái ba lô đeo trên lưng bổng Hoàng nghe tiếng gọi :
- Anh Hoàng phải không? Em là thằng Tám em của chị Hai Lành nè, anh đưa đồ đây em chất lên xe rồi em đưa anh về nhà.
Nhìn chàng thanh niên chạy xe đạp lôi người đen nhánh, rắn rỏi khỏe mạnh, Hoàng cũng nhận ra nên vui vẻ lên tiếng :
- Trời ! Tám hả em , bây giờ lớn bộn nghe bây, mần ăn lúc này ra sao, chạy xe có khá không?mà vợ con gì chưa Tám.
Vừa chất cái valy lên thùng xe đạp lôi Tám vừa trả lời:
- Chèn ơi Lúc này làm ăn bết lắm anh Hoàng ơi, em mới lấy vợ năm rồi, Út đẹt vợ em hồi nhỏ nó thường chơi lò cò trước sân nhà của ba anh với mấy đứa trong xóm anh nhớ không?
Nghe thằng Tám nói vậy Hoàng liền lục tung lại kỷ niệm ngày xưa vẫn còn ghi dấu trong đầu, Út Đẹt con nhỏ đen đúa ốm nhom thường hay xin Hoàng cho leo lên cây mận trước nhà để hái mấy trái mận chín đỏ trên cành , Hoàng nhớ nhất là con bé này nó có biệt tài bơi lội, đám trai gái trong xóm hay gọi nó là " Út rái cá", nhưng do Út nhỏ con nên về sau bọn nhóc lại cãi danh nó thành "Út đẹt" kêu riết thành quen chết danh cho đến giờ.
Hoàng lên tiếng đáp lại:
-Ai chứ Út đẹt có lạ gì với anh đâu, con nhỏ đó tuy nó hơn đen đúa một chút nhưng anh thấy nó ăn nói lễ phép và có duyên lắm đó .
Nghe Hoàng khen vợ mình khiến thằng Tám khoái chí nó gò lưng nhấn bàn đạp đưa chiếc xe lôi lao vút trên đường, xe lên khỏi cái dốc thằng Tám đưa tay quẹt mồ hôi trên trán vừa hỏi:
-Ủa mà anh Hoàng lúc này làm gì và ở đâu, anh đi biền biệt chẳng tin tức gì làm cái đám con nít tụi em nhớ lắm .
Không trả lời câu hỏi của thằng Tám, Hoàng lái câu chuyện sang hướng khác:
- Chú Thím bên nhà khỏe hết hả Tám, lâu rồi không gặp có khi bây giờ anh nhìn không ra, à còn chị Hai của Tám bây giờ ra sao? Chị Hai có ....
Hoàng bỏ dở câu hỏi giữa chừng khiến thằng Tám thắc mắc hỏi vặn lại:
-Chị Hai có gì là có gì, sao anh không nói cho rõ em mới biết đường trả lời chứ.
Hoàng chưa kịp nói, Tám đã nhanh nhẩu nói:
-Em hiểu rồi, anh muốn hỏi chị Hai đã lập gia đình chưa chứ gì ?
-Buồn lắm anh Hai ơi, ý em lộn vì em coi anh Hoàng như anh Hai của em lâu rồi, chị Hai nhất quyết ở vậy chứ không thiết tha gì chuyện chồng con.
Nghe thằng em rể hụt cho biết sự tình trên, bổng dưng Hoàng thấy bồn chồn trong lòng, một lúc sau Hoàng mới lên tiếng :
-Sao kỳ vậy Tám .
Nghe câu hỏi của Hoàng, Tám ngoái lại nhìn anh rồi đáp:
- Chuyện khá dài lắm anh, thôi hẳn còn sớm, em ghé cái quán phía trước anh em mình lai rai ba sợi rồi em sẽ kể cho anh nghe.
***
Quán đang vắng khách, thấy thằng Tám và người khách lạ bước vào thì bà chủ chạy ra đon đả mời chào:
- Dạ mời hai chú vô quán tui nghỉ chân, quán tui đủ món nhậu ngon lắm nhe hai chú.
Chừng nhìn kỹ lại thấy khách quen, bà Năm Hợi chủ quán bèn nói tiếp:
- Chèn ơi, thằng Tám hả bây, nãy giờ bà tưởng ai không hà, dô nhậu đi con, Năm cho con "Gô sĩ" ý tao nói lộn, nói láy cà rỡn riết nó quen cái tật luôn, ý là cho bây ghi sổ nợ bữa nào có tiền ghé trả.
Rồi bà thấy ông khách theo thằng Tám vô quán bà Năm hỏi:
-Chẳng biết chú Hai này ở đâu, sao tui thấy chú quen quen đó nghe, chà lúc này già rồi đầu óc nhớ trước quên sau, à tui nhớ ra rồi , thằng Hoàng con anh Chị Bảy nhà phía cầu Rạch lá phải không?
Lúc này Hoàng mới lên tiếng :
-Ai nói bà Năm già đâu, bà Năm nhớ còn hơn ông Nguyễn Bĩnh Khiêm ngày xưa nữa đó , cũng gần chục năm rồi con mới về đây, bà năm Mạnh giỏi hả.
Sau màn chào hỏi , bà Năm chỉ tay về phía bên hông quán bà nói:
-Tám con , bây dẫn anh Hoàng bây qua đó ngồi đi rồi ăn uống gì Năm làm cho:
Hai anh em lựa cái bàn thấp lè tè chổ bà tám mới nói, có lẽ thằng Tám chọn chổ này vì nó nằm dưới tàn cây rậm rạp mát rượi, hơn nữa lại nằm sát trên bờ con rạch chảy ngang qua nên là nơi lý tưởng để hai anh em lâu ngày có dịp hàn huyên tâm sự, thấy tấm cạc tông có ghi chữ gì đó đễ trên bàn , Tám cầm lên khẻ đọc:
Menu ( Thực đơn)
- Bò xào củ hành .
- Cá lóc nướng trui
- Le le nướng ngũ vị
- Ốc len xào dừa
- Ốc gạo, nước mắm chanh.
-Cha lúc rày bà Năm tiến bộ dữ à nghe quán có tờ ( Mơ nu) song ngữ nữa hả, bộ mấy ông khách ngoại quốc hay vô quán năm lắm phải hông, hèn chi cho "gô sĩ" thoải mái là con biết gồi.
Nghe thằng Tám nói vậy bà Năm cười khanh khách, bà nói :
- Cái khỉ khô họ, năm thuở mười thì mới có một " Con Nhạn là đà" đáp dô chứ có ai đâu, nói nào ngay cũng nhờ đám bạn chạy xe đò chung với cha nội "Ba cà giật" tới ủng hộ thường xuyên nên Năm cũng có dư chút đỉnh, Năm biết bây cũng khoái nhậu mà túi thì xẹp lép nên Năm chiếu cố đó thôi, chứ người khác thì " hổng dám đâu", bán chịu cho họ cụt vốn như chơi con ơi.
Gọi vài món cùng xị rượu đế, Hòang và Tám vừa uống vừa trò chuyện:
- Sao rồi, Tám kể anh nghe vụ chị Hai cho anh nghe đi.
Thấy Hoàng nôn nóng muốn biết hoàn cảnh của chị mình, trong đầu nó tự hỏi :
" Anh Hoàng có khi nào ổng còn thương chị Hai hông dậy cà, thử "Phổi" ổng một chuyến mới được.
-Từ lúc anh trốn nhà ra đi đến giờ, anh không thư từ nhắn nhủ gì cho chị Hai, thời gian đầu chị nhớ anh đến bỏ ăn bỏ ngủ, tía em phải nhờ bà thầy thuốc nam bổ cho mấy thang thuốc uống cho lại sức, trời cũng còn thương vì sau cơn bạo bệnh chị lấy lại tinh thần nên chị quen với anh Giáo dạy học ở xóm bên kia sông, tình cảm cũng khắng khít lắm anh ạ, ác một cái tuổi của hai người không hạp lắm, bà thầy bói trên chợ nói hai người mà lấy nhau thì khó bề ăn đời ở kiếp.
Nói đến đây Tám tự rót cho mình ly rượu , nó nốc một cái ngon ơ vào bụng rồi làm bộ lờ đờ đôi mắt nhìn để dò xét thái độ của Hoàng .
Công nhận thằng Tám học hành không cao, nhưng nhờ nó lăn lộn trên trường đời có kinh nghiệm sống nên nó rành tâm lí của người đối diện, nó bắt đúng mạch ông anh rể hụt của mình khiến cho Hoàng bẽ bàng sau câu chuyện nó vừa kể ra, thấy Hoàng xụi lơ như "Cua mất càng", Tám liền tố thêm:
-Anh biết sao không, rốt cuộc "Trời cao có mắt" , má em thấy chị Hai buồn cho số phận tình duyên mình hẩm hiu, vì chị nói với má chị xuống tóc lên núi Tà lơn theo thầy nương theo cửa Phật, má em an ủi chị và nhờ ông thầy khác cao tay ấn hơn để hóa giải sung khắc tuổi của chị với anh Giáo , năm sau chừng ra giêng họ sẽ mần đám cưới.
Liếc nhìn gương mặt của Hoàng như những người vừa bị "giật hụi" thằng Tám nó hả hê và thật mắc cười, nó cắn môi lại cố kiềm chặt lại, chút xíu nữa thôi là trò diễn của nó sẽ bại lộ thì coi như " Dã tràng xe cát biển đông".
Hoàng bưng ly rượu lên, anh ta uống trong đau khổ vô cùng , cũng rượu trong chai rót ra mới vừa lúc nãy sao nó "ngọt ngào" vô cùng vì đã lâu cái cay nồng của rượu nàng hương chánh gốc làm anh ấm lòng sau bao ngày xa quê hương, giờ đây sau khi nghe thằng Tám kể lại sự tình thì cũng rượu kia sao tự dưng hóa thành " chén đắng".
Ngà ngà men rượu, Hoàng bắt đầu tâm sự nỗi lòng bấy lâu nay cho thằng Tám nghe, đại ý là trước đây khi biết anh yêu cô Hai Lành chị của Tám, ba má Hoàng không ưng, họ buộc anh phải cưới cô Liễu xóm đò ngang vì hai gia đình hứa hôn từ lâu, cô Liễu cũng đẹp người đẹp nết , nhưng Hoàng đã đem lòng thương yêu Lành, hai người thề non hẹn biển nếu vì lẽ gì mà không cùng nhau đi đến cuối cuộc đời thì hai người nguyện cùng nhau ở vậy cho đến ngày nói lời từ biệt trần gian, Anh nói với thằng Tám :
-Anh vẫn một lòng với chị em, nơi anh ở bên kia cũng vài người mối lái cho anh vài cô nhưng anh nặng lòng với Lành anh không màng đến họ , có bà ác miệng nói anh là Gay, em biết mấy bả ám chỉ anh là gì không, nói theo ngôn ngữ bình dân họ cho anh là Pê đê tức là bà bóng đó Tám ơi, ai đời con gái trẻ đẹp hơ hớ vậy mà không muốn thì Pê đê là cái chắc, anh mặc cho họ đàm tiếu, anh chờ đến hôm nay , vậy mà...vậy mà ..
Nốc thêm ly nữa vào miệng, nồng độ của đế Gò đen bắt đầu phà huy tác dụng, Hoành xây xẩm mặt với gương mặt đỏ như gấc, ngồi lâu sợ Hoàng lật gọng tại chổ nên Tám lật đật kêu bà Tám ra tính tiền:
-Hết thảy hai trăm ba chục ngàn, ủa không thiếu hả con, hôm nay bây dô mánh phải không? Thôi dậy cũng mừng cho bây , thời buổi này khó khăn lắm kiếm ra đồng tiền cũng "Trần ai khoai củ" chứ chẳng chơi, dìa cho bà Năm gửi lời thăm tía má bây mạnh giỏi nghe.
Định móc bóp ra lấy tiền, Tám bị Hoàng cản lại rồi anh đưa bà Năm ba mươi đô la và nói :
- Cái này dư chút đỉnh con gửi bà Năm luôn nghe, khỏi thối lại con.
Bà Năm cằm tiền đút vào túi áo bà ba rồi bà nói :
-Nãy giờ Năm nghe hết câu chuyện hai đứa bây kể, con Hai Lành con đó tao chấm nó lâu rồi, đứa nào mà rước nó về là phước ba đời, thôi Năm khuyên thằng Hoàng nè , bây nhờ Tám nó dìa dọ ý coi con Hai nó còn nhớ bây không , biết đâu duyên số bây phải hưởng chứ chẳng phải thằng Giáo, nếu không phải nhân duyên trời định thì hai đứa nó ráp đại dô rồi làm gì chờ đến bây giờ con ơi.
Nghe thấy tiếng gợi ý của Bà Năm "vẽ đường cho Hươu chạy" thật có lý , tự dưng Hoàng lấy lại tinh thần không còn ủ rũ như khi nãy, Hoàng cảm ơn và từ giả bà Năm rồi hai anh em khập khiễng dìu nhau ra xe để về
***
-Cái thằng này ngộ ghê nha, mới xuống xe nhậu quắc cần câu rồi.
Tiếng bà Bảy má của Hoàng càm ràm như vậy, dù hơi phật ý nhưng bà cũng gọi người giúp việc pha trà nóng và nước chanh cho Hoàng uống để tĩnh rượu...
Cơm nước chiều xong, Hoàng xin phép gia đình đi lòng vòng trong xóm để ôn lại những kỷ niệm thời thơ ấu, bà Bảy kêu người nhà đi theo để có chuyện gì thì giúp Hoàng, bà sợ con bà lâu ngày lạ nước lạ cái thì khó cho nhiều việc, Hoàng gạt phăng ý đó anh ta nói:
- Má ơi con nửa đời người rồi, đâu còn nhỏ như hồi đó đâu mà má cứ cho người theo giữ chằng chằng, cứ để con thoải mái đi má
Nghe Hoàng nói cứng bà Bảy cũng đành xiêu lòng, vì trong mắt bà, thằng Hoàng con mình nó vẫn còn thơ dại như trong ý nghỉ của bà .
* * *
Bầu trời đêm nay thật lý tưởng, ngày vừa khuất thì trăng vàng đã mọc sau lũy tre làng, lững thững thả bộ đến cây cầu bắt ngang kênh , ngày xưa là cây cầu ván ọp ẹp, nơi Hoàng và Hai Lành thường hò hẹn với nhau, cây cầu nay đã được xây thành cầu đúc bê tông, nước sơn trắng của thành cầu như rực sáng trong đêm, thằng Tám khi đưa Hoàng về nhà, trên đường nó dặn Hoàng đêm nay đến nơi hẹn năm xưa để gặp lại người thương một lần trước khi chia tay về lại xứ người.
Bước lên cầu Hoàng tựa lưng vào lan can nhìn xuống dòng sông bên kia chàng thấy xa xa những chiếc thuyền chài đi chài lưới đặt lờ trong đêm, ánh đèn leo loét trên thuyền phản chiếu khiến Hoàng liên tưởng những vì tinh tú xa ngút ngàn đang lập lòe chiếu sáng trong đêm trường, tiếng ghe đuôi tôm chạy xình xịch dưới kênh họ đang chuyên chở những sản vật ra chợ Huyện chợ tỉnh để kịp đưa về Sài gòn trước khi trời sáng, không khí về đêm thật trong lành, Hoàng hít thật mạnh căng đầy buồng phổi như cố giữ lấy hương vị ngọt ngào của quê mẹ mà lâu lắm rồi chàng mới có được, đang tận Hưởng cái không khí yên bình chợt bên kia cầu có dáng người mảnh mai đang đi đến, bằng trực giác , bằng thị giác , bằng tất cả những kỷ niệm xưa ùa về Hoàng nhận ngay Hai Lành bằng xương bằng thịt đang đến gần, cái cảm xúc hồi hộp y như mươi năm trước nó khiến cho tim Hoàng đập loạn xa , ngây ngất trước vẻ đẹp thánh thiện của người xưa anh đến bên và nắm lấy tay Lành rồi bất chợt ôm nàng vào lòng với tất cả niềm thương mến, Hai Lành nhanh chóng gục đỗ trên vai anh, cả hai không ai nói một lời , họ quấn lấy nhau mặc cho thỉnh thoảng có những chiếc xe chở hàng hóa chạy vụt qua nhanh ...
***
Bà Bảy nằm lắc lư trên võng , tay vân vê miếng trầu trong miệng, bà vặn hỏi:
-Bây giờ tính sao đây Hoàng, bây làm má muối mặt với nhà con Liễu một cái quá mạng, bây trốn biệt từ đó đến giờ có ma nào dám hỏi cưới gì con nhỏ đâu, tội nghiệp hết sức, đầu trên xóm dưới họ biết tỏng tòng tong nhà mình với nhà nó hứa hôn nhau, vậy mà bây làm bể bạc hết ráo.
-Thôi má ơi! Chuyện cả chục năm rồi má nhắc hoài con rêm mình luôn, hồi đó con với Hai Lành thương nhau thật lòng vậy mà ba má cấm cản, còn cô Liễu con chưa một lần nói chuyện mà bắt con ưng làm sao cho được, má à thôi chuyện lỡ làng hết rồi, nếu cần con qua tạ tội với gia đình cô Liễu cho.
Ông Bảy đang nghe radio nhưng cũng chú ý đến đối đáp của hai mẹ con Hoàng, chừng đến hồi bất phân thắng bại giữa hai bên ông liền chen vô:
-Thôi bà ơi, chuyện đã vậy rồi cố ép cũng không nên cơm nên cháo gì đâu, cái thời của mình khác, thời đám trẻ bây giờ khác, ngày xưa ông bà mình nói "Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó" , giờ thì tụi nó " ưng đâu cha mẹ phải theo" , tui thấy cứ để cho con cái tự quyết định chuyện lứa đôi tụi nó là hay nhất, mình xía vô sau này cắn đắng với nhau nó đỗ thừa mình hết bà ơi.
Bà Bảy quay ngang phang cho ông Bảy một câu:
- Cũng ông không chứ ai, giỗ quải ăn nhậu được rồi, rượu vào lời ra hứng chí hứa hẹn nhau cho đã giờ thì " lòi chành té bứa" ra chưa biết tội nữa.
-Thôi bà , vậy được rồi đó làm hoài coi lố lắm nghe.
* * *
Mới tờ mờ sáng, Lành đã thức dậy lo mọi chuyện cho gia đình xong nàng vào phòng riêng lo trang điểm, lấy trong tủ từng chiếc áo tuy cũ nhưng thẳng nếp và thơm tho, ướm thử đôi ba chiếc áo cuối cùng Lành chọn áo bà ba màu tím mặc cùng cái quần lảnh màu đen trông thật thùy mị và kín đáo, hôm nay Lành sẽ chính thức ra mắt ba má chồng hụt của năm nào khiến Lành có đôi chút bồn chồn sợ sệt, chẳng phải nàng sợ ông bà Bảy thêm lần nữa không chấp nhận mình là con dâu, nếu điều đó có xảy ra thì với nàng đó là sự lập lại cái tôi của ba má Hoàng thôi, Lành sợ Hoàng lại bị hụt hẫng lần nữa thì nàng không cam tâm, sau khi Hoàng thổ lộ hết nguồn cơn sự vắng mặt khá lâu của mình. Giờ chàng xin nối lại cung đàn lỗi nhịp khi xưa, nhận ra chân tình của Hoàng Lành đánh liều sẽ cùng xin ông bà Bảy tác hợp cho họ.
Vừa đến ngỏ nhà Hoàng , Lành Thấy ông bà Bảy ăn mặc chỉnh chu đợi sẳn, thấy Lành cùng sánh bước vô nhà, bà Bảy đến gần rồi nắm tay Lành bà nói:
-Tới rồi, vô đây con gái, má mong con đừng buồn, hôm rồi má có gặp bà Năm quán nhậu bả nói cho má nghe hết mọi chuyện, cái thằng Tám xe lôi nó kể mọi sự tình cho bà Năm nghe về tình yêu hai đứa dành cho nhau, má với tía nghĩ lại và thương con quá, thôi mọi chuyện qua rồi gương vỡ lại lành, để má bàn với anh chị sui tìm ngày lành tháng tốt cho hai con thành chồng vợ.
Nghe xong câu nói của bà Bảy, Hoàng quay sang ôm ngang lưng Hai lành và đặt nụ hôn thật sâu lên môi nàng.
Chừng nghe tiếng Tám xe lôi vang lên thì hai người mới bừng tĩnh bẻn lẻn nhìn nhau:
-Hahaha. Anh Hai bị thằng Tám này "Thuốc" mà vẫn bình yên hay thật ta.
Hoàng giơ nắm tay lên hướng về Tám xe lôi rồi nói:
- Nhờ "Thuốc" của chú em anh và chị mới đoàn tụ hôm nay, xong vụ này cho chú số vốn nho nhỏ mở đại lý thức ăn gia súc buôn bán cho khỏe khỏi đạp xe chi cho cực.
Bà Bảy vỗ tay rồi nói :
-Bây tính dậy được đó , má ủng hộ
Rồi bà Bảy quay sang hỏi chồng:
- Ý ông làm sao .
- Bà nói gì " áo ông làm si" hả , bà sao tui dậy bà ơi , đồng dợ đồng chồng tác biển đông cũng cạn mà bà.
Hai Hùng SG
***
31- Câu Chuyện Kể Vòm Hang
Truyện Ngắn Trẩn Hạ Tháp
1.
"...Trên nóc hang, vẫn liên tục vũ khúc kền kền không phân biệt ngày đêm: mổ-xé-nuốt. Chí thú, say sưa. Màu trang trí kinh điển: máu. Bốn góc chia bốn phần lãnh địa: độc quyền sàn nhảy. Chả ai còn lạ lùng khi chúng choàng đủ thứ ruột gan phèo phổi lên đầu: chiến lợi phẩm làm vòng hoa chiến thắng. Chiến thắng khi chúng đã chiếm đoạt được chiếc hang vốn trước đây lung linh màu thạch nhủ. Một hang động linh thiêng từ sơ cổ...
Đến mùa định kì, bọn chúng có nghi thức rất bất thường: mổ-xé-nuốt lẫn nhau không hề thương tiếc. Tiềm-năng-đầu-đàn: rồi sẽ quy về một trong bốn kền kền độc hiểm, quỷ quyệt mưu mô nhất.
Đây là lúc, đỉnh nóc hang thay đổi chủ nhân. Quyền lực tối thượng vào "chân" con nào? chưa dễ gì đoán biết. Và dù con nào, hoạt cảnh vẫn cứ thế...
Cũng là lúc, tự động cuộc tái phân phối bầy đàn phe nhóm ăn theo. Lũ kền kền đàn dưới thập thò nghe ngóng, ra sức chạy nhanh nhất theo cường lực thắng thế. Chúng chuyên phản trắc, lật lọng miễn được duy trì ít nhiều phần ăn, suốt kiếp cứ khệnh khạng vòng ngoài vòm động.
Hiển nhiên, bốn tiềm-năng-đầu-đàn bên trên phải ra sức biểu diễn công lực ngạo thị. Đủ ngón nghề. Mục đích tối hậu tóm lại không ngoài: né tránh, hoặc ra đòn sát thủ.
Các tiềm năng kia vừa thù, vừa là bạn. Quái dị thật. Chúng đồng loại nhưng không hề đồng lòng với nhau. Trừ việc để có chỗ bảo kê cho sự tồn tại ngày càng bị muôn loài tẩy chay, thì chúng luôn tôn thờ đại vương khổng lồ trên núi. Răm rắp vâng theo từng tí một... Đại vương kền kền vĩ đại. Hòn núi ấy quá gần, vẫn trong tầm nghe-nhìn-ngửi lũ chúng.
2.
Bên trong vòm động, lũ lượm rác nhai xương mặc sức thao túng. Là sài lang, chúng thường ngủ. Ngủ ngồi nhiều hơn thức. Mặt chúng luôn cứ vênh lên: "khuyển diện tướng" y chang lúc chầu rìa "bàn tiệc". Nơi đây rền vang trường-ca-ngáy.
Bên trên nóc vòm, bốn kền kền thượng tầng ra sức nhảy múa, vừa thi đua cầm nhịp: thịt từng mảng, từng mảng liên tục rụng xuống. Lộc thưởng ân ban.
Mưa xương vẫn rất thường. Bọn ngủ gật bên dưới quơ cào mãi không hết. Xương rất dư, kê làm gối vẫn còn vun như củi. Giấc ngủ, chúng mơ màng tru sủa loại âm thanh ằng ặc.
Năm tháng nơi đây rất dài. Quá dài trong cảnh-giới-vô-minh. Tất cả bọn chúng - kền kền và sài lang - rất mực hãnh diện điều nầy. Coi y như thời gian ở cảnh tiên: cứ ngỡ rằng loài người khốn khổ ở ngoài kia, luôn mơ ước hướng về nhưng khó đạt. Với chúng, rõ ràng loài người "tiến bộ" còn quá ít để ưu tiên được nhập tịch như chúng.
3.
Thức giấc, là lúc bọn liếm rác dọn phòng làm việc. Việc thi hành vô cùng đơn giản: toàn bằng miệng. Chúng ngốn sạch, nuốt trổng. Ngoài thịt-xương-da cố hữu. Còn món đặc sản, đa sinh tố. Viên lổm-nhổm-biết-bò. Dòi: thứ vật tổ thời chui-bò-rúc-rỉa. Tất thảy bọn ngủ gật nầy chừng như đều có chứng chỉ dọn vệ sinh, loại hiếm. Chúng mang thiên bẩm phi tang. Phi tang cật lực. Bởi bản thân chúng, nói văn vẻ chính là "siêu sọt rác" Nhưng cũng phải đến lúc bất khả. Không sao "liếm sạch mùi" đã lan xa ngoài vạn dặm. Vòm hang rỗng. Cửa nẻo trống hoát. Quang cảnh tan hoang, xú uế kinh hồn.
"Hôi thối" là gì? Hai loài đặc dị, chuyên quản thủ nơi đây - kền kền và sài lang - làm sao hiểu? Vĩnh viễn "hôi thối" vẫn không lập thành khái niệm...
4.
Ngày kia, kền kền đại vương rời núi, giá lâm. Con vật khổng lồ kia đem ban thưởng xác chồn hôi. Bốn kền kền tiềm-năng-đầu-đàn cúi đầu tung hô, thọ lộc. Đại vương sà xuống vào hang. Cặp mắt ti hí dò tìm hồi lâu. Bỗng đắc ý phát hiện: linh vật. Đại vương thò vuốt sắc, bấu ngay hộp gỗ vẫn treo trên trần nóc kín đáo. Hộp trầm hương nặng chịnh, không nhúc nhích mảy may. Thần lực ngoại hạng, đại vương vẫn cứ toát mồ hôi. Bất lực.
Chỗ cất hộp gỗ vô cùng hóc hẻm. Thân đại vương vốn kồng kềnh, bất tiện. Bốn kền kền mái vòm đón ý, cùng phối hợp hạ thổ linh vật. Bên ngoài cố móc ra, trong tận hết sức đẩy xuống. Hộp rơi, tan vỡ. Tiếng nổ kinh hoàng như sấm động. Linh vật mấy ngàn năm phơi ra, lăn lóc. Lộ bìa cuốn sổ chữ ghi: gia phả.
Nổi giận, đại vương quắc mắt xù lông nhảy vào xé mổ. Bốn kền kền chủ vòm dửng dưng. Kền kền mãi ăn no ngủ cao và thống lĩnh. Bỗng ánh hào quang phát ra, chói mắt. Phút chốc nghe như tiếng quân reo, voi gầm, ngựa hí.. Tiếng phần phật cờ bay trong gió. Tiếng gào la thảm khốc chiến chinh. Tiếng hô hoán dõng dạc và âm hưởng vạn triệu giọng người đáp ứng. Tiếng nước nghẽn chảy ồ ồ lẫn với tiếng cầu phao gãy sập, trôi phăng. Tiếng lửa cháy phừng phừng. Hơi nóng lan ra dữ dội, táp vào mặt đại vương. Kền kền khổng lồ kinh hoàng, nhảy dựng...".
5.
Người đang đứng kể chuyện, đến đây đưa mắt nhìn quanh... Ngoại trừ số vẫn nghiêm túc theo dõi. Họ cuồn cuộn dâng trào cảm xúc nét mặt, không che dấu. Cách tối thiểu để tiếp cận, sử dụng và giữ gìn chánh đáng sự tự do.
Vẫn không thiếu kẻ quá ồn ào, hổn tạp. Chuyện cứ đâu đâu, người nầy hoa tay múa chân, vẻ thông thái rất mực. Kẻ kia chực gây gổ hơn là thực tâm nghe chuyện. Người dựa ngồi lim dim như chợp ngủ. Các kẻ tụm năm, tụm ba bàn qua chợ búa, mánh mung. Kẻ rón rén lặng lẽ về nhà từ lâu. Người lại cố ý đứng xa, lẻ loi như tìm nơi hóng gió. Đám ưa văng tục nhất, ngồi nhậu bao giờ. Còn lại, hổn âm với quá nhiều giọng nói. Mạnh ai cứ nói, như một hội chứng loạn-thị-linh-hồn. Phân lập, cát cứ. Tưởng như mọi sự - ngoài cái cao hứng riêng của họ ra - còn rặc chuyện chả ra gì. Người kể chuyện ráng hết sức bình sinh la lớn:
-Có phải mình tôi, người độc quyền kể chuyện không đây? Hẳn là không bao giờ. Chắc chắn. Thưa quý ngài, nhất là về đoạn kết hôm nay... Có số quý ngài tại đây nhưng thực ra, không rõ rồi sẽ về đâu? Đó là quyền riêng tư. Tôi chỉ cần biết đến sự thực nầy: Cùng đã có mặt hôm nay, ở đây. Không cần kể những kẻ giả danh...mờ ám. Tất thảy chúng ta đều hội diện trong ý nghĩa: ít nhất về mỗi phần mình, cùng nói lên - cấp thiết - hướng đến kết thúc công bằng cho chuyện kể. Một chuyện kể đến đây - ai cũng sẵn biết trong lòng - vô cùng đặc biệt. Hoàn toàn chưa kết thúc...
Thưa quý ngài, xin lần nữa chân thành bày tỏ: rằng, thời gian không phải xa xỉ phẩm tiêu dao để làm duyên cho ý nghĩa cao xa nào, hoặc vả chăng nhằm qua ngày đoạn tháng. Trước khi rời diễn đàn về chỗ cố hữu của riêng mình, tôi xin lưu ý nhỏ - rất nhỏ - coi như đã xong đóng góp cá nhân tôi tối thiểu... Phần còn lại, để kính mời đồng cảm... Quan trọng hơn, hy vọng nhất là ý nghĩa ở cuối cùng câu chuyện kể. Chào tương lai. Xin cảm ơn tất cả.
Trần Hạ Tháp
***
30-Hồi Ức Thuở Biết Buồn
Hai Hùng
Tôi vốn mang trong người nhiều tình cảm, thuở còn cắp sách đến trường các bạn tôi đã cho nhận xét như vậy rồi, đôi lúc tôi chưa đồng ý với chúng bạn nhận định về tôi như trên, tôi nghĩ phàm là người chắc ai cũng vậy, những chuyện vui, buồn trong cuộc đời, những ân tình kỷ niệm với nhau thì chắc rằng cho dù ai cũng vậy, sẽ biểu lộ cảm xúc theo hoàn cảnh khi sự việc xảy ra, hoặc bất chợt một lúc nào đó tâm trí bổng dưng chuyên chở ta về vùng kỷ niệm nào đó khiến mình phải bùi ngùi thương nhớ chớ đâu phải riêng tôi.
* * *
Tháng ba lại về mang theo cái nắng chói chang, ông mặt trời như muốn thử thách giới hạn sự chịu đựng của con người, từng vạc nắng vàng hoe mang theo hơi nóng hầm hập đã khiến tôi liên tưởng lại những ngày tôi chập chững gia nhập vào "Thiếu Niên Thần Phong" của Phi Trường Biên Hòa thuộc Không Đoàn 23, với cái nắng đỗ lửa của những ngày như thế đó, chúng tôi luyện tập, học hành vui chơi với cái ước vọng sẽ trở lành một người lính không quân hào hoa phong nhã...
* * *
Anh Ba người quê Long An tính người chân chất thật thà, anh không cao lắm nhưng cũng đủ tiêu chuẩn làm một "Cánh chim bạt gió" trong ngành không quân, tôi có diễm phúc quen với anh là do" Ông tơ bà nguyệt" đã se duyên cho anh cùng chị Ba con Ông Bà Tư thợ hồ gần bên nhà tôi, ngày đầu anh về ở rể anh mặc bộ quân phục ủi hồ láng cón, tôi bị mê hoặc bởi những Phù hiệu anh mang trên áo, nhất là cái Phù hiệu con Rồng xanh trên túi áo, nó mang cái biểu tượng đi mây về gió trong bầu trời xanh thẳm bao la, thế là tôi có cái mơ ước ngày nào đó tôi sẽ được mặc bộ quân phục này, lúc ấy tôi chỉ nghĩ đơn giản nhằm để khoe với các cô bạn học, vì thời bấy giờ các cô nàng thường mơ mộng sánh vai cùng những "Cánh chim" này tung tăng dưới phố ngày cuối tuần, mơ ước là vậy nhưng thực tế tôi không biết mình có đủ khả năng để nối bước anh Ba hay không, tuy vậy tôi vẫn nung nấu trong đầu khi có điều kiện tôi cũng tham gia cho thỏa lòng ước mơ, đôi lúc hứng chí tôi hát thầm bản nhạc
(Một chuyến bay đêm) hát hoài mà không thấy chán, nhất là nghe cô Thanh Thúy hát bản nhạc này trên đài phát thanh Sài gòn thì nó làm tôi phấn chấn vô cùng.
Rồi thì cơ hội cũng đến, một sáng nọ tôi thấy chiếc xe GMC đậu trước nhà ông bà Tư thợ hồ, anh Ba cùng hai người lính cùng anh tài xế lần lượt xuống xe, chưa kịp hiểu ra chuyện gì thì anh Ba đã nói với tôi:
-Phương nè! Anh chị dọn về Biên Hòa ở, ở đây xa phi trường quá khi có việc gấp chạy cong đuôi mới kịp.
Thoáng một chút buồn, vì hai anh em quen nhau chưa bao lâu nhưng rất tâm đầy ý hợp vậy mà giờ phải xa anh xa thần tượng của mình thử hỏi làm sao không buồn, tôi cố nén lòng và vặn hỏi anh:
-Sao gấp rút vậy anh Ba, anh còn chưa kể hết những chuyến bay, những lần cấm trại xa nhà, và nhất là mấy cô học sinh tìm cách làm quen nữa, vậy mà anh lại dọn đi rồi.
Anh Ba cười hiền, vẫn nụ cười cố hữu của anh do chiếc răng khểnh đã góp phần cho nụ cười của anh thêm phần lôi cuốn, anh nói:
-Biên Hòa cách Sài Gòn có ba mươi cây số thôi, cuối tuần Phương rảnh thì ra ga Gò vấp leo xe lửa lên đó chơi.
Dứt câu nói anh vào nhà lấy tờ giấy caro anh vẽ sơ đồ đường đến nhà anh, tôi thấy từ đường Nguyễn Hữu Cảnh đi vòng vèo rồi đi ngang thánh thất Cao Đài, nhà anh dừng lại cách đó chắc không xa mấy trên thực địa, theo cách vẽ thì căn nhà của anh nằm sát hàng rào cổng Sau của Phi trường, tôi cầm tờ giấy mà trong lòng dâng lên một nỗi buồn, tôi lại nhớ có bài hát nọ có câu:
" Thôi là hết chia tay từ đây", bài hát này nói lên chia tay đôi lứa, trong hoàn cảnh này tôi tạm mượn để nói lời chia tay cùng anh, một người anh kết nghĩa thật chân tình của tôi.
Anh chị Ba dọn đi cả tuần rồi là cả một tuần tôi mang tâm trạng buồn hiu hắc, chị Ba cũng thường cho tôi quà cáp khi chị còn ở đây, trong lòng tôi lúc nào tôi cũng xem chị là người thân ruột thịt của mình, chẳng qua nhà tôi chẳng có cô chị gái nào để tôi vòi vĩnh nên tình cảm tôi dành cho chị thật nhiều, tôi còn nhớ lần nọ trong giờ học cô giáo gọi tôi lên trả bài, nếu hôm ấy ai thấy được gương mặt tôi thì chắc họ cũng phải cười nghiêng ngã, nhằm hôm đó tôi mê chơi chểnh mảng việc học hành nên không thuộc bài, với gương mặt méo xẹo tôi lững thững đi lên bụt giảng rồi đứng chịu trận không thốt được một lời, cô Hương cô giáo kính yêu của tôi "Thưởng" vô bàn tọa bốn roi và kèm theo lời mời phụ huynh vô để cô mắng vốn tiếp. Đòn roi dù có đau tôi vẫn chịu đựng được, còn việc mời phụ huynh vào mới đúng là phương thuốc "Đặc trị" cho những đứa không thuộc bài như tôi hôm đó, một phần vì sợ cha mẹ bỏ công việc để đi hầu, một phần tôi sợ ba tôi khi nghe tin này ông sẽ sốc và thể nào cũng "Thưởng" thêm cho tôi một mớ "Chả lông gồi" thì nguy, trong lúc đau đầu với suy nghĩ này tự nhiên tôi nảy sinh ra một ý khá táo bạo, đúng như câu người ta thường nói:
"Nhân cùng tất biến".
Trưa hôm đó đi học về quăng cái cặp lên bàn, tôi chạy u qua nhà Bà Tư, ngó quanh không thấy chị Ba ở đâu, chỉ có bà Tư đang ngồi dọn dẹp gánh xôi do bà đi bán mới về, bà vừa xếp đống tiền lẻ bà vừa hỏi tôi:
- Bây đi đâu vậy, bà Tư còn hai gói xôi đậu đen nè, đem về bển ăn đi, qua đây có gì không con.
Nhận hai gói xôi trên tay bà Tư trao cho, tôi trả lời :
- Con tìm chị Ba có chút việc, bà Tư biết chị ba ở đâu không?
-Nó đang cho Vịt, chi Heo ăn phía sau vườn kia chứ đâu, mà có chuyện gì cứ nói, nếu được bà giúp cho cần chi đến con Ba.
Sợ bể chuyện không hay ho gì của mình, tôi vội vàng nói trớ đi:
-Con tìm chị ba để nghe chỉ kể chuyện đời xưa cho con nghe, chỉ kể hay lắm nghe bà Tư.
Bà buông tay khỏi và để nắm tiền vô cái rổ và nói:
- Cha hôm nay ngộ nha bây, trưa trờ trưa trật không lo ngủ nghê , giờ này ai ở không mà kể chuyện ông con ơi, mà bà thấy cái mặt bây hôm nay nó gian gian sao đó, hi hi hi
Điếng hồn cứ sợ bà Tư biết tẩy, tôi lật đật cáo lui sau khi "Thanh minh thanh nga" vài lời để đánh tan cái nghi ngờ của bà, số là tôi muốn nhờ chị Ba đóng thế vai má tôi để đi gặp cô Hương, vậy mà không biết chị có đồng ý hay không. Về nhà tôi mượn cớ để đi gặp cho bằng được chị Ba để giải quyết cho xong cái lo lắng của mình, nghĩ là làm liền, tôi xách con dao phay ra sàn nước sau hè, đến gần đám chuối hột tôi lựa một cây nhỏ vừa sức để vác , tôi đốn liền cây chuối chặt bỏ phần ngọn tôi vác phần thân qua nhà bà Tư, tôi đi thẳng một lèo ra đàng sau may phước bà Tư bận bịu gì trong buồng nên không thấy tôi, gặp chị Ba tôi mừng hết lớn ,trao cây chuối cho chị để dành băm cho heo ăn rồi tôi nói thiệt đầu đuôi câu chuyện trong lớp và ý định nhờ chị cứu cho mình tai qua nạn khỏi. Chị Ba cầm cây chuối chị nói:
-Cha mới bây lớn mà biết lo lót rồi hén, thôi dược để chị Ba giúp cho, bác Năm biết được ổng cạo đầu khô hai chị em mình luôn đó, lần này thôi nghe anh hai, học hành có nhiêu đó hà, học dở mai mốt sao thành phi công được.
Nghe chị Ba lên lớp tôi có hơi buồn và hơi bị quê, tôi tự hứa với lòng nếu qua truông lần này nhất định tôi sẽ :
"Đừng đi nước mặn mà hà ăn chân".
Cũng may cô Hương không phát giác ra "bà má trẻ" của tôi do chị Ba đóng thế vai thật đạt, mà cái đạt nhất là khi nghe cô Hương mắng vốn tôi xong, chị Ba xoay người sang tôi chị nói:
-Phương nè, má nói con hoài, ráng học hàng đừng để cô thầy buồn sao con không nghe, cho chừa nè.
Sau câu nói này chị Ba xáng cho tôi hai cái bạt tai vào má đau điếng, bất chợt bị đánh đau, tự nhiên theo phản xạ tôi định cự nự chị Ba sao chị nặng tay với mình, may phước tôi chực nhớ hoàn cảnh hiện tại nên tôi "Thắng" cái miệng mình lại trước khi " Bể mánh".
Đến tuần thứ hai phần thì nhớ anh chị Ba thật nhiều, tôi rủ thằng Cảnh cháu cậu Tư tắc xi ở chung xóm cùng đáp xe lửa đi Biên Hòa, trước để thăm anh chị Ba cho biết nhà biết cửa, sau nữa dạo một vòng Biên Hòa xem cuộc sống bà con ra sao.
Sau hai giờ loay hoay chúng tôi cũng đến đúng cái nhà mà anh Ba đã vẽ sơ đồ cho tôi, gặp tôi và thằng Cảnh anh chị mừng và hỏi thăm rối rít như những người thân ở xa mới về, không gian thoáng mát của căn nhà lá lợp tole thiếc bên trên, chung quanh nhà ruộng lúa mọc xanh rì , khung cảnh lạ lẫm nhưng đẹp như bức tranh đã làm tôi và thằng cảnh chìm đắm vào giấc mơ đang sống trong xứ sở thần tiên nào đó, chừng khi nghe tiếng hát của cô ca sỹ Mai Mệ Huyền cất tiếng hát bản nhạc " Túp liều lý tưởng" trong chiếc Radio của nhà ai đang mở vọng đến, lúc ấy chúng tôi mới quay về thực tại, tôi hỏi anh Ba:
-Một mái nhà tranh hai quả tim vàng là nhất rồi há anh Ba, ở những nơi như thế này giống"Từ thức lên tiên" tụi em thích lắm.
Chiều đến anh chị đãi chúng tôi bữa cơm chiều thuộc về hàng "Quốc yến", ăn uống xong anh Ba mới cho tôi hay một tin mừng mà suốt đêm ấy tôi cứ trằn trọc mãi vì quá vui, vui đến bất ngờ và xem như món quà tinh thần vô giá anh đã mang đến cho tôi thời bấy giờ:
- Phương nè, đây là cái đơn xin gia nhập Thiếu niên thần Phong, em đem về cho chú thím Năm điền đơn và ký vô, khi nào xong giao lại cho anh, anh chỉ có quyền đưa một người vô thôi, em ưu tiên lắm nghe vì cháu anh Ba cả đống mà có đứa nào được như em đâu.
Cầm lá đơn tôi rối rít cảm ơn anh Ba vì anh thật sự dành cho tôi cái đặc ân này mà đám con cháu anh nằm mơ cũng chẳng bao giờ có được.
Đêm về ngoài trời tiếng côn trùng, tiếng ếch nhái đang hòa tấu khúc nhạc đồng quê nghe buồn đến não nuột, chuẩn bị đi ngủ tôi thấy anh Ba thay bộ quần áo kaki cũ phèn dính bàng cả hai cái ống quần, thấy lạ tôi hỏi liền:
-Ủa giờ này anh còn đi đâu, mà bộ đồ này cũ sì vậy anh Ba.
-Có hai đứa ở Sài gòn lên chơi anh kiếm mớ cá để mai mấy anh em mình lai rai.
Nói xong anh nhớm người đưa tay quơ máy trăm cái cần câu cắm để trên cái kệ tre gần đó, anh móc mồi nhanh chóng và hỏi:
-Sao hai đứa có muốn theo anh tham gia "Một chuyến câu đêm" không? Thú vị lắm đó, đi một lần cho biết không dễ gì có lần thứ hai đâu.
Nghe anh quảng cáo hấp dẫn quá khiến tôi và thằng Cảnh hưởng ứng tức thì.
Theo chân anh Ba chúng tôi đi dọc những bờ ruộng phủ đầu cỏ và thấm ướt sương đêm, do không quen địa hình và ánh đèn pin của anh Ba không đủ sáng khiến chúng tôi phải lần mò trong đêm, tôi với thằng Cảnh bị "Chụp ếch" lia lịa, có lúc té xuống ruông ướt như chuột lột, càng về khuya trời càng lạnh nhưng chúng tôi thích thú với chuyến câu đêm nên thời tiết có thế nào cũng chẳng làm chúng tôi nao lòng, anh Ba giao mỗi đứa vài chục cần câu, chia nhau đi cắm dài dài trong mấy thửa ruộng, không quen với sình lầy chúng tôi cứ bì bõm như trâu đang cày ở ruộng sâu, câu đêm thật cực thân nhưng rất vui.
Ngồi túm tụm lại trên một bờ đê lớn, anh Ba móc gói thuốc Ruby ra đốt một điếu, ánh lửa của điếu thuốc lập lòe trong đêm khiến tôi liên tưởng như ánh ma trơi mà tôi thường nghe kể trong các câu chuyện về khuya, lấy cái bi đông rượu nếp than và bịch khô mực nướng anh mời chúng tôi thưởng thức để chờ đến giờ đi thăm câu. Hơi ấm của rượu, mùi thơm khô mực và vị ngọt của nó khiến chúng tôi cảm thấy ấm lòng trong đêm khuya.
Chừng một tiếng sau kể từ khi cắm các cần câu xuống ruộng lúa, chúng tôi tỏa ra để thăm câu, hấp dẫn của câu đêm đã bắt đầu , nào là cá Trào, cá lóc , cá trê vàng dính câu thấy mê, nhưng có một thứ dân nhậu mê hơn khi nó dính câu đó là rắn nước các loại vì nó làm mồi nhậu thì không chê vào đâu, tôi lần mò đến đám câu của mình đã cắm , dưới ánh sáng lờ mờ của của con Trăng hạ tuần, tôi thấy một cần câu cong vút với sợi dây nhợ thật căng, lấy cành cây khô tôi khiều sợi dây nhợ rồi nắm nó kéo lên, cố mãi mà không lôi được con mồi ra khỏi mặt nước , một chút sợ sệt tôi kêu anh Ba đang ở gần:
- Anh Ba lại xem con gì nó kéo dây cước căng lắm , em kéo hoài mà không lên , lại phụ em với .
Bằng cặp mắt nhà nghề anh Ba nói:
- Thôi rồi nó đó , Phương để anh trị nó cho, rắn đó Phương ơi.
Nghe xong câu nói của anh Ba tôi lật đật quăng hết mọi thứ có trên tay và co giò phóng thẳng lên bờ, anh Ba và thằng Cảnh cười nắc nẻ, thằng Cảnh còn lợi dụng cơ hội nó phang theo tôi một câu:
-Cái thằng quỷ Phương này nó nhát khích hà anh Ba, để đó cho em.
Chừng không yên tâm, anh Ba hỏi thằng Cảnh :
- Liệu được Không Cảnh, còn không để đó cho anh .
Không chờ anh Ba nhúng tay vào, thằng Cảnh nó nhào tới sợi dây câu chẳng biết bằng cách nào nó lôi con rắn nước thật to lên khỏi mặt nước.
Anh ba mừng quá, vì thấy con mồi to anh vỗ vai thằng Cảnh và nói :
- Giỏi lắm nghe Cảnh, thôi gom đồ mình về.
Xa xa phía hướng bắc phi trường đột nhiên có những đóm hỏa châu từ mặt đất phóng lên soi sáng cho đêm trường để chúng tôi khỏi lạc bước khi quay về.
* * *
Buổi sáng cuối tuần đầu tiên tôi khoác bộ đồng phục "Thiếu niên Thần Phong", bộ đồ đen thật gọn ghẽ, phù hiệu đầy đủ y như chú lính không quân thứ thiệt, cái nón kết đen trên đầu có phù hiệu tròn hình con rồng há to miệng phía bên dưới có hai chữ Thần phong rất đẹp, vừa đến bến xe Lô Sài Gòn Biên Hòa tôi gặp hai người cũng mặc bộ quần áo y như tôi đang chờ xe để đi Biên Hòa, khi đến gần tôi chợt nhận ra thằng Trọng và thằng Hạnh, mừng rỡ vô cùng vì có bạn đường vừa có đồng đội thì còn gì bằng, khi hỏi ra thì tôi được biết anh em thằng Trọng vô Thần Phong là do anh Hai nó là sỹ quan của Phi trường này đưa vô.
Chúng tôi được huấn luyện đủ thư trên đời , từ văn hóa đến đồng đội ,kỷ thuật hướng đạo, mưu sinh thoát hiểm v.v...
Vậy là ước mơ vỗ cánh chim bằng trên các vùng trời quê hương của tôi đã một phần thành sự thật, nhưng cuộc đời không phải là mơ, không phải hoa hồng lúc nào cũng rãi đầy như tấm thảm nâng gót phiêu bòng cho ta đi suốt đoạn đời.
Từ lúc khoát bộ đồng phục này, đám bạn học của tôi biết được đứa nào cũng trầm trồ khen ngợi có thằng nói:
- Ông Phương nè , công nhận ông chơi bộ đồ nàu oai phong lẫm liệt lắm nhe, nếu có hoa mai nở trên ve áo nữa là hết phản luôn. Mấy con bé bên trường Chân Phước Liêm nhìn lén ông hoài đó nghe.
( vụ này có hôm cao hứng tôi mặc vô trường sau giờ tan trường để khoe ấy mà).
Nghe đám bạn bình phẩm tôi cảm thấy vui mừng, giờ nhìn lại thấy lúc ấy sao mình làm hơi lố .
* * *
Thời gian trôi qua, tôi đi Thần Phong được chừng hai măm, gia đình gặp nhiều chuyện không may, không còn khả năng và thời gian tham gia với anh em thằng Hạnh thằng Trọng nữa, tôi đành giã từ đồng đội trong tiếc nuối, tội nhất là anh Ba khi nghe tôi không tham gia nữa anh dậm cẳng kêu trời, đương nhiên anh sẽ bị cấp trên quở trách việc tôi vắng mặt, nhưng anh kêu trời vì anh muốn tôi được chắp cánh bay cao thoát khỏi cảnh tăm tối của cuộc đời trong xóm nghèo thân thương mà không được
Anh Ba ơi, vật đỗi sao vời nên em không thể theo con đường anh chọn cho em, xin nợ anh một món nợ ân tình, ngàn lần xin lỗi anh, giờ này anh ở đâu , một vùng quê nào đó ở Long An hay vùng trời xa tít nào đó, em cũng mong anh chị được an lành , riêng em kỷ niệm của cái thuở biết buồn ngày xưa lúc nào cũng có hình ảnh anh chị ngự trị trong đó.
Hai Hùng SG
****
29 - Giáng Tiên
Nàng bảo ta nàng hãy còn son
Ta đi qua của thấy con nàng bò
Con nàng những trấu cùng tro
Ta đi gánh nước tắm cho con nàng
( Ca dao)
Hồi ấy tôi bắt đầu làm thơ . Làm thơ thực là vất vả tôi ngồi trước tờ giấy trắng cả giờ chẳng biết viết gì .Tôi thử chọn đề tài trời, trăng, mây, nước, bướm, ong, hoa lá...nhưng không sao viết được bài nào hay.Tôi chẳng khám phá ra tứ thơ nào mới cả .Những điều tôi viết ra đã có người viết cả rồi. Người ta khuyên nên làm thơ tình vì chỉ có thơ tình mới dễ cảm sâu vào lòng người, nhưng muốn làm thơ tình thì phải yêu mà tôi thì chưa yêu. Thế là tôi khẩn trương, ráo riết đi tìm người yêu, tôi cần một nàng thơ giống như con tàu vũ trụ cần tên lửa để phóng mình chu du chín tầng hư ảo tìm hái những vần thơ lạ cống hiến cho đời. Người ta lại còn nói mối tình đau thương, trắc trở ngang trái, tuyệt vọng thì mới sản sinh ra được những áng văn thơ sầu não dễ làm dễ hay. Nói vắn tắc là "thơ thất tình" Muốn có thất tình thì theo tôi cũng chẳng phải là điều khó. Tôi sẽ chọn cho mình một nàng công chúa cao sang còn tôi tự mình đày đọa mình, hoá thân thành anh chàng bán than xấu xí bần hàn, những "cuộc tình không cân sức" kiểu này thế nào cũng dẫn đến một kết cục não lòng lúc đó tha hồ mà làm thơ, vì sự nghiệp thơ ca tôi quyết định làm cuộc thí nghiệm. Tôi bắt đầu lạnh nhạt với với những niềm vui và hạnh phúc tầm thường. Tôi thèm khát sự đau khổ, tôi tin rằng một sự đau khổ thanh khiết có khả năng thăng hoa thành thơ ca bất tử, tôi phiêu lưu đi tìm cội nguồn của sự khổ đau, tuyệt vọng.
Kế hoạch đã vạch ra, cứ thế mà thi hành. Tôi chẳng mất nhiều thời gian thì đã hoàn thành bước đầu. Mấy ngày sau đã có nàng công chúa , đã có chàng bán than, đã có cuộc tình đơn phương, não lòng. Tôi đã gặp nàng "giáng tiên" đến lần thứ ba thì đã có thể tôn nàng lên ngôi thần tượng, nàng thơ, niềm kiêu hãnh đau thương, niềm hoang lạc tàn nhẫn , sự đau đớn diệu kì. Giáng Tiên là ca sĩ phòng trà, hàng đêm tôi có thể đến chiêm ngưỡng nhan sắc ảo não và nhấm nháp no nê giọng ca thánh thót của nàng. Dưới ánh đèn sân khấu nàng rực rỡ như một bà hoàng. Nàng thanh khiết cao vợi lấp lánh hào quang như khuôn mặt thánh nữ thấp thoáng trong bảy sắc cầu vồng. Nhiều hôm tôi thấy chiếc áo kim tuyến nàng mặc trên người sáng lên như một ngọn pháo hoa, đốt cháy một cách ngây ngất mọi giác quan trong tôi . Có khi chiếc áo dài trắng thêu hoa nàng mặc trên người đẹp tới làm cho tiếng đàn dương cầm bỗng chốc hoá thành xanh đỏ chen chúc nhau rơi xuống cõi trần như cơn mưa xác pháo. Nàng đi giống như con rắn nước lượn lờ trôi theo dòng nhạc, bao nhiêu cặp mắt nhìn lên đói khát thèm thuồng, bao nhiêu pháo tay, bao nhiêu hoa tươi... nàng bay thật cao trong một thứ gió hào quang, danh vọng, còn tôi thì tự đày đoạ mình trong chốn thấp hèn tối tăm cũng chỉ với mụch đích : Làm thơ yêu nàng .Tôi cấm mình không được mon men đến gần, tôi không cho mình yêu theo cái kiểu phàm phu tục tử, tôi sợ nàng thơ mỏng manh như bọt xà phòng tan vỡ vì những ý nghĩ thô tục, thường tình của tôi. Chẳng bao giờ tôi dám tưởng tượng xa xôi nghĩ về một sự chung đụng tầm thường như những cặp trai gái khác. Mỗi đêm sau buổi biẻu diễn, bao nhiêu chàng công tử hào hoa đưa đón nàng , còn tôi dựng chiếc xe đạp cà tàng dưới gốc cây từ xa đứng nhìn nàng lên xe, rồi tôi đi về lòng mang một lỗi buồn thật dễ chịu . Sau đó tôi đắm mình trong sự cô đơn sầu thảm não nề. Tôi cố gắng giữ sự cách biệt giữa tôi và "Gíang tiên", tôi lại cố gắng đẩy thêm cho sư tương phản giữa cao trọng và thấp hèn của nàng và tôi thêm rộng ra. Tôi tin sự tương phản đó sẽ tạo ra một loại phản ứng dây chuyền thúc đẩy những "phân tử thơ" bắn phá nhau mà kết quả là một năng lượng thơ khổng lồ sinh ra. Quả nhiên phản ứng có xảy ra thật. Đêm đêm tôi về viết được những bài thơ trường giang đại hải nhưng lạ quá thơ thì dài viết thì dễ nhưng vẫn chưa có bài thơ hay . Tôi tin chắc mình không phải là kẻ bất tài, có thể mình còn mắc phải một sai lầm nào đây chỉ vì mình chưa yêu hay đã yêu nhưng chưa yêu đủ liều lượng, hoặc chỉ mới còn đứng giữa ranh giới của lãnh địa thần tình ái chứ chưa hẳn ở trong đó và thế là tôi càng phải cố gắng. Tôi phải dùng chữ "cố gắng" vì tôi thấy yêu người cũng là công việc khó khăn tột bực tôi đem hết cả năng lực dự trữ ra dùng vào công việc yêu nàng Gíang tiên.
Giai đoạn đầu xảy ra đúng như dự liệu nhưng về sau điều mong mỏi kỳ quặc tưởng đâu dễ dàng thực hiện nhưng cuộc sống lại có những bất ngờ ghê gớm chính sự ngẫu nhiên phi lý của cuộc sống lại đưa nàng Gíang tiên đến với tôi, lấp hẳn cái hố cách biệt mà tôi cố tình đào ra .
Đó là vào một đêm mưa cuối đông, trời mưa tầm tã phòng trà vắng tanh, đêm đó mấy vị công tử hào hoa bỏ về trước để lại nàng Giáng tiên bơ vơ một mình, tôi thấy nàng đứng đợi xe rất lâu vẫn không có chiếc xích lô nào đi qua, Giáng tiên nhìn thấy tôi nàng kêu tôi lại chỉ bằng một nụ cười thân thiện. Không biết đây có phải lần đầu tiên nàng biết có tôi hiện hữu trên cõi đời này không? Chiếc xe đạp của tôi có diễm phúc được nàng chọn, tôi dắt xe lại gần, quanh nàng sực nức hương thơm .Giáng tiên thỏ thẻ:"Anh cho em về nhà đi !" Giáng tiên lên xe, tay nàng vòng qua cái bụng chỉ toàn thơ lép kép của tôi. Tôi cũng cảm tưởng như hai vòng bánh xe trôi theo làn hương quấn quýt sau lưng tôi. Trên đường đi, Giáng tiên làm quen và hỏi tôi nhiều chuyện, tôi nghe giọng nói và giọng hát của nàng khác hẳn nhau, giọng nói thì đầy âm sắc quê mùa mộc mạc thế mà khi lên sân khấu đứng trước micrô nàng bắt chước caí giọng gì nghe lạ quá, giống như tây nói tiếng ta một thứ giọng nói nửa nam nửa bắc và khi nàng hát lại còn lạ hơn nữa nàng hát tiếng Pháp, Anh, Hoa, Ấn độ... Không biết nàng hiểu những điều nàng hát không ?
Tới nơi nàng không cho tôi đưa tận nhà . Giáng tiên nói, khuya rồi hàng xóm họ dị nghị. Ban ngày lại chơi. Rồi Giáng tiên chỉ cho tôi căn nhà cuối con hẻm có ngọn đèn vàng ngoài hiên .
Tôi quay xe về, lòng hoang mang vô kể, thực tình thì tôi không muốn có cuộc tiếp xúc vừa qua, cuộc gặp gỡ chỉ có mấy phút ngắn ngủi đã làm rạn nứt phần nào thần tượng mong manh pha lê của tôi mà tôi vẫn xây một lâu đài cổ tích dành cho nàng công chúa chứ không phải căn nhà nhỏ tồi tàn cuối con hẻm tối tăm đó. Tôi không ngờ da thịt trong trẻo tinh khiết của nàng công chúa lại có thể chạm vào cái bụng phàm phu tục tử nào dù đó là cái bụng chứa đầy tứ thơ của tôi. Thôi đã thế thì hãy thâm nhập vào chốn bồng lai tiên cảnh một chuyến xem nàng tiên sống như thế nào. Và thế là sáng hôm sau, chín giờ tôi đến gõ cửa nhà nàng.
Tôi gõ hồi lâu mới nghe tiếng dép lê trong nhà, tiếng mở khoá lách cách và một khuôn mặt ngái ngủ hiện ra. Dưới ánh sáng ban ngày chói chang, nét mặt của Giáng Tiên làm cho tôi sững sờ. Đây có phải nàng Giáng Tiên ướt sũng ánh đèn sân khấu mỗi đêm dâng tiếng ca huyền hoặc cho đời? Bộ mặt mà tôi gặp sáng nay khác hẳn. Ôi bao nhiêu sự bê trễ cẩu thả hiện ra rõ mồn một. Đâu rồi hình bóng giai nhân mà tôi vẫn từng chiêm ngưỡng hằng đêm dưới ngọn đèn sân khấu? Hình như tối qua nàng lên giường mà không kịp rửa mặt. May mắn lắm nàng chỉ lau qua khuôn mặt mình bằng chiếc khăn ướt. Tội nghiệp cặp lông mày nàng tỉa tót nhỏ như sợi chỉ rồi bôi đen bằng bút chì than, màu than bôi đen như bị một nhát chổi quét lấy lệ về hướng thái dương để lại vết lọ dài. Màu đỏ son môi cũng chẳng hơn gì, đêm qua nó bị bôi xoá lấy lệ cho nên sáng nay nó bị nham nhở chỗ còn, chỗ mất, trông giống như người bị đánh dập môi. Đâu rồi cặp môi mọng ướt và trông như trái chín mà bây giờ chỉ còn cái miệng vô duyên với cặp môi héo hắt đậu trên khuôn mặt giống mặt hề. Tai hại hơn cả là lớp phấn trắng, phấn hồng, kem lót, kem dưỡng da, đủ thứ sắc màu ô hợp sau một đêm nó trộn lẫn với mồ hôi nhễ nhại trông giống như bức tường ẩm mốc loang lổ. Tệ hơn nữa nhiều chỗ trông như có dòng nước ngấm qua. Chiếc cổ cao mà trước tôi đã làm thơ ca tụng đẹp như cổ thiên nga giờ đây phấn đọng lại trong mấy nếp nhăn giống như có mấy sợi chỉ quấn quanh. Tóc tai nàng bơ phờ có chỗ còn dính mấy cái kẹp, có nơi còn ống xốp cuộn tóc nhưng tất cả tả tơi trông tóc nàng giống như khu vườn sau cơn mưa gió.
Bộ quần áo nàng khoác trên người nhăn và bẩn, nó giống như dưa cải để quá ngày, còn màu của nó thì văn chương một tí gọi là màu hoàng yến. Nhưng đây là con chim hoàng yến bị ám khói và bị bắn thủng nhiều chỗ! Gần nách áo sứt đường chỉ, nàng gài tạm bằng chiếc kim găm. Từ đó tôi có thể kết luận rằng trong căn nhà của người phụ nữ này chắc chắn không "tồn tại" cây kim sợi chỉ. Khi nàng cúi xuống, qua cổ áo rộng tôi thấy cặp vú không gì nâng đỡ xẹp lép lòng thòng như vú chó cái nuôi con. Tôi phân vân, nào đâu bộ ngực núi lửa khiêu khích và kiêu hãnh trên sân khấu?
Giáng Tiên mở cửa mời tôi vào nhà. Trong khung cảnh đặc biệt này chúng tôi không cần giữ phép lịch sự kiểu chủ khách. Tôi thấy Giáng Tiên vén mùng. Trong giường giữa đống mền gối lộn xộn có một khối tròn đầy vết mực xanh đỏ lăn lộn. Sau khi nhìn kỹ thì đó là một cái đầu cạo trọc của thằng bé. Có lẽ nó là con của nàng. Đứa bé có cái đầu ngũ sắc vì nó bị ghẻ chốc, mẹ nó cạo trọc và xức thuốc đỏ, thuốc xanh, chỗ còn tóc, chỗ không, trông thật buồn cười. Thắng bé vừa thức dậy, nó lăn lộn đi tìm chỗ khô, đêm qua nó tè ra ướt nhiều chỗ. Thì ra nàng tiên nữ đã có con và không chồng. Phòng nàng trông chẳng khác gì tổ chuột, tới gần đầy mùi nước tiểu. Cạnh giường ngủ là chỗ móc quần áo. Bao nhiêu bộ cánh xanh đỏ, cái thì mỏng như tơ nhện cái lại dày như mo, cái dài cái ngắn, còn kiểu cách thì kỳ quái dị dạng giống như đồ hát tuồng.
Bên dưới giường của nàng tiên phải nói là một thế giới huyền bí, một thứ hang động chẳng có người dám thám hiểm. Tôi chắc cả năm chẳng có cái chổi náo lai vãng đến nơi đó. Nó đầy bụi bặm, váng nhện, rác rưởi, nước tiểu, giày dép đứt, tàn thuốc lá và bao cao su của những người bạn tình.
Đang còn ngẩn ngơ thì Giáng Tiên kêu tôi cuốn quit nhờ lấy giấy cho nàng. Tôi đưa mắt nhìn nhưng chẳng có quyển sách báo nào. Nàng bảo tôi dỡ nệm ghế lên. Trời ơi ! tôi khui đúng cái "viện bảo tàng của tình yêu" bao nhiêu là thư từ của những người ái mộ gửi cho nàng đều dồn cả vào chỗ này. Tôi nhặt lên một xấp giấy, có cả thơ lẫn thư, màu thiên thanh có mà màu hồng nhạt cũng có, bây giờ thì những áng văn thơ tuyệt tác này sắp sửa chịu sự tuẫn tiết cuối cùng để cho Giáng Tiên làm công tác dọn dẹp vì thằng bé vừa mới bậy ra!
Tôi tần ngần hồi lâu trước chiếc bàn phấn của nàng tiên nữ. Tôi chắc rằng chiếc bàn phấn này cũng là tặng phẩm của một kẻ si tình nào đó. Trước đây chắc nó sang trọng lộng lẫy, nhưng nay thì bệ rạc ngó thấy. Tấm gương nứt làm hai, mặt gương mờ mịt thức mây. Đứng soi vào gương trông thấy bóng dáng mình mờ ảo như nhìn qua màn sương. Tôi tưởng người như Giáng Tiên phải có những dụng cụ trang điểm loại đắt tiền mua ở những cửa hiệu sang trọng nhất. Sự thật thì không phải như thế. Hình như chỗ này cũng là nơi mà cái thằng bé đầu xanh đỏ chơi đùa. Nó chọn chỗ này cũng phải vì có rất nhiều thứ có thể làm đồ chơi. Bao nhiêu là vòng đeo tay đủ kiểu, hoa tai đủ thứ. Phấn son của mẹ nó cũng là thứ đồ chơi rất tốt. Tôi thấy nhiều hộp phấn không, nhiều hộp phấn khô bể ra như bánh in, mấy thỏi son cạn tới đáy mà dù Giáng Tiên với ngón tay út có móng dài cũng không móc ra được. Mấy ống kem thì teo tóp, hộp phấn mi mắt cái còn cái mất, kềm kẹp lông mi đã gãy, chổi quét phấn rụng tả tơi, mặt bàn chỗ nào cũng lem luốc. Thực là một thế giới hỗn độn của mùi hương và màu sắc. Thằng bé đã chơi chán chê chỗ này. Tôi thấy lọ nước hoa không còn một giọt cắm đầy chân nhang. Với cái chỗ như thế này mà nàng Gíáng Tiên có thể tô điểm thành một bà hoàng để hàng đêm ra trước công chúng thì nàng quả thực đáng cấp bằng đại học về khoa trang điểm!
Trên bàn còn nhiều thứ nữa chẳng ăn nhập gì tới việc làm đẹp. Có một con dao cùn với trái xoài xanh ăn dở cùng với chén mắm ruốc. Nàng tiên có thể vừa nhấm nháp xoài xanh mắm ruốc vừa nhìn vào gương tô điểm dung nhan của mình. Cô ta được nuôi dưỡng bằng loại thực phẩm đặc biệt này nên vẫn giữ được vóc dáng thanh mảnh gọn gàng chứ chưa phát phì. Cạnh giường tôi thấy có dắt một mảnh giấy ghi:
- Hụi chết còn tám tháng
- Xấp hàng trả góp cho con Lan còn năm chục
- Trễ kinh mười sáu ngày!
Ôi thực là những con số rất đáng cho nàng tiên phải quan tâm. Giáng tiên nhờ tôi xuống bếp lấy bình sữa. Tôi lần mò ra phía sau. Trong chạn nhiều chén bát đĩa ăn xong chưa rửa. Bên trong đầy phân gián, phân chuột. Một cái tô đựng thứ nước gì đục lờ lờ nổi váng mỡ không biết từ ngày nào bốc mùi chua. Một chiếc thẩu nhỏ dựng mỡ, mở đã đông và đông luôn một chú gián với đầy đủ râu và chân trông giống như một xác ướp trong băng. Trong chạn còn có một chén nước mắm ớt xanh, chắc là phần còn lại của một bữa tiệc bánh bèo, bánh nậm Huế. Tỏi, ớt, đường, muối vung vãi khắp nơi. Cạnh đó là ông lò đất sứt mẻ lạnh lẽo. Điều này cho biết nàng tiên ít khi nấu bữa ăn cho mình. Trong chốn tối tăm nầy cũng có sự hiện hữu của thần thánh. Một vị thần, không rõ là táo quân, thần tài hay thổ địa ngồi trong chỗ nhang tàn khói lạnh còn ngài thì giống như từ ống khói vừa mới chui ra.
Tôi chính là kẻ phải ngồi xuống phồng miệng thổi lửa nấu nước sôi pha sữa cho thằng bé đầu xanh đỏ. Tôi không ngờ cuộc phiêu lưu ngỡ là tình cảm trong buổi sáng hôm nay lại có thể đưa tôi đi xa tới thế nầy. Trong khi chờ nước sôi, tôi tiến về "thám hiểm" phía sau nhà. Quang cảnh chỗ nầy càng làm tôi ngao ngán. Trên chiếc dây phơi nối nhiều chỗ cột từ cây chùm ruột tới cây khế là điểm "tập kết" của đồ lót. Xì líp, xú chiên, đủ kiểu đủ màu mới có, cũ có, thủng lỗ, teo tóp giống như lá cờ của đám tàn quân. Bên dưới là một thau nhôm cũ đựng đầy quần áo trong một thứ nước đục lờ lờ có xác lá vàng rơi. Mấy chiếc áo quần chẳng biết tới lúc nào mới được bàn tay tiên nữ chạm tới giặt giũ phơi lên? Chỗ này cũng là giang sơn của rác rưới, mùi chua của thùng nước cơm, và mùi cống rãnh. Cuối vườn cũng có cái thùng rác. Tôi lấy hết can đảm nhìn vào trong. May quá, cái mà tôi tưởng sẽ thấy đã không có. Tôi chợt nhớ lại con số mười sáu viết trong tờ giấy mà tôi đã đọc từ lúc nãy.
Ngay buổi đó chúng tôi có được một bữa cơm thân mật. Tôi nói rằng thân mật chính vì nồi cơm thì do tôi nấu, Giáng Tiên đi mua thức ăn. Tôi ở lại với nàng suốt buổi sáng, buổi trưa và cả buổi chiều. Tôi muốn cuộc phiêu lưu của mình phải đi tới cùng đường. Tôi biết thêm nhiều điều thuộc về đời thường của Giáng Tiên. Cả cái tên "GiángTiên" người ta gán cho nàng, nàng cũng chẳng hiểu ý nghĩa của nó là gì. Nàng đích thị là cô Lê Thị Lụa chuyên đi làm cỏ lúa quê xã Đồng Sơn, huyện Hoà Đồng, tỉnh Gò Công, một cô gái quê chính hiệu. Thời gian đó còn cho tôi cơ hội khám phá thế giới nội tâm của cô gái nầy. Thực là một cô gái hồn nhiên, mộc mạc và thật đáng yêu, còn cô Giáng Tiên trên sân khấu chỉ là cái xác không hồn, là của giả, là cuộc sống giả phù phiếm vô vị.
Trong lúc ngồi xổm trên nền nhà ăn cơm, tôi nhìn nàng không nhịn được cười. Nàng hỏi:
- Cười chi ?
- Cười sân khấu và cười cuộc đời sao lại khác nhau tới mức độ này.
- Cái nào hơn?
- Cuộc đời !
Trên đường về nhà lòng tôi nao nao. Trong chính chốn sâu thẳm của con tim tôi đã có sự thay bực đổi ngôi. Cô Lụa mộc mạc có cuộc sống vô cùng bê bối luộm thuộm từ cách ăn mặc cho tới mọi sinh hoạt khác đã đè bẹp cô Giáng Tiên lộng lẫy xa hoa nhạt nhẽo và giả tạo.
Tôi phân vân mãi không hiểu tại làm sao cuộc đời thực không mấy khi dành chỗ cho sự lãng mạn, ảo tưởng, mơ mộng. Cuộc đời thực vừa mới trông qua chẳng có gì là đẹp đẽ nên thơ cả thế mà cuộc đời thực, cuộc sống thực đáng yêu biết là dường nào!
Bây giờ thì tôi đã "giác ngộ". Tôi sẽ ra giữa chợ quỳ xuống chiêm ngưỡng cuộc đời và làm thơ...
Quý Thể
***
Và Mỗi lần NOEL Đến
Cứ cuối tháng 11, đầu tháng 12, cái lạnh bắt đầu thấm trên từng cây lá, thấm vào những bàn tay, vào những nụ cười, tôi nghe được cái lạnh qua lời nói của mọi người: "Gần đến Noel rồi!". Và tôi nghĩ về mùa Giáng Sinh với những cây thông gắn những món quà xinh xắn, nghĩ về truyện "Cô bé bán diêm" của Andersen. Tôi cảm thấy mình còn may mắn được sống trong sự đủ dùng như theo lời nguyện của người Kitô trước những bữa ăn. Dẫu tôi không theo đạo nào, nhưng tôi vẫn tin có cái Đại Ngã Vô thường tồn tại cùng cái Tiểu Ngã của tôi.
Nhớ năm học 1973 - 1974, tôi học lớp 12B3 trường Phan Châu Trinh, Đà Nẵng. Tôi được học triết do thầy Hiền dạy. Dù tôi học ban B, thế nhưng cũng nhờ những khái niệm cơ bản về triết học, tôi nhìn nhận sự vật không chỉ duy tâm hoặc duy vật, duy lý hoặc duy tình. Môn triết là môn có thể là sở trường của tôi. Có lần, trong một giờ học, tôi đã giơ tay trình bày quan điểm non nớt, ngây ngô của mình: "Thưa thầy, theo lý thuyết thì bất cứ vật chất nào cũng bị nóng chảy ở nhiệt độ cao. Thế nhưng, mặt trời cũng là dạng vật chất, nóng đến hàng ngàn độ, nhưng sao nó chỉ có nóng mà không chảy?". Tôi nhớ thầy không trả lời cụ thể, mà chỉ gợi cho tôi thấy rằng lý luận chỉ là lý luận. Cả thế giới vật chất này không chỉ có vật chất thuần tuý mà còn có sức mạnh vạn năng nào đó đang điều hành cả vũ trụ này. Lời thầy chỉ thoáng khơi gợi một điều gì đó trong tôi...
Và mỗi lần Noel đến, tôi đều tự hỏi: Sao nhạc thánh có sức mạnh lôi cuốn, nhẹ nhàng, thánh khiết như vậy? Sao tiếng chuông nhà thờ làm rung chuyển sự tỉnh thức của mỗi tâm hồn đến vậy? Sao lời của Chúa hơn hai ngàn năm vẫn là sự thật? Tôi có dịp may là đọc những lời trong Kinh thánh, nhất là phần Tân ước. Sao Chúa yêu thương con người đến vậy, trong khi con người nhân danh con người lại mạt sát, bắt bớ, cầm tù, đâm chém, hành hạ lẫn nhau? Sao Chúa bao dung đến vậy, trong khi con người vẫn nuôi thù hận triền miên? Sao Chúa lại chữa lành những vết thương của người bệnh, trong khi con người gieo rắc những mầm diệt chủng, diệt sự sống ở trần gian này? Chúa vì ai mà yêu thương, bao dung, chữa lành con người? Vì ai? Vì ai?...
Nghĩ đến Chúa, tôi lại nghĩ đến Darwin. Theo Darwin thì có thể thuỷ tổ của loài người là loài vượn - người. Nhưng mấy có ai, kể cả ông Darwin thờ vượn - người và gọi nó là ông tổ? Đã là thuyết thì mãi là thuyết! Có ai cho mình là giòng giống thấp hèn? Có ai cho mình là người dại? Có ai vẽ hình tượng vượn - người để thờ phụng đâu? Kiến thức của tôi có hạn, như cái sống có hạn của tôi ở cõi trần này, tôi không biết có tôn giáo nào, tín ngưỡng nào thờ vượn - người và tôn vinh nó không?
Và mỗi lần Noel đến, tôi như thuộc lòng câu "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho người thiện tâm" (có nơi cho là người thiện lương). Ngẫm đi ngẫm lại lời ca ấy sao thực tình, thực tế, gần gũi với con người đến vậy. Chỉ cần câu "Bình an dưới thế cho người thiện tâm" là thấy sướng cả bụng rồi! Cầu mong cuộc đời này, người thiện tâm được an bình là quý rồi. Nhưng cuộc đời này, chính con người đã gây ra bao tai hoạ, đã tự trút những cơn thịnh nộ của tham sân si thì làm gì có sự an bình cho chính mình và cho người khác. Thật là buồn! Buồn cho kiếp người không có bình an vì trót gây tội.
Nói đến tội, tôi cũng là kẻ có tội ở trần gian này. Thấy cha mẹ già yếu mà không được chăm nom, phụng dưỡng hằng ngày là có tội. Thấy anh em nghèo khó mà không giúp được, vì mình chưa giúp được mình xong, cũng là tội. Thấy mình vì tiền mà chèn ép học trò đi học thêm để mình tồn tại cũng là có tội. Thấy học trò không chăm học, không học giỏi, cũng thấy mình có tội. Thấy con cái khổ cực mà chẳng giúp được, thấy con cái lớn rồi mà chẳng có công ăn việc làm ổn định, cũng là tội. Thấy việc phải mà không dám làm vì hèn, vì sợ cũng là tội. Cái tội nó đeo đuổi mình suốt kiếp!
Biết bao cái tội của kiếp làm người. Nhiều lần, tôi làm điều gì sai trái, tôi cảm thấy mình cớ sao dại những một giờ như vậy? Cớ sao có lúc giận hờn? Cố chấp? Biết bao điều để tôi trở thành kẻ có tội ở thế gian này. Tôi lấy làm xấu hổ, ân hận vì những gì tôi gây nên tội. Bất chợt, trong tôi hiện lên bao gương mặt của những cô gái bán dâm nuôi miệng, đang lấy hai tay che mặt khi có người chụp ảnh, quay phim. Chắc các cô còn xấu hổ. Tôi cũng bất chợt thấy bao gương mặt của những kẻ có quyền, có thế khi gây nên tội vẫn nhơn nhơn cười đểu, lẻo mép chối tội như thách đố với người thiện tâm. Những việc ấy, những con người ấy, báo chí đăng trên những bản tin hằng ngày bên cạnh những tin tốt lành. Tin ác, tin dữ còn, tội đó do ai?
Và Noel đến, bên tai tôi vẳng lên khúc nhạc mừng Thiên Chúa xuống trần, làm người để chịu kiếp người ở thế gian. Tôi như thấy cái chết của Thiên Chúa trong thân phận người mới làm cho con người đến với ánh sáng, đến với sự bình an. Và khúc nhạc "Bình an dưới thế cho người thiện tâm" cứ vang lên trong lòng tôi, như vỗ về tôi, an ủi tôi những lúc tưởng như tôi bị sa ngã bởi bao ràng buộc ở cõi trần này.
Trong tôi cũng vẳng lên lời bài hát như tránh móc, dỗi hờn của Trịnh Công Sơn: Chúa đã bỏ loài người - Phật đã bỏ loài người... Thế nhưng, mỗi lần Noel đến, tôi nhẩm hát theo những ca khúc Giáng Sinh. Tôi hát mà tin rằng Chúa Phật chẳng bỏ loài người. Chúa Phật vì loài người mà đến với thế gian này, đến để người bình an, để người được làm người thiện tâm, an bình dưới thế.
Tháng 12, 2011
Phan Trang Hy
***
Chị
Bài 1
Hai đêm cuối tháng tám đầu thu man mác , nhà hát thành phố Hà Nội lung linh sáng đèn nghệ thuật ballet những trích đoạn tuyệt tác kinh điển Hồ thiên nga, Kẹp hạt dẻ, La Sylphide...Nghệ sĩ soliste làm nên các đêm diễn đong đầy cảm xúc ấy là Phạm Minh, tranh thủ cơ may hiếm hoi lên sân khấu quê hương thể hiện hết mình nghệ thuật vũ kịch trường phái lãng mạn Pháp bay bổng, tinh tế trên nền kĩ thuật ballet cổ điển trang trọng Nga. Tốt nghiệp hạng ưu trường múa danh tiếng Kiev, Phạm Minh không theo kế hoạch định hướng về đoàn ballet Kirov vang lừng cả bên ngoài biên giới Ucraine rộng cửa tuyển chọn tài năng trẻ, chuẩn bị nối dài những dàn dựng vũ đạo hoành tráng mà lại đầu quân đoàn ballet Capitole trọng vọng bên Pháp, cũng là theo tiếng gọi thân thích bên nội mòn mỏi.
Nhiều người tiếc cho một chương trình nghệ thuật bác học, cao sang như thế mà chỉ diễn được có hai tối. Riêng tôi thêm một tiếc nuối là chị không còn để thấy thằng cháu đích tôn yêu quí trưởng thành, nối dõi xứng đáng. Thuở chị tiễn nó lên đường sang Liên xô xa xôi ngày ấy, nó bé như cái kẹo, mới mười tuổi hơn chứ mấy. Trong lòng đâu có muốn xa thằng cháu còn đang cần hơi mẹ, tình thương của bà. Nhưng với cái tính khí cứng dắn, quyết đoán bà nội truyền cho, chị quả quyết gạt nước mắt, nén nỗi thương trong lòng để thằng cháu một thân một mình sang xứ tuyết mù khơi, theo con đường nghệ thuật cha mẹ nó từng dấn thân, chứ cứ ru rú ở nhà, làm sao lớn khôn thanh tài.
Bà nội chị từng được sắc phong Ngũ phẩm nghi nhân. Ông nội chị văn hay chữ tốt, nhưng say văn chương hơn khoa bảng. Chẳng thế một con trai của ông đuợc vào làm rể nhà Thần Siêu vang danh " Tả thanh thiên vạch bút lên trời xanh " ngay bên hồ Gươm giữa lòng Hà Nội. Mải mê thơ phú ông quên luôn chức phận làm chủ gia đình. May mắn nhờ bà nội chị quá đảm đang, quán xuyến bằng hết mọi việc tề gia nội trợ, nuôi chồng dạy con chu đáo. Chỉ bằng cái nghề buôn bán trà mạn, đặc biệt là trà mạn sen tự ướp , thôi đấy. Nhất nhất được mọi người tôn kính và thân ái gọi là bà Hai hàng Đường, chứ chẳng bao giờ nhắc đến cái nhũ danh Nguyễn Thị Nghi.
Bà được phong tước phẩm như thế là vì cả năm người con trai một tay bà nuôi dạy thành đạt, vinh thân phì gia, nhất là người con cả và người con thứ hai. Hai ông đều xuất thân là giáo học, nhưng lại nặng nợ với học thuật, văn chương. Ông cả Nguyễn Quang Oánh đi vào học thuật với Việt Nam văn phạm giáo khoa thư, biên tập, hiệu đính Việt Nam từ điển cho Hội khai trí tiến đức, bình giải Cung oán ngâm khúc, Chính phụ ngâm... Còn ông hai Nguyễn Văn Ngọc dấn thân vào văn học dân gian để thành danh với Truyện cổ nước Nam, Tục ngữ phong dao, Câu đố, Nam thi hợp tuyển...Thời ấy có mấy học giả chịu hạ cố tôn vinh văn học dân gian như ông. Bởi thế ngày nay tên ông được gắn cho một con đường mở rộng Hà Nội . Nhưng cả hai ông cũng phong tình ra phết. Nếu ông cả biên sọan đến hai tập Tình sử thì ông hai víêt Đào nương ca. Rồi hai ông cùng ông Đỗ Thận dựng nhà hát chèo sân khấu hộp đầu tiên, mang tên Sán nhiên đài ở Hà Nội để cái vốn nghệ thuật chân quê ấy đuợc lưu truyền, phát triển, tôn vinh lên tầm kinh viện academic !
Chi không chỉ đảm mà còn nhan sắc. Chính nhờ nhan sắc chị mà Vĩnh Hưng Long thư quán của nhà ở 51 Hàng Đường chỉ chuyên bán sách của bố, bác và bạn bè văn chương học giả cùng giấy bút mà đông khách học trò tri thức thời ấy đáo để. Trong số này có cả những người sau này có địa vị trong giới quyền quí..Chứ cái đám vương tôn công tử lại rất ngại. Vì sự thông thái uyên bác bố với bác truyền cho. Song cũng vì hồng nhan mà chị bạc phận
Cũng vì danh gia mà chị phải vào Huế làm dâu một gia đình quyền thế bậc nhất, vốn xuất thân cũng là một học giả tên tuổi chủ trì tạp chí Nam Phong. Giá ông bác ngày ấy được phong Hồng lô thái thường tự khanh nhị phẩm, chịu nhẫn vào Huế làm quan , chị đâu nỗi thân cô thế cô một mình đối chọi với cả bên nhà chồng kênh kiệu, cậy thế. Song nếu thế...
Đầu thập niên bốn mươi thế kỉ trước, không chịu nổi sự phụ bạc quá đỗi của cậu ấm con quan, chị đành bế bồng thằng con thứ Phạm Dũng trở về quê ngọai để sau này trở thành kĩ sư thủy lợi, song lại đàn hay hát giỏi hơn cái nghề đuợc đào tạo và cấp bằng chính qui. Đã thế đúng lúc đó, người cha thân yêu mất vì bạo bệnh. Vậy mà dứt khoát không chịu về ở với ông bác cửa cao nhà rộng giữa phố phường, xưa nay thường coi chị như con gái đầu lòng để vừa có chỗ dựa tinh thần vừa khuây khỏa nỗi đau thân phận, số mệnh. Chị nhất quyết về ấp Thái Hà, lấy cớ ngày ngày hương khói cho cha, bất chấp nơi đây quạnh quẽ vô chừng, lại giữa lúc nhiễu nhương phát xít Nhật áp chế thực dân Pháp làm dân ta càng thêm điêu đứng.
Hồi ấy nơi đây quạnh quẽ lắm. Trước mặt bên kia đường là bãi tha ma mà nay là Trường đại học thủy lợi. Ngay bên dưới là lăng Hoàng Cao Khải. Đến người bạo phổi nhất ban ngày ban mặt cũng ngại bén bảng đến nơi này vì hãi những oan hồn tụ tập đòi tên quan tham ác hiểm trả nợ đời. Lên trên, còn phải ngược một thôi dài -hết đường Nguyễn Lương Bằng hiện nay, mới tới được Ô Chợ Dừa để vào Khâm Thiên đêm đêm còn inh ỏi tiếng cóc nhái trực át đi tiếng hát ả đào tình tứ, ai oán làm sao.
Hóa ra chị về ấp Thái Hà là nhằm tạo ra chỗ đi lại, trốn tránh, dung thân cho một số cán bộ hoạt động bí mật thời ấy. Tôi chỉ nhớ được hai người. Một là ông Mười Hương, sau đó kéo một người em trai chị vào nam họat động tình báo đơn tuyến và trở thành liệt sĩ vô danh. Hai là người chị kết nghĩa tao khang lần sau. Nhưng đó là sau này trên Bồ Tỉnh , khi ông không còn là chính khách mà quay về với chức phận học giả để hôm nay được gắn tên cho những con đường ở Hà Nội , Saigon, Huế : Trần Huy Liệu. Bằng chứng là con gái đầu của hai người mang tên ánh trăng kỉ niệm giao duyên Nguyệt Quang, sinh năm1950, là cô giáo dạy toán Trường đại học sư phạm Hà Nội. Còn người con út mang tên Trần Trường Chiến, cũng là ý nhị kỉ niệm tám năm kháng chiến, nay là nhà văn người Hà Nội., chuyên viết về Hà Nội.
Âu cũng là hơi hướng từ ông bác.
Đầu năm nay, khi bồi lại một cuốn sách hiếm, tình cờ phát hiện lá thư viết tay năm 1947 của Lệ Thần Trần Trọng Kim được ông Hoàng Xuân Hãn mật giấu bên trong lớp bìa cứng bọc da. Thủ tướng đầu tiên nước ta độc lập hồi tháng 3 năm 45 viết thư gửi tay cho bộ trưởng giáo dục dưới trướng minh, người đi vào lịch sử với một quyết định thông minh, quả cảm là dùng tiếng Việt thay tiếng Pháp trong việc dạy và học từ tiểu học đến đại học. : " Khi tôi ở Hương Cảng, ông Cousseau có cho tôi biết tin ông Oánh bị Tây giết. Tôi thương ông Oánh quá, có làm bài tuyệt cú gửi về, nhờ ông ( HXH ) đem điếu ông ấy : Khóc bạn Nguyễn Băng Hồ ( tên tự ông NQO ) - " Đất khách mơ màng những thở than Mảng tin bác bị lũ hung tàn. Ngắn dài giọt lệ lòng thương bạn. Căm thù quân giặc dã tim gan." Ông Oánh sinh thời là người trung hậu, ngay chính. ở đời này thật ít có. Chẳng may vì duyên nghiệp mà phải cái nạn tai bay vạ gió. Thôi thì cũng là một cách ông ấy trả nợ nước. "
Đứa con chị thương nhất là anh con trai đầu lòng Phạm Vinh, sinh cho chị thằng cháu đích tôn Phạm Minh ấy. Hồi nhỏ cô độc bị bên nội dè bỉu, hắt hủi, khi chị buộc lòng phải dứt áo ra đi. Tới khi được sum họp trong thanh bình, sau bao năm bôn ba khắp chiến trường, trưởng thành từ nghệ sĩ lên chỉ đạo viên nghệ thuật đoàn văn công lẫy lừng Trường Sơn, Phạm Vinh bỗng đổ bạo bệnh để chị phải thắt lòng mang khăn tang trên mái đầu bạc đưa con mình tóc còn xanh về với ông, cụ ngoại.
Chị đâu có kém cạnh bà nội, một tay lo toan gia đình, trông coi các em sỡm mồ côi mẹ, nuôi dạy con cái phận lẽ mọn.. Họa chăng kém đúng có một vần NG. Tên cha sinh mẹ đẻ chị là Nguyễn Thị Hi . Vậy mà bà nội được ăn sinh phong. Còn chị âm thầm tô một nét son danh gia người Hàng Đường, Hà Nội.
lê lành
Bài 2
Ông Vũ Quang Minh nhắn đến nhận quà của V.T. làm tôi quýnh quáng tới liền. Không chỉ ông là bề trên, tuổi tác hơn, mà cái chính là V.T. bạn nối khố bặt tin đã lâu lắm rồi. Không phải quà cho tôi mà là biếu chị. Tha phương cầu thực đã bao năm trường, tưởng rằng đã quên, thế mà vẫn giữ được cái chất lãng tử Hà Nội nhớ tới chị, tôi không ngăn được nước mắt.
Chính V.T. bắc cầu cho tôi tiếp cận ông Minh. anh em thúc bá với nó, để vào sân coi đã đời những trận cầu mê ly hồi đó, không ít người sẵn sàng lột ngày chiếc đồng hồ đeo tay thời thượng Poljot made in URSS , cởi phăng chiếc áo dạ Mông Tự chỉ có thể mua được ở Thượng Hải bên Tàu để đổi lấy một tấm vé.
Ông Minh vốn là tiền vệ chạy cánh quái nhất đội Đường Sắt cũng như đội tuyển miền Bắc những năm 50-60. Con trai trưởng Vũ Như Hiếu từ cái gène ấy mà thành một tiền vệ không thể thay thế trong đội hình quốc gia. Còn tôi được ông chỉ bảo để nhận biết một trận cầu hay như thế nào, hay ra sao, nghĩa là xem bóng đá với con mắt một đệ tử túc cầu giáo lão luyện. Bù lại, tôi đưa hắn lên nhà chị thưởng thúc những cái ăn tinh tế gia truyền. Nội tôi truyền thụ cho con gái, rồi cô tôi bảo ban, uốn nắn chị từng li từng tí, tần tảo mọi việc trong nhà, ngoài phố
Nó khôn khéo chứ chẳng bộc tuệch bộc toạc như tôi. Một tối đi coi đá banh buổi tối sân Hàng Đẫy. chúng tôi bắt được một lô cà cuống, dễ chừng toàn con đực cả. Nó dãy nẩy không xem đá bóng nữa để mang ngay cà cuống tươi cho chị. Nó dổ dành tôi bán lại vé, hôm sau rủng rỉnh tiền, hai đứa lên Tạ Hiền làm một bữa cao lâu thỏa thích. Nhưng tôi không chịu, một mình nó mang cà cuống lên cho chị lấy le. Nó là thằng lấy ăn uống làm đầu với triết lí dân dã là ăn uống cho có sức vóc mới học được hay, có thực mới vực được đạo mà.
Lần nào lên, nó không những sốt sắng đỡ đần chị mà còn múa môi khua mép tỉ tê đủ chuyện trên trời dưới đất, nịnh nọt lấy lòng chị. Tôi chỉ biết ăn, nó biết cà cuốn đực nhỏ con hơn, nhưng mới có bọc tinh dầu, còn con cái thì không, là cà cuống thịt. Chị ngày càng quí hóa nó hơn, tôi thành kẻ ăn theo.
Ngày mùa cơm mới là lúc rộ cà cuống. Những người bán cà cuống không rao ời ợi ngoài phố hay bày bán ở chợ. hầu hết đều đưa đến tận nhà khách quen, bao nhiêu cũng hết, mỗi nhà đâu chỉ mua riêng cho mình mà còn mua hộ cho người thân người quen nữa chứ. Dễ phải cả trăm coi mới khêu được từ khia ức vài mi li lit tinh dầu cà cuống, bỏ ngay vào cái lọ con con, có nứt cao su bịt kín, kẻo không nó nhẹ bay hơi hết. Nó còn biết là phải lọai hết vỏ bọc để cà cuống không lẫn mùi hôi.
Chị giữ một số nguyên con cho những món ăn nhất định, bằng cách bảo quản rất đơn giản, nhưng thật khoa học - vùi trong vại muối, khi dùng mới bới ra. Đầu vị ngày tết là bánh chưng được chị chăm chút nhất. nhất là vị cà cuống. Bỏ cái bụng lép kẹp, đôi mắt tròn, cái vòi nhọn hoắt, băm nhỏ đầu, thân, chân, rồi trộn với nhân thịt đã được ướp kĩ nước mắm, hồ tiêu và đảo qua trên chảo nóng. Có thế bánh chưng mói bén mùi cà cuống, ngấm từ nhân bên trong ra vỏ bánh bên ngoài.. Để bánh chưng đượm đều hương vị, chị gói bánh nhỏ , mỗi chiều mươi mười lăm phân đổ lại, dày chừng hai đốt ngón tay. Cái khéo của chị là cái bánh luộc rền là thế, khi bóc ra, lớp gạo, đỗ trên, lót dưới nguyên vẹn , không bị vỡ, lẫn vào nhau một chỗ nào. Vỏ bánh màu xanh lưu li rõ là ngon. gạo gói bánh được nhuộm nước lá giềng giã nhỏ, bánh gói thật chặt tay, buộc bằng lạt giang mềm, dẻo, chứ không bằng lạt tre cứng quèo. Nó được chị cho ăn bánh chưng với thit " gỗ " - thịt nạc thăn thái to bản, mỏng, rán qua, kho khô với gừng lát, hoặc ruốc ức gà thơn nựng, tuyệt nhiên không chấm nước mắm, sợ các hương vị bánh chưng bị át đí.
Ngày mùng ba tết hóa vàng, ăn bún thang. Những người cùng mâm cấm dám đòi mắm tôm. Nếu có nhạt cũng không dưới nước mắm nữa là mà ăn kèm củ cải khô dầm nước mắm gừng. Nó nói như thánh phán, một chút mùi nước mắm cũng đủ làm tan biến sạch hương vị nhè nhẹ, thanh tao bát bún thang khép lại bữa cỗ thịnh soạn tết nhất, huống hồ mắm tôm quá nặng mùi.. Và, cũng là để đáp lại cái cung cách tôn trọng vô cùng người ăn cùng mâm của nó. Cứ như để thị phạm, nó nhanh nhảu nhót ngay lấy lọ tinh dầu cà cuống, nhúng một đầu tăm, đưa sang miệng bát thang, búng cho giọt cà cuống nhễu xuống, tạo thành những vòng tròn ngũ sắc, lan tỏa khắp bề mặt, chứ không nhúng đâu tăm cà cuống xuống, tránh cho người sau nhúng đầu tăm ướt nhoèn nước thang vào lọ, làm hỏng cà cuống của chị. Chị bảo ban cả đấy, chứ nó làm sao tự tinh tế thế được.
Cà cuống con bằm nhỏ, chị còn dành cho rau cải mụp xào mà nó với tôi luôn thòm thèm. Lá cải xanh thẫm nhần nhận đăng đắng, ngồng cải trắng ngần, tước hết xơ ngọt xớt. Lại thêm thịt thăn mềm ngọt lim , giát chút mỡ béo ngậy, trứng gà đánh nhuyễn bùi thơm, miến dong dai dai tiệp với hương cà cuống ngon hết chỗ nói.
Ngon đến mấy, nó với tôi cũng chỉ được chị cho ăn lưng lửng. Lắm món, nhiều thứ, kể cả bánh trái, hệt như các mệ đàng trong, chị chỉ dọn ra mâm chút chút trên những cái đĩa xinh xinh, những cái chén nông choèn, cứ như là dành cho các yểu điệu thục nữ ăn uống nhỏ nhẻ, khách sáo. Đâu phải chị tiếc gì mà là dạy cách ăn đúng phép tắc bằng mấy cho ăn thỏa thuê ấy chứ. Ăn thòm thèm một chút mới thấy ngon, mới nhớ lâu, còn như ăn lấy ăn để mau chán, mau ngán, thậm chí còn anh ách bụng . Ăn là thưởng thức chứ đầu ních cho đầy cái bụng tham ăn tham uống. Nhưng phải sau này, nó với tôi mới chiêm nghiệm sự chỉ bảo ân cần của chị.
Cà cuống đâu là côn trùng ăn được chỉ có ở ta. Phàm ở đâu canh tác lúa nước là có cà cuống. Từ Thái Lan sang Indonesia, từ Ấn Độ tới Trung Hoa đều có cà cuống, và cà cuống đã thành cái ăn từ xa xưa. Người Tàu ngộ nhận mùi cà cuống với mùi quế nên gọi cà cuống là sâu quế, nhưng sau thấy không chuẩn, không xứng, tôn lên là long sặt - rận rồng ! Nhưng mỗi nơi ăn một kiểu, không đâu giống đâu. Bắc Kinh, có thể vì lạnh, xào cà cuống với dầu béo ngậy. ăn nóng. Còn Quảng Châu nóng bức hơn thì luộc, đẻ nguội chấm muối. Thái Lan rất nhiều cà cuống, nhưng chỉ một cách chế biến là chiên giòn như ta rang châu chấu. Sau này, cũng khêu bọng tinh dầu, nhưng chỉ để thỏa mãn kiều bào ta mòn mỏi cái ăn dân tộc - bao bi đậm chữ Viêt : cà cuống.
Theo những nghiên cứu xác đáng, hai trăm năm trước công nguyên, dân ta đã biết tới cà cuống như một côn trùng ăn được. Chẳng thế dân ta ăn cà cuống thật sành điệu, ngon lành. Cà cuống đực chỉ để lấy tinh dầu làm gia vị, còn ăn, cà cuống thịt- cà cuống cái. Cách chế biên cũng tinh tế. Đồ bằng chõ để giữ được vị, giữ được hương. Mớ cà cuống cái khi đồ bỏ lẫn mấy cón cà cuống đực còn nguyên bọc tinh dầu để cà cuống thịt cũng nức mùi cà cuống. Không được chị bảo ban, nó và tôi đâu đã biết ăn cà cuống. Đầu tiên là nhằn sáu cái chân. Tiếp theo, xé cái bụng, đưa lên miệng mút - ngầy ngậy béo, ngọt đậm đà, thơm nhè nhẹ. Cuối cùng xé cái ức, lột từn thớ thịt, nhấm nháp chậm rãi cái vị ngọt, thơm Không ít lần tôi chứng kiến nó tì tì nhấm nháp cả rổ cà cuống một cách ngon lành, nhưng xem ra vẫn chưa đã
Qua thời cơ cực, vất vả, nó ngày một khá giả, thảnh thơi. Từ bên kia bán cầu, nó đưa cả vợ con rong ruổi khắp miền duyên hải bên này sông Dương Tử để xem " cơm Tàu " có đúng với câu nói hồi nhỏ hay không. Và thất vọng to, thua xa những thứ được chị cho ăn
Nó chọn bằng được một cặp chè thượng hảo hạng Long tỉnh, bỏ trong bao bị dập nổi hình rồng và chữ Hán tượng hình, đặt trong hộp bìa cứng thếp nhũ vàng, lót gấm triện, gửi làm quà biếu chị, Chị sáng ý, hiểu ngay thông điệp của nó trong món quà hào nhoáng, nhưng vô vị.
Suốt đời chị sống phong lưu chỉ bằng cái nghề gia truyền bên ngoại là làm và bán chè mộc cũng như chè lưu niên ướp hương thanh cảnh hoa mộc, hoa sói, cao sang sen hồ Tây trăm cánh. Bà ngoại một tay tần tảo với chè nuôi dạy năm người con học hành, đỗ đạt vinh thân, Mẹ đẻ cũng nhờ chè mạn, chè hương mà hạnh phúc với hai con thày thuốc, một đứa thày giáo. Chị ở vậy, tiếp tục trông coi cửa hàng, phụng dưỡng cha mẹ già, nuôi em trai tật nguyền tự kỉ.
Quanh năm chị chỉ uống chè hạt thả hoa cúc nhỉnh hơn cái cúc áo. Nó uống miết thành nghiện, hết mùa hoa, nó được chị cho hoa cúc khô, uống dần. Khi tha phương, nó chỉ uống nước đun sôi để nguội, không chấp nhận bất kì chè nào mang nhãn hiệu Ấn Độ, Nhật Bản, Tàu. Ceyland
Nó nhớ tới chị là nhớ tha thiết hương vị quê hương mà nó không sao tìm lại được ở bất kì nơi đâu, bằng bất kì cách nào, dù túi nó nặng các loại thẻ tín dụng quốc tế, dù du ngoạn mọi nơi chốn.
Hộp chè gửi biếu chị, nó nắn nót nét chữ run run : 17 Hàng Đường, nhớ lắm, chị Nhắt ơi.
Chị cầm tinh con chuột nên được đặt ngay tên cúng cơm là Tý. Nhưng chị bé nhỏ, nhanh nhen, tháo vát, nên được mọi người gọi thân thương là Nhắt, thế thôi.
lêlành
&&&
Thuỷ Quái
Léviathan là một loại thủy quái trong thần thoại phê-ni-xi, thời Trung cổ cũng như trong Thánh kinh. Không rõ hình thù vì là hỗn hợp của rồng, rắn, cá sấu..., nó tiêu biểu cho sự tàn phá khủng khiếp có thể đảo lộn trật tự địa lý, thay đổi hành tinh, thậm chí hủy diệt cả thế giới. Người ta cho rằng đặt tên phim là Léviathan, nhà làm phim Nga Andreï Zviaguintsev đã dụng ý tác phẩm cùng tên của triết gia Thomas Hobbes viết năm 1651 với một nghĩa hoàn toàn chính trị: Léviathan là Nhà nước tương đương với con thủy quái này. Theo ngữ nghĩa Việt Nam, hai "quái" đó có điểm chung là từ... "nước".
Truyện phim là chuyện đời thường hay hoàn toàn hư cấu còn tùy bối cảnh văn hóa xã hội mỗi nơi: một cặp vợ chồng cùng với đứa con trai riêng của chồng, sống ở vùng biển phía bắc nước Nga. Vợ làm việc trong xưởng cá, chồng có ga ra sửa xe sát nhà, trên ngọn đồi rộng từ mồ hôi nước mắt bao nhiêu đời tích cóp. Ông Thị trưởng thành phố muốn mua tất cả cơ ngơi đó với giá 600 nghìn thay vì 3 triệu rưỡi rúp. Dĩ nhiên chủ đất từ chối, không những chỉ vì tài sản và đất đai, vì kỷ niệm gia đình, mà còn vì vẻ đẹp thiên nhiên nơi đây đã quấn quýt anh từ tấm bé. Vậy là bi kịch bắt đầu.
Cuộc đọ sức không tương xứng giữa kẻ quyền thế bất lương dưới trướng có cả một băng đảng sẵn sàng tiêu diệt bất kỳ ai trái ý, và một gia đình lương thiện cô thân chỉ biết trông cậy vào người bạn luật sư đến từ Moscou. Và từ đây một bi kịch khác nảy sinh. Những tưởng trí thông minh của luật sư vượt thắng sự thô bạo của Thị trưởng, nhưng mọi việc lại chệch đi từ một đam mê: sự vụng trộm giữa cô vợ trẻ và người bạn hào hoa.
Hầu hết các nhà phê bình đều điểm bộ phim dưới "ý đồ" chính trị: tố cáo tệ đoan xã hội bắt nguồn từ quyền lực nhà nước, ở một đất Nga chẳng khác gì thời Liên Xô trước kia, nhất là khi đây không phải là phim đầu tiên có thái độ dấn thân của Andreï Zviaguintsev. Nhưng bên cạnh, các tình tiết khai triển trong phim cũng tinh tế, lôi cuốn không kém: sự trái nghịch giữa chung thủy-ngoại tình, hối lộ-ý thức bổn phận, hy vọng-thất vọng, thiên nhiên-xã hội, nghi ngờ-tin tưởng... Nằm trong tổng thể là vùng biển hoang sơ, đẹp, u tịch, nơi chơ vơ bộ xương cá voi và mấy xác tàu đánh cá rỉ sét mục nát, bọt sóng tha hồ đùa nghịch. Hết sức cô độc, lãng mạn và buồn. Cảm tưởng như mình ở tận cùng thế giới, xa cách tất cả, và bình yên. Con đường độc đạo bụi mịt mù mỗi lần xe chạy, không một thân cây to hay nhỏ, các vồng đất nhấp nhô dẫn đến bờ vực dốc đứng, sóng va đập vào ra bọt tung trắng xóa trên các tảng đá chất chồng đen bóng rong rêu. Nơi đây, một sáng đi làm như thường lệ, cô vợ trẻ trầm mình khi mối tình vụng trộm bị phát hiện, đứa con trai phẫn nộ hét với cha: "Tôi chán các người lắm! Tôi ghét bà ấy lắm! Bỏ bà ấy đi!".
Chờ vợ mãi không thấy về, người chồng tưởng bạn đòi được ở Thị trưởng 3 triệu rưỡi rúp đã ôm về Moscou, và vợ mình theo tình nhân tới đó. Anh không biết là bạn đã âm thầm bỏ đi vì bị tên Thị trưởng lừa gặp để đưa tiền, dẫn đến nơi hoang vắng cho đám lâu la hè nhau một trận hội đồng . Nên anh phôn bạn không bắt máy. Số của vợ thì không có tín hiệu. Đến khi xác cô được tìm thấy, đơn độc tận cùng, anh khốn khổ gào lên "Tại sao, tại sao, Chúa ơi!". Nhưng Chúa không trả lời. Chẳng ai trả lời. Có chăng là tiếng gầm gừ dưới kia của con thủy quái. Anh tu Vodka liên tục. Hết. Đi mua. Gặp vị cố đạo ở tiệm tạp hóa, anh hỏi "Chúa nhân từ của các người ở đâu?" Đáp "Chúa của tôi thì ở với tôi đây, còn Chúa của anh ở đâu thì tôi không biết". Cha bảo anh có bao giờ đi nhà thờ đâu, có bao giờ cầu nguyện đâu. (Lạ chưa, chẳng phải Chúa ở khắp mọi nơi sao, đâu phải chỉ tới nhà thờ mới gặp? Vậy phải chăng ông Thị trưởng gặp Chúa thường xuyên, vì ông đi nhà thờ và đóng góp rất nhiều?). Sau một hồi nghe thuyết giáo, anh vác hộ cha cố bao bánh mì về nhà - hình ảnh của một người bắt đầu có suy nghĩ mới.
Nhưng bản án nhanh chóng thành hình: người ta kết tội chồng giết vợ vì ghen, rằng gáy cô có dấu đập của vật cứng, đúng như chiếc búa tìm thấy ở nhà anh, rằng cô bị chết rồi mới thả xuống biển... Mười lăm năm của anh không trôi nổi như nàng Kiều, anh chỉ đứng bất động sau chấn song, mắt vô hồn nhìn sững một nơi và câm nín như một nấm mồ. Thị trưởng được ai đó báo tin khi đang dùng bữa ở tiệm ăn. Ông hỏi "Mười lăm năm hả? Được". Thản nhiên, không một ánh mắt hài lòng hay bất mãn. Ông gọi thêm bình Vodka. Mông và bụng ông trào ra khỏi bề sâu của ghế.
Ngay ngày hôm sau, xe "cẩu" hung hăng kiểu Thủy quái, dương cánh tay khổng lồ tàn nhẫn, phần đầu là bàn tay sắt thô bạo đập mạnh vào căn nhà trắng chơ vơ cạnh biển. Các bức tường đổ xuống, mái nhà đổ xuống, vật dụng trong nhà đổ xuống. Mọi thứ đổ xuống. Tiếng vỡ chát chúa của cửa kính, của ly tách, của vật dụng át hẳn tiếng máy nổ xe cẩu, át hẳn âm thanh lao xao của biển muôn đời đã nhìn bao thế hệ một gia đình. Không còn cảnh qua cửa sổ kính thấy biển ở ngoài kia xa ngút mắt. Không còn qua cửa kính, mảnh vườn phơi ra trơ trẽn, chẳng một mầm xanh cây lá. Mấy chậu hoa ở bệ cửa sổ nát lẫn trong đống kính bể và linh tinh thứ vụn. Thằng con trai đã được gia đình bạn đem về nuôi, không cần treo áo khoác lên cây móc đã gãy nghiến dưới bàn tay sắt...
Nhận giải nhất của Đại hội điện ảnh Cannes 2014 về truyện phim, Zviaguintsev được đánh giá là một trong những nhà làm phim có khả năng đưa nghệ thuật thứ bảy lên cao. Ông tố cáo một nước Nga rượu chè và tham nhũng, một nước Nga bệnh hoạn, rất bệnh hoạn - như một số nước khác trên hành tinh. Bối cảnh là nước Nga, nhưng cũng có thể là bất cứ ở đâu. Đề tài có vẻ phổ biến nhưng vẫn gây lạnh ở sống lưng, hay càng phổ biến càng gây lạnh, vì càng đi sâu vào phim càng thấy chẳng còn chút hy vọng nào có thể. Xuyên qua câu chuyện của gia đình này, Thủy Quái gợi ý rất nhiều về tình trạng hiện thời của nước Nga. Andreï Zviaguintsev đưa ra một kiểu ngụ ngôn thời đại, đầy mỉa mai và thất vọng.
Phim dài 2g30 phút, bầu không khí trầm tịnh, u uẩn buồn. Khán giả im phắc theo dõi. Không tiếng di động reo, không lời rì rầm trò chuyện. Chỉ có hai chỗ cười, một là tưởng sẽ lấy được 3 triệu rưỡi, hai cha con và anh bạn luật sư cười ha hả khiến khán giả cũng thấy vui lây. Nhưng chỗ duy nhất cả rạp đồng lọat bật cười sảng khóai, là bữa picnic ngoài trời. Bị trách vì một lúc bắn hết dãy chai rỗng làm đích, một anh bạn bảo đừng lo, còn nhiều "đích" khác. Và anh lôi ra cả đống hình các lãnh tụ Đảng và Nhà nước Liên Xô, từ sau cuộc Cách mạng tháng mười đến Gorbatchev, được phóng lớn và lộng kiếng hẳn hoi, với lời bình "Ở nhà còn có Eltsine nữa, nhưng chưa đủ trình độ"...
Mặc dù đề tài thật sự khó khăn tế nhị, bộ phim đã đạt được thành công về cách dàn dựng, lời thoại, diễn viên xuất sắc, chuyển tải thông điệp.
Một lòng tham, ba cuộc đời tan nát. Nhưng đây chỉ là một hạt cát thấy được trong biển Nga mênh mông. Truyện phim là chuyện đời thường hay hoàn toàn hư cấu còn tùy bối cảnh văn hóa xã hội mỗi nơi...
Xuân Sương
Paris, tháng 10-2014
***
Song Sinh
Như thường lệ, tôi đứng dang chân dang tay trên tấm ván, miệng cười thật tươi như đón tiếp người yêu.
Nhưng đêm nay có điều gì làm tôi xốn xang bứt rứt vô cùng. Trong một tích tắc, tôi ao ước phải chi mình có thể nhắm mắt nghỉ ngơi chốc lát. Thói quen phải sắp nụ cười thật duyên dáng luôn luôn bắt tôi chôn mọi ưu tư khác xuống tận đáy lòng. Tất cả những gì bên trong lớp da bụng như trùng xuống, tan ra, còn lại trong tôi một nỗi trống trải bàng hoàng, lo âu vô cớ. Miệng tôi vẫn cười, hai tay và chân vẫn dang rộng trên tấm ván, mắt vẫn mở to nhìn xuống đám thực khách Paris dư dả đến đây ăn uống xài tiền, mà lòng thì không cảm thấy gì ngoài nỗi hoảng loạn không tên.
Tiếng vỗ tay rầm rộ khi ông chủ vừa bước ra, tiếng cười nói và tiếng muỗng nĩa như xé nát lòng tôi. Ông chủ cúi chào khán giả với cái chào nghề nghiệp và bỗng dưng, tôi lạnh cả người khi tưởng tượng rằng nếu một trong những con dao mà ông sẽ ném chung quanh thân tôi như mọi lần, có một con vô tình hay cố ý đi lạc ?
Ông chủ nhận con dao thứ nhất từ tay anh phụ việc, với vẻ ung dung hình như hơn thường lệ. Và ông nhìn tôi. Tôi cũng nhìn ông ta. Thời gian như đọng lại và giữa hai cái nhìn, không gian như vừa gần gũi vừa bao la kỳ dị. Ông lui một bước. Bằng động tác nhanh nhẹn, ngoạn mục và dẻo dai, con dao thứ nhất bay đi cắm bên cánh tay phải tôi giữa tiếng vỗ tay tán thưởng. Có tất cả mười lăm con dao và lần nào, tôi cũng tự nhủ con này đây sẽ cắm vào bàn tay mình như Chúa bị đóng đinh, con này đây sẽ cắm vào trán mình, con này đây sẽ cắm vào tim mình...
Cho đến con cuối cùng, sẽ bay tới cắm vào giữa hai đùi, cái nhìn rất lạnh của ông chủ khi thấy tôi cười vui vẻ với anh nhạc công cách đây hai hôm, bỗng như sắc nét hơn trong trí nhớ. Tôi biết ông ta không hài lòng mảy may. Ông không muốn tôi vui cười với ai cả, trừ với ông ta thôi, nhất là những khi không có bà chủ bên cạnh. Và tôi mặc nhiên chấp nhận điều này, cố quên là bên trong lồng ngực mình còn có con tim vẫn đập, bởi vì thân thể tôi cũng cần ngày ăn hai bữa như mọi người, cũng cần một ít áo quần đẹp đẽ để lên sân khấu, và cần nhiều hơn để trả tiền cho trung tâm nuôi người khuyết tật tâm thần ở miền Nam nước Pháp.
Tôi chờ đợi con dao cuối cùng ném tới. Tự nhủ thầm là không được run, bởi vì một cử động dù nhỏ của tôi vào giờ phút này cũng có thể gây ra tai nạn. Hai chân tôi có vẻ không vững lắm. Tôi có cảm tưởng mình sắp khuỵu xuống, chới với, lung lay. Tôi muốn rút hai tay ra khỏi vòng dao, ôm ngang trước ngực mình và ghì chặt lại. Tôi muốn gục đầu xuống, nhìn thấu vào lòng để tìm xem điều gì đã làm mình bải hoải lo âu đến thế. Tôi muốn khóc một chút. Tôi muốn nói cái gì đó. Tôi muốn... Nhưng tôi vẫn bất động và miệng vẫn giữ nụ cười mà không biết có méo mó lệch lạc hay không. Giây phút cuối này kéo dài như vô cùng. Bất giác tôi cầu nguyện, hy vọng con dao không có tim, không có tình người, nhưng ông chủ thì có. Và ông ta còn sự nghiệp phải bảo vệ. Nếu ông cố ý ném vào một phần thân thể tôi gây thương tích để trừng phạt rằng ngoài ông ra, tôi không được phép làm quen với ai khác nữa, thì cuối cùng rồi ông có được gì hơn ? Mắt tôi tìm mắt ông ta, với cái nhìn có phần nào cầu khẩn, nhún nhường và cố tạo niềm âu yếm ngọt ngào. Nhưng không thấy, ông ta mải làm một vài cử chỉ cho thêm phần hấp dẫn, cho khán giả hồi hộp hơn trước khi kết thúc. Tôi bỗng sợ hãi lạ lùng.
Vài tiếng huýt sáo nổi lên làm tôi tê liệt, nghĩ đến những trò chơi vô đạo thời La Mã. Người ta vừa huýt sáo với ngón tay cái chĩa xuống đất, bảo hạ nó đi, hạ nó đi phải không ? Mặt mày đám thực khách dữ dằn đanh đá. Rồi nhiều tiếng huýt sáo, nhiều tiếng la man rợ của dân tiền sử, vang vang khắp phòng. Ánh đèn chớp nháy khi mờ khi tỏ như ánh mắt tử thần cố tình trêu ngươi đồng loã với cảnh trạng vô tâm bạc bẽo đó. Một nỗi chua xót cày xới lòng tôi. Một nỗi bức xúc mãnh liệt quằn quại châm cay điếng đôi mắt. Đầu óc tôi cuồng loạn. Tim tôi dại đi. Và kìa, con dao cuối cùng. Sao trông nó có vẻ sáng quắc đến lạ lùng vậy, mũi dao nhọn hoắc đe doạ sống sượng. Và ông chủ, nụ cười trông sao mà đểu, đôi mắt rực lên ánh lửa quái gở khát máu, bàn tay vẫn mềm mại bỗng như nổi đầy gân đồ tể. Lăm le con dao cuối cùng trong tay, ông ta quay lại, và bằng một nụ cười khó lòng định nghĩa, ông nhìn tôi rất nhanh và dang tay ném... Đúng vào lúc con dao được tung ra và trong cái ồn ào hỉ hả của thực khách, bụng tôi đau nhói lên. Vô thức, tôi kêu lên một tiếng thất thanh, nhắm nghiền mắt lại và đổ xuống như một thân cây bị chặt...
*
Giọng bà giám đốc trung tâm đều đều với những âm tiết đặc biệt miền Nam nước Pháp làm tôi buồn ngủ. Tôi thèm được ngủ một lát. Những gì dù giản dị nhất, đối với tôi sao vẫn cứ là niềm ao ước. Tôi mệt mỏi quá, cả tinh thần lẫn thể xác.
Tôi nhìn mông lung ra cửa sổ, hình dung lại thân hình tiều tụy xanh xao của chị mình vẫn thường ngồi trên bãi cỏ với cái nhìn vô cảm, xa vắng. Lần cuối tôi xuống thăm cách đây bảy tháng, vào một ngày mùa thu có gió hiu hiu thổi tóc chị vướng víu lên nét mặt cẩm thạch nhợt nhạt. Mặt trời buổi chiều còn rực đỏ cũng không đem lại cho chị chút sinh khí nào. Chị tôi ngồi đó, giữa những chiếc lá úa nhặt hoài không biết mỏi tay. Trên bãi cỏ cắt xén với hai bìa đầy các loại hoa, chị tôi như một thứ đồ chơi nhân tạo vụng về, vô hồn chỉ làm rối mắt. Tôi đến bên cạnh gọi chị, cố nhắc nhở chị về sự hiện diện của mình, cô em song sinh của chị. Nhưng chị không nhìn. Tôi như một chiếc lá chị vừa nhặt, để bên cạnh, không hề quan tâm tới nữa. Mắt chị ngó đâu đâu, nhìn mà không thấy. Môi chị nhấp nháy, nói mà không lời.
Suốt buổi chiều ngồi nhìn chị mình với những trò chơi vô nghĩa, với một cái đầu không còn gì lại bên trong, tôi hiểu là phải tự sắp đặt tình cảm mình một cách khác xưa. Chị có thế giới của chị mà tôi không có chìa khoá để vào. Và tôi không còn gì trong chị. Như vậy tốt hơn.
- Chỉ là một cơn sốt xoàng. Tối qua chị cô không chịu ăn gì, chỉ uống một cốc nước. Khoảng mười giờ, nghe tiếng lục đục trong phòng, một cô y tá tới xem...
Mười giờ ? Giờ đó tôi đang đau nhói lên vì lo sợ con dao cuối cùng. Sáng nay khi thức dậy, tôi sờ mó khắp thân thể mình và ngạc nhiên thú vị không tìm ra một vết thương nào, trừ cái cảm giác rần rật khắp người như bị kiến bò. Người ta nói là bác sĩ bảo tôi có trái tim mệt mỏi của một người đứng tuổi. Bà chủ ái ngại báo tin là trung tâm dành cho người khuyết tật tâm thần nhắn tôi xuống gấp. Và tôi đi. Một mình.
- ... thấy chị cô đang xếp các hình puzzle.
Rồi bà mỉm nụ cười trang trọng :
- Cũng lạ, bao nhiêu năm nay rồi cô ấy không hề đụng tới nó, và đó là cái duy nhất cô ấy không vứt đi.
A, chơi puzzle. Món quà Mẹ mua cho hai đứa trong ngày sinh nhựt mười tuổi. Hình puzzle với cái hoa hướng dương vàng tươi có hai cái nhụy. Hôm đó Mẹ hỏi có một cái nhụy có con sâu và một cái thì không, thích mua cái nào. Chị tôi thích nhụy có sâu, tôi thì không. Mẹ bảo :
- Ai cũng nói chị em sinh đôi giống nhau từng chút mà hai đứa bây lại khác nhau từng chút.
Mẹ bảo sinh tôi ra sau chị khoảng mười phút. Và khi bắt đầu biết nhìn, mắt tôi láo liên tìm kiếm trong khi chị dửng dưng không thèm nhìn tôi mãi gần cả năm trời. Không bao giờ chúng tôi đòi bú hay la khóc cùng một lúc. Và từ năm ba tuổi, trong mọi cử chỉ tôi nghiễm nhiên luôn luôn là người bảo vệ chị mình. Có cái duy nhất chúng tôi cùng thích như nhau là hoa hướng dương, thì đấy, lại có cái nhụy phải khác đi. Vì vậy Mẹ mua cho cả hai cái. Mỗi lần tôi sắp gần xong thì chừa miếng cuối cùng cho chị lắp vào cái nhụy có con sâu. Nếu chị sắp thì chừa chỗ cho tôi lắp cái nhụy không sâu...
- Rồi một lát sau chị cô ra đi nhẹ nhàng như mơ.
Bà nhìn tôi, nói nhẹ như một lời tạ tội :
- Chúng tôi vẫn giữ nguyên cái hình puzzle mà chị cô đã sắp đêm qua.
Ngày hôm sau chị tôi vĩnh viễn nằm trong chiếc giường đất êm ái bao dung. Trước khi đặt vào quan tài món quà sinh nhựt năm hai đứa lên mười, tôi run rẩy lắp vào miếng cuối cùng mà chị tôi luôn luôn dành lại cho tôi. Lần này, tất cả mọi miếng rời rạc đều được dán chặt với nhau bằng nước mắt.
Miêng
Paris, 10 Sept., 1996.
Một Bông Hồng Trắng
Ngô Tằng Giao
Vào ngày cuối cùng trước Lễ Giáng Sinh tôi vội vã tới siêu thị để mua các món quà tặng còn sót lại mà trước đó chưa kịp mua. Trời ơi, sao mà đông người như thế. Tôi bực bội tự nhủ thầm: "Cả đống người thế này thời bao giờ mới xong việc đây. Còn bao nhiêu nơi phải đi nữa chứ...!" Mỗi năm lễ Giáng Sinh tới quả thật là gây phiền nhiễu cho tôi vô cùng. Tôi nhiều khi nghĩ lẩn thẩn giá mình được nằm xuống ngủ một giấc dài cho ngon lành và chỉ tỉnh dậy khi ngày lễ đã trôi qua xong xuôi thì hay biết mấy.
Tuy thế tôi vẫn phải len chân vào khu bán đồ chơi. Tại đó nhìn thấy giá cả quá mắc tôi lại lầm bầm rủa thầm. "Không biết tại sao bọn con nít cứ phải chơi các thứ đồ chơi đắt tiền như vậy chứ!" Trong khi loanh quanh tìm kiếm tại khu này tôi bất ngờ nhận thấy một cậu bé chắc khoảng chừng năm tuổi. Nó đang ôm một con búp bê trong ngực. Nó cứ lấy tay vuốt tóc con búp bê mãi. Nét mặt thật buồn bã. Tôi ngạc nhiên tự hỏi không biết nó muốn mua món đồ chơi này cho ai.
Chợt câu bé quay qua phía bà già đứng bên cạnh khẽ nói: "Bà ơi! Bà có chắc là con chẳng đủ tiền mua cái này không?" Bà già trả lời: "Con ơi! Bà biết mà, con không đủ tiền để mua cái con búp bê đó đâu!" Rồi bà dặn nó cứ đứng nguyên tại chỗ, khoảng năm phút sau bà sẽ trở lại. Bà phải chạy đi kiếm món đồ gì gần khu đó. Dặn dò xong là bà vội vã đi ngay. Cậu bé vẫn khư khư ôm con búp bê trong tay.
Tôi tò mò, bèn đi về phía nó và hỏi là là nó muốn mua con búp bê này cho ai. Cậu bé nói: "Đó là đồ chơi mà em gái con ưa thích lắm và luôn ao ước được tặng làm quà vào dịp Giáng Sinh này. Em con cứ tin chắc là ông già Nô En sẽ cho em con món quà búp bê như vậy đó!" Tôi an ủi: "Thế nào ông già Nô En cũng sẽ cho em con món quà đó. Con đừng lo lắng làm chi!"
Nhưng cậu bé trả lời tôi, giọng thật buồn: "Không đâu! Ông già Nô En không thể mang món quà này tới chỗ em của con bây giờ được đâu! Con phải đưa búp bê cho mẹ con để mẹ trao lại cho em con khi mẹ về nơi đó." Mắt cậu bé thật sầu thảm. "Em con đã về với bố con rồi. Bố nói mẹ cũng sẽ về với bố sớm thôi, nên con nghĩ rằng mẹ sẽ có thể mang búp bê theo rồi đưa lại cho em con!"
Tim tôi hầu như ngưng đập. Cậu bé ngước nhìn tôi và nói thêm: "Con đã nói với bố là dặn mẹ đừng bỏ đi vội. Hãy chờ con mua quà ở tiệm này xong và trở về kịp tới nhà đã." Rồi cậu bé móc trong túi ra một tấm hình rất đẹp chụp nó đang cười rất tươi tắn, rất dễ thương. "Con cũng muốn mẹ con mang theo tấm ảnh này để mẹ đừng có quên con! Con yêu mẹ và ước mong rằng mẹ không phải rời xa con nhưng bố nói là mẹ phải đi theo với em gái con!" Nói xong cậu bé lại nhìn vào con búp bê, cặp mắt buồn bã thầm lặng.
Tôi vội thò tay vào túi kín đáo lấy ra vài tờ giấy bạc. Tôi nói với đứa bé: "Con hãy đếm lại tiền của con xem, biết đâu có khi đủ tìền mua quà đấy!" "Vâng!" cậu bé nói "Con mong sao có đủ tiền." Tôi khéo léo lén bỏ chút tiền bạc của tôi nhập vào xấp tiền của cậu bé không để cậu bé thấy và chúng tôi cùng đếm. Bây giờ thì có đủ tiền mua búp bê rồi, ngoài ra lại còn dư thêm một chút nữa chứ!
Cậu bé mừng rỡ ra mặt, la lên: "Cám ơn Trời đã cho con đủ tiền!" Rồi nó ngước nhìn tôi nói thêm: "Hôm qua trước khi đi ngủ con đã cầu Trời cho con đủ tiền mua con búp bê này để mẹ con có thể mang theo mà đưa lại cho em con. Vậy là ông Trời đã nghe thấy lời cầu xin rồi đó!" "Con cũng muốn có đủ tiền để mua thêm một bông hồng tặng mẹ con. Nhưng con đâu dám xin nhiều như thế. May sao Trời thương mà lại cho con đủ tiền mua cả búp bê lẫn hoa hồng!" "Bác biết không, mẹ con thích hoa hồng màu trắng lắm bác ạ!"
Câu chuyện tới đó thời bà già vừa quay lại. Tôi bèn đẩy xe đi qua khu khác để mua hàng. Tôi mua sắm xong xuôi. Ô hay! Sao trong lòng mình lại suy tư khác lúc mới vào trong tiệm như thế này! Tôi cứ nghĩ mãi về đứa bé đó. Không thể nào quên được. Rồi tôi chợt nhớ đến một tin về tai nạn xe cộ đã đăng trên báo địa phương này, khoảng hai ngày trước đó. Tin đề cập tới một kẻ lái xe tải say rượu. Hắn đâm vào một xe hơi trên đó có một bà mẹ trẻ lái xe với cô con gái nhỏ ngồi bên cạnh. Chiếc xe tan nát. Cô bé gái chết ngay tại chỗ. Còn bà mẹ bị thương rất nặng. Gia đình hiện phải quyết định có nên rút các ống thở bằng máy trợ giúp ra hay không vì nạn nhân vẫn mê man bất tỉnh. Khó mà sống nổi. Không rõ đây có phải là gia đình cậu bé nói trên hay chăng?"
Hai ngày sau khi chuyện trò với cậu bé, tôi lại đọc được một tin trên báo chí loan báo rằng bà mẹ trong tai nạn xe hơi trên nay đã qua đời rồi. Tôi bèn quyết định đi mua một bó hoa hồng màu trắng và tìm tới viếng người quá cố theo như địa chỉ nhà quàn ghi trên báo. Tôi tới nơi. Bà mẹ trẻ nằm đó, trong quan tài. Một tay ôm một bông hồng màu trắng tuyệt đẹp cùng con búp bê. Một tay ôm tấm hình một đứa trẻ đặt trên ngực như ấp ủ yêu thương. Đó chính là hình đứa trẻ mà tôi đã gặp trong siêu thị.
Tôi rời nhà quàn. Mắt đẫm lệ. Có cảm tưởng rằng cuộc đời mình từ nay sẽ thay đổi luôn rồi. Tình yêu mà cậu bé kia đã dành cho mẹ và em gái thật tuyệt vời, khó mà tưởng tượng ra nổi. Vậy mà chỉ trong một giây phút ngắn ngủi không đầy chớp mắt một tên say sưa rượu chè lái xe đã cướp đi tất cả khối tình cảm thiêng liêng đó của cậu bé.
Tâm Minh Ngô Tằng Giao
phóng tác
***
Lời Nói Một Buổi Chiều
Người đàn bà đó bây giờ ngồi trước mặt hắn, tóc đã cắt ngắn, cách trang điểm khác bảy năm về trước, cái nhìn lời nói đã đầy đủ ý tứ. Chỉ có Thúy và hắn trong căn phòng, giữa hai người là cái bàn ăn tròn phủ tấm vải nhiều hoa, chiếc quạt trên trần quay như không đều, mệt mỏi hay bất cần, nhà nằm sâu trong ngõ hẻm vẫn không thoát được cái inh ỏi của xe gắn máy. Phòng chật chội những thùng hàng chồng chất lên nhau: máy truyền hình, đầu video, máy nhạc và nhiều loại hàng linh tinh. ở ngoài, mùa hạ cháy âm ỉ trên thành phố, buổi chiều chưa tỉnh ngủ hẳn đã có tiếng chu chóe của hàng xóm cãi nhau trong điệu nhạc xập xình của một băng Paris by night mới về. Thúy tìm ra cách để thằng bé đừng quấy rầy mẹ, băng hoạt họa Nhật Bản sẽ giữ nó yên ở phòng trong. Nàng mang ra hai ly thạch đen có đá và ngồi cắt cam sành.
- Anh về mùa này Hà Nội không có nhiều hoa quả.
Hôm trước hai người tình cờ gặp nhau ngoài đường, hắn đang đi bộ trên hè phố, Thúy ngừng xe lại bên cạnh. Vẫn tình cờ, như lần gặp nhau ở Paris, không ai tránh được những tình cờ. Ngỡ ngàng, hụt hẫng, đến cách xưng hô cũng phải một lúc họ mới tìm được, những câu hỏi luýnh quýnh chồng chéo lên nhau, những câu trả lời rời rạc bỏ lửng, những im lặng vô duyên. Giữa đường phố tấp nập, họ vừa thiếu thì giờ vừa không biết kéo dài trao đổi. Họ chỉ loay hoay được một lúc rồi hắn khách sáo:
- Chắc Thúy đang bận, anh không muốn giữ lâu. Gặp lại nhau sau bao nhiêu năm thật là bất ngờ. Thể nào mình cũng còn dịp khác.
Hai người cười cười gật gật, mắt không chịu đi theo lời chào. Khi xe đã rồ máy Thúy bất chợt nói:
- Thôi thế này nhé, mời anh đến nhà em hôm nào anh rảnh. Anh Quân đi Hồng Kông chưa về, nhưng nhất định bác Dũng phải nhìn thấy thằng cu con của em. Năm nay nó đã 4 tuổi. Anh định ngày giờ đi, lúc nào em cũng thu xếp được.
Hắn chẳng biết nghĩ sao, nhận lời.
Hắn do dự cho đến ngày hẹn. Không có lý do gì phải gặp lại một quá khứ đã làm hắn mất bao nhiêu năm mới ra khỏi. Chuyện cũ lạc lõng giữa hiện tại ở nơi này, trong cái thành phố đang hối hả sống, không có đầu óc để hoài niệm. Bảy năm trời, những thay đổi đã cộng vào nhau như kết quả chắc chắn của thời gian, có những tháng ngày mất đến cả sự thật của chúng. Hắn bỏ hẹn không sao, đâu còn lần khác. Nhưng cuối cùng hắn vẫn đến, không biết vì tò mò hay tự ái, không chừng cuộc gặp gỡ sẽ xóa được những gì chưa chịu rời trí nhớ.
- Nhà cửa bừa bộn quá. Em đang chờ chuyển qua cửa tiệm mới. Đấy anh nhìn những loại hàng em bán. Thiên hạ bây giờ thi đua nhau mua sắm những thứ này. Anh về nông thôn đã thấy, ăng-ten ti-vi mọc cả trên những mái nhà tranh. Dân mình quen rất nhanh với văn minh tiêu thụ. Nước ta sắp thành rồng anh ạ, các cụ nhà mình quả quyết như vậy. Cái cửa hàng làm em bận lu bù. Em phải lo một mình, anh Quân không có thì giờ giúp vào. Em đã ngừng hẳn nghề dạy Pháp văn. Tiếng Pháp thời buổi này chẳng ai thèm học, người ta học tiếng Anh tiếng Tàu, thậm chí tiếng Nhật, thì mới làm ăn được chứ.
- Cũng có lý. Thôi Thúy cất món tiếng Tây vào tủ lạnh. Lâu lâu lấy nó ra đọc thơ sũng nước của Lamartine hay chuyện kiếm hiệp ly kỳ của Alexandre Dumas. Hai năm thực tập ở Pháp coi như là một chuyến du lịch không mất tiền.
Thúy cười:
- Anh vẫn cái giọng mỉa mai hồi nào. Việt kiều như anh không bao giờ thấm được thực tế ở đây.
Nàng biết hắn không ưa chút nào nhãn hiệu "Việt kiều", kể cả thời còn "Việt kiều yêu nước".
Hắn không chú tâm đến những gì Thúy kể sau đó về đời sống ngày hôm nay, chuyện nhà cửa đất đai, chuyện phát triển du lịch, chuyện ngoại quốc đầu tư, chuyện chọn lựa những trường học chưa xuống cấp, những nhà thương còn bảo đảm... Thời gian ở đây, kinh tế thị trường hắn nghe đã tạm đủ. Nếu Thúy hỏi về tình hình ở Pháp, hắn sẽ nói về nạn thất nghiệp, những cuộc biểu tình đình công, người ăn mày trong métro Paris, không khí hận thù một số cộng đồng nhập cư... Nhưng nàng không hỏi, và hắn ngồi nhìn nàng, tìm những nét còn lại của cô thực tập sinh trước đây.
- Còn chồng Thúy bây giờ làm gì?
Thúy lúng túng:
- Thú thật dạo sau này em cũng không rõ. Anh Quân làm phó giám đốc một cơ quan xuất khẩu. Họ xuất nhiều loại hàng như đồ nhựa, giày dép, bàn ghế bằng mây... Làm ăn nhiều với các nước trong vùng. Anh Quân hay đi Singapore và Bangkok. Em chỉ biết vậy thôi.
Thúy vẫn thuộc một thành phần ưu đãi. Lúc trước, bố có chức vụ cao trong chính quyền, tuổi trẻ nàng là một tuổi trẻ được bảo vệ và chiều chuộng. Vừa xong đại học là được học bổng qua Pháp. Về nước lấy một anh phó tiến sĩ tốt nghiệp ở Đông Âu. Hiện nay vợ chồng mỗi người một chỗ tốt để làm giàu. Hắn có thể yên tâm cho nàng, cho mình. Không lẽ hắn chờ đợi gì khác?
Người đàn bà không muốn nói thêm về chồng. Nàng đứng dậy, đi đến cửa vào phòng trong, đứng nhìn con. Khi quay ra, nàng đột ngột:
- Em tiếc cho chuyện gia đình anh hồi đó.
- Anh và Loan đã ly dị. Không lâu sau khi Thúy về nước.
- Tại sao chị Loan không chịu tha thứ?
- Thúy không có quyền hỏi câu đó.
Họ ngừng lại, có lời đã lỡ. Sau một lúc, nàng nói nhỏ:
- Em xin lỗi anh.
Loan không tha thứ. Suốt hơn 10 năm, Loan đã phục vụ chồng con, không đòi hỏi gì ở hắn, kể cả một tình thương lâu bền, gia đình là nơi hy sinh của nàng, và sự hy sinh này là tất cả giá trị của bản thân nàng. Những nguyên tắc đạo đức đã làm Loan khắc nghiệt với chính mình, làm sao đòi hỏi nàng khoan dung với người khác? Loan không thể tiếp tục phục vụ một người chồng đã phản bội, sống với hắn không còn ý nghĩa.
- Hai đứa con anh chắc lớn lắm rồi. Nếu em không lầm, thằng Kim năm nay đã vào đại học.
- Tụi nó vẫn còn giận anh, không gặp anh. Tụi nó đứng hẳn về phía mẹ. Bây giờ lại đến tuổi muốn tự lập, càng không cần bố.
- Em nghĩ rồi có ngày tụi nó sẽ trở về với anh.
"Bố phải để mẹ yên, đừng gọi về nhà nữa", hắn nhớ cái thời gian ngóng chờ điện thoại vào mỗi cuối tuần, rồi con My gọi đến nói bận học thi, thằng Kim phải lo việc cho mẹ. Hắn không muốn người đàn bà ngồi trước mặt biết những gì xảy ra sau đó: Loan và hắn giành giựt của cải, kiện cáo nhau đủ thứ chuyện, hắn mất con, mất bạn bè, bỏ công ăn việc làm, sức khỏe suy yếu, sống lang thang như một kẻ chạy trốn.
- Anh đã qua khỏi giai đoạn khó khăn. Đời sống ổn định trở lại. Việc làm không được như trước đây, nhưng còn hơn là thất nghiệp. Chỉ chưa tìm lại được vợ. Thúy có cô bạn nào góa chồng hay chán chồng, giới thiệu cho anh. Cô nào muốn trăm năm hạnh phúc ở một nước văn minh, với một Việt kiều có quốc tịch Pháp hẳn hoi nhưng vẫn thích nước mắm Phú Quốc.
Thúy cười qua loa, ý nghĩ ở nơi khác:
- Qua người này người nọ em vẫn hỏi han về anh. Nhưng mỗi lần lại phải nghe người ta phê phán anh. Làm như chỉ an ủi được em bằng cách đổ mọi lỗi cho anh. Chẳng ai hiểu được chúng mình đâu anh ạ.
- Chúng mình hiểu nhau được tới đâu mà đòi người khác hiểu mình?
- Anh có cần nói vậy không?
- Hồi đó anh cứ nghĩ người ta hiểu nhau hơn trong khó khăn.
- Nếu chỉ là những khó khăn...
- Biết rồi, Thúy khỏi cần nhắc lại, mơ mộng quá hóa điên. Sống phải thực tế, phải biết điều, mơ một lúc rồi phải mở mắt ra. Có đúng không?
- Chuyện chúng mình không có tương lai.
- Cái hay là trong hoàn cảnh nào Thúy cũng sáng suốt, biết nhìn gần nhìn xa.
- Anh Dũng, ngày hôm nay anh có thực sự nghĩ chúng mình có thể làm khác?
- Không. Dĩ nhiên là không. Mình không cùng giới. Hai môi trường khác nhau như hai thế giới không có gì để chung. Ai cho phép vượt những ranh giới đã được định? Người nào phải trở về chỗ người nấy. Thúy về với cái giới có quyền lực ở Việt Nam. Anh về với những người Việt lập cư ở Pháp. Một kết cuộc hợp tình hợp lý, như người ta thường nói. Chỉ có thể như vậy thôi.
- Em tưởng vấn đề gia đình anh với thời gian cũng giải quyết được.
- Đó lại là chuyện khác! Phần sau không còn liên quan đến Thúy, Thúy khỏi thắc mắc làm gì.
- Tại sao không? Em không có trách nhiệm gì trong sự đổ vỡ của gia đình anh? May thật! Tất nhiên như vậy thì phải tránh ra xa, không được nhòm ngó vào cái riêng tư của anh.
- Thúy còn muốn gì? Muốn tội nghiệp cho anh hả? Thôi thôi, anh xin gói trả lại những thương hại của người khác. Anh cám ơn, nhưng xin phép được một mình thương hại lấy chính mình.
- ít nhất tự ái của anh còn nguyên vẹn.
- Có khi cần tự ái để có sức mà sống.
- Anh quá phức tạp, em không hiểu.
- Thúy có hiểu cũng không có gì thay đổi.
- Chắc anh tưởng mọi chuyện ở em đều dễ dàng? Vì thấy em lấy chồng, em đẻ con, em làm giàu. Anh tưởng chuyện cũ em chỉ cần đậy nắp lại, phủ khăn lên là xong? Là chấm hết, phủi tay bước sang chuyện khác! Anh yên trí, không chỉ có anh mất mát. Có cần chúng mình kê khai những mất mát của mỗi người để so sánh hơn thua? Để biết có bao nhiêu tình cảm đã bị phí phạm? Có bao nhiêu uớc mơ sẽ không bao giờ trở lại? Chẳng ai nguyên vẹn được sau khi bị nhục nhã. Anh đòi hỏi quá sức của em. Hồi đó anh muốn em coi thường con mắt của thiên hạ. Cho dù mang tiếng là cướp chồng, phá hoại hạnh phúc gia đình người ta, chạy theo Việt kiều đến mất cả nhân cách... Anh muốn em chống cự lại gia đình, bạn bè, những người chung quanh mình. Nhưng em quá tầm thường. Em yếu hèn. Không đủ can đảm đối đầu với xã hội, trút bỏ cái an phận ra khỏi mình. Em đã sợ. Em đã đầu hàng. Cuối cùng em chỉ lo chạy cho thân mình, để anh ở lại một mình nhận những hậu quả. Đấy, con người thật của em như vậy, biết làm sao bây giờ? Em nhận hết mọi lỗi. Nhưng còn bao nhiêu lỗi nữa cho vừa?
- Thúy, có những lời nói làm đau.
- Chưa xong, còn phải kể đời sống của em khi về đây. Anh có biết tại sao em lấy chồng chỉ một thời gian ngắn sau đó? Vì phải tẩy sạch một vết nhơ cho gia đình. Vì phải chuộc tội. Lúc đó, vấn đề sống còn đối với em là vào lại những khuôn mẫu của xã hội càng sớm càng tốt. Em chấp nhận người đàn ông đầu tiên vừa ý gia đình. Là anh Quân hay bất cứ ai khác cũng thế thôi. Anh Quân thấy rõ điều đó, em không có thêm sức để giả dối. Mục đích đã hoàn toàn ích kỷ, em còn phải lo dẹp những kháng cự ở trong mình, đầu óc nào để tìm hiểu chồng, nói gì đến tình thương. Rồi em tự hỏi tại sao anh Quân chịu lập gia đình với một người đàn bà vừa tai tiếng, vừa dửng dưng với mình như vậy. Sự thật giản dị. ở anh ấy chẳng có gì khác ngoài ý muốn lợi dụng địa vị của bố em, của cải gia đình em. Sống chung không bao lâu vợ chồng đã nhìn nhau bằng con mắt khinh miệt và ngờ vực. Mỗi ngày lại thêm những tranh chấp nhỏ nhen, những đụng chạm tự ái, những thái độ hằn học, những mầm mống hận thù. ý muốn có con làm hai người thỏa hiệp được một thời gian chung chạ. Sau đó thằng bé nhanh chóng trở thành một cái cớ cho những mâu thuẫn mới. Em tìm trong hôn nhân một nơi ẩn trú, em gặp ở đó một thứ địa ngục hàng ngày. Lần này phải chịu đựng đến cùng, không thể tai tiếng một lần nữa. Tới một lúc hai vợ chồng đều kiệt sức, mỗi người chỉ còn cách xóa đi sự hiện hữu của kẻ chung sống với mình. Anh Quân đi kiếm những người đàn bà khác. Nói thật với anh, cuộc sống của em cũng dễ thở hơn từ đó. Xã hội thay đổi, những chuyện ngoại tình bây giờ cũng thường. Một ông phó giám đốc xí nghiệp sống công khai với cô nhân tình trẻ đẹp còn là một hình ảnh của sự thành công trong xã hội mới. Anh cũng đừng lo cho em, thời buổi này không ai có thì giờ ngồi chê cười kẻ khác. Vả lại danh giá của em sẽ tùy thuộc vào tiền tài vật chất kiếm được... Anh Dũng, chưa có ngày nào em biết được đời sống bình thường giữa hai vợ chồng... Tại sao cái hỏng nó cứ lan từ chuyện này qua chuyện khác? Làm như em chưa trả nợ đủ...
Hắn ngừng nhìn người đàn bà. Mắt cũng không chịu nổi những đốm màu sắc quá nhiều trên chiếc khăn bàn. Những lời của nàng dần dần bị chặn lại. Hắn tìm kiếm những tiếng động chung quanh thay thế cho lời nói đang tắt lịm. Nhưng quá trễ, chỉ còn im lặng cho một tiếng khóc nhỏ. Thúy khóc như hồi nào, những giọt nước mắt vẫn thế, thời gian đã chẳng làm được gì.
Khi hắn ngẩng mặt lên, thắng bé đã đến cạnh mẹ, nhìn mẹ không hiểu. Thúy ôm con vào lòng, môi nàng lạc trong tóc nó, hai bàn tay run rẩy trên thân thể đứa bé. Hắn muốn những giây phút đi qua thật chậm để tiếng nấc bớt đi, nhịp thở đều trở lại. Hắn ra đứng cửa sổ, nghe sau lưng người mẹ thủ thỉ với con. Cu thấy mẹ khóc xấu không, mỗi lần cu khóc cũng vậy, mắt nhòe, mồm mếu máo, mũi xụt xịt, ai mà thương được, thể nào bác Dũng cũng cười, làm như thời con gái, đụng một tí là nước mắt nước mũi tuôn ra, mẹ khóc cu ngạc nhiên, lâu lắm rồi mẹ không khóc phải không, tại lỗi bác Dũng, không, tại lỗi mẹ, trước đây mẹ làm bác Dũng buồn lắm, bác Dũng buồn ra sao thì mẹ con mình không đoán được đâu. Một lúc sau thằng bé vào lại phòng trong, hắn trở về chỗ ngồi.
- Bây giờ tháng tám, ở Paris chắc dễ chịu lắm anh nhỉ. Xe không còn kẹt trên đường phố, chỗ đậu xe không mất tiền, các xí nghiệp cơ quan vắng người làm việc tà tà.
- Tháng này bên đó những kẻ ngủ đường ngủ chợ bị đuổi ra khỏi trung tâm thành phố, để du khách Mỹ, Nhật, Đại Hàn có chỗ chụp hình. Rạp xi nê và chương trình ti-vi chỉ toàn phim Mỹ hạng bét, đã chiếu cả chục lần.
- Anh đúng là ông Tây, lúc nào cũng càu nhàu.
- Thúy hồi đó cũng chê nước Pháp. Đứng đưới tháp Eiffel nguy nga thì hỏi "Chỉ có vậy thôi à?" Ngồi trước những món ăn tinh tế, rượu nổi tiếng của Pháp lại thèm rau muống xào và nước mía. Đi thuyền ruồi trên sông Seine thơ mộng cứ ngáp ngắn ngáp dài và hỏi giờ.
- Đó là để chọc tức anh đấy! Chứ nước Pháp của anh cũng không đến nỗi nào. Paris của anh là thủ đô văn hóa của cả thế giới. ở đó, anh đã dẫn em đến những mảnh đất nghệ thuật em chưa từng biết. Em không biết chọn giữa cái lãng mạn của nhạc cổ điển và cái huyền ảo của nhạc jazz. Em theo anh đi từ hội họa ấn tượng vào trừu tượng. Em kéo anh vào các nhà thờ cho anh thấy khác biệt giữa những thời đại kiến trúc roman, Renaissance và baroque mới học được. Em chưa khám phá xong các vở opéra muôn thuở thì đã bị quyến rũ bởi những cái đẹp lạ lùng trong lãnh vực múa hiện đại...
- Nhưng ở phố Tàu của Paris nước phở nhạt thếch. Món ăn nào cũng thiếu đủ thứ gia vị.
- Đâu cần, chúng mình có thể đi ăn pizza của ý, couscous của ả Rập, paella của Tây Ban Nha, hưởng chút hương vị của những góc trời xa lạ với em. Paris là một địa cầu thu nhỏ, em nhớ khu Belleville đầy màu sắc, nơi chung sống của người Tàu, người Do thái, người ả rập, người Phi châu...
- ở thành phố đó suốt ngày thần kinh mình căng thẳng. Đến giờ tan sở phải chọn lựa: hoặc ra đường hít vào người không khí ô nhiễm của rừng xe hơi, hoặc chui xuống đất lấy métro với nỗi sợ có bom khủng bố.
- Anh cứ nói vậy! Em còn nhớ chúng mình đón mùa hoa nở ở Jardin des Plantes. Có buổi chiều chúng mình bước theo nắng hạ dọc con kênh Saint-Martin. Khi lá cây đổi màu là lúc đi hái nấm trong rừng Senart. Mùa đông vừa ngồi nhìn tuyết rơi vừa ăn những trái marrons nóng hổi.
Người thiếu nữ hồi đó đến với hắn như một mùa mới lạ. Không gian thu lại ở hiện diện của một người, thời gian ngừng bám vào bước chân của từng ngày. Mùa đó, có lời nói êm dịu hơn im lặng, có đôi mắt dẫn về một vùng trời trong sáng, có những ngón tay biết làm rung động làn da. Quê hương theo Thúy đến tận chỗ sống của hắn, một người khách bất ngờ đã lâu hắn không còn chờ. Đã qua rồi những năm hắn gửi hết đam mê về một đất nước sôi động. Việt Nam chỉ còn ở trong hắn như một ký ức. Một nơi cất giữ tuổi trẻ, những giấc mơ và vết tích của một lý tưởng. Rồi với Thúy, Việt Nam chợt gần gủi như cái giọng con gái Hà Nội gắn bao nhiêu tuyệt vời vào câu nói. Việt Nam thực tế như vui buồn của những con người chung một thân phận. Việt Nam đẹp như một sự thật xác xơ nhưng tinh nguyên ở giữa đất lạnh lẽo của văn minh. Thúy đã vào đời hắn bất ngờ. Nhưng chắc gì cuộc gặp gỡ này là một nhầm lẫn trong sắp xếp của những số phận. Biết đâu ngày đó đã được định từ đầu trong hành trình của hắn. Như những giòng máu trong người từ khi bắt đầu chảy đã tìm lối trở về nơi ra đi.
Người đàn bà và hắn nhắc lại những tháng ngày tưởng như một hạnh phúc. Thời gian độ lượng, trả lại một vài hình ảnh cũ để họ ngồi cười với nhau. Họ giành nhau những câu chuyện chưa quên, mỗi lần lại ngạc nhiên về trí nhớ của người nghe. Họ cười những gì đâu đâu. Hồi đó làm sao con gái trưởng giả của thủ đô Hà Nội mà lại quê mùa như vậy! Và cái anh chàng điệu bộ sành đời sao lại vụng về dại gái đến thế! Ai tham lam đòi cả Paris cho riêng hai người? Ai vô ý để mặt trời quê hương chan hòa vào những giấc ngủ đêm?
Những chuyện để vui thôi. Không có những lần buồn bất chợt, thất vọng, giận ghét, chán đời. Không có cái đêm người thiếu nữ chạy khóc ngoài đường phố. Không có nỗi đau làm người đàn ông một hôm ngồi bất động cả giờ trong xe. Coi chừng đừng ai nhớ những niềm vui từ đâu đến, có một tình cảm ngày hôm nay không được quyền nhắc tới. Cười quá khứ đi để giữ nó xa hiện tại. Bảy năm rồi, Thúy và hắn đã là hai con người khác, chỉ nên vẽ lại một đóa kỷ niệm chọn lọc.
Dù sao, im lặng sau đó có gì như một sự thông cảm giữa hai người đối diện. Một hồi sau người đàn bà nói:
- Có người tả đời sống như một cuộc chạy đua về hạnh phúc. Trong cuộc đua này anh và em khó mà theo kịp số đông! Chúng mình trễ lắm rồi, bỏ cuộc lúc nào không hay.
- Vẫn còn may mắn hơn nhiều người. Đất nước này đã có biết bao nhiêu thảm họa. Có những mất mát tính bằng máu xương, bằng nhân phẩm. Có những tàn tật vĩnh viễn trên thể xác và trong đầu người. Chúng mình đã thoát được tất cả những cái khổ đó.
- Nhưng, anh Dũng, làm cách nào để quen được với ý nghĩ hạnh phúc ở ngoài tầm với?
- Anh không biết. Có lẽ những niềm vui nhỏ kết vào nhau cũng mang lại một ý nghĩa nào đó cho những tháng ngày. Hay những ước muốn khiêm nhượng. Anh nghĩ lúc nào cũng cần tìm cho mình một cái gì để chờ đợi.
Chiều đã muộn, ánh sáng không còn đủ trên khuôn mặt người đàn bà. Hắn nói trước khi về:
- Thúy, chúng mình không hiểu những chuyện đã xảy ra. Có gì dữ dằn ở trong đó. Nhưng nhất định phải tự nhắc nhở một điều, chỉ một điều thôi. Đừng sợ cuộc sống.
Thúy đứng lâu ở cửa khi hắn ra đi. Con ngõ đầy mùi xào nấu, người ta đã bắt đầu chuẩn bị bữa cơm tối.
Vũ Hồi Nguyên
&&&
Sự Trả Thù Của Tiềm Thức
Thực là những giấc mơ kỳ lạ, kỳ lạ hơn nữa là nó cứ lập đi lập lại mãi. Chưa bao giờ Quyền gặp trường hợp đặc biệt như thế này. Ban đêm Quyền vẫn thường nằm mơ, mỗi giấc mơ mỗi khác, sáng ra thì trừ những sự việc, hình ảnh đặc biệt, hầu hết đều không nhớ lại được. Lần này thì khác nó lập đi lập lại mãi một tình tiết khó chịu .
Có khi Quyên thấy mình đang ở trong rạp hát. Khi đèn đuốc còn sáng trưng và ngưòi ta rất đông bỗng nhiên Quyên phát hiện ra một điều không thể tưởng tượng nổi là chàng áo mão chỉnh tề nhưng bên dưới lại không mặc quần ! Cũng may chưa có ai hay. Thực là khó xử, biết làm sao chuồn khỏi chỗ này ? Và thế là Quyên vùng thức dậy, lúc đã thức, cảm nghĩ đầu tiên là mừng vì sự việc chỉ có trong mơ, song sự xấu hổ vẫn còn vương vấn không chịu tan . Hoàn cảnh giấc mơ đổi mới luôn luôn có khi Quyên cảm thấy đang tham dự buổi hội nghị quan trọng, lúc thì đang ở giữa chốn bạn bè, lại có lúc đang đi giữa chốn phố phường đông ngưòi . Tóm lại là tình huống có thay đổi song nội dung chính vẫn là cái cảnh ở truồng chỉ có một mình mình biết.
Sau giấc mơ Quyền nằm mãi, trằn trọc, cố giỗ giấc ngủ nhưng không được. Cuối cùng phải ngồi dậy, uống nước, hút thuốc, chờ sáng. Quyên suy nghĩ rất nhiều nhưng không làm sao cắt nghĩa được hiện tượng này . Quyên nghĩ, hay là hai chân bị lạnh, trống trải nó tạo ra giấc mơ này ? Tới lúc leo lên giường Quyên mặc hai quần dài. Cũng chẳng kết quả, giấc mơ vẫn cứ hiện ra. Thất bại này làm Quyên đâm ra nghi ngờ những suy luận dựa trên cơ sở khoa học. Quyên ngã sang hướng mê tín. Việc đầu tiên Quyền cố tìm mua mấy quyển sách đoán điềm giải mộng thử xem giấc mộng báo hiệu điềm may rủi, hung cát thế nào. Chàng đi lục tìm trong mấy nơi bán sách cũ được một số mà các tác giả viết ra nó thường tự xưng là chiêm tinh gia nổi tiếng, các giáo sư tốt nghiệp khoa bói toán hiện là thành viên của các hiệp hội chiêm tinh quốc tế (!). Đọc những lưòi tán dương đó Quyên thây rất yên tâm tin tưởng. Trước tiên có sách viết:"Mơ thấy mình thân thể loã lồ là do huyết mạch chẳng lưu thông tốt". Quyên nghĩ : Nếu chỉ vì máu huyết không lưu thông tốt tại sao không thấy ác mộng, thấy ma quỉ mà chỉ thấy rặt một thứ mơ mộng lạ lùng đó ? Lại còn sách bàn :"Nằm mơ thấy mình trần truồng là điềm báo hiệu công việc làm ăn sắp gặp khó khăn, thua lỗ trắng tay...". Đọc xong Quyên càng phân vân. Cái thân làm viên chức nhà nước, lương ba cọc ba đồng, công ty có thua lỗ cũng mặc kệ nó, đã có bao cấp, ăn thua gì đến mình . Lời giải kiểu này cũng chẳng đáng tin . Có sách nhất quyết cho rằng:"Nằm mơ thấy mình y phục không tề chỉnh xuất hiện chốn đông người là điềm báo hiệu sẽ mang tai tiếng, có khi mất hết cả danh dự. Coi chừng bị kiện tung ". Lời giải đáp này nghe có vẻ hữu lý, Song Quyền nghĩ mình chỉ là anh công chức quèn, cái ghế , chẳng có ma nào tranh giành, ngoài đồng lương chết đói chẳng có bổng lộc gì, có muốn tham ô tham nhũng tí ti cũng chẳng được . Đời sống của một thanh niên độc thân không tốt, không xấu làng nhàng như chàng thì tiếng ở đâu ra ? Kiện tụng chuyện gì với ai ? Vả lại xưa nay Quyền vốn là người dĩ hoà vi quý.
Vậy là tóm lại mặc dù sách vở đã tự xưng là đúc kết kinh nghiệm đông tây kim cổ chẳng đáng tin. Trong thời gian đó những giấc mơ kỳ quặc khó chịu vẫn liên tục xuất hiện. Quyền tìm đến bạn bè hỏi thăm, lại một người một ý. Có người nói mộng và thực thường đối nghịch nhau. Ví nằm mơ thấy được của thì coi chừng hao tài. Trường hợp này họ nói : "Thôi mừng rồi, trong mơ thấy trần trụi thì ngoài đời nay mai áo mão xênh xang, lên lương lên chức, cuộc đời lên hương !". Nghe thì mừng nhưng chẳng có cơ sở để tin. Quyền có dự tính kinh doanh, có mộng ước tiến thân vào đâu mà chờ đợi thành công ? Hoạ may là trúng số, ngán nổi chẳng bao giờ Quyền mua vé số. Có người luận bàn :"Oi trần truồng thì nghĩa lý gì. Con người sinh ra tay không, chết đi tay không. Trần truồng trong mơ lại chẳng đáng ngại, có ai nhìn thấy đâu? Cứ yên trí đi, sống hồn nhiên . vui vẻ ăn chơi..."
Nói tới ăn chơi thì Quyền đã vui chơi từ lâu rồi. Thời gian gần đây Quyền có quen một cô gái tên là Hợp. Hợp đẹp và biết yêu lắm. Hai người đang có những ngày vui. Tuy thế có lần Quyên nghi Hợp phản bội chàng , chung đụng với người khác vì trong mái tóc rối đầy nghệ thuật của nàng Quyên ngửi thấy phản phất cái mùi rất lạ, gọi tắt là mùi đàn ông. Nó là tổng hợp của mùi thuốc lá, xà phòng cạo râu và mồ hôi. Quyền còn đang ôm hôn vội buông ra :
- Có người nào vừa ôm em phải không ?
Hợp chối dài :
- Anh điên à ?
- Không điên đâu, tôi tinh lắm .
- Căn cứ vào đâu mà anh cho rằng tôi đi lại với người khác ?
- Người cô đầy mùi thuốc lá, mùi đàn ông !
- Thính mũi nhỉ, nhưng dễ hiểu thôi. Chỗ em làm việc đầy đàn ông, chàng nào cũng hút thuốc giống như ống khói tàu hoả. Hôm nay trời rét, người ta không dám mở quạt lại đóng kín cửa kính, khói không thoát ra được, khói thuốc quyện lấy chất dầu trên mái tóc của em. Anh là nhà khoa học anh không biết chất béo là thứ bắt mùi rất nhanh hay sao ?
Lời giải thích của nàng nghe rất có lý. Nhưng đã có lần Quyền trông thấy nàng mang nhẫn cưới. Quyền hỏi, Hợp nói :
- Em có chiếc nhẫn vàng tây năm phân, không biết cất ở đâu, phải mang, chỉ có ngón áp út trên bàn tay trái là vừa, mới lại ngón nào mà chẳng được .
Lại có lần Quyền thấy trong phòng có có cái núm vú cao su gắn với vòng nhựa màu đỏ. Thấy Quyền nhìn vào cái vật dụng cho trẻ con. Hợp giải thích :"Chị Diệu mới bế con qua chơi, thằng bé đánh rơi". Tuy thế Quyền vẫn cảm thấy cô gái này có điều gì rất quan trọng , rất bí mật muốn giấu mình. Nhất là mỗi khi Quyền cầu hôn, Hợp đều hẹn một thời gian sau nữa khi thì với lý do này, lúc lý do khác. Hợp không cho Quyền tới nhà khi chưa có hẹn trước. Nàng nói :"Em thường đi công chuyện vắng nhà nên rất khó gặp, mới lại coi chừng an ninh khóm họ để y". Cũng có khi Hợp vắng nhà ba bốn ngày, lúc trở về nàng nói : " Về quê thăm gia đình ". Tất cả những lời giải thích này nghe tương đối hợp lý. Quyền tạm tin như thế. Đến đây thì cái tính bữa bãi và cuộc sống buông thả khiến Quyền nghĩ liều : Thôi thì có người yêu, có con, thậm chí có chồng cũng chẳng sao miễn nàng dâng hiến cho mình trọn vẹn thân xác và tâm hồn là đủ. Riêng về chuyện ái ân thì người phụ nữ này rất tuyệt vời . Chung chạ với nàng còn hơn đi chốn lầu xanh vừa tốn tiền lại lo bệnh hoạn. Quyền tự trấn an mình bằng lối nghĩ đơn giản như thế. Từ khi nghe mấy người bạn khuyên nên vui sống và ăn chơi, Quyền lại lao vào cuộc truy hoan dữ dội hơn nữa. Thời kỳ này cũng là lúc những giấc mơ hổ thẹn xuất hiện nhiều hơn cả .
***
Sách vở bạn bè đều chưa giải đáp được giấc mơ lạ. Quyền nghĩ thời buổi này là thời của những tiến bộ khoa học kỹ thuật. Có nhiều tiến bộ kể cả lĩnh vực đào bới tâm linh. Vậy thì tại sao không đi gặp các nhà chuyên môn? Những bác sĩ tâm thần học? Họ sẽ soi rọi giấc mơ bằng ánh sáng khoa học để tìm thử xem trong chốn tâm linh thăm thẳm mịt mù huyền bí đó có cái gì đẻ ra giấc mơ kỳ cục này chăng ?
Quyền đến gặp một ông bác sĩ. Có lẽ nhờ ông ta là bạc sĩ không nổi tiếng, ít khách hàng nên ông ta dành cho Quyền suốt cả một buổi chiều. Ông có một ưu điểm lớn là chịu khó ngồi yên nghe Quyền khai bệnh một cách dông dài tỉ mỉ . Ông không hề ngắt lời , cũng chẳng hỏi han, xong, ông làm nhiệm vụ của mình. Trước tiên ông nghe tim phổi , gõ vùng bụng, khám răng họng lưỡi, vạch mi mắt ra xem, soi hai lỗ tai, thử phản xạ đầu gối ... Quyền không hiểu tim phổi răng đầu gối có liên quan gì tới giấc mơ? Cuối cùng Quyền nhận được toa thuốc rồi chào ông bác sĩ ra về. Từ đầu tới cuối ông ta không mở miệng nói một lời nào. Quyền tự nhủ: Rủi cho mình gặp phải bác sĩ câm. Tội nghiệp làm ăn ế ẩm như ông ta làm sao đủ nuôivợ con. Cầm toa thuốc trên tay Quyền khấp khởi mừng thầm . Uống thuốc vào, đêm đầu tiên chàng ngủ li bì. Giấc ngủ kéo theo bao nhiêu là mộng mị khó chịu. Đêm sau Quyền không dám uống thuốc nữa. Thà thức trắng còn hơn bị kẹt giữa những giấc mơ trần truồng hổ thẹn như mắc vào rừng gai không lối ra.
Có người bày Quyền tìm đến bác sĩ chuyên khoa tâm bệnh. Trước khi đặt chân Quyền tưởng tượng sẽ được đối diện với một nhà bác học với rất nhiều máy móc y cụ tối tân. Nhưng sự thực hoàn toàn khác hẳn. Phòng khám bệnh trống trơn còn ông bác sỉ trông như diễn viên hài kịch. Thực là một cuộc khám và chữa bệnh rất vui . Không cần hỏi han gì cả, ông bác sĩ rủ chàng chơi một trò phân tâm học. Ông ta lấy một tờ giấy trắng nhỏ vào đó nhiều giọt mưc khác màu rồi gấp tờ giấy làm đôi. Những giọt mực chưa khô hoà trộn với nháu thành ra những hình ảnh quái dị đối xứng nhau. Xong ông đưa cho Quyền xem, ông bảo :
- Hãy xem cho kỹ, thấy hình ảnh gì không ?
Quỳnh chăm chú nhìn xem bức tranh loang lỗ và hoàn toàn do sự ngẫu nhiên mà hình thành . Quyền quan sát thật kỹ vẫn chẳng nhìn thấy hình ảnh gì rõ rệt. Cuối cùng chàng nói bừa "Tôi trông thấy một con bướm đậu trên bông hoa". Ông bác sĩ "à" lên một tiếng thực to giống như đã nắm được căn nguyên sinh bệnh .Ông kết luận một cách chắc nịch :
- Đầu óc anh đang chịu một sự ẩn ức sinh lý cực mạnh. Cần phải giải toả gấp vì sắp nổ tung! Nếu không điên loạn , nguy hiểm đến tính mệnh!
Mặc dù quyền không hiểu "ẩn ức sinh lý " là gì nhưng nghe nguy hiểm đến tính mệnh Quyền hết hồn, hỏi :
- Thưa bác sĩ "ẩn ức sinh lý" là gì ?
- Là sự đòi hỏi về sinh lý mà không được giải toả .
- Giải toả bằng cách gì ?
- Cưới vợ gấp, nếu không thì cũng phải tìm tới mấy cái động mà trút!
Quyền thầm nghĩ cái trò phân tâm của ông chắc có điểm nào trục trặc rồi, cuộc trắc nghiệm đưa ra kết quả chàng bị ẩn ức sinh lý là sai bét. Phải nói rằng từ ngày dan díu vơi nàng Hợp thì không những không bị ẩn ức , mà còn lạm phát sinh lý tới mức mấy thầy lang bắt mạch cho chàng đều lắc đầu than : suy thận, dương kiệt, hết thuốc chữa! Nhưng dù sao cũng phải cám ơn ông bác sĩ với trò chơi thú vị nầy, Quyền nói :
- Cảm ơn bác sĩ đã chỉ dẫn, tôi dù chưa vợ nhưng hiện tại cái vụ đó tôi đang bị khủng hoảng thừa chứ không phải thiếu. Tôi và người yêu tôi tuy không được ai nhắc nhở đôn đốc nhưng từ ngày đầu mới quen nhau, chúng tôi đã siêng năng, tận tuỵ làm vịêc triệt để !
***
Quyền đem chuyện giấc mơ kể cho Hợp nghe. Những người khác mỗi khi nghe thường tỏ ra thích thú vì tính chất kỳ dị của nó và hỏi han thêm nhiều chi tiết đồng thời bắt Quyền kể đi kể lại nhiều lần. Chỉ riêng có Hợp là người duy nhất nghe xong câu chuyện chẳng tỏ ra ngạc nhiên. Nàng nói :
- Một thời gian ngắn nữa anh chẳng còn mơ .
- Sao em biết ?
- Em đoán thế !
Quyền tưởng Hợp nói để an ủi mình. Chàng cũng không hỏi lại cặn kẽ. Bẵng đi một thời gian dài Quyền và Hợp không gặp nhau. Khi gặp lại Hợp nói thời gian qua vắng mặt để giải quyết công việc riêng. Một hôm Hợp tới thăm thấy Quyền ngồi ủ rũ sau nhiều đêm mất ngủ. Hợp vui vẻ nói :
- Xong rồi, tối thứ hai này anh sẽ ngủ rất ngon .
Hợp nói có vẻ chắc chắn. Quyền nghĩ cũng chỉ là lời an ủi. Thế rồi cái tối thứ hai mà Hợp nói đã đến. Quyền lên giường nằm cố gắng không nhắm mắt để chống lại giấc ngủ nhưng giấc ngủ cứ ập đến. Một điều không thể tưởng tượng nổi, thực là một đêm an lạc! Giấc ngủ ngon lành tuyệt vời chẳng có chút mộng mị nào quấy phá . Giấc mơ trốn biệt một cách bất ngờ cũng như khi nó đến.
Bỗng Quyền giật thót người. Tại sao Hợp nói đúng như thế. Nàng còn giỏi hơn cả sách vở, bác sĩ. Vậy giấc mơ tai ác thế nào cũng có liên quan tới cô gái này. Quyền tìm đến Hợp để hỏi cho ra lẽ. Vào nhà Hợp lần này Quyền trông thấy quang cảnh hoàn toàn khác trước. Trong nhà có đông người. Hợp thấy Quyền đến giống như đang chờ chàng để tiết lộ đoạn kết của vở kịch. Nàng giới thiệu :
- Con em, nàng chỉ vào đứa bé cỡ một năm rưỡi. Còn đây là luật sư của em, nàng chỉ vào một người đàn ông ăn mặc sang trọng, tay ôm tập hồ sơ. Và kia là người chồng cũ của em. Chúng em vừa ly dị ở toà án sáng thứ hai vừa qua. Quyền thấy một người đàn ông thoạt trông có vẻ hiền lành cục mịch và rất đáng thương.
Quyền đưa tay bắt tay người chồng cũ của Hợp. Anh này có bàn tay chai như đá, bẽn lẽn ngượng ngùng, chắc đây là lần đầu tiên anh bắt tay . Bây giờ thì Quyền đã hiểu tất cả .
Chính vào sáng thứ hai, khi ông chánh án nhân danh nhà nước đọc bản án cho hai người ly dị, nghĩa là tới giây phút đó pháp luật, đạo đức, xã hội cất cho nàng cái gánh nặng làm vợ, trong đó có nghĩa vụ lớn nhất là chung thuỷ không được ăn nằm với bất cứ người đàn ông nào, đồng thời cũng cất cho Quyền cái tội tòng phạm, thì giấc mơ kia cũng không thể tới hành hạ chàng nữa . Bởi thế tối thứ hai vừa qua Quyền đã có một đêm an lành .
Té ra lâu nay chàng đi lại ân ái, làm đủ trò với một người đàn bà có chồng, có con được pháp luật, đạo đức và xã hội công nhận. Thực sự ra trong thời gian đi lại này Quyền không biết hay cố tình không biết cái việc làm tệ hại của mình, song trong thâm tâm cái phần vô thức, hay tiềm thức hay cái gì "thức" nữa mà các nhà triết học thường nói nó biết rất rõ hành động xấu xa đó cho nên nó sinh ra cái giấc mơ quái ác hành hạ Quyền cho bỏ ghét cái tính muốn chối bỏ sự thực .
Nhưng sự việc lại không dừng lại. Con người thường đi quá đà. Nó như quả lắc đồng hồ dao động từ cực này sang cực kia. Giấc mơ cũng di chuyển từ cực tả sang cực hữu. Từ chỗ mơ thấy mình tràn truồng như nhộng thì giờ đây nó chuyển sang hình thức khác .
Đêm sau Quyền nằm mơ thấy mình đi tắm biển Nha Trang. Quyền thấy chung quanh mọi người đều mặc áo tắm hở hang, Quyền thấy rất chướng và hỗ thẹn thay cho họ. Trong mơ chàng thầm trách: Thực là những kẻ đồi truỵ sống trong một xã hội buông thả! Quyền giờ đây là một kẻ ăn mặc kín đáo nhất thế gian . Đầu chàng đội mũ phớt, mình mặc trong may dô ngoài sơ mi dài tay cài măng sét, cà vạt to bản, ngoài nữa là chiếc veston màu đen, thứ người ta đi dự đám ma, khúc dưới trong xì líp ngoài quần đùi, ngoài nữa là quần tây dài như mo. Quyền thấy thế vẫn chưa đủ, hai bàn chân vẫn còn trống trải nhột nhạt khó chịu, chàng phải mang tất kéo cao lên tới gối diện giày cuya đánh bóng .
Quyền đạo mạo và trịnh trọng bước từng bước từ từ xuống nước. Trong mơ cái "vía" của chàng nó nói :"Con người đường hoàng phải ăn mặc chỉnh tề như thế này mới đi tắm được ".
Quý Thể
****
Chữ Tình
Quý Thể
Ngồi trước hai con người đặc biệt này tôi mới thấm thía cái câu " vợ chồng do duyên số". Đây đúng là một cuộc xếp đặt quái dị của ông Tơ bà Nguyệt. Một người đàn bà xinh đẹp trẻ trung duyên dáng, nhân hậu, một phụ nữ nói năng nhỏ nhẹ, tế nhị, nàng tiên, niềm mơ ước của mọi người đàn ông, như thế lại đi lấy một thằng cha hình thức thì già nua xấu xí, tướng tá bần tiện, ăn mặc như một tên ăn xin. Còn tư cách thì chỉ cần vài lần tiếp xúc cũng chỉ biết dùng cái từ "một gã vô lại" để chỉ hắn. Thế mà trong vụ kiện dân sự này hắn lại là nguyên đơn. Hắn nộp đơn xin li dị cô vợ tuyệt vời của mình.
Lúc đó tôi mới hai mươi lăm tuổi, một ông toà tài giỏi, bằng cấp cao, trong ngành tôi là người trẻ nhất nước, làm công việc đáng lẽ ra phải là của một người có tuổi từng trải, nhiều kinh nghiệm sống, việc ngồi thẩm định xét xử, quyết định số phận nhiều con người, một việc vô cùng hệ trọng và rất khó khăn này. Tôi tưởng mọi sự trên cõi đời tôi đều đã thông thạo. Ai dè sự đời chẳng đơn giản như tôi tưởng. Trong vụ án này tôi cứ băn khoăn mãi tại sao lại có người vứt đi cái của báu trời cho như lão này? Hôm nay tôi mời hai vợ chồng lại hoà giải lần thứ hai, lần cuối cùng. Tôi hỏi hắn:
- Tôi xem đơn thấy ông nại cớ vợ không yêu thương mình nữa nên nộp đơn xin toà cho li dị. Nhưng tại sao chị này khăng khăng nói vẫn còn yêu thương ông?
Hắn trả lời, giọng khô khốc, không chút tình cảm:
- Ra toà cô ta khai thế. Trong bụng nghĩ khác...
- Ông nghi ngờ vợ yêu người khác sao?
- Không!
- Cô ta khai như thế để làm gì?
- Để toà không chấp nhận li dị.
- Theo ông cô ta muốn duy trì cuộc hôn nhân này làm gì?
Hắn đáp rất lơ đễnh:
- Cái đó ai mà biết...
Hắn còn muốn nói gì đó nên ngập ngừng. Sau thì đổi ra lý do khác, nói:
- Hai người tính tình không hợp nhau.
Tôi nói, pháp luật không công nhận lí do không hợp tính tình để xin li hôn. Không ai bắt buộc anh chị lấy nhau, cuộc hôn nhân đặt trên cơ sở tự nguyện và mọi cuộc hôn nhân đều bắt đầu bằng các giai đoạn gặp gỡ, tìm hiểu, yêu thương và tiến tới hôn nhân. Tìm hiểu nghĩa là tìm biết tính tình của nhau, thấy hợp mới lấy. Vậy nên không thể nói vì không hợp nên đòi để bỏ.
Hắn nghe thế đuối lí, chuyển thành lí do khác:
- Cô ta sống với tôi gần mười năm, không con. Không lẽ tôi tuyệt tự. Người xưa có nói: " Bất hiếu hữu tam, vô hậu chi đại"
Tôi nói:
- Pháp luật cũng không công nhận lí do vợ không con mà ruồng rẫy. Biết đâu lí do không con thuộc về người chồng?
Tôi thấy người vợ quay mặt đi, cố không cho người khác thấy mình đang đau khổ tột cùng, sắp khóc. Cô ta cúi xuống lấy khăn tay trong ví chậm đôi mắt rất đẹp, ngước lên, đỏ hoe, giọng nói đầy nước mắt. : "Thưa toà, tôi có sinh, sinh ba lần nhưng đều không giữ con được, các bác sĩ nói vợ chồng tôi có loại máu mang yếu tố Rhesus âm dương gì đó, không có con được. Tôi hỏi chữa được không? Họ nói không."
Hắn cướp lời:
- Không khí trong nhà lúc nào cũng ngột ngạt như địa ngục, chịu không nổi.
- Lí do gì?
- Đủ thứ, chuyện vặt vãnh đàn bà. Chuyện rất nhỏ cũng xé thành to. À, mà còn có cả chuyện ngoại tình!
Tôi hỏi:
- Ông nghi vợ ngoại tình sao? Có bằng chứng gì không?
Hắn tỏ tra vô cùng lúng túng. Người vợ đỡ lời:
- Có một thời gian gia đình tôi lộn xộn vì việc chồng tôi ăn chơi trác táng...
Tôi thấy hắn không phản đối, tôi biết vợ nói đúng. Tôi vừa tức cười vùa giận thằng cha này. Tôi hỏi :" Ngoại tình là anh hay chị?" Hắn không nói, tôi biết thủ phạm chính là hắn. Nhân đây tôi muốn dạy hắn một bài học về pháp luật:
Pháp luật có một nguyên tắc bất di bất dịch: Không thể nại ra lỗi của mình để yêu cầu quyền lợi. Tôi biết hắn không thể nào hiểu, tôi giải thích : Ví dụ, không thể nói vì mình sơ xuất không đếm tiền nên thiếu, đi kiện để đòi đền bù. Anh cũng không thể nêu lí do vì anh trai gái nên gia đình lộn xộn để xin toà cho li dị chị này. Làm như thế dễ quá, muốn bỏ vợ chỉ việc đi trai gái !
Hắn cố cãi:
- Chuyện có gì đâu mà cô ấy làm ầm lên.
Vợ:
- Kính thưa toà, tôi có nói đôi lời. Tôi biết lỗi mình không con, nên đồng ý cho chồng đi kiếm con, miễn là người tử tế, đừng dây vào bọn gái ăn sương...
Nghe nói thế hắn cười khẩy, nói :
- Ôi thế ra lâu nay tôi sống với một bà thánh mà tôi không hay !
Hắn nhìn lên trần cười, cái cười vô nghĩa, vô duyên. Đã quá mười hai giờ trưa, tôi kết thúc biên bản hoà giải bất thành, dặn hai người trở về suy nghĩ lại cẩn thận. Sáu tháng sau toà đưa ra xử. Hắn tỏ vẻ bất bình, nói:
- Kể từ ngày nộp đơn, đến nay, gần giáp năm. Nay thêm sáu tháng nữa vị chi năm rưỡi. Một vụ kiện li hôn cỏn con như thế mà kéo dài một năm rưỡi, làm ăn chậm như rùa, hành hạ dân vừa vừa chứ!
Tôi giận lắm nhưng không được phép tỏ thái độ. Tôi nhẫn nại giải thích:
- Không phải con rùa hành chính, cũng không phải luật lệ bày đặt ra như thế để hành người đi kiện. Đây là sự cẩn trọng của pháp luật. Luật tố tụng dân sự buộc thế. Thụ lý đơn xin li hôn không thể đem ra xét xử ngay, phải trải qua một quá trình lâu dài, hai lần hoà giải cách nhau sáu tháng, hoà giải không thành mới đem ra xét xử cho li hôn hay không.
Hắn lại cười khẩy:
- Thế không hành hạ đương sự là gì?
Tôi nén giận:
- Vợ chồng gây gổ nhau là chuyện thường ngày, chồng lỡ tát vợ một cái, vợ lỡ lời hỗn hào chồng một câu, trong cơn nóng giận đâm đơn ra toà, toà cho li dị ngay thì chẳng mấy chốc, chẳng còn gia đình nào. Vợ chồng bất đồng chào xáo là chuyện thường. Ban ngày có thể xung đột, tối lại lên giường, xoay qua trở lại, đụng chạm nhau, làm lành ôm ấp hôn hít hoà giải hết cả giận hờn, rồi đâu lại vào đó... Thành ra pháp luật buộc hai vợ chồng phải qua một giai đoạn dài với hai lần hoà giải của toà mà vẫn thấy không thể chung sống được với nhau, toà sẽ cho li dị. Nghe cho li hôn hắn hí hửng ra mặt, đứng lên bỏ đi, không một lời chào hỏi. Chị vợ buồn bã thất vọng, đứng lên, lễ phép cúi chào bước ra, nhẹ nhàng khép cửa lại.
Hai người ra khỏi phòng tôi. Tôi bâng khuâng, chưa muốn về. Đời chẳng đơn giản như tôi nghĩ...Mùa này cây lộc vừng trong khu vườn toà án Buôn Ma Thuột ra hoa. Lộc vừng là loài cây thân gỗ cao lớn, tán toả rộng che mát cả khu vườn toà án, ngọn vươn cao tới mái pháp đình. Hoa lộc vừng màu hồng nhạt phủ đầy ngọn cây, mỗi hoa trông như một túm lông tơ màu hồng. Những bông còn tươi màu sao đã vội lìa cành? Chung quanh gốc đầy xác hoa. Tôi phân vân không biết giải quyết vụ li hôn này ra sao? Không phải tôi chủ quan, suy nghĩ nông cạn. Làm nghề này không được phép mắc sai lầm. Tôi nghĩ, mình mới tiếp xúc người chồng có mấy giờ, mình nhận xét về hắn đã công bằng chưa? Người vợ đã sống với hắn mười năm, đàn bà vốn tinh tế, họ chẳng bao giờ nhầm trong việc xét người...Thế nhưng tôi vẫn thấy rất khó quyết định. Cái lão đó không thể là người tốt được. Chấp nhận đơn xin li hôn của người chồng để giải thoát một người phụ nữ tốt đẹp ra khỏi cuộc hôn nhân bất hạnh. Hay bác đơn, theo nguyện vọng cô vợ ? Cuối cùng tôi quyết định cho li hôn để giải thoát người đàn bà tội nghiệp. Có thể cô ta sẽ đau khổ, đau một lần rồi thời gian sẽ làm lành những vết thương, cô ta trẻ đẹp, lo gì cô ta không có cuộc tình mới, người đàn ông khác tốt đẹp hơn thay thế cái lão đáng ghét, đáng khinh bỉ kia. Tôi ví cuộc hôn nhân này như chiếc răng sâu làm đau khổ người vợ một cách dai dẳng. Chịu đau một lần nhổ bỏ nó đi. Có lẽ lúc đầu cô vợ sẽ oán trách toà. Nhưng về sau thế nào cô ta cũng hiểu cho tôi, về một quyết định khó khăn này. Tôi, một thanh niên mới hai mươi lăm tuổi, lúc nhỏ sống với cha mẹ, ăn học, lớn lên đi làm, cuộc đời gặp toàn sự may mắn êm ả, dễ dãi, chưa có chút kinh nghiệm sống đắng cay nào cả. Tôi đã suy nghĩ, đã tưởng mình quyết định như thế là đúng. Tôi đã có định kiến, không ai thay đổi được. Tôi hành động đúng lương tâm, pháp luật, nghĩ như thế, tôi thanh thản ra về.
***
Công việc án từ bận rộn quanh năm, vụ này giải quyết chưa xong đã phát sinh vụ khác. Tất cả vụ án dân sự, hình sự đều khó khăn phức tạp. Không có vụ nào đơn giản như trong những bộ luật đã qui định. Khi tôi đã gần như quên cặp vợ chồng kia thì họ xuất hiện. Trước toà lời khai và thái độ của cả hai không thay đổi. Người vợ vẫn một mực nói yêu thương chồng, anh ta là người tốt, lý tưởng, hiếm có trên đời. Tôi tức cười về việc cô ta gọi hắn là một người hoàn hảo lí tưởng. Còn hắn vẫn đổ mọi tội lỗi lên đầu vợ và tha thiết yêu cầu được li dị để hắn làm lại cuộc sống mới.
Tôi tuyên bố li hôn. Hắn mừng rỡ, đi như chạy ra khỏi toà án. Người vợ ngơ ngác trước quyết định của toà. Phải một lúc sau nàng mới hiểu mình đã thua. Người thư kí toà án phải nhắc cô ta về, cô gái mới nặng nề ủ rũ bước đi như người mất hồn. Rồi bỗng nhiên cô như sực tỉnh đi như chạy theo hắn.
Hắn đi khá nhanh, tách ra hẳn đám đông. Hắn không về nhà mà tiến về phía ngoại ô, nơi có những cánh đồng lúa xanh mơn mởn, dòng sông nhỏ và cây cầu gác ngang. Hắn dừng lại. Hắn giả bộ bình thản, tay đút túi quần, đưa mắt nhìn mông lung lên những áng mây chiều tha thước trên nền trời.
Người vợ, từ lúc rời toà án, đi như chạy theo hắn đến đây, mệt nhọc, thở hổn hển. Kêu:
- Mình ơi !
Hắn lạnh lùng:
- Không còn mình đầu gì cả, tôi với cô giờ đây đã là người dưng nước lã rồi.
- Tại sao mình không về nhà mà lại tới đây?
- Không còn việc gì ở ngôi nhà mà tôi chán ghét đó. À mà có...
Hắn làm bộ như chợt nhớ ra điều quan trọng. Hắn dột ngột quay lại, không nhìn mặt cô gái mà nhìn chầm chập vào bàn tay cô. Người vợ hoàn toàn bất ngờ. Hắn cất tiếng, giọng nói như người xa lạ, khác hẳn ngày thường, đầy sự trơ trẽn:
- Chiếc nhẫn đính hôn tôi tặng cho cô lúc làm lễ ở nhà thờ Núi rất đắt tiền. Thân nhẫn bằng bạch kim nguyên chất, mặt nhẫn là hạt kim cuơng bốn li bảy, giá trị mấy cây vàng. Cả một gia tài. Tôi mua nó cho tới nay vẫn chưa trả hết nợ. Mình chẳng còn là vợ chồng, tháo ra trả lại cho tôi bán lấy tiền trả nợ người ta!
Người phụ nữ kinh ngạc trước đòi hỏi không thể ngờ này. Nàng tỉnh ngộ. À hoá ra hắn theo đuổi kiện tụng, bỏ vợ, phá tan hạnh phúc gia đình cũng bởi cái lí do bỉ ổi này. Không đợi hắn nói đến lần thứ hai, nàng cởi chiếc nhẫn ra.
Mười năm trước bàn tay và những ngón tay cô gái trẻ trung còn xinh đẹp nhỏ nhắn như những búp măng. Lúc ấy nàng vừa từ giã mái trường trung học nữ, bước vào đời với những bước đầu tiên dè dặt khám phá thứ hạnh phúc kì ảo của tình yêu và hôn nhân. Nàng còn nhớ hôm đó trong ánh nến lung linh nhạt nhoà nơi thánh đường, trước mặt vị linh mục thay mặt chúa, và trong tiếng thánh ca dìu dặt. Chồng nàng, một người đàn ông hơi lớn tuổi hơn nàng, không đẹp trai nhưng là một con người đức độ, nhân cách sáng ngời, âu yếm đeo chiếc nhẫn đính hôn vào ngón tay nhỏ nhắn xúc động run rẩy như cánh chim non.
Mười năm sau, đầy nhọc nhằn của cuộc sống công việc nhà, giặt giũ nấu ăn, săn sóc chồng, làm ra tiền nuôi sống cái gia đình tý hon nhưng không thiếu tiếng cười hạnh phúc. Nay tuổi tác, những ngón tay không còn nhỏ nhắn mềm mại như xưa. Những đốt ngón tay gồ lên, không thể tháo chiếc nhẫn ra được.. Nàng cố kéo nhưng chiếc nhẫn đến đốt xương thì dừng lại, không thể nào kéo ra được nữa. Hắn đứng hút thuốc, mắt nhìn buổi chiều lan toả từ dải núi tím phía tây xuống cánh đồng. Hắn không quay lại, giục:
- Xong chưa?
- Tháo không ra.
- Kéo mạnh ra!
Một lúc sau hắn lại hối:
- Xong chưa?
- Chưa!
- Sao lâu thế?
- Tháo mãi không ra.
Nàng tính nói: "Đau đớn lắm" nhưng vì tức tối không thèm than, không muốn kẻ như hắn thương hại. Hắn nói:
- Cắn răng lại, cố mà lôi kéo nó ra !
Hắn vẫn còn quay lưng về phía vợ song không còn giữ được bình tĩnh, bước tới bước lui. Và hắn lại giục:
- Mau lên! Không ai chờ đợi được !
Người đàn bà nói liều:
- Ngón tay giờ đây to rồi, tháo không ra, không tháo nữa!
Hắn quay lại nhìn nàng, một ánh mắt lạ lẫm hung tợn. Hắn thốt lên một điều vô cùng tàn nhẫn với cái giọng thật ôn tồn:
- Thuở mới lấy nhau cô là con gái, nay là mụ già, tay chân thô kệch, đâu còn thời liễu yếu đào tơ nữa. Tháo không được thì chặt ngón tay ra mà lấy...!
Người vợ giận quá, hết cả sợ, cương quyết :
- Chặt thì chặt, về nhà tôi lấy dao chặt ngón tay lấy chiếc nhẫn trả lại cho ông !
Hắn ra lệnh:
- Ngay bây giờ, tôi không chờ về nhà được. Đưa ngón tay đây!
Người vợ cũng chẳng cần. Nàng biết trong túi quần hắn luôn luôn có xâu chìa khoá, trong ấy có sẳn con dao nhỏ, cô nghĩ thế nào hắn sẽ cắt ngón tay mình. Cô điên tiết đưa tay ra, đối với cô giờ đây cái chết chẳng còn ý nghĩa nữa huống gì là mất một ngón tay. Cái nhẫn kim cương nằm lại ở đốt xương ngón tay áp út. Nó chặn dòng máu làm cho ngón tay sưng vù bầm tím.
Nhưng không, hắn không dùng dao. Hắn run run cầm bàn tay lạnh ngắt của vợ cũ rồi hành động rất nhanh, làm như nếu hắn không hành động như thế thì chẳng đủ can đảm để làm nữa. Hắn nắm lấy bàn tay nàng, dùng mấy ngón tay có móng dài nhọn và khoẻ móc lấy chiếc nhẫn giật mạnh ra. Người vợ thét lên đau đớn ôm lấy bàn tay đẵm máu ngồi thụp xuống cỏ. Cắn răng không khóc. Hắn bỏ chiếc nhẫn vào túi quần, để mặc cô gái, bỏ đi.
Người vợ ôm bàn tay đau đớn ngẩng lên, thấy cái bóng của hắn lòm khòm bước đi như một con gấu. Lòng nàng lúc đầu căm hận rồi chuyển thành băng giá. Mười năm sống với hắn bỗng tan biến đi đâu cả. Nàng thầm cảm ơn ông toà trẻ đã giải thoát nàng khỏi cuộc sống với con quỉ đội lốt thánh nhân. Bao nhiêu đau buồn, nuối thiếc, thất vọng về cuộc chia tay tan biến hẳn. Nàng thấy lòng nhẹ tênh, đến nỗi tình cảm khinh bỉ sâu xa về con người ấy cũng chẳng còn. Nàng đứng lên ra về, thanh thản như vừa dạo chơi cánh đồng mùa xuân. Trước mắt nàng đã le lói ánh sáng của một cuộc sống mới không có hắn.
***
Hắn lững thững đi tới bến sông. Dưới bến có người mẹ đem con ra tắm, cảnh tượng đơn sơ tầm thường nhưng đầy hạnh phúc của một gia đình nghèo mà đầm ấm khiến hắn chẳng dám nhìn lâu. Hắn bỏ bến sông đi lên cầu. Ra tới giữa cầu hắn thấy một thứ gió mát và ướt, lạnh lẽo pha mùi bùn non tanh tưởi mùi cá ươn ở hai bờ sông đưa lại. Hắn vịn lan can nhìn xuống sông. Dòng nước chảy qua cầu bỗng sụp xuống vặn mình thành cái xoáy lớn chạy ngược lên quấn quanh chân cầu. Hắn cảm thấy một tia rờn rợn chạy từ hai bàn chân theo xương sống ngược lên, nỗi sợ hãi của người đứng ở trên cao. Hắn tự nhủ: Thôi, bỏ đi, đừng nhìn nữa và cũng đừng kết thúc một cách đơn giản sơ sài như mọi tên hèn yếu khác, chọn cho mình cái kết thúc kiểu ấy để trốn tránh khó khăn trong đời. Ta không chọn nó, nhưng thế nào nó cũng đến với ta. Có kéo dài đi nữa cũng chừng một đôi năm. Không biết giờ này em đã về đến nhà chưa?
Hắn cho tay vào túi tìm chiếc nhẫn đính hôn, mân mê trong tay, hắn không dám nhìn chiếc nhẫn. Bỗng hắn lấy hết sức ném thật mạnh, thật cao và thật xa. Chiếc nhẫn tung lên đâu đó trong một buổi chiều muộn màng mà trời đất đã trộn đầy bóng tối. Hắn tự hỏi, sao không nghe tiếng rơi? Không thấy ngấn nước. Và cũng chính hắn tự trả lời, nó nhỏ và nhẹ quá, rơi xuống nước rất xa, làm gì để lại âm thanh và hình ảnh. Cái vật nhỏ nhoi ấy đã nằm trong tay người mình yêu suốt mười năm nhiểm đầy hơi hám của nàng, cùng với nàng, với ta, với những ngày thăng trầm, hạnh phúc, khổ đau, mất biệt đâu đó trên dòng sông hoang vắng này rồi.
Hắn lững thững xuống cầu. Trời đã tối thực rồi, con đường dưới chân mờ mờ màu đất sét. Hắn đi thêm một đoạn, gần tới rìa thành phố xa xa thấy có chiếc xe xích lô của ông lão sau một ngày làm lụng nhọc nhằn trở về, thấy có khách kêu mừng rỡ vội dừng xe lại. Hắn leo lên bảo ông đạp đi. Ông lão không biết hắn muốn đi đâu hỏi, hắn nói cứ đi vào phố, tôi sẽ chỉ. Xe chạy đến một ngôi nhà to lớn có cái cổng mở rộng, hắn bảo dừng lại, xuống xe, móc hết tiền ra đưa ông lão, bước vội vào bên trong. Ông lão ngạc nhiên về người khách lạ, ông không biết đây là nơi nào? Ông chận một chiếc xe khác hỏi, người phu xe một thanh niên cười hỏi lại:
- Mù chữ sao "cha nội"
- Đâu có thấy bảng báo gì?
- Kia kìa ! Cái bảng đồng gắn nơi vách. Bộ muốn chui vô trong đó sao?
- Không, hỏi cho biết, có người khách mới đi cuốc xe, ông ta trả tiền rất hậu, hỏi nhà ông nói ở trong ấy.
- Thôi chết cha rồi!
- Sao?
- Chỗ này là bệnh viện ung thư, mười người vô may ra chỉ có một người ra...
Ông lão xích lô thở dài than : "Tội nghiệp!" Đạp xe bỏ đi.
***
Người vợ đau khổ trong cuộc li hôn và buổi chiều đầy ác mộng đã nhanh chóng lấy lại quân bình tâm hồn, tâm hồn và thể xác. Nàng hoàn toàn không nghĩ ngợi quãng đời và người chồng bạc ác ấy nữa. Một năm sau nàng vui duyên mới. Nàng vẫn còn trẻ và đẹp lắm, chồng nàng là một anh trai tơ, trẻ hơn nàng mấy tuổi và rất yêu nàng. Hôm nay là ngày thành hôn. Lại một lần nữa nàng sắm vai cô dâu lên xe hoa. Đoàn xe của một đám cưới nhà giàu phô trương sự xa hoa, gồm nhiều chiếc ô tô du lịch sang trọng đắt tiền. Khách đưa dâu đều là những ông to bà lớn, những doanh nhân giàu sang phú quí. Và những người tên tuổi.
Chiếc hoa chở cô dâu chú rể chạy trước, xe được trang hoàng đầy hoa tươi sang trọng nhất. Cô dâu lộng lẫy trong chiếc áo cưới may bằng thứ voan trắng trong như tơ nhện, nghe nói cô tự bỏ tiền ra may, mấy triệu một chiếc, cô không cần thuê như mọi đám cưới bình thường khác. Chú rể sang trọng trong bộ vét-tông đúng mốt, đến anh tài xế chở họ cũng ăn mặc sang trọng. Đoàn xe chạy vòng vèo qua nhiều đường phố chính. Thiên hạ trên đường dừng lại, ngắm đoàn xe, ngắm dung nhan cô dâu và thán phục sự sang trọng của một đám cưới nhà giàu sang quyền quí. Xe chạy đến đâu người hai bên đường đứng ngắm trầm trồ khen ngợi.
Khi đoàn xe chạy trên con đường đi ngang qua cửa trung tâm u bướu gặp một chiếc xe từ trong ấy đi ra. Chiếc xe chạy rất chậm, nghênh ngang giữa đường. Cả đoàn xe phải giảm tốc độ. Ai cũng bực mình, các tài xế bóp còi inh ỏi. Chiếc xe kia vẫn chẳng chịu phóng nhanh. Anh tài xế lái xe chở cô dâu chú rể chạy đầu đoàn xe rất bực mình, dấn lên chạy ngang chiếc xe kia.
Tất cả mọi người nhìn vào trong xe cứu thương thấy có người nằm trên chiếc cáng bằng vải màu xanh lính. Đầu người ấy trọc lóc vì chất phóng xạ cô-ban trong điều trị khối u ác tính. Cặp mắt mở trừng trừng. Mấy ngón chân lộ ra từ lỗ thủng tấm chăn, ngón chân vàng như nghệ và cứng như được đẽo bằng gỗ mít. Ấy đúng là ngón chân người chết. Trên đầu người ấy, treo túi máu, dây nhợ truyền dịch lòng thòng Túi máu và mấy bình dịch còn hay đã hết không ai biết.
Chú rể đang còn tràn ngập trong niềm hạnh phúc mới tỏ ra là người biết điều, tốt bụng, nói với bác tài xế:
- Chậm lại, nhường cho người ta đi trước.
Cô dâu không chịu, phản kháng:
- Xe đám cưới ai lại nhường xe đám ma ? Bóp còi. Rấn tới, qua mặt nó đi !!!
Quý Thể
*********
Bức tường và đứa bé
Trần Hạ Tháp
1*/Ngôi nhà không quá rộng nhưng trang nhã. Tranh hoạ vĩ nhân, ảnh tượng các huyền thoại thế giới, chân dung các nhà chăn dắt thời cuộc... Chiếm nhiều chỗ trên tường phòng khách. Tất cả được treo quá đầu người. Tất nhiên với một đứa bé lên 3 càng không thể nào với tới. Nó chưa hề tỏ ra quan tâm công trình trang trí nội thất đầy nghệ thuật nầy dù phòng khách là nơi vãng lai nhiều nhất.
Một bé gái đầu lòng hồn hậu thông minh, xinh như tranh vẽ. Nó cần gì các thứ nầy? Tự nó đã là thiên thần mặc sức bay nhảy, cười khóc trong ngôi nhà vốn quá nhiều tịch mịch. Trước thiên thần, sao lắm lúc người lớn không chịu nhận những quà ban đầy "phép lạ". Tìm cái gì, ở xa xôi nào chăng? Khi Phật tánh sẵn trong mỗi sinh linh, chỉ vùi lấp dưới rác rưởi của tham lam và vọng tưởng. Độ dày đống rác kia? Một tỉ lệ thuận với tuổi đời chồng chất...
"Tin ta mà không hiểu ta, ấy là phỉ báng ta''. Với các đệ tử, Thích Ca từng gián tiếp nói về sự sùng bái gần 3000 năm về trước... Câu nói tiềm ẩn năng lượng giải phóng quá trình nô-bộc-hoá-tư-tưởng mà nhân loại đã khởi đầu qua thói quen thần phục. Thói quen mà minh triết cho sự kính-ngưỡng-đích-thực không bao giờ thoả thuận.
Luân kỹ sư, ba của đứa bé. Gã đã tốn không ít công sức tiền bạc sưu tầm, chọn lọc các mẫu mã chân dung độc đáo nhất. Không nhớ hết, các cuộc nhậu lai rai với dăm ba quý hữu ngay phòng khách như một cách ghi nhớ đầy cảm hứng.
Thật ra, các khoảng trống còn lại của các bức tường, ngay dưới mấy vĩ nhân kia mới là chỗ tận hưởng niềm vui mỗi ngày của đứa bé. Vâng, khoảng trống ở chân tường.
Có lẽ khi đã lớn, nó sẽ hiểu rằng, dù rất nhỏ chỉ thoáng qua thời thơ ấu nhưng đấy quả là lát-cắt-của-hạnh-phúc-nhãn-tiền. Thứ hạnh phúc đơn giản chẳng cần đợi bao nhiêu năm như những lời hứa hảo huyền người ta hay đem "kính biếu" cuộc đời...
Chắc chắn rằng chẳng ai, ba hoặc mẹ nó từng gợi ý gì về các khoảng-trống-kỳ-diệu ấy. Cho đến một hôm nào? Chưa biết... Cái kỳ-diệu-cố-hữu trong họ chẳng còn chi kỳ diệu. Mênh mông... Mênh mông là khoảng trống...
Trưa nay, khi phát hiện ra sự cố ngay dưới mỗi bức tranh cưng quý của mình... Ba nó có bộ mặt dở cười dở khóc. Cái gì? Là các "phụ bản không tên gọi". Chúng đặc biệt gây sốc, xuất hiện chỉ sau một ngày hè đầy nóng nực.
Vâng, hộp chì màu được kịch liệt tận dụng - tợ như - để lấp đi những khoảng trống trên tường. Hê hê, đủ các tuyến màu chằng chịt chạy hình trôn ốc, chồng lên nhau theo thủ pháp chà-xát-tự-do rất chí thú. Cả bốn bức tường, ngoại trừ trên cao quá tầm với, còn lại đều được đứa bé "nhuận sắc" theo một phong cách mới chưa hề ai định nghĩa.
Không để ý tới hai bàn chân sững sờ bất động của ba ngay trước mặt mình, đứa bé vẫn cứ tiếp tục chơi búp bê trên sàn nhà phòng khách. Chì màu ngổn ngang khắp phòng, tất cả đều gảy ngang không cây nào còn nguyên vẹn.
Nhìn xuống khuôn mặt ngây thơ trong sáng, những tia hoả niệm vừa bùng phát trong đầu Luân lập tức tiêu tan không dấu vết. Có ít nhất hai thái cực đối lập trong "thất tình lục dục" của gã vừa hoà quyện vào nhau, cùng dịu tan đi và - kỳ lạ - mất tăm vào tĩnh lặng.
Giây phút ấy tư tưởng về đâu? Tất cả khái niệm về đúng sai, được mất, hay dở, có và không trôi dạt ra thật xa, thoát ra ngoài bản thân của gã. Trạng thái không diễn tả nên lời. Á khẩu...
Luân từng đọc đến chữ "Vô niệm" cứ tưởng ý nghĩa nó quá mơ hồ trong kinh Phật, nay trải qua trong vài sát na, bất ngờ gã như đang ở cảnh giới đầy an nhiên nào đó.
-Không chơi bẩn nè ba. Tay sạch.
Đứa bé xoè hai bàn tay trước mặt. Không hiểu sao Luân chống hai tay, bò xuống sàn hôn thật mạnh vào những ngón tay nhỏ xíu mà trí óc vẫn lơ mơ chưa kịp nghe gì về câu nói. Nó phá ra cười sằng sặc:
-Râu. Râu nhột.
2*/ Chiều hôm sau, thứ bảy. Luân không đi đâu như lệ thường. Gã nằm gối sa lông, thảnh thơi không đọc sách. Di động reo. Hạnh, vợ gã đưa mắt như nhắc nhở nhưng Luân vẫn cứ cười cười, mặc kệ... Tiếng xe máy dừng ngoài cổng. Giọng các quý hữu oang oang liên tục vọng vào:
-Hắn đây rồi.
-Nhập gia... Chẳng tuỳ tục. Nếu tuỳ tục... Chẳng nhập gia.
-Nước giếng không phạm nước sông. Nhưng nước sông cứ vòng nước giếng.
Gã đành vớ cái áo ngồi dậy. Mấy người rầm rập khí "hạo nhiên" cùng bước vào phòng khách, nhưng ô hô... Đều trố mắt nhìn các bức tường. Cuối cùng có kẻ không nín được cười, ôm bụng:
-Bái phục ái nữ của lão gia... khổ chủ.
-Thiện tai. Thiện tai. Cho "công án" quá đã.
-Hê hê, sao thằng bố chuyên tốn tiền mua tranh phí nhỉ?
Luân chỉ biết chắp hai tay, nhắm mắt lầm rầm đọc kinh văn Bát Nhã:
-"Ngủ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách" .
Khi tất cả đã đẩy xe ra khỏi cổng, đứa bé vụt chạy từ phòng bên, thò đầu ra hấp tấp kêu lớn:
-Mua quà nghe ba.
3*/Luân về đến nhà đã hơn 8 giờ đêm. Hai mẹ con ngồi chờ trên ghế xích đu. Đưa tay vào túi trên túi dưới, gã ngơ ngác lục lọi hồi lâu như một kẻ làm trò. Đứa bé khó kiên nhẫn lâu hơn, nó chạy đến giật vội hộp giấy nhỏ trên tay ba. Rỗng tuếch chẳng có gì bên trong cả. Hạnh quá buồn cười, cầm tay nó nói nhỏ vào tai an ủi:
-Ba say rồi. Mai mẹ đền nhiều hơn.
Luân ngó ra đường, gãi gãi tai cười khổ:
-Tệ thật, đóng cửa quán hết rồi.
Gã bần thần phân bua:
-Rơi đâu hết còn hộp không. Nhớ rõ ràng... Lạ thật.
Mặt đứa bé thộn ra chực khóc. Nó vùng vằng quay mặt vào chỗ tối và bắt đầu sụt sịt:
-Ba làm xấu... Làm xấu. Bị phạt.
Gã bối rối:
-Ừ xấu thật. Ba xin lỗi... Ba bị phạt quỳ muỗi chích.
Nói xong, gã để nguyên giầy vớ, quỳ xuống cái rụp, ôm cột trụ hành lang tự răn mình sám hối. Đứa bé quay mặt ra quẹt nước mắt chứng kiến hình phạt dành cho tên tội đồ ham chơi. Nó có vẻ hơi nguôi lòng, tới gần nhìn vào mặt kẻ thọ hình xem sao... Chừng như chưa đủ thủ tục pháp lý, nó nhỏ giọng vỗ về đầy khuyến khích:
-Khóc. Khóc đi ba.
Luân ngớ ra một lúc, đột nhiên ôm mặt khóc sụt sịt. Lúc đầu chỉ giả vờ nhưng khi cảm nhận có bàn tay nhỏ xíu đang vỗ vỗ lên mái tóc của mình, gã đột nhiên cất hai bàn tay ra khỏi mặt để ôm chầm đứa bé. Nước mắt thật loang lỗ trên mặt mũi gã lúc nầy.
Hạnh đến bên kéo hai cha con vào nhà. Khi Luân cởi sơ mi lôi ra khỏi thùng, chợt đứa bé reo lên mừng rỡ. Nó chạy đến nhặt những bút chì màu mới nguyên vừa lạch cạch rơi xuống sàn nhà. Cái hộp rỗng được làm đầy không thiếu một cây. Cười ngất, Luân tự gõ vào đầu mình mấy cái:
-Ngu... Rơi hết vào đây cả đống.
Bây giờ thì gã đã nhớ, mua hộp chì màu tuồn vào trong ngực áo. Sau sợ màu giây ra khó giặt, lại lấy ra bỏ xuống túi quần... Ngờ đâu bỏ túi quần hộp rỗng.
Đứa bé không cần nghe nói. Nó ôm hộp chì màu vào lòng khi leo lên giường ngủ. Người mẹ liếc nhìn phòng khách. Bây giờ Hạnh hiểu sao Luân không gọi thợ sơn quét lại các bức tường.
Trần Hạ Tháp
(thành nội Huế - 27/5/2012)
***
Thành phố buồn tênh
Hai Hùng SG
Tiếng hát trầm buồn của ca sĩ Chế Linh đang trình bày ca khúc Thành Phố Buồn từ máy hát của nhà ai dội đến, ca khúc này đã khiến Tôi nhớ quay quắc Thị Xã Kon Tum, nơi đơn vị tôi đóng quân trong thời chinh chiến, cũng là chốn để lại cho Tôi nhiều kỷ niệm rất thân thương trong miền ký ức, ở đây có một người thiếu nữ người dân tộc Ba Na sinh sống tại ngôi làng Konjơret ( Con dơ rét ), nằm cạnh bìa rừng cách sông Đakbla ( Đắp la ) xinh đẹp một con đường đất đỏ chạy xuyên suốt từ đầu đến cuối buôn làng. Cô gái có cái tên rất lạ : Djem ( Dem ), cô sở hữu một làn da trắng như những cánh hoa Cà phê được bà con trồng ven làng, mái tóc dài đen nhánh, thân hình cân đối và nhất là hàm rắng rất trắng và đều, nói chung là không chê vào đâu được ..
Một ngày giữa năm 1974, do yêu cầu của chiến trường, đơn vị chúng tôi được phối trí lực lượng và đóng quân cách buôn làng nói trên chừng trăm mét, mục đích để chận đường chuyển quân của đối phương và bảo vệ buôn làng người dân tộc nơi đây. Sau một ngày vất vả ổn định nơi ăn chốn ở và nơi làm việc, khi chiều đến tôi cùng đồng đội ra con sông Đakbla để tắm giặt và lấy nước về sinh hoạt, xong đâu đấy Tôi và thằng bạn rất thân nó có tên Bùi Đức Kết người Quê Quảng Ngải hai đứa ra ngồi cạnh bờ sông phía khu vực bên bị nước sông xâm thực tạo thành vách thẳng đứng rất đẹp nhưng hơi nguy hiểm vì có thể bị sụp đất rơi xuống sông lúc nào không hay, ngồi đong đưa hai chân, ngước nhìn bầu trời trong xanh bao la, rồi nhìn dòng sông lững lờ chảy, gió thổi hiu hiu, khung cảnh lạ lẫm nhưng hữu tình, giá mà lúc ấy biết làm thơ thì có lẽ giờ này Tôi cũng có được vài chục bài ca ngợi cảnh đẹp nơi này, đang thả hồn và đắm chìm với những suy nghĩ mông lung ... bất chợt tiếng thằng Kết bạn tôi kêu lên thản thốt :
- Hùng ơi ! mầy nhìn xem, Có cô Tiên ở đâu đang hiện ra kìa .
Nhìn theo hướng của thằng Kết chỉ, Tôi vội đáp lại :
- Thôi đi ông ơi, đó là nhà của Cô ấy chứ đâu ( Tôi đoán mò )- Ủa mà sao tao thấy hình như mầy mới bị sét đánh phải không thằng quỷ, cái tật thấy con gái là mầy tươm tướp hà, coi chừng họ có chồng rồi đó đừng có mơ nghe mậy .
Chẳng thèm để ý đến lời của Tôi, mắt nó cứ nhìn chầm chầm về ngôi nhà sàn nằm phía bên kia đường có cô gái đang ngồi ngoài hiên nhà chải tóc, bổng dưng hắn đổi tông hỏi tôi một câu chẳng ăn nhập đâu vào đâu :
- Hồi nào tới giờ Tao với mầy chơi nhau rất thân đúng không Hùng ? Ngạc nhiên vô cùng Tôi thầm nghĩ : " Thằng này nó muốn cái gì đây, nói đại cho rồi còn bày đặt xa gần chi vậy nữa "
Trả lời nó Tôi nói :
- Còn cái gì nữa mà hỏi, bộ mầy tính nhờ tao chuyện gì phải không ? Muốn mượn chút đỉnh gửi về cho gia đình hả, Tao còn đúng 8.000 đồng nè, muốn thì cứ lấy đi, vậy là tháng này tao treo "mỏ" luôn.
Thằng Kết đớp chát lại Tôi :
- Không phải đâu mầy ơi, tao gửi tiền về rồi, nhờ mầy chuyện khác, chờ tao một chút biết liền. Nó xoay người sang một bên, đúc tay vào túi quần rút gói thuốc lá quân Tiếp Vụ nhăn nheo ra, đưa tay vuốt thẳng gói thuốc lá xong, nó xé tờ giấy bạc bên trong và lấy viết ra hý hoáy nhiều dòng chữ gì đó mà mãi đến bây giờ tôi chưa được đọc qua.
- Bây giờ tao nhờ mầy đem lá thư này đưa cho em gái bên đó dùm tao, và mầy chịu khó chờ cô ấy đọc xong và trả lời rồi mầy hãy về cho tao biết, xong việc này tao bao mầy một chầu cine ở ngoài Thị xã Kon tum, nếu không coi hát bóng thì mầy muốn gì tao cũng chìu, nhưng nửa tháng lương không kèm phụ cấp nghe mậy.
Cầm lá thư trên tay tôi thầm nghĩ " Cái thằng này sao nó bạo quá, chưa bao giờ nói chuyện với con người ta mà dám thư với từ ". Tuy vậy vì thương bạn nên Tôi bất đắc dĩ làm cánh én chuyên chở mùa xuân Tây nguyên về cho nó, một thằng quỷ " Háo sắc " thấy phát ớn.
Bước chân đến cầu thang gỗ trước hiên nhà cô gái, mắt tôi ngước nhìn, Đầu óc tôi gần như choáng váng và chợt nghĩ " Cái thằng Kết ranh ma này đúng là có con mắt tinh đời", trước mắt tôi một dung nhan thánh thiện, nàng đẹp mê hồn khiến tôi cứ lóng ngóng thốt chẳng nên lời, thậm chí lúc ấy bản năng trổi dậy tôi định dấu biệt cái thư của thằng bạn thân kia, thầm mong làm quen với người đẹp riêng cho mình, nhưng rồi lý trí mách bảo Tôi phải đi lại đường ngay lẽ phải, Tôi ngập ngừng nói với cô gái :
- Chào em ( Lấy hết can đảm ) Anh tên Hùng, anh mới về đóng quân sáng nay cạnh Làng mình, tình cờ gặp em nên bạn anh ( Tôi chĩ tay về phía bờ sông ) nó tên Bùi Đức Kết .Nó nhờ anh cầm thư này đưa cho em, anh không biết nó viết gì trong ở trong đó vì lịch sự anh không thể xem thư, nếu có gì không phải thì xin em vui lòng bỏ qua cho nha. Cô gái nhoẽn miệng cười tươi như đoá hoa rừng vừa hé nở, lòng tôi xao động vô cùng, lúc ấy tôi cố kiềm chế chứ không thì sẽ không tròn nhiệm vụ của thằng bạn thân thiết giao phó. Djem nhận lấy lá thư vừa xem xong bổng dưng nàng cười ngất khiến tôi khó hiểu vô cùng. với giọng lơ lớ của đồng bào dân tộc nàng nói :
- Anh Hùng ơi ! Anh nói với bạn anh là em có người yêu rồi. thật tiếc quá, thôi để em giới thiệu con Hơbia bạn em cho anh Kết nhé, còn người yêu của em là anh Hùng nè !
Đất trời như sụp đổ dưới chân tôi, chân tay tôi lạnh cóng. Lần đầu tiên trong đời tôi mới được một người con gái, mà là gái đẹp nữa, nói lời yêu thương mình thì hỏi làm sao tôi không khỏi bồi hồi. Tôi chợt hiểu thì ra thư tỏ tình của thằng Kết. Bây giờ tôi phải ăn nói làm sao với nó đây? Không khéo nó lại cho mình là kẻ cướp tình yêu thì khốn khổ lắm thay. Tôi nói với cô gái :
- Anh không ngờ nó để ý em nhanh đến thế ! À mà tại sao em không thích bạn anh, còn anh đâu có gì đâu mà em lại chọn
- Em thấy Anh Đẹp trai hơn bạn anh
( chắc lúc đó nàng chỉ nhìn cái tướng tá thôi vì xa quá làm sao biết thằng Kết không đẹp ), cô gái nói tiếp :
- Đã vậy anh Kết còn lùn hơn em ...
Tôi bật cười với câu nói ngây thơ thật lòng của cô gái miền sơn cước, Tôi đắm chìm trong hạnh phúc " Ðê mê " kia, cái cảm giác " Bất chiến tự nhiên thành " nó đến với tôi như một phép mầu, không dễ gì có được lần thứ hai ... Rồi dăm tháng trôi nhanh, mới đó mà NOEL lại về trên quê hương, ngôi nhà thờ trong làng Konjoret được thanh niên, thiếu nữ Ba na, già làng, cùng cha bề trên giăng đèn kết hoa làm cho không khí núi rừng tây nguyên mang một sức sống mới, Tôi và thằng kết cũng góp một tay vào công việc này để tỏ cái tình Quân Dân Cá nước .
Ðêm Noel thật vui, sau khi rước đèn quanh làng, Tôi và thằng Kết được mời chung vui tiệc ( Rờ vi Dông ) đến gần tận sáng, nào rượu cần, nào thịt heo, vịt, gà tất cả đều nướng lên trên đống lửa bập bùng, hương nồng của rượu, cái nóng của đống lửa hoà vào cái không khí lạnh giá đêm noel, Tôi ngồi cùng Djem, thằng Kết quấn quít với con Hơbia chúng tôi có cái cảm giác hạnh phúc đông đầy, tôi cảm thấy trên cuộc đời này không có gì tuyệt vời như đêm hôm ấy, cuộc sống bà con nơi đây không xa hoa, quanh năm sống cùng cái rẫy trên ngàn, con Cá dưới sông dưới suối, con Nai con. Mễn trên rừng, cuộc sống như vậy đó mà thật là hiếu khách, bản chất hiền hoà của mọi người khiến chúng tôi muốn rơi nước mắt khi chia tay nơi này, tôi sẽ nói ở phần sau ...
Mùa mưa của Tây nguyên lại đến, những cơn mưa rừng thường thì không lớn, ít khi hung hãn như mưa vùng đồng bằng, tuy nhiên có những cơn mưa rả rích cả tháng không thấy mặt trời, mặt đất nhuộm đầy bùn đất đỏ, nhất là cái lạnh mà anh em thường nói lạnh từ trong xương lạnh ra. Một hôm đang ngồi trực máy truyền tin tại Trung tâm hành quân của đơn vị, bổng đâu từ phía ngoài thằng Kết mình ướt như chuột lột nó lao vào như tên bắn, đến chổ tôi ngồi nó thì thầm bên tai tôi như sợ các Xếp biết chuyện bí mật gì vậy :
- Người yêu mầy đang bị sốt rét rừng hành hạ kìa, Ông Thượng sĩ Còn (Tên riêng ) nhờ báo cho mầy biết đó.
Giật bắn người, tôi cự nự nó :
- Sao giờ này mày mới nói hả thằng quỷ ?
Bật đứng dậy tôi dùng hai tay ấn vai thằng kết xuống ghế, nhờ nó làm thay công việc tôi đang làm dang dở :
- Mầy trực dùm tao, chút nữa tao trở về.
Nói được có bấy nhiêu, khoác vội chiếc Poncho Tôi đến ngay nhà Djem, mọi người trong nhà vây quanh, Djem nằm thở mệt nhọc, vóc dáng xanh sao, bao nhiêu sinh khí hầu như mất gần hết, Tôi thương cảm và đến gần bên hôn nhẹ trên trán ( Lúc này Tôi hơi tự nhiên ) và hỏi nhỏ :
- Em có uống thuốc men gì chưa ? ăn uống được không ?
Djem cố trả lời :
- Ở đây không có uống thuốc gì hết, có nhờ thầy cúng đến làm phép bắt con ma rồi, vài hôm em sẻ khỏi thôi mà.
Tự dưng tôi nỗi nóng :
- Trời ơi ! Bệnh là phải uống thuốc chứ, cúng kiến làm gì mà khỏi bệnh, sao mà vùng này còn mê tín quá vậy.
Nhiều cặp mắt người thân trong nhà nhìn về phía tôi, họ nghĩ tôi từ một hành tinh nào đến chứ không phải người từng sống nơi đây, tập tục người dân tộc khi bệnh hoạn thì nhờ thầy Cúng, công bằng mà nói nhiều khi con bệnh có sức đề kháng tốt thì tự khỏi bệnh trong vài hôm thì công lao đó đượ coi như là nhờ thầy cúng, từ đó bà con cứ tin mà làm theo lệ. Biết mình lỡ lời thiếu kiềm chế, Tôi lấy cớ thối thoát xin phép ra về. Sau đó tôi nhờ vị sĩ quan quân y ở đơn vị đến chạy chữa thuốc men thì Djem khỏi bệnh sau một tuần bạo bệnh, sau lần đó tình yêu chúng tôi càng thăng hoa hơn, tuy vậy hai đứa vẩn giữ gìn cho nhau chưa bao giờ cả gan vượt vòng lễ giáo, nếu làm thế thì sẽ bị làng phạt nộp một con bò để tạ tội với giàng với bà con thì ... chết chắc ..
Đến mùa thu hoạch hoa màu, rẫy bắp đầy trái, chúng tôi làm việc bên nhau vui vẻ, lúc rảnh rỗi tôi phụ Djem để chia sẻ bớt nỗi nhọc nhằn bấy lâu ; lúc nghỉ trưa, bên bóng mát của cây gỗ dầu có niên đại chừng trăm tuổi xoè tán rộng che mát cho hai tâm hồn đang hướng về nhau. Djemnói với tôi :
-Em muốn cưới anh quá, anh có muốn không ?
Tôi bất ngờ nhưng không ngạc nhiên lắm, do người Bana theo chế độ mẫu hệ, nên lời đề nghị này không phải là khiếm nhã cho là " Cột đi tìm trâu ". Thật lòng Tôi Đáp :
-Anh rất muốn, nhưng phải xin ba mẹ ở nhà mới được. Khi nào có kết quả anh cho em biết nhé, Djem giận dỗi :
- Đừng có làm bộ rồi trốn về Sài Gòn Nha. ở Đây buồn là em sẽ chết đó
Tôi bụm miệng Djem lại, khẻ tát yêu vào má và trách
- Không tin anh thì thôi ... anh sẽ.....
Cũng đến lúc Tôi được hưởng 15 ngày phép thường niên, Trên đường trở lại Sài Gòn Tôi miên man suy nghĩ đến những gì mình phải đối mặt với gia đình, thuyết phục gia đình được không ? mệt mỏi với ý nghĩ trên tôi thiếp đi trên chuyến xe đò liên tỉnh, khi giật mình thức dậy và Sài Gòn đã hiện ra trước mắt tôi bao tháng ngày xa cách.
Ngày đầu tiên ở gia đình tôi chưa dám đá động gì đến mối tình sâu kín của mình, qua hôm sau trong một buổi cơm chiều, thu hết can đảm tôi trịnh trọng thông báo :
- Bấy lâu nay con dã để lòng thương một cô gái người dân tộc, cô ấy ở gần nơi đơn vị con đóng quân, con lớn trong gia đình .. nhà hơi nghèo nhưng được cái tính giỏi giang và nhất là đẹp và khoẻ mạnh. Nay con xin ba má cho con được lấy cổ làm vợ .. lâu lâu chúng con sẽ về thăm ba má một lần.
Để giành lấy chiến thắng tôi tiếp tục pha trò :
- Tụi con sẽ mang về nào là bắp, mía, thịt rừng về cho ba mẹ và cả nhà thưởng thức đặc sản tây nguyên nữa đó.
Như từ Cung trăng rớt xuống trần gian sau khi nghe câu chuyện thần thoại " Ðường rừng " này, mẹ tôi nói :
- Nếu con muốn làm " Già làng " thì ba mẹ không cấm, nhưng liệu về lâu dài con có chịu được hay không, và nhất là dư luận xã hội nữa ?.
Ngầm hiểu gia đình không chấp nhận câu chuyện hôn nhân này, tôi đánh lạc hướng cho gia đình được vui :
- Lâu quá mới về nhà, không có gì làm quà nên con tạo ra sì căn đan này cho vui nhà vui cửa, chứ làm gì có " Già làng " nọ kia.
Trấn an gia đình xong, đêm đó về phòng nghĩ, tôi trằn trọc suốt đêm, cái cảm giác tội lỗi giữa bên hiếu bên tình nó đan xen nhau mãi khiến tôi gầy rộc người sau kỳ nghỉ phép tại gia đình ... Trên đường quay lại đơn vị, cái ba lô sau lưng tôi nó trĩu nặng hơn mọi khi, hình như nó cũng muốn níu kéo ghì chặt tôi phải ở lại cái vùng đất này, vùng đất tây nguyên màu mỡ ngàn lần yêu thương ... Rồi định mệnh dường như đã có sự sắp đặt, Tây nguyên được lệnh di tản chiến thuật, đơn vị tôi cũng không có ngoại lệ. chuẩn bị cho việc rút quân xong, chúng tôi lên xe từ từ lăn bánh rời xa ngôi làng Konjoret, bỏ lại phía sau bụi đỏ mịt mù, với tôi bầu trời dường như tối sầm trước mắt, lòng tôi ăn năn vô hạn, tôi đã không thể tròn nguyện ước với cánh hoa cà phê mong manh của mình, cuộc ra đi buồn như thế, không gặp được người yêu bé bỏng để nói lời tạ từ, nói lời xin lỗi tình yêu rất nồng nàn em đã trọn dành hết cho anh ...
Xe chạy đến cầu Đakbla thì chậm lại, do có đoàn người lố nhố phía trước, bất chợt Djem của Tôi cũng có mặt trong số người đó, nàng đang gùi trên lưng những trái bắp to tròn mũm mĩm, thành quả gặt hái được bao ngày vất vả trên nương rẫy, giờ đây đem ra chợ xã Konkopat để đổi lấy vật dụng cần thiết cho gia đình.
Thấy tôi ngồi sau chiếc xe jeep mui trần có 2 cần anten cao vút như râu của chú cào cào kiêu hãnh trên rẫy bắp mà tôi thường gặp, Djem bật khóc, hai hàng nước mắt lăn dài trên đôi má hồng. Tôi vội ngoái người ra khỏi xe, vẫy tay chào và nói trong vô vọng :
- Nhớ giữ gìn sức khoẻ, chăm sóc ba mẹ nhé. anh sẽ ...
Gió đã cuốn đi lời nói kia, Tôi chắc rằng nó không thể nào đến tai của người tôi hằng thương mến, giọng tôi khản lại, cố cắn chặt đôi môi để tránh bật thành tiếng khóc, nhưng sao miệng tôi mằn mặn hồi nào không hay .
Thôi nhé tạm biệt Tây nguyên, Tạm biệt cái thành phố Kontum nhỏ bé mà buồn tênh kia, tạm biệt cái làng Konjoret, tạm biệt dòng sông Dakbla và xin tạm biệt tình yêu bé nhỏ của tôi ...
Tiếng hát của ca sĩ Chế linh cũng đã chấm dứt tự bao giờ, ngồi đây với thực tại Tôi cũng mong rằng sau mấy mươi năm dài xa cách, người con gái Bana ngày xưa sẽ yên ổn mọi điều, và Tôi cũng để cho bụi thời gian ngủ yên cùng quá khứ, một quá khứ Tuyệt vời ...
Hai Hùng
&
Cà Phê Mùa Xuân
Quý Thể
Mấy năm sau giải phóng thanh niên miền nam không có việc làm, suốt ngày thường la cà quán cà phê. Tôi tuy không ghiền mà cũng không chịu chất caféine, uống vào thấy trong người xôn xao khó chịu, song vẫn ở trong số ấy. Thời kì này sáng nào tôi cũng bắt chước ngồi quán cà phê, uống li chanh muối, trà đá, nghe chuyện và góp chuyện tào lao cho qua ngày, trưa về nhà kiếm miếng cơm, ngủ một giấc, chiều lại ra quán cà phê ven đường ngồi cho đến tối, cuộc đời lây lất không lối thóat kéo dài tưởng chừng vô tận .
Tôi đã từng đi qua nhiều đồn điền cà phê hoa nở trắng cả trời chiều tây nguyên. Cà phê nước ta từ xưa đã nổi tiếng trên thế giới . Ở Paris có nhiều quán trương bảng "Café Moka Banmêthuột", để câu khách. Cà phê là một mặt hàng xuất khẩu mỗi năm hàng trăm ngàn tấn, thế nhưng không hiểu tại sao mấy năm đó cà phê rất khan hiếm, quí như vàng, và uống cà phê bị xem là một tội lớn. Có lần ở chính kinh đô cà phê Buôn ma Thuột, buổi sáng ba giờ tôi bị bọn ghiền đánh thức dậy đi uống cà phê chui. Hỏi tại sao phải đi uống giờ khuya khoắt này? Người ta nói, ở đây cấm bán cà phê. Đi buôn cà phê từ cao nguyên xuống đồng bằng, mỗi lần năm ba kí giấu trong người, chỗ hóc hiểm nhất mới qua mặt được mấy trạm kiểm soát. Buôn "Cà" là cái nghề mới cho người ít vốn .
Đem cà phê đi đường phải giấu chui giấu nhủi sợ bắt bớ, sợ phạt nên hạt cà phê đã hạ sơn thì rất quí, giá đắt lắm. Người bán hàng độn đủ thứ, bắp rang vàng, quả cau già sắc lấy nước, đậu đen rang cháy xay trộn chung với một ít cà phê nguyên chất lọc ra thành thứ nước khen khét đen đen, uống chỉ có cái vị đắng, phảng phất chút hương vị cà phê. Thế nhưng mọi người đã quen, thấy rất ngon, và cũng "phê" như cà phê thứ thiệt ! Sau này được uống cà phê nguyên chất lại thấy không bằng cà phê dỏm
Có lần tôi đang ngồi khuấy li chanh muối, chưa kịp uống bổng thấy mọi người rùng rùng bỏ chạy. Tôi không hiểu chuyện gì cũng chạy theo. Sau mới biết công an phối hợp với quản lí thị trường, thuế vụ đi dẹp quán cóc lề đường. Khi tình hình trở lại yên, thì li nước chanh quí giá của tôi đã bị ai đó uống hoặc đổ đi rồi. Tôi đem cái li không đến khiếu nại với cô Thi chủ quán thì được nghe giải thích một cách hòan tòan vô trách nhiệm : Quán không biết, đó là luật hè phố, của ai nấy giữ, mất ráng chịu ! Tôi nhớ lại lúc chạy lọan ai cũng bê theo li nước của mình chỉ có tôi là không. Lần sau tôi đã có kinh nghiệm, khi bỏ chạy nhớ đem theo thức uống. Cứ vài ba hôm lại có một lần quán bị tập kích. Khách hàng đã quen với cảnh này nên bảo tòan được tài sản của mình. Chỉ có cô chủ quán khi thì mất cái bàn, cái ghế, lúc mất mấy cái li, cái phin. Tôi thấy cô Thi ngồi tiếc của khóc tội nghiệp lắm. Tôi hỏi :" Sao không đi xin lại?" Thi nói :" Xin sao được, phải nộp phạt, em không có đủ tiền " Thế là lần sau. thóang bóng công an đi dẹp quán cóc lề đường, tôi đứng lên đem li cà phê của mình giấu sau gốc cây bàng bên đường. Tôi ra tay nghĩa hiệp giúp nàng dọn dẹp, bê cái bàn cái ghế chạy vô hẻm. Bão táp đi qua, tôi được nàng Thi liếc mắt đưa tình, cười tặng một cái thật tươi. Hình như món nợ tình bắt đầu từ cái ánh mắt nụ cười ấy. Sau này có mấy tên nữa cũng noi gương tôi xúm vào giúp dọn quán. Bọn chúng tòan là những vận động viên tài ba, nên nếu có đồng hồ bấm giây đo thời gian, chỉ trong vòng bốn tới năm giây, một cái quán sờ sờ biến đi mất như chưa từng hiện hữu trên đời. Thực đúng là "sắc sắc không không" Nhờ thế nên sau nhiều lần bị tập kích bất ngờ phe ta vẫn không thiệt hại gì về người về của. Dân cà phê biết cách đối phó thì công an cũng biết rút kinh nghiệm. Và tôi là nạn nhân đầu tiên của họ.
Có lần đang một tay xách mười cái ghế nhựa, lọai ghế lồng vào nhau, tay kia kéo bốn cái bàn nhựa, phi thân như bậc cao thủ võ lâm, bay vô ngõ hẻm thì một cú đập như trời giáng, tôi bị đẩy lên xe cùng với mọi thứ đồ nghề lỉnh kỉnh của cà phê vỉa hè, lò, phích, son, nồi, li tách, chén, muỗng, phin cà phê của cả một đọan đường này. Lần đó chiến công của công an là thu được rất nhiều chiến lợi phẩm và chỉ bắt được một tù binh, ấy là tôi !
Đây là lần thứ hai tôi bị dây dưa với công an. Lần thứ nhất cách đây đã lâu, lúc đó tôi là sinh viên trường đại học Luật khoa cái trường rất danh giá, đi biểu tình chống ông Diệm bị tóm cổ về công an quận ba, trên đường Lê Văn Duyệt. Khi ấy tôi vào tù một cách hiên ngang, dù sao tôi cũng là một thanh niên yêu nước. Tên đại úy Cảnh sát xét giấy tờ thấy tôi trưng ra cái thẻ sinh viên luật năm thứ ba, thời đó hiếm lắm, hắn tỏ thái độ kính trọng ra mặt, không dám nạt nộ hỗn xược. Lần này tôi đến công an không được vẻ vang gì cả. Hiện tại trước mắt công an và những người đi đường tôi chỉ là một tên đầu đường xó chợ, du thủ du thực, không có nghề nghiệp chính đáng, bám vào hè phố, làm cái nghề hạ cấp để sống. Trước tiên tôi bị sỉ vả nặng nề về cái tội ngoan cố, nhiều lần chiếm lề đường buôn bán bất hợp pháp không chịu tìm nghề nghiệp chính đáng làm ăn, không thấm nhuần cái câu "Lao động là vinh quang" Có một cậu công an, chỉ đáng tuổi em út của tôi lên mặt dạy đời , chửi bới tôi một cách văn hoa và đầy chất chính trị :" Giờ này bao nhiêu thanh niên đang xả thân giúp nước, còn anh, một thanh niên thân dài vai rộng lại chỉ trông vào việc mua gian bán lận mà sống" Tôi phải làm bản kiểm điểm. Tôi thuộc hạng văn hay chữ tốt thế mà viết đi viết lại cái bản kiểm điểm hai trang giấy học trò đến lần thứ bảy mới xong. Sau đó tôi còn bị lăn tay, chụp hình, và làm mọi thủ tục như một tội phạm nguy hiểm, cuối cùng nộp phạt rồi mới được cho về. Tôi cứ tưởng người ta làm theo thủ tục và cho có lệ, xếp hồ sơ để đó vài năm sau thì hủy. Song không phải như thế, Cái gọi là " Am ảnh màu xám tro" này còn theo tôi dài dài, nó tồn tại mãi trong tờ lí lịch .
Lúc trở về kể lại cái nỗi đọan trường cho Thi nghe, không được một câu an ủi lại còn bị nàng cự nự : " Chậm chạp quá, chậm như rùa, đàn ông con trai gì mà lề mề còn hơn đàn bà đẻ . Ai cũng chạy thóat sao anh lại bị tóm đầu ? Có phải anh là con gà chết không ?" Hình như tôi thuộc hạng người mà y học và triết học gọi là bọn masochiste (Khổ dâm) tôi chỉ khóai người làm tôi khổ, hành hạ tôi, như cái cô Thi ba mươi hai tuổi, có chồng đang học tập cải tạo và hai đứa con một trai một gái hoang như quỉ và chúng rất ghét tôi này.
*****
Thú thật trước đấy tôi chưa để ý đến Thi. Nàng đẹp hay xấu tôi cũng chẳng quan tâm. Thực rất lạ, từ cái ngày cuộc sống vô định cực nhọc kết nối tôi với nàng, và nhất là từ khi bị nàng làm khổ tôi lại bắt đầu yêu nàng, bị hành hạ và khổ vì nàng bao nhiêu yêu nàng bấy nhiêu. Chồng Thi là sĩ quan quân đội Cọng Hoà. Nàng là một thiếu phụ cô đơn. Tôi khổ vì Thi và khổ thêm vì hai đứa bé một trai một gái chín mười tuổi này. Chúng lại không ưa gì tôi. Tôi cho đó là lẽ tự nhiên. Tôi cũng chẳng tìm cách mua chuộc cảm tình của chúng. Tôi nghĩ mình đã cướp mất vợ người ta rồi còn hai đứa con thì để lại cho anh ta. Bọn trẻ con không cha này thường rất khôn .Chúng mở trận tuyến giám sát ông chú với bà mẹ. Hình như lúc nào cũng có một đứa theo dõi chúng tôi. Lúc đó tôi óan chúng lắm, sau nghĩ lại thấy nhờ có thế cuộc tình thêm thú vị. Chúng tôi lén lút hôn nhau ở dưới bếp, chỗ rửa mấy cái phin , sau hè, chỗ cầu tiêu, trên gác, sau cánh cửa tủ, ở ngòai hiên nhà dưới đêm trăng, trên nóc nhà giữa mưa khi chúng tôi lên dọi nhà còn Thi đứng dưới đưa mấy viên ngói...Sáng sớm bọn trẻ con thường ngủ muộn, chúng tôi được tự do vài giờ. Chúng nó dậy thì hết. Lễ lạc chúng nó không muốn đi chơi thì mẹ và ông chú tốt bụng đều tỏ ra sốt sắng hào phóng cho tiền khuyến khích chúng đi chơi xa...
Tôi thâm nhập khá sâu vào ngành cà phê lề đường. Tôi biết nơi mua cà phê hạt đem về rang, đi xay, thời đó tất cả điều này đều phải lén lút. Tôi biết cách pha chế chất độn, tôi biết cách thức mấy cô hàng cà phê câu khách và tôi cũng biết luôn cách thức bọn chuyên đi uống cà phê "cố sĩ " là kí sổ, đầy sổ rồi chạy. Cuộc tình ấy tưởng đâu yên xuôi không ngờ thời thế đổi khác, cuộc sống đi lên, người ta không uống cà phê vĩa hè nữa, lúc này phải có phòng ốc nhà cửa khang trang, máy lạnh, nhạc dĩa, vidéo... Cà phê vỉa hè tàn tạ dần dần rồi chết .
Chồng nàng học tập cải tạo cũng vừa mãn hạn về, thấy anh ta tôi đâm ra thương, đó thực sự là một người đàn ông tốt, người chồng tốt, người cha tốt, tóm lại anh ta hơn tôi nhiều lắm. Có một lần, buổi tối đạp xe qua trước nhà nàng, nhìn vào thấy chồng Thi hai tay bế hai đứa con. Hình ảnh tình phụ tử ruột rà đó khiến tôi cảm động, tỉnh ngộ. Không hẹn mà tôi và Thi chuyển từ trạng thái tình yêu thành tình bạn. Mọi việc khá suôn sẻ. Về sau đôi khi đến nhà nàng gặp lại Thi , thấy nét mặt, cử chỉ, thái độ nàng bình thản, đối đãi với tôi trước mặt chồng một cách đúng mức, không lạnh nhạt, không khắng khít quá đáng. Tôi rất khâm phục. Tôi khâm phục chung cả giới nữ, đối với tôi phụ nữ tinh tế tinh quái một cách bẩm sinh, ai cũng là diễn viên ưu tú, thiện nghệ, có người lên tới bực thượng thừa, nghệ sĩ nhân dân diễn xuất không bằng ! Nhiều khi tôi không làm sao tin được kia là cô Thi, người đã từng làm đủ trò bậy bạ với mình nay làm bộ dửng dưng, hay thực là hay. Nghe Thi kể về tôi chồng nàng tỏ ra rất quí mến tôi, tôi chắc cũng nhờ cái miệng có làn môi mọng, khoé miệng xếch, lúc nào trông cũng nũng nịu của Thi. Đàn ông vốn khờ khạo bẩm sinh bị phụ nữ xỏ mũi, qua mặt dễ dàng.
Có lần anh ta bảo vợ pha cà phê mời tôi. Anh nói thêm :" Cho hai li đặc biệt cô chủ quán !". Thấy vợ pha có một cốc, anh bảo làm thêm cốc nữa . Thi biết rõ tôi không uống cà phê. Nàng giỡn với tôi :
- Uống gì ? Cà phê đen hay cà phê đỏ ?
"Cà phê đỏ" là mật mã (Password) của hai chúng tôi nói về tình trạng giới nghiêm hàng tháng của người nữ. Anh ta chẳng hiểu cà phê đỏ là gì. Hỏi : "Bây giờ có lọai cà phê đỏ sao ?" Thi và tôi đều quay mặt nín cười .
Quý Thể
****
Người Đàn Bà Kể Chuyện
Quý Thể
Trước khi đến thăm chị Hoàng tôi đã chuẩn bị tinh thần để chứng kiến một cảnh thương tâm. Không thương tâm làm sao được khi đôi vợ chông Hoàng Lân đang sống hạnh phúc, bỗng chốc tan tành tất cả. Họ có với nhau bốn con cả trai lẫn gái, chúng vừa xinh đẹp, ngoan ngoãn lại học giỏi. Cặp vợ chông này đối với nhau vừa trìu mến vừa kính trọng thực đúng với câu "tương kính như tân". Thế rồi bỗng dưng Lân ngả bệnh. Hoàng chạy chữa đủ thầy đủ thuốc, cuối cúng số phận cướp mất hạnh phúc của họ. Lân qua đời, hôm đám tang cố tôi giúp sức, chôn cất người bạn xong thì tôi cũng mệt nhoài. Tôi sợ chị Hoàng không đứng vững nổi trước thử thách quá sức chịu đựng này. Hôm nay là ngày thứ bảy sau cái chết của Lân, tôi nghĩ mình phải có bổn phận tới thăm người vợ vừa mất chồng. Người chết thì đã an phận, còn người sống là chị Hoàng cần vượt qua được cái dốc đau thương cao vời vợi nầy. Sự có mặt của bạn bè lúc này thực là cần thiết.
Bảy giờ tối tôi đến nhà chị. Tôi nghĩ vào giờ này con người ta bắt đầu cô đơn. Ban ngày dù sao cũng có người lui tới, có công việc làm cho khuây khoả nỗi buồn, Khi công việc xong thì chắc chắn nỗi buồn ập đến. Tôi nghĩ mình phải xuất hiện đúng lúc để xua đi phần nào nỗi cô đơn cho người đàn bà bất hạnh này.
Tới nơi tôi lại rất ngạc nhiên. Nhà chị đèn đuốc sáng trưng. Tại phòng khách đang có đông người, đàn ông lẫn đàn bà, có người tôi biết mặt, cũng có người tôi không biết. Chị Hoàng ngồi chính giữa, khách khứa chung quanh. Trước mặt tôi không hề thấy hình ảnh một goá phụ ràn rụa nước mắt như tôi đã tưởng tượng trước khi ra đi. Tôi thấy nét mặt chị nghiêm nghị chứ không có chút gì tỏ ra não nuột phiền muộn. Còn mọi người thì có cái gì đó gần như là một sự háo hức chờ đợi.
Chị Hoàng đang kể chuyện. Giọng nói của chị tuy nhỏ nhưng lại rất trong nên dễ nghe :
- Chiều thứ bảy hôm đó ảnh đi làm về, như mọi ngày thì Lân đi tắm rồi ra ngồi xem tờ báo "Tin Chiều". Thường thường ảnh vừa xem báo vừa lai rai cốc rượu nhỏ. Nhưng hôm đó ảnh than mệt, không tắm, không xem báo, không uống rượu. Lân vào giường nằm, nhắm mắt. Từ ngày hai chúng tôi lấy nhau anh ấy sống điều độ như một chiếc đồng hồ, chẳng bao giờ có cái giấc ngủ bất thường như thế này. Tôi tự nhủ chắc có vấn đề gì làm cho anh bận tâm. Nhưng tôi tự trấn an mình, vả lại tuần qua đi công tác hai lần, chắc là ảnh mệt, năm nay anh cũng đã bốn mươi chín rồi. Cái đồng hồ đâu có thể đúng giờ mãi được, cũng có lúc nó trục trặc chứ. Tôi nhẹ nhàng sờ vào trán anh, thấy vẫn mát nhưng ấm, còn hơi thở thì hình như cái dài cái ngắn. Tôi tự nhủ không sao, ai lại chẳng có lúc như thế này...
Chị Hoàng dừng lại mời mọi người uống nước. Tôi thấy họ có vẻ chăm chú vào câu chuyện của chị. Tôi nghĩ nói năng một cách mạch lạc như thế chứng tỏ trong bảy ngày qua chị đã có dịp kể về cái chết của chồng nhiều lần cho nhiều người nghe rồi. Câu chuyện kể lần đầu tiên chắc không thể mạch lạc như thế. Chị tiếp tục:
- Đến giờ cơm tôi vào phòng, tính nếu ảnh ngủ thì để cho ngủ, nếu đã thức rồi thì mời dậy xơi cơm. Khi tôi rón rén tới gần. Lân trở mình hỏi : "Mấy giờ rồi?" Tôi đáp bảy giờ rồi mời anh ra xơi cơm. Chàng nói một cách mệt nhọc: "Không , em và các con ăn đi". Tôi hỏi : "Mình ăn cháo em nấu nhé?" Chàng đáp: " Không" rồi nhắm mắt lại. Tôi biết Lân chưa ngủ, nhưng trông cái thở thì biết Lân rất mệt. Tôi không dám hỏi nữa, đi ra khép cửa lại. Nửa đêm Lân kêu lạnh. Tôi đắp mền cho chàng, Lân run lập cập, hai hàm răng va vào nhau. Cả đời tôi chưa thấy người nào lạnh tới mức nầy. Tôi xức dầu nóng và ủ mền rất nhiều, chàng vẫn còn run. Tôi tính chở Lân tới phòng mạch bác sĩ nhưng đã quá khuya mà cũng chưa thể gọi là sáng. Chiếc đồng hồ quả lắc ở phòng khách ngân nga đổ ba tiếng. Tôi định đợi tới năm giờ, nghĩa là còn tới hai giờ nữa. Tôi sống trong sự chờ đợi và lo âu, thời gian kéo dài ra. Gần sáng thì cơn lạnh đi qua, chàng toát mồ hôi nhưng vẫn trằn trọc nằm không yên. Đúng năm giờ tôi gọi xe chở Lân đi bác sĩ...
Chị Hoàng dừng lại nhìn chung quanh rồi gọi lớn: Liêm ơi, lấy cái bình thuỷ lên đây. Trời ơi, con bé đi đâu mà không lo chăm nước". Có tiếng một người nào đó nói: "Thôi nước non chi, xin chị kể tiếp đi". Vị khách này rõ ràng chỉ muốn nghe kể chuyện. Đến lúc này tôi mới vỡ lẽ ra rằng nhiều người tới thăm không chỉ để chia buồn mà kỳ thực trong thâm tâm họ muốn được nghe kể lại câu chuyện cái chết. Tôi không hiểu tại sao cái chết của một con người có cái gì thu hút sự hiếu kỳ đến thế. Hôm nay họ tề tựu lại đây để phân ưu hay để được nghe chuyện thật khó mà biết được. . chị Hoàng là vai chính trong câu chuyện, chị lại được tập dượt nhiều lần nên câu chuyện của chị ngày càng trôi chảy hấp dẫn.
Chị mời mấy người đàn ông dùng thuốc, mời các bà các cô dùng nước. Chị ngồi khoanh tay trước ngực, lưng thẳng, nét mặt diễn tả phần nào tâm trạng nhân vật và tình huống của câu chuyện. Chỉ có điều là chị biết hạn chế, không để trở thành thái quá mà trong tình cảnh một quả phụ không được phép làm.
- Trời ơi, khổ ơi là khổ! Lân thì to nặng mà kêu phải ông đạp xích lô vừa già vừa yếu, cái xe lại cũ kỹ ọp ẹp. Ông già vừa đẩy xe vừa thở. Tôi đẩy tiếp nhưng lỡ mang đôi guốc cao gót nên trật lên trật xuống mới khổ cho chứ. Chiếc xe vừa lên dốc cầu Ông, đẩy quá nửa cầu gió từ sông thổi lên lạnh buốt. Đèn đường sáng mờ mờ trong làn sương, chiếc xe lại trở chứng, sắp sửa đổ dốc thì một bánh xe xẹp!
Đến đoạn này chị Hoàng đưa vào câu chuyện một tình tiết tuy không liên quan trực tiếp tới cái chết nhưng làm cho câu chuyện trở thành sống động và thực hơn. Có tiếng người hỏi ra vẻ sốt ruột: "Rồi sao nữa?"
- Vào giờ đó thì có nơi nào sửa xe? Tôi nghĩ chỉ còn cách thuyết phục ông già xích lô đẩy Lân tới phòng khám bệnh. Ông già cằn nhằn: " Chạy cuốc này được bao lăm đồng mà đẩy đi như thế nầy dập hết ruột của tôi". Chắc ông lão muốn nói dập cả ruột xe lẫn ruột người.
Tôi nghe có nhiều tiếng cười. Chị Hoàng cũng cười, nhưng chị kịp ngăn nụ cười lại. Ai lại có thể cười được khi chồng mới qua đời chỉ có bảy ngày?
- Gõ cửa phong mạch bác sĩ mãi mới nghe, trong nhà có tiếng dép lẹp xẹp. Rồi đèn bật sáng ,cửa mở. Hiện ra trước mặt tôi không phải ông bác sĩ mà là bà vợ ông ta. Lần đầu tiên tôi thấy mặt vợ bác sĩ Mỹ, tôi muốn nói mặt trần không son phấn, trông thảm hại làm sao, ngày thường có son phấn còn đỡ. .
Tôi sợ chị Hoàng đi quá xa. Tôi nghĩ những chi tiết kiểu nầy đưa vào câu chuyện cái chết của Lân không biết có hợp hay không, có làm loãng đi cái ý chính đi không ? Tôi quan sát một vòng bộ mặt quí thính giả ngồi chung quanh rõ ràng thể hiện sự hiếu kỳ lẫn thích thú. Như thế có thể kết luận là chi tiết không đi lạc. Tôi lại nghĩ đàn bà cũng lạ thật, trong những hoàn cảnh khó khăn họ vẫn quan tâm tới nhan sắc của nhau.
- Phải nửa giờ sau thì bệnh nhân mới gặp được bác sĩ . Câu nói đầu tiên của ông thầy thuốc làm cho tôi nhẹ hẳn người: "Ồ không sao đâu, chẳng có gì nghiêm trọng cả, chở đi đâu mà sớm thế?". Về sau tôi mới nhớ ra rằng ông bác sĩ này chưa sờ tới bệnh nhân, không phải ông an ủi chúng tôi mà ngầm trách chúng tôi đã đánh thức cả nhà ông dậy. Ngoài cái câu đó ra, ông chẳng nói chẳng rằng gì. Ông nghe, gõ, biên toa, rồi tính tiền. Cái điều tôi mong là biết được chồng tôi bệnh gì, nặng nhẹ ra làm sao, lại chẳng thấy ông đá động đến. Thấy khuôn mặt ông không biểu lộ chút cảm xúc gì nên tôi cũng tự an ủi : Chắc cũng là bệnh xoàng. Tôi lại kêu xe chở Lân về nhà. Tôi đi mua thuốc cho chàng. Tôi hỏi ông dược sĩ bệnh của chồng tôi. Ông ta nói đọc cái toa này không thể biết bệnh gì, chỉ thấy toàn thuốc kháng sinh và thuốc bổ. Lân uống thuốc, ba ngày sau vẫn không thuyên giảm, đêm nào cũng nóng rồi lạnh, sức khoẻ xuống dần, nước da vàng không ăn uống gì cả.
Nghe chị Hoàng kể tôi càng tin chắc giả thuyết tôi nêu ra ban đầu là đúng. Chị đã có dịp kể câu chuyện này nhiều lần rồi. Chị biết xếp đặt câu chuyện mạch lạc không chê vào đâu được. Chị đã dụng tâm để có khi đi xa chủ đề rồi quay lại. Dòng chính của câu chuyện vẫn giữ được mà người nghe không thấy chán.
- Chúng tôi còn tới phòng khám của bác sĩ Mỹ thêm hai lần nữa. Nhưng bệnh của chồng tôi ngày một nặng hơn. Rồi anh quyết định đưa anh vào bệnh viện. Tôi sững sờ. Chính bệnh nhân đã thấy rõ sự trầm trọng của căn bệnh mình. Chính Lân chọn cho mình nơi chữa trị, như thế không còn nghi ngờ gì nữa bệnh của chàng rất nặng. Tại bệnh viện người ta làm nhiều xét nghiệm. Hết người này tới sờ tới nghe lại đến người khác. Kết quả ra sao tôi không biết vì họ dùng từ ngữ chuyên môn với nhau, nhưng trông nét mặt người nào cũng tỏ vẻ trầm ngâm. Trong câu chuyện của họ tôi chỉ nghe loáng thoàng chữ "Gan". Càng về sau chữ này xuất hiện càng nhiều. Họ lại nghe, lại thử, lại cho thuốc. Bây giờ không phải chỉ đơn độc chữ "gan" mà còn thêm vào chữ "xơ", rồi chữ này cũng biến mất, thay vào đó là chữ "ung thư"! Trời ơi đến lúc này thì tôi hiểu tất cả rồi. Tôi hiểu hết số phận của gia đình chúng tôi. Lân thì ngày càng yếu. Da vàng như nghệ, đôi mắt trở thành đục như tràn một lớp nước vo gạo. Da mặt vừa bóng vừa vàng như chiếc vại sành. Cái bụng to dần, to một cách kỳ dị, lệch sang một bên như quả bí ngô méo mó. Chân tay teo tóp lại nhanh đến nỗi tôi không ngờ. Mỗi khi thay quần áo cho chàng tôi không cầm được nước mắt. Trên mặt chàng hai hố chứa đầy bóng tối, môi khô da bong ra từng mảng rồi nứt nẻ rớm máu.
Đến đoạn tả người chị Hoàng luôn luôn dùng hình ảnh kèm theo giúp cho người nghe dễ tưởng rtượng ra hình ảnh con bệnh. Rồi chị kể đến đoạn các thầy thuốc Tây y bó tay. Chị đem Lân về nhà trong nỗi đau thương ê chề. Rồi các vị đông y cũng chạy dài. Chị nuôi hy vọng vu vơ, ai biểu gì cũng làm theo, cho đến cái đoạn mà tôi cho là lý thú hơn cả trong câu chuyện, là đoạn nói về con rắn lục đuôi đỏ. Hãy nghe chị kể :
- Ông thầy ngải kêu tôi ra sau hè dặn nho û"Bây giờ chỉ còn cách này là cứu được nhưng hơi khó, trong một tuần lễ phải kiếm cho ra một con rắn lục đuôi đỏ, bỏ trong chiếc nồi đất hầm thành than cho ổng uống thì tức khắc hết bệnh". Tôi hỏi rắn ở đâu mà tìm ? Ông thầy nói một cách úp mở: " Nếu phần phước của ông mà còn thì sẽ có quới nhân giúp cho". Tôi cho người đi tìm. Cơ khổ, ở cái nơi phố phường nhộn nhịp thế này biết con rắn đuôi đỏ ở đâu ? Tới ngày thứ năm rồi mà vấn không thấy một tia hy vọng. Tôi tự nhủ phần số của chồng tôi đã hết rồi ! Qua ngày thứ sáu, trong khi tôi đang ngồi khóc rấm rức thì bỗng dưng nghe tiếng người nói lơ lớ trước nhà. Tôi chạy ra thì thấy một người Chàm mặc áo dài trằng, đầu cũng đội khăn trắng, tay xách chiếc giỏ mây bên trong có con rắn. Một con rắn lục đuôi đỏ! Tôi mừng đến nỗi suýt quỳ xuống lạy tạ người bán rắn. Tôi mừng vì đã có quới nhơn phù hộ và như thế thì số phần của chàng chưa hết. Con rắn nằm một cách hiền lành trong chiếc giỏ. Người Chàm thản nhiên cho tay vào giỏ bắt con rắn ra đưa cho tôi rồi nói: "Cầm đi nó không cắn được đâu, miệng nó bị may lại rồi!". Vì mừng quá, vì thương chồng, tôi liều cầm con rắn: nó ngo ngoe, mềm nhũn, lạnh ngắt, tôi rợn cả người. Con rắn dài cở nửa thườc, màu xanh như chiếc đọt chuối non, vảy của nó đỏ dần về phía đuôi. Người Chàm cho nó vào chiếc nồi đất, lấy vung đậy lại rồi lấy đất sét trám chung quanh. Anh ta bắc nó lên bếp lửa đỏ rực. Con rắn vùng vẫy ở bên trong. Trời ơi tôi nghe có tiếng rít! Người Chàm bảo : "nó huýt gió". Tôi không hiểu nổi trong cảnh đó có gì vui mà con rắn này huýt gió. Sau nửa giờ con rắn hoá thành than. Tôi cho Lân uống trong bảy ngày, vừa hết con rắn thì Lân qua đời. Sau này tôi mới vỡ lẽ ra rằng đây là một cuộc xếp đặt của ông thầy ngải để bán con rắn với giá thật cao.
Câu chuyện chị Hoàng kể nhờ con rắn lục đuôi đỏ và âm mưu của ông thầy ngải trở nên ly kỳ lại hoá ra nhẹ nhàng hơn cho một cái kết bi thương. Rồi chị kể tới việc ma chay chôn cất. Nhưng trong cảnh đau thương ấy chị lại đưa vào một chi tiết rất lạ :
- Khi thấy chàng gần tắt hơi, tôi thương cảm quá nói với Lân như thế này : "Mình yên tâm mà đi, em thề với mình em ở vậy nuôi con thờ chồng. Ôi kỳ lạ thay ! Tôi thấy mắt ảnh hé mở, chớp chớp mấy cái, cổ gục gặc, hình như đôi môi thoáng nở nụ cười ra chiều mãn nguyện!
Cái chi tiết mà tôi cho rằng hài hước độc đáo này đã làm cho câu chuyện bớt đi tính chất nặng nề. Nhà văn, người viết kịch, kẻ dựng phim cũng thướng sử dụng kỹ thuật nầy. Sau khi làm cho khán giả căng thẳng, đau thương hãi hùng tột độ, họ trả lại cho người xem sự thư giãn, thở phào, nhẹ nhõm. Không biết chị Hoàng tình cờ phát hiện hay chị đã học ở đâu đó cái kỹ thuật tài tình này?
***
Mấy ngày sau tôi tới thăm chị Hoàng cũng khoảng vào bảy tám giờ tối. Cảnh cũ lại tái diễn: chị ngồi kể chuyện cho nhiều người nghe. Tôi cũng ngồi xuống quan sát thấy số người có giảm hơn lần trước. Tôi ngạc nhiên vì câu chuyện chị kể lần nầy có vài chỗ khác so với câu chuyện ban đầu. Chị đã biết bỏ đi một số đoạn mờ nhạt để thế vào đó những tình thiết sắc nét hơn. Kết cấu câu chuyện chặt chẽ và chị biết thêm vào những đoạn mô tả tâm trạng từng nhân vật.
Chị nói tâm trạng của chị chuyển bbiến từ chỗ lo âu rồi tự dối mình để bớt lo âu, sau thì lo lắng thực sự, rồi sợ hãi, sầu não, mất hy vọng chán chường, buông xuôi. Còn Lân thì có lúc yêu thương vợ con, có lúc lại oán hận vì thiếu sự chăm sóc, dễ dãi rồi khó khăn, trách móc rồi tha thứ... Lúc đâu thì hình như chàng sợ chết, sau không còn sợ chết nữa, chỉ lo cho vợ con không có ai lo, cuối cùng thì chàng chẳng còn lo sợ gì tất cả, đó cũng là lúc chàng sắp lìa đời. Chị phân tích tâm lý từ vai chính cho tới những vai phụ trong cái vở kịch lớn này. Tôi thầm phục sự tinh tế của người đàn bà nầy. Đến đây ngoài sự liệt kê câu chuyện mà còn mang tính nghệ thuật nữa. Nếu ngày sau tôi có nghe chị trở thành nhà văn chắc tôi cũng không lấy gì làm ngạc nhiên.
***
Tháng sau tôi lại có dịp đến thăm chị Hoàng. Cũng vẫn cảnh chị Hoàng kể chuyện cho người khác nghe. Có điều số lượng người nghe ít hơn hai lần trước nhiều. Nhưng bù lại tôi được nghe một câu chuyện mà theo tôi là hoàn chỉnh hơn cả.
Để cho câu chuyện thêm phần huyền bí chị thêm vào những chi tiết ly kỳ. Chị nói ngay từ buổi đầu mới lấy nhau đã có những dấu hiệu báo trước sự bất hạnh, đã có những điềm gở. Hai cây bạch lạp trên bàn thờ đang cháy, trời im phăng phắc không một cơn gió, bỗng cây đèn cầy bên trái tắt ngấm, rồi bình hương bốc lửa ngọn. Lại một điềm lạ nữa, trước khi phát bệnh một tuần, như được linh tính báo trước, một hôm Lân soạn tất cả quần áo cũ gói lại thành một gói đem cho. Khi hỏi sao không để dùng thì Lân nói : để thêm chật hòm!". Theo chị thì quá rõ, chỉ có người Bắc mới nói cái rương bằng hòm. Lân đâu phải là người Bắc. Mà đúng thật, đến khi tẩm liệm cho chàng chẳng còn áo quần cũ bỏ vào cho chàng. Lúc còn nằm ở bệnh viện, một đêm Lân ú ớ. Khi lay dậy chàng nói : "Ghê quá có ba người đàn bà đứng trên đầu giường chỉ vào anh. Một bà thật cao, một bà vừa, một bà lùn tịt bằng đứa bé lên năm. Rùng rợn hơn cả là họ đen như lọ chảo!"
Như thế theo chị Hoàng thì cái chết của chồng đã được báo trước, ba bóng ma là cái hình ảnh kết thúc số phận hẩm hiu của chàng. Riêng phần kết cả ba câu chuyện chị kể đều đưa vào thuyết số mệnh nhưng cả ba cái kết đều có khác nhau. Câu chuyện đầu tiên chị oán trách số phận nghệt ngã. Câu chuyện thứ hai chị cho số mệnh là điêù tất nhiên nên không còn oán trách số mệnh mà còn thầm cảm ơn bởi vì sinh ký tử quì chết là trở về. Có ai ở mãi cõi đời ô trọc này nhất là chồng chị, con gnười đạo đức toàn vẹn. Với cái kết luận nầy chị đã tự an ủi mình mà còn làm cho người nghe cảm thấy lòng thanh thản hơn. Chỉ có điều với một câu chuyện hay như thế mà số người nghe lại ít hơn những lần trước rất nhiều. Không biết điều đó có làm cho chị buồn hay không ?
***
Một thời gian sau tôi lại có dịp đến thăm chị Hoàng. Lần này cảnh cũ không còn nữa. Chị Hoàng ngồi một mình ủ rũ trong phòng khách. Trông chị cô đơn hơn lúc nào hết. Kỳ lạ thay, ba tháng sau cái chết của người chồng trông chị lại buồn thảm hơn những ngày đầu. Thấy tôi đến chị rất mừng. Chị lo pha trà mời. Chị mời tôi uống, chị cũng uống. Uống trà xong tôi đem những chuyện không đâu ra nói với chị. Tôi tránh nhắc lại cái chết của Lân. Tôi nghĩ khơi lại nỗi đau của người quá phụ thì thật là độc ác. Nhưng tôi thấy chị lơ đãng với tất cả mọi chuyện. Tôi lại nghĩ hay là chị đã quen với việc kể chuyện. Kể chuyện đã trở thành một nhu cầu trong người chị rồi. Chị cần kể chuyện hay có thể nói chị đã ghiền kể chuyện. Vậy thì không để cho chị kể chuyện mới thật là độc ác đối với chị. Nghĩ thế cho nên tôi lại bắt đầu: "tội nghiệp qua, không biết hôm đó chuyện xảy ra như thế nào"...
Chị Hoàng hình như chỉ đợi có thế.
Chiều thứ bảy hôm đó
Quý Thể
&&&
Mộng Bá Vương
Quý Thể
Vào thời đó người ta gọi ông là ông Hoàng, có người bẩm "ngài ngự ", cũng có người kêu bằng 'Mệ'. Tên ông là Hoàng Thiên Hóa. Tôi không hiểu đây là họ Hoàng hay ông là Hoàng Tử. Ôâng xây cái rạp hát bội gọi là rạp hát ông Hoàng, trước cửa chợ Đông Ba. Ông mời các gánh hát bội từ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú yên đến hát. Có nhiều gánh hát bị cái mùa mưa lê thê xứ Huế cầm chân lại phải ăn dầm nằm dề cả mấy tháng liền ở rạp ông Hoàng.
Lũ trẻ con chúng tôi mê hát lắm, chiều nào cũng phải học bài sớm, kêu mẹ nấu cơm ăn, tắm rửa, cuốc bộ tới rạp ông hoàng. Học trò chẳng có tiền, muốn xem hát phải chờ thả giàn, cũng còn một cách nữa là vào rạp sớm xin làm chân kéo quạt kéo. Quạt kéo đan bằng nan tre phất giấy, to như chiếc chiếu đôi, treo gần nóc rạp, có dây kéo đong đưa tạo ra gió mát. Chổ kéo quạt trên nóc nhà rất gần với nơi đặt bàn thờ tổ. Trong am thờ bày biện tượng các nhân vật trứ danh của ngành hát bội, luôn luôn nhang khói âm u. Thuở ấy tôi chừng mười mấy tuổi, rất nhát gan, sợ ma. Tôi không dám xem mặt mấy thằng tướng Phiên, nhất là thằng Dương Phàm mặt vẽ rằn rện như ma quỉ , hắc bào hắc giáp, áo quần đen thui , lưng giắt mấy cờ hiệu. Tôi cũng sợ nhất cảnh Khương Linh Tá bị chém bay đầu hóa thành cây đuốc đưa đường. Xem mấy cảnh này, ban đêm về nhà tôi không dám bước xuống bếp .Thuở đó người ta hát bằng chữ nho, lâu lâu mới có vài câu nôm na "Như ta đây là..." . Thế nhưng chúng tôi cùng với mấy người nhà quê dốt nát đều hiểu tuồng tích và rất mê.
Tôi không nhớ vé vào cửa là bao nhiêu, hình như rẻ lắm, cho nên đêm nào có tuồng hay, gánh hát có tiếng đều bán hết vé. Khán giả gồm đầy đủ thành phần già trẻ, sang hèn. Giới công chức ăn lương nhà nước, có tiền, ngồi ghế hạng nhất. Lớp bình dân ngồi đầy những hàng ghế sau. Họ coi rạp hát như cái chợ, xước mía, bóc đậu phụng, ăn trầu hút thuốc, nói cười tự do. Không khí trong rạp đầy mùi nước tiểu, mùi thuốc rê, mùi dầu dừa bốc lên từ mái tóc dài, tóc bối . Trong rạp hát đầy sự hỗn độn, tiếng trống, tiếng kèn hát bội nghe như kèn đám ma. Ánh đèn măng sông thắp rất sáng, lâu lâu có thằng chạy hiệu leo lên sân khấu bắt cái ghế đứng bơm, đèn cháy kêu phù phù. Trong cái không khí nhộn nhạo đầy chất hát bội đó mấy anh lính lệ,các chị sen trốn chủ nhà đi chơi, lòng xuân phơi phới rạo rực tha hồ sờ mó, ngắt véo nhau la ối ối, cười rúc rích.
Ông Hoàng tuy là bực vương giả không phải người trong nghề như rất sành, ông thuộc tuồng tích, ông hát được, điệu bộ ông rất gọn gàn. Ông ngồi cầm chầu, thưởng phạt phân minh, đào kép trẻ đứng trên sân khấu không sợ khán giả, mà sợ ông đến nỗi phát run như sốt rét hát không được. Thời đó, y trang, râu ria, áo mão ông vẽ kiểu đem ra chợ Đông Ba thuê thợ làm. Có mấy người thợ chuyên làm đạo cụ cho gánh hát với tụi lên đồng ở điện Hòn Chén, thượng nguồn con Sông Hương. Đào kép phải biết dùng son phấn, vẽ mặt theo đúng tuồng tích, vai diễn. Nhiều thằng kép nghiện thuốc phiện, gần tới giờ lên sân khấu còn chạy tới tiệm hút ôm bàn đèn, lúc về vẽ vời qua loa lên sân khấu bị ông chửi. Hạ vai tuồng có khi còn bị đá đít, bạt tay.
Mấy con đào trước giờ lên sân khấu, kiếm cái xó ở hậu trường , thắp ngọn đèn sáp lấy cái gương soi mặt nhỏ như bàn tay, điểm trang. Họ thoa phấn hiệu 'Cô Ba' hai hào một lọ. Phấn khô, giống như phấn mấy ông đánh giày bata, mũ cối trong bằng điên điển (liège) ngoài bọc vải. Phấn khi đánh trộn với nước thành chất bột nhão bôi lên. Mấy chị đào già khuyên : ' bôi mỏng mỏng thôi, đừng cố trét như quét nước vôi, chưa già mà da đã hư, mốc meo nhăn nhúm như da voi'. Mấy chị này khuyên các em ra chợ Đông Ba tìm tới hàng mụ Tôn mua phấn nụ về dùng. Phấn nụ hầm bằng thạch cao, mịn và mát, có hai màu trắng và hồng, dùng không bị hư da. Son thoa môi có hiệu con Bướm hai màu đỏ ớt và đỏ cánh sen. Son đựng trong lọ chưa đúc thành thỏi như bây giờ . Hồi ấy đàn bà con gái thường tô son theo mốt hình trái tim. Muốn có má hồng, quý bà quí cô dùng phấn nụ màu hồng. Lên sân khấu phải có màu đậm hơn . Họ chấm son lên má, lấy gan bàn tay miết nhẹ về phía thái dương, kiểu như màu hồng quả đào tiên. Mấy thằng kép cũng đánh phấn thoa son . Họ còn dùng lọ nồi trộn với dầu dừa để vẽ mặt. Mặt đào kép bôi đủ thứ lên trên ấy, rất khó chịu, chỉ mong diễn xong chạy ra giếng lấy cục xà bông Cadum rửa đi cho nhẹ.
Khôi giáp xiêm y áo mão hát bội nhiều người dùng, chẳng mấy khi được giặt giũ, hôi hám vô cùng và đầy chí với rệp. Nhất là mấy bộ râu rất bẩn, đeo vào có khi ngạt thở. Đào kép ai cũng mong hạ vai, chui vào hậu trường, thoát bào thoát giáp, cởi bỏ áo xiêm cho nhẹ người ra. Mấy con đào non còn mắc cỡ lấy chiếc chiếu con quấn lại mà thay quần. Đào kép già không sợ sệt gì cả, ngang nhiên trút bỏ xiêm y, chạy trần truồng tồng ngỗng ra giếng xối nước ào ào. Họ trút bỏ phấn son cùng với nỗi nhọc nhằn quân thần phụ tử, tranh bá đồ vương, chạy ra cửa rạp húp tô cháo gà cho khỏe người. Thường thường lúc đó trời đã hửng sáng, họ chui vào xó xỉnh nào đó đắp chiếu đánh một giấc tới xế chiều, thức dậy ăn uống qua loa rồi gây sòng đánh bài xệp, bài tứ sắc, tới chạng vạng lại tô điểm lên sân khấu, đắm mình trong ánh đèn, sống theo hỉ nộ ái ố , trôi theo vận nước trò đời, ngày qua ngày theo dòng chảy cầm ca, cha truyền con nối không làm sao thoát khỏi cái "nghiệp" cho được.
Ông Hoàng thiên Hóa bắt cái đôn bằng sứ ngồi nép sau cánh gà thả hồn trôi ngược thời gian trở về cái thuở xa xưa, nghĩ tới thân phận mình, rơi nước mắt...
***
Chiều hôm qua nhân tết Nguyên Tiêu, rằm tháng giêng ông Hoàng được Tôn Nhơn Phủ, tra cứu sổ Hoàng tộc mời vào cung dự yến . Tuy ông là bậc cha chú hoàng đế đương triều nhưng vì không có phẩm hàm chức tước gì nên ông bị xếp ngồi chiếu dưới cùng với mấy người làm quan nhỏ, thất bát phẩm. Ông tủi thân và tức lắm. Trong bàn tiệc chẳng ai biết ông, bọn này thuộc hạng phàm phu tục tử , ăn uống xô bồ , chẳng kiêng nể gì ai cả. Ông Hoàng cầm đũa lên, chẳng gắp miếng nào. Ông với tay kéo chai rượu Mai Quế Lộ về phía mình rót uống. Ông nhấp nháp từ từ cái nỗi chua xót của một vương tử bị bỏ quên . Chẳng mấy chốc chai rượu cạn. Ông đứng lên, không thèm chào hỏi ai, rủ áo ra đi. Ông ra tới cửa Ngọ Môn kêu xe bảo kéo dọc bờ sông Hương hóng gió. Tới Phú Vân Lâu ông quay nhìn về phía hoàng cung . Giờ đó nóc điện Cần Chính , nơi đấng Kim Thượng ngự trên ngai vàng cho bá quan tung hô vạn tuế. Nóc điện sáng lên trong thứ lửa đỏ rực mây hoàng hôn.
Ông bảo thằng xe kéo về rạp. Ông xuống xe ném cho nó dác (hào) bạc con đầm xòe . Thằng xe mừng quýnh ấp úng : "Dạ thưa..." .Ông quát :
- Cho luôn ! Không thối, cặp dò chạy khỏe lắm...". Ngẫm nghĩ sao đó ,ông nói tiếp , khẩu khí đế vương : " Tao mà lên ngôi cho mày cái bát phẩm...". Thằng xe tưởng gặp lão già say, kéo xe bỏ đi. Ông lững thững vào rạp . Giờ đó rạp đầy người , vừa xong màn một, Khương hoàng hậu vén cánh gà bước vào hậu trường.
Đêm nay con đào chính bị đau răng không hát được, mụ Soa sắm vai Khương hoàng hậu. Mụ Soa đă bốn mươi lăm, đi hát từ ngày mười lăm. Mụ con nhà nghèo, nhà quê, cha mẹ cho vào đoàn để nấu cơm , quét rạp sau leo dần lên làm đào non, đào lẵn, đào thương, có khi cũng thủ vai đào võ như Đào Tam Xuân, Thoại Ba công chúa, Phàn Lê Huê... Mấy năm sau này mụ béo quá, lên sân khấu múa may nặng nề, được cái giọng hát còn tốt, son phấn vào cũng còn "sáng sân khấu". Mấy lão nhà quê sồn sồn nhìn cái tướng tá núng nính cả thịt, mông to như cái thúng, mặt mày dầy đặn, trông sướng con mắt lắm, nên tuy nhan sắc chẳng còn mặn mà tiếng hát chẳng còn trong trẻo cũng được khán giả quăng tiền lên thưởng.
Đêm nay mụ sắm vai Khương hoàng hậu, đẹp đẽ, uy nghi xứng đáng mặt người đứng đầu tam cung lục viện . Mụ khoác tấm xiêm may bằng gấm Thượng Hải màu cánh trả, lấp lánh kim tuyến thêu loan phượng . Dưới lai áo hoàng hậu treo mấy viên bi ve chai xanh đỏ giả làm ngọc bội hoàn. Mụ bước đi ngọc bội hoàn va vào nhau kêu lanh canh. Đầu mụ đội cái mão triều thiên làm rất cầu kì , kết bằng dây sắt xâu kim tuyến giả kim cương, nhiều cái lò xo gắn mấy miếng gương tròn như đồng xu rung rinh, lấp lánh trông rất đẹp. Chân hoàng hậu mang hài vân lí màu tìm thêu hoa bông cúc trắng. Mụ kẻ cặp mắt phượng mài ngài, đuôi mắt chẽ hình đuôi cá. Sống mũi bôi vệt phấn trắng, hai bên tô đen mờ, trông như mũi tây đầm . Cặp môi mụ Soa ngày thường vốn đã dày, như miếng thịt trâu tái giờ tô son hình quả tim, đỏ chót ướt rượt như thoa mỡ. Mặt hoàng hậu tô lớp phấn trắng dày quá trông như cái mặt nạ Nhật Bản , hai gò má màu cánh sen rất đậm. Mụ bước ra sân khấu, nói lối vài ba câu, hát nam hát khách, liếc mắt đưa tình làm cho mấy thằng đàn ông nhìn sững, đứng tròng.
***
Ông Hoàng đứng trong cánh gà nhìn ra thấy vị "chánh cung hoàng hậu" rực rỡ xiêm y, nhan sắc ngư trầm nhạn lạc, thực đúng là câu : " Đóa lê ngon mắt cửu trùng " . Lúc này chất rượu Mai Quế Lộ chảy rần rật trong máu làm cho ông khó phân biệt được thực hay là ảo. Ông cứ tưởng mình là đấng kim thượng. Mộng bá vương chất ngất trong hồn. Hoàng hậu thoái trào, ông liền bước tới âu yếm cầm tay mụ Soa, nghe ngan ngát mùi nước hoa Rêve d'or. Ngài phán :
- Trẫm đợi ái khanh đã lâu . Hãy lui vào hậu cung với trẫm.
Mụ soa lúc đầu ngơ ngác chưa biết chuyện gì . Mụ thấy ông Hoàng mặt mày đỏ gay, đầy mùi rượu, ngập ngụa hơi đàn ông, mụ sợ mà cũng thấy động lòng . Mụ biết ông Hoàng đang say . Mụ theo ông vào hậu trường . Lúc này hậu trường rạp hát vắng tanh . Một số đào kép còn đang diễn .
Số khác ra trước cửa rạp mua bắp tươi, mới héo râu, nướng trên lửa than , rưới nước mắm mỡ dằm ớt xiêm, thi nhau cạp. Số nữa ra bờ sông hóng mát, bắt bồ . Trong rạp hát giờ đó chỉ có một người , ngủ hay thức không biết , quấn chiếc chiếu rách nằm im . Mụ Soa được ông chủ rạp , ngày thường nghiêm nghị , nắm tay , xưng là "trẫm" , gọi là bằng "hậu" , mụ sung sướng lắm . Ông Hoàng tuy ngoài sáu mươi vẫn khỏe mạnh quắc thước, uy nghi phảng phất nét vương giả. Mụ Soa về rạp hát này đã lâu có nghe phong thanh tâm sự ông Hoàng bị thất sủng , nay nghe lão xưng là hoàng đế không lấy gì làm lạ.
Trong góc hậu trường có đặt cái long sàn để diễn tuồng tích cung đình. Long sàn là giường của vua nằm . Đó là tấm phản xấu xí , mốc meo , trên mặt ván đã nứt , đầy bụi bặm , chỉ được một cạnh , ấy là cạnh hướng về phía khán gián giả , sơn son thiếp vàng , chạm hình rồng năm móng .Ông Hoàng kéo mụ Soa tới gần long sàn nói :
- Đêm nay nhằm tết Nguyên Tiêu, trời trong, trăng sáng. Bá tánh kéo nhau đi xem hội hoa đăng. Trẫm vừa ngự yến trên điện Thái Hòa, dùng ngự tửu quỳnh tương. Đêm xuân trăng sáng, đất nước thanh bình , dân cư an lạc, trẫm với hậu vầy duyên loan phụng !!!
Mụ Soa vừa sợ lại vừa cảm động nói :
- Thần thiếp xin đội ơn mưa móc nhưng đêm nay chỗ này không tiện - mụ xổ giọng Huế nhà quê - làm rứa ốt dột (mắc cỡ) chết!
Ông Hoàng phán :
- Một năm mới có một giờ hoàng đạo . Hậu chớ có diên trì , trễ nãi mất giờ tốt. Loan phòng bảo điện đã sẵn sàng, hãy cùng ta chung giấc vu sơn !!!
Nhà vua xô Khương hoàng hậu ngã ngửa trên long sàn . Mụ Soa bị đàn ông chạm vào người , nhột , cười rúc rích :" Chu choa, không được mô. Mai thiếp dẫn tới chỗ ni tiện lắm". Mụ Soa vốn người Huế , sành mấy chỗ chứa bài, tiệm hút, ổ điếm, phòng trọ . Mụ nói: " gần cửa Thượng Tứ có phòng ngủ mụ Ròn, mỗi giờ năm dác bạc tha hồ..." Nằm ngửa trên "long sàn" mụ nói :
- Bệ hạ không ưng trên cạn thì xuống ngủ đò . Muốn kín đáo thì thuê xe kéo lên miệt Long Thọ thuê đò dọc thả trôi trên Sông Hương , dưới nước trên trăng phong lưu ai bằng. Đói bụng ăn cháo lòng, cơm hến . Mà nếu bệ hạ không ưng nữa thì thuê xe kéo lên miệt rừng thông Nam Giao, chui vào bụi, tha hồ tâm sự , ai biết.
Ông Hoàng nâng niu bộ mặt đầy thịt , cái đầu nhiều ngày không gội hôi mùi chua đội mão hoàng hậu trâm cài lược giắt vào đôi bàn tay hộ pháp nói :
- Còn đi đâu nữa, nơi nào bằng chốn này giường rồng, gối phụng, chăn loan...
Mụ Soa cố ngóc dậy, bị ông Hoàng đè xuống. Ông cầm cái mép xiêm có đính ngọc bội hoàn toan vén lên . Mụ Soa hốt hoảng : " Khoan đã ! Để tui cởi đồ hát tuồng ra cái đã mặc quần lãnh áo phin cho tiện" Ông Hoàng mê mụ Soa là mê cái chánh cung hoàng hậu . Hoàng hậu thì phải xiêm y lộng lẫy, quần lĩnh, áo phin sao được . Ông quát :
- Chánh cung hoàng hậu nghi trang phải cho tề chỉnh , đúng lễ nghi triều điển theo luật lệ tiên đế . Làm bậy, trẫm " phế" ngôi hoàng hậu ," biếm" vào lãnh cung bây chừ!
Mụ Soa lăn lộn kháng cự , lâu lâu đưa mắt nhìn con người quấn chiếu nằm trong xó . Mụ tâu :
- Xiêm y thế này làm sao bệ hạ "ngự" cho tiện?
Ông Hoàng :
- Lễ nghi y phục chỉnh tề mới đáng bậc mẫu nghi thiên hạ .
Mụ Soa đang biết ông Hoàng đang say. Sợ lão ta mắc chứng "thượng mã phong" thì nguy to . Mụ thưa :
- Bệ hạ đang lúc ngọc thể bất an, lỡ khi mây mưa gặp gió máy, nguy to cho sơn hà xã tắc.
Ông Hoàng cười :
- Trẫm đây dạn dầy trận mạc, có lo cái thứ " gió trên lưng ngựa" , với lại bực chơn mạng đế vương như trẫm, lúc nào cũng có thánh thần phù trợ . Thôi chẳng nhiều lời . Để trẫm "ngự dụng"!!!
Mụ Soa biết lão già say chẳng biết trời đất gì nữa , mụ tìm cách dọa :
- Bữa nay thiếp thần đã tới kì ... vóc ngọc chẳng được tinh khiết... sợ e ô trược mình rồng !
Nhà vua phán :
- Không sao, trẫm xá cho tất cả...
***
Người nằm như xác chết trong xó bỗng cựa mình ,tung chiếc chiếu rách ra, ngáp, chép miệng mấy cái, kêu to :
- Má thằng Vịt ơi, rót dùm tui miếng nước - nghỉ một lúc hắn nói tiếp, giọng nhừa nhựa - thuốc hành khổ quá . Giờ này còn tiệm nào mở cửa mua giùm tui mấy chỉ.
Ông Hoàng giật mình quát :
- Thằng nào dám làm kinh động thánh giá !
Mụ Soa nghe thất kinh nói nhỏ : "Lão Nhồng, cha thằng vịt , chồng tui đó " . Rồi mụ đổi giọng gắt với chồng :
- Ho lao. ho tổn mấy năm rồi , tốn biết bao nhiêu tiền ông lang với đốc tờ, lại còn thêm bệnh nghiện - Rồi mụ vừa khóc vừa hỉ mũi, than, có ai khổ như thân tui không ? Nuôi báo cô biết chừng nào thoát nợ...Sao không chết đi cho rồi ?
Mụ Soa hiện nguyên hình là con đàn bà tầm thường, đanh ác với người chồng ho lao gần chết nằm trong xó nhà như thằng ăn mày . Ôi ! cuộc đời thực đã ló cái mặt xấu xí trơ trẽn không son phấn của nó ra đúng lúc, đập tan cái cảnh tượng hoang đường có đấng kim thượng mặt rồng phơi phới , có hoàng hậu xiêm y rỡ ràng, sắc nước hương trời nơi chốn hậu cung màn treo trướng rũ trong đêm Nguyên Tiêu gió xuân trăng sáng. Phút chốc cái mộng quân vương của ông Hoàng thất thế bị cuộc đời thực đập vỡ tan tành.
Ông giật mình tỉnh ngộ, hổ thẹn , than thầm :" bậy quá!".
Đúng lúc ấy, ngoài kia sân khấu hạ màn . Chỉ có vài tiếng vỗ tay lẹt đẹt. Khán giả chen lấn nhau về . Ông Hoàng đi ra trước cửa rạp , chống nạnh đứng xem . Hơi nóng, hơi người hôi hám tuôn ra . Ông nghe tiếng bình phẩm : " Con đào già, to như cái bồ , đóng vai hoàng hậu ,õng ẹo như con khỉ mắc phong!",Ông Hoàng hỏi thằng bán vé được bao nhiêu ? Hăn đáp, đầu hôm mưa lắc rắc mấy hột, đêm nay ít khách lắm , chẳng được mấy xu. Ông nói, mấy thì mấy , lấy ra hai dác bạc đưa cho thằng Nhồng chồng con mụ Soa mua thuốc phiện. Hắn sắp chết rồi . Cho hắn chết sướng, chết ngay giữa cơn say thuốc, tưởng mình là vua . Thằng Nhồng chuyên đóng vai hoàng đế , cái vai dễ đóng nhất , chỉ cần mang râu, đội mão ngồi cho người ta tung hô vạn tuế .Vai này thường cho mấy thằng kép hết thời đóng. Tiền hát mỗi đêm chỉ bằng đứa chạy hiệu.
Ông Hoàng chắp tay sau lưng, lững thững tản bộ . Khuya lắm rồi. Mặt trăng lạnh lẽo sắc như mảnh gương treo lơ lửng trên hoàng cung. Bóng mấy cái đầu đao nhọn cong vút đâm lên trời như mũi kiếm.
Ông Hoàng đứng lại trên cầu, nhìn cái bóng của mình lẫn trong bóng hoàng thành chờn vờn trên mặt nước Sông Hương. Ông bỗng thấy lợm giọng . Ông cúi đầu nhổ một bãi nước bọt . Bóng hoàng thành và bóng ông rung rinh rồi tan đi.
Quý Thể
&&&
Người Đàn Bà Kể Chuyện
Quý Thể
Trước khi đến thăm chị Hoàng tôi đã chuẩn bị tinh thần để chứng kiến một cảnh thương tâm. Không thương tâm làm sao được khi đôi vợ chông Hoàng Lân đang sống hạnh phúc, bỗng chốc tan tành tất cả. Họ có với nhau bốn con cả trai lẫn gái, chúng vừa xinh đẹp, ngoan ngoãn lại học giỏi. Cặp vợ chông này đối với nhau vừa trìu mến vừa kính trọng thực đúng với câu "tương kính như tân". Thế rồi bỗng dưng Lân ngả bệnh. Hoàng chạy chữa đủ thầy đủ thuốc, cuối cúng số phận cướp mất hạnh phúc của họ. Lân qua đời, hôm đám tang cố tôi giúp sức, chôn cất người bạn xong thì tôi cũng mệt nhoài. Tôi sợ chị Hoàng không đứng vững nổi trước thử thách quá sức chịu đựng này. Hôm nay là ngày thứ bảy sau cái chết của Lân, tôi nghĩ mình phải có bổn phận tới thăm người vợ vừa mất chồng. Người chết thì đã an phận, còn người sống là chị Hoàng cần vượt qua được cái dốc đau thương cao vời vợi nầy. Sự có mặt của bạn bè lúc này thực là cần thiết.
Bảy giờ tối tôi đến nhà chị. Tôi nghĩ vào giờ này con người ta bắt đầu cô đơn. Ban ngày dù sao cũng có người lui tới, có công việc làm cho khuây khoả nỗi buồn, Khi công việc xong thì chắc chắn nỗi buồn ập đến. Tôi nghĩ mình phải xuất hiện đúng lúc để xua đi phần nào nỗi cô đơn cho người đàn bà bất hạnh này.
Tới nơi tôi lại rất ngạc nhiên. Nhà chị đèn đuốc sáng trưng. Tại phòng khách đang có đông người, đàn ông lẫn đàn bà, có người tôi biết mặt, cũng có người tôi không biết. Chị Hoàng ngồi chính giữa, khách khứa chung quanh. Trước mặt tôi không hề thấy hình ảnh một goá phụ ràn rụa nước mắt như tôi đã tưởng tượng trước khi ra đi. Tôi thấy nét mặt chị nghiêm nghị chứ không có chút gì tỏ ra não nuột phiền muộn. Còn mọi người thì có cái gì đó gần như là một sự háo hức chờ đợi.
Chị Hoàng đang kể chuyện. Giọng nói của chị tuy nhỏ nhưng lại rất trong nên dễ nghe :
- Chiều thứ bảy hôm đó ảnh đi làm về, như mọi ngày thì Lân đi tắm rồi ra ngồi xem tờ báo "Tin Chiều". Thường thường ảnh vừa xem báo vừa lai rai cốc rượu nhỏ. Nhưng hôm đó ảnh than mệt, không tắm, không xem báo, không uống rượu. Lân vào giường nằm, nhắm mắt. Từ ngày hai chúng tôi lấy nhau anh ấy sống điều độ như một chiếc đồng hồ, chẳng bao giờ có cái giấc ngủ bất thường như thế này. Tôi tự nhủ chắc có vấn đề gì làm cho anh bận tâm. Nhưng tôi tự trấn an mình, vả lại tuần qua đi công tác hai lần, chắc là ảnh mệt, năm nay anh cũng đã bốn mươi chín rồi. Cái đồng hồ đâu có thể đúng giờ mãi được, cũng có lúc nó trục trặc chứ. Tôi nhẹ nhàng sờ vào trán anh, thấy vẫn mát nhưng ấm, còn hơi thở thì hình như cái dài cái ngắn. Tôi tự nhủ không sao, ai lại chẳng có lúc như thế này...
Chị Hoàng dừng lại mời mọi người uống nước. Tôi thấy họ có vẻ chăm chú vào câu chuyện của chị. Tôi nghĩ nói năng một cách mạch lạc như thế chứng tỏ trong bảy ngày qua chị đã có dịp kể về cái chết của chồng nhiều lần cho nhiều người nghe rồi. Câu chuyện kể lần đầu tiên chắc không thể mạch lạc như thế. Chị tiếp tục:
- Đến giờ cơm tôi vào phòng, tính nếu ảnh ngủ thì để cho ngủ, nếu đã thức rồi thì mời dậy xơi cơm. Khi tôi rón rén tới gần. Lân trở mình hỏi : "Mấy giờ rồi?" Tôi đáp bảy giờ rồi mời anh ra xơi cơm. Chàng nói một cách mệt nhọc: "Không , em và các con ăn đi". Tôi hỏi : "Mình ăn cháo em nấu nhé?" Chàng đáp: " Không" rồi nhắm mắt lại. Tôi biết Lân chưa ngủ, nhưng trông cái thở thì biết Lân rất mệt. Tôi không dám hỏi nữa, đi ra khép cửa lại. Nửa đêm Lân kêu lạnh. Tôi đắp mền cho chàng, Lân run lập cập, hai hàm răng va vào nhau. Cả đời tôi chưa thấy người nào lạnh tới mức nầy. Tôi xức dầu nóng và ủ mền rất nhiều, chàng vẫn còn run. Tôi tính chở Lân tới phòng mạch bác sĩ nhưng đã quá khuya mà cũng chưa thể gọi là sáng. Chiếc đồng hồ quả lắc ở phòng khách ngân nga đổ ba tiếng. Tôi định đợi tới năm giờ, nghĩa là còn tới hai giờ nữa. Tôi sống trong sự chờ đợi và lo âu, thời gian kéo dài ra. Gần sáng thì cơn lạnh đi qua, chàng toát mồ hôi nhưng vẫn trằn trọc nằm không yên. Đúng năm giờ tôi gọi xe chở Lân đi bác sĩ...
Chị Hoàng dừng lại nhìn chung quanh rồi gọi lớn: Liêm ơi, lấy cái bình thuỷ lên đây. Trời ơi, con bé đi đâu mà không lo chăm nước". Có tiếng một người nào đó nói: "Thôi nước non chi, xin chị kể tiếp đi". Vị khách này rõ ràng chỉ muốn nghe kể chuyện. Đến lúc này tôi mới vỡ lẽ ra rằng nhiều người tới thăm không chỉ để chia buồn mà kỳ thực trong thâm tâm họ muốn được nghe kể lại câu chuyện cái chết. Tôi không hiểu tại sao cái chết của một con người có cái gì thu hút sự hiếu kỳ đến thế. Hôm nay họ tề tựu lại đây để phân ưu hay để được nghe chuyện thật khó mà biết được. . chị Hoàng là vai chính trong câu chuyện, chị lại được tập dượt nhiều lần nên câu chuyện của chị ngày càng trôi chảy hấp dẫn.
Chị mời mấy người đàn ông dùng thuốc, mời các bà các cô dùng nước. Chị ngồi khoanh tay trước ngực, lưng thẳng, nét mặt diễn tả phần nào tâm trạng nhân vật và tình huống của câu chuyện. Chỉ có điều là chị biết hạn chế, không để trở thành thái quá mà trong tình cảnh một quả phụ không được phép làm.
- Trời ơi, khổ ơi là khổ! Lân thì to nặng mà kêu phải ông đạp xích lô vừa già vừa yếu, cái xe lại cũ kỹ ọp ẹp. Ông già vừa đẩy xe vừa thở. Tôi đẩy tiếp nhưng lỡ mang đôi guốc cao gót nên trật lên trật xuống mới khổ cho chứ. Chiếc xe vừa lên dốc cầu Ông, đẩy quá nửa cầu gió từ sông thổi lên lạnh buốt. Đèn đường sáng mờ mờ trong làn sương, chiếc xe lại trở chứng, sắp sửa đổ dốc thì một bánh xe xẹp!
Đến đoạn này chị Hoàng đưa vào câu chuyện một tình tiết tuy không liên quan trực tiếp tới cái chết nhưng làm cho câu chuyện trở thành sống động và thực hơn. Có tiếng người hỏi ra vẻ sốt ruột: "Rồi sao nữa?"
- Vào giờ đó thì có nơi nào sửa xe? Tôi nghĩ chỉ còn cách thuyết phục ông già xích lô đẩy Lân tới phòng khám bệnh. Ông già cằn nhằn: " Chạy cuốc này được bao lăm đồng mà đẩy đi như thế nầy dập hết ruột của tôi". Chắc ông lão muốn nói dập cả ruột xe lẫn ruột người.
Tôi nghe có nhiều tiếng cười. Chị Hoàng cũng cười, nhưng chị kịp ngăn nụ cười lại. Ai lại có thể cười được khi chồng mới qua đời chỉ có bảy ngày?
- Gõ cửa phong mạch bác sĩ mãi mới nghe, trong nhà có tiếng dép lẹp xẹp. Rồi đèn bật sáng ,cửa mở. Hiện ra trước mặt tôi không phải ông bác sĩ mà là bà vợ ông ta. Lần đầu tiên tôi thấy mặt vợ bác sĩ Mỹ, tôi muốn nói mặt trần không son phấn, trông thảm hại làm sao, ngày thường có son phấn còn đỡ. .
Tôi sợ chị Hoàng đi quá xa. Tôi nghĩ những chi tiết kiểu nầy đưa vào câu chuyện cái chết của Lân không biết có hợp hay không, có làm loãng đi cái ý chính đi không ? Tôi quan sát một vòng bộ mặt quí thính giả ngồi chung quanh rõ ràng thể hiện sự hiếu kỳ lẫn thích thú. Như thế có thể kết luận là chi tiết không đi lạc. Tôi lại nghĩ đàn bà cũng lạ thật, trong những hoàn cảnh khó khăn họ vẫn quan tâm tới nhan sắc của nhau.
- Phải nửa giờ sau thì bệnh nhân mới gặp được bác sĩ . Câu nói đầu tiên của ông thầy thuốc làm cho tôi nhẹ hẳn người: "Ồ không sao đâu, chẳng có gì nghiêm trọng cả, chở đi đâu mà sớm thế?". Về sau tôi mới nhớ ra rằng ông bác sĩ này chưa sờ tới bệnh nhân, không phải ông an ủi chúng tôi mà ngầm trách chúng tôi đã đánh thức cả nhà ông dậy. Ngoài cái câu đó ra, ông chẳng nói chẳng rằng gì. Ông nghe, gõ, biên toa, rồi tính tiền. Cái điều tôi mong là biết được chồng tôi bệnh gì, nặng nhẹ ra làm sao, lại chẳng thấy ông đá động đến. Thấy khuôn mặt ông không biểu lộ chút cảm xúc gì nên tôi cũng tự an ủi : Chắc cũng là bệnh xoàng. Tôi lại kêu xe chở Lân về nhà. Tôi đi mua thuốc cho chàng. Tôi hỏi ông dược sĩ bệnh của chồng tôi. Ông ta nói đọc cái toa này không thể biết bệnh gì, chỉ thấy toàn thuốc kháng sinh và thuốc bổ. Lân uống thuốc, ba ngày sau vẫn không thuyên giảm, đêm nào cũng nóng rồi lạnh, sức khoẻ xuống dần, nước da vàng không ăn uống gì cả.
Nghe chị Hoàng kể tôi càng tin chắc giả thuyết tôi nêu ra ban đầu là đúng. Chị đã có dịp kể câu chuyện này nhiều lần rồi. Chị biết xếp đặt câu chuyện mạch lạc không chê vào đâu được. Chị đã dụng tâm để có khi đi xa chủ đề rồi quay lại. Dòng chính của câu chuyện vẫn giữ được mà người nghe không thấy chán.
- Chúng tôi còn tới phòng khám của bác sĩ Mỹ thêm hai lần nữa. Nhưng bệnh của chồng tôi ngày một nặng hơn. Rồi anh quyết định đưa anh vào bệnh viện. Tôi sững sờ. Chính bệnh nhân đã thấy rõ sự trầm trọng của căn bệnh mình. Chính Lân chọn cho mình nơi chữa trị, như thế không còn nghi ngờ gì nữa bệnh của chàng rất nặng. Tại bệnh viện người ta làm nhiều xét nghiệm. Hết người này tới sờ tới nghe lại đến người khác. Kết quả ra sao tôi không biết vì họ dùng từ ngữ chuyên môn với nhau, nhưng trông nét mặt người nào cũng tỏ vẻ trầm ngâm. Trong câu chuyện của họ tôi chỉ nghe loáng thoàng chữ "Gan". Càng về sau chữ này xuất hiện càng nhiều. Họ lại nghe, lại thử, lại cho thuốc. Bây giờ không phải chỉ đơn độc chữ "gan" mà còn thêm vào chữ "xơ", rồi chữ này cũng biến mất, thay vào đó là chữ "ung thư"! Trời ơi đến lúc này thì tôi hiểu tất cả rồi. Tôi hiểu hết số phận của gia đình chúng tôi. Lân thì ngày càng yếu. Da vàng như nghệ, đôi mắt trở thành đục như tràn một lớp nước vo gạo. Da mặt vừa bóng vừa vàng như chiếc vại sành. Cái bụng to dần, to một cách kỳ dị, lệch sang một bên như quả bí ngô méo mó. Chân tay teo tóp lại nhanh đến nỗi tôi không ngờ. Mỗi khi thay quần áo cho chàng tôi không cầm được nước mắt. Trên mặt chàng hai hố chứa đầy bóng tối, môi khô da bong ra từng mảng rồi nứt nẻ rớm máu.
Đến đoạn tả người chị Hoàng luôn luôn dùng hình ảnh kèm theo giúp cho người nghe dễ tưởng rtượng ra hình ảnh con bệnh. Rồi chị kể đến đoạn các thầy thuốc Tây y bó tay. Chị đem Lân về nhà trong nỗi đau thương ê chề. Rồi các vị đông y cũng chạy dài. Chị nuôi hy vọng vu vơ, ai biểu gì cũng làm theo, cho đến cái đoạn mà tôi cho là lý thú hơn cả trong câu chuyện, là đoạn nói về con rắn lục đuôi đỏ. Hãy nghe chị kể :
- Ông thầy ngải kêu tôi ra sau hè dặn nho û"Bây giờ chỉ còn cách này là cứu được nhưng hơi khó, trong một tuần lễ phải kiếm cho ra một con rắn lục đuôi đỏ, bỏ trong chiếc nồi đất hầm thành than cho ổng uống thì tức khắc hết bệnh". Tôi hỏi rắn ở đâu mà tìm ? Ông thầy nói một cách úp mở: " Nếu phần phước của ông mà còn thì sẽ có quới nhân giúp cho". Tôi cho người đi tìm. Cơ khổ, ở cái nơi phố phường nhộn nhịp thế này biết con rắn đuôi đỏ ở đâu ? Tới ngày thứ năm rồi mà vấn không thấy một tia hy vọng. Tôi tự nhủ phần số của chồng tôi đã hết rồi ! Qua ngày thứ sáu, trong khi tôi đang ngồi khóc rấm rức thì bỗng dưng nghe tiếng người nói lơ lớ trước nhà. Tôi chạy ra thì thấy một người Chàm mặc áo dài trằng, đầu cũng đội khăn trắng, tay xách chiếc giỏ mây bên trong có con rắn. Một con rắn lục đuôi đỏ! Tôi mừng đến nỗi suýt quỳ xuống lạy tạ người bán rắn. Tôi mừng vì đã có quới nhơn phù hộ và như thế thì số phần của chàng chưa hết. Con rắn nằm một cách hiền lành trong chiếc giỏ. Người Chàm thản nhiên cho tay vào giỏ bắt con rắn ra đưa cho tôi rồi nói: "Cầm đi nó không cắn được đâu, miệng nó bị may lại rồi!". Vì mừng quá, vì thương chồng, tôi liều cầm con rắn: nó ngo ngoe, mềm nhũn, lạnh ngắt, tôi rợn cả người. Con rắn dài cở nửa thườc, màu xanh như chiếc đọt chuối non, vảy của nó đỏ dần về phía đuôi. Người Chàm cho nó vào chiếc nồi đất, lấy vung đậy lại rồi lấy đất sét trám chung quanh. Anh ta bắc nó lên bếp lửa đỏ rực. Con rắn vùng vẫy ở bên trong. Trời ơi tôi nghe có tiếng rít! Người Chàm bảo : "nó huýt gió". Tôi không hiểu nổi trong cảnh đó có gì vui mà con rắn này huýt gió. Sau nửa giờ con rắn hoá thành than. Tôi cho Lân uống trong bảy ngày, vừa hết con rắn thì Lân qua đời. Sau này tôi mới vỡ lẽ ra rằng đây là một cuộc xếp đặt của ông thầy ngải để bán con rắn với giá thật cao.
Câu chuyện chị Hoàng kể nhờ con rắn lục đuôi đỏ và âm mưu của ông thầy ngải trở nên ly kỳ lại hoá ra nhẹ nhàng hơn cho một cái kết bi thương. Rồi chị kể tới việc ma chay chôn cất. Nhưng trong cảnh đau thương ấy chị lại đưa vào một chi tiết rất lạ :
- Khi thấy chàng gần tắt hơi, tôi thương cảm quá nói với Lân như thế này : "Mình yên tâm mà đi, em thề với mình em ở vậy nuôi con thờ chồng. Ôi kỳ lạ thay ! Tôi thấy mắt ảnh hé mở, chớp chớp mấy cái, cổ gục gặc, hình như đôi môi thoáng nở nụ cười ra chiều mãn nguyện!
Cái chi tiết mà tôi cho rằng hài hước độc đáo này đã làm cho câu chuyện bớt đi tính chất nặng nề. Nhà văn, người viết kịch, kẻ dựng phim cũng thướng sử dụng kỹ thuật nầy. Sau khi làm cho khán giả căng thẳng, đau thương hãi hùng tột độ, họ trả lại cho người xem sự thư giãn, thở phào, nhẹ nhõm. Không biết chị Hoàng tình cờ phát hiện hay chị đã học ở đâu đó cái kỹ thuật tài tình này?
***
Mấy ngày sau tôi tới thăm chị Hoàng cũng khoảng vào bảy tám giờ tối. Cảnh cũ lại tái diễn: chị ngồi kể chuyện cho nhiều người nghe. Tôi cũng ngồi xuống quan sát thấy số người có giảm hơn lần trước. Tôi ngạc nhiên vì câu chuyện chị kể lần nầy có vài chỗ khác so với câu chuyện ban đầu. Chị đã biết bỏ đi một số đoạn mờ nhạt để thế vào đó những tình thiết sắc nét hơn. Kết cấu câu chuyện chặt chẽ và chị biết thêm vào những đoạn mô tả tâm trạng từng nhân vật.
Chị nói tâm trạng của chị chuyển bbiến từ chỗ lo âu rồi tự dối mình để bớt lo âu, sau thì lo lắng thực sự, rồi sợ hãi, sầu não, mất hy vọng chán chường, buông xuôi. Còn Lân thì có lúc yêu thương vợ con, có lúc lại oán hận vì thiếu sự chăm sóc, dễ dãi rồi khó khăn, trách móc rồi tha thứ... Lúc đâu thì hình như chàng sợ chết, sau không còn sợ chết nữa, chỉ lo cho vợ con không có ai lo, cuối cùng thì chàng chẳng còn lo sợ gì tất cả, đó cũng là lúc chàng sắp lìa đời. Chị phân tích tâm lý từ vai chính cho tới những vai phụ trong cái vở kịch lớn này. Tôi thầm phục sự tinh tế của người đàn bà nầy. Đến đây ngoài sự liệt kê câu chuyện mà còn mang tính nghệ thuật nữa. Nếu ngày sau tôi có nghe chị trở thành nhà văn chắc tôi cũng không lấy gì làm ngạc nhiên.
***
Tháng sau tôi lại có dịp đến thăm chị Hoàng. Cũng vẫn cảnh chị Hoàng kể chuyện cho người khác nghe. Có điều số lượng người nghe ít hơn hai lần trước nhiều. Nhưng bù lại tôi được nghe một câu chuyện mà theo tôi là hoàn chỉnh hơn cả.
Để cho câu chuyện thêm phần huyền bí chị thêm vào những chi tiết ly kỳ. Chị nói ngay từ buổi đầu mới lấy nhau đã có những dấu hiệu báo trước sự bất hạnh, đã có những điềm gở. Hai cây bạch lạp trên bàn thờ đang cháy, trời im phăng phắc không một cơn gió, bỗng cây đèn cầy bên trái tắt ngấm, rồi bình hương bốc lửa ngọn. Lại một điềm lạ nữa, trước khi phát bệnh một tuần, như được linh tính báo trước, một hôm Lân soạn tất cả quần áo cũ gói lại thành một gói đem cho. Khi hỏi sao không để dùng thì Lân nói : để thêm chật hòm!". Theo chị thì quá rõ, chỉ có người Bắc mới nói cái rương bằng hòm. Lân đâu phải là người Bắc. Mà đúng thật, đến khi tẩm liệm cho chàng chẳng còn áo quần cũ bỏ vào cho chàng. Lúc còn nằm ở bệnh viện, một đêm Lân ú ớ. Khi lay dậy chàng nói : "Ghê quá có ba người đàn bà đứng trên đầu giường chỉ vào anh. Một bà thật cao, một bà vừa, một bà lùn tịt bằng đứa bé lên năm. Rùng rợn hơn cả là họ đen như lọ chảo!"
Như thế theo chị Hoàng thì cái chết của chồng đã được báo trước, ba bóng ma là cái hình ảnh kết thúc số phận hẩm hiu của chàng. Riêng phần kết cả ba câu chuyện chị kể đều đưa vào thuyết số mệnh nhưng cả ba cái kết đều có khác nhau. Câu chuyện đầu tiên chị oán trách số phận nghệt ngã. Câu chuyện thứ hai chị cho số mệnh là điêù tất nhiên nên không còn oán trách số mệnh mà còn thầm cảm ơn bởi vì sinh ký tử quì chết là trở về. Có ai ở mãi cõi đời ô trọc này nhất là chồng chị, con gnười đạo đức toàn vẹn. Với cái kết luận nầy chị đã tự an ủi mình mà còn làm cho người nghe cảm thấy lòng thanh thản hơn. Chỉ có điều với một câu chuyện hay như thế mà số người nghe lại ít hơn những lần trước rất nhiều. Không biết điều đó có làm cho chị buồn hay không ?
***
Một thời gian sau tôi lại có dịp đến thăm chị Hoàng. Lần này cảnh cũ không còn nữa. Chị Hoàng ngồi một mình ủ rũ trong phòng khách. Trông chị cô đơn hơn lúc nào hết. Kỳ lạ thay, ba tháng sau cái chết của người chồng trông chị lại buồn thảm hơn những ngày đầu. Thấy tôi đến chị rất mừng. Chị lo pha trà mời. Chị mời tôi uống, chị cũng uống. Uống trà xong tôi đem những chuyện không đâu ra nói với chị. Tôi tránh nhắc lại cái chết của Lân. Tôi nghĩ khơi lại nỗi đau của người quá phụ thì thật là độc ác. Nhưng tôi thấy chị lơ đãng với tất cả mọi chuyện. Tôi lại nghĩ hay là chị đã quen với việc kể chuyện. Kể chuyện đã trở thành một nhu cầu trong người chị rồi. Chị cần kể chuyện hay có thể nói chị đã ghiền kể chuyện. Vậy thì không để cho chị kể chuyện mới thật là độc ác đối với chị. Nghĩ thế cho nên tôi lại bắt đầu: "tội nghiệp qua, không biết hôm đó chuyện xảy ra như thế nào"...
Chị Hoàng hình như chỉ đợi có thế.
Chiều thứ bảy hôm đó...
Quý Thể
&
Tín Hiệu Mùa Xuân
Trông họ giống như một cặp tình nhân mới yêu nhau. Mới yêu nhau nếu yêu lâu, người ta cũng đã lười chớ chẳng được tình tứ đến thế. Cách sống của cặp nầy khiến cho người chung quanh đem ra bình phẩm bàn tán, dị nghị. Có người khen, cũng có người chê. Chị Việt nói :" Trông anh Tưởng với chị Viên giống như hai con chim bồ câu lúc nào cũng quyến luyến mớm mồi cho nhau. Đi đâu đều có đôi, ăn gì cũng ngồi cạnh nhau, gắp thức ăn, chăm sóc cho nhau. Họ mê nhau chớ chẳng phải vợ chồng. Tình tứ đến thế là cùng! Vợ chồng mình chỉ mong được một phần mười như thế đã mừng rồi..." Mụ Nguyệt lại nói:" Vợ chồng đầu ấp tay gối, ăn đời ở kiếp với nhau, chớ đâu phải ngày một ngày hai. Phải biết chuyển cái chữ tình thành cái chữ nghĩa, như thế mới bền. Ở trong phòng muốn làm gì cũng được, ra chỗ đông đúc âu yếm với nhau như kiểu xi-nê ai chịu được? " Mụ Tám bánh canh lại nói :" Ngó dị òm! Người mình chớ Tây Đầm gì mà ra đường ôm vai, hót cổ nhau ở chỗ đông người, không biết chướng!"...
Nếu mấy người ấy biết được cách sống của cặp nầy ở trong nhà khác thường hơn thế nữa, họ còn bàn tán đến đâu. Ai đời đã là vợ chồng, sống chung một nhà mà có khi còn thư từ cho nhau, giấu dưới gối. Nội dung những thư từ thì tỏ lòng yêu mến trách móc giận hờn, chẳng khác gì trẻ con. Tối, trước khi đi ngủ chàng và nàng còn "good night", chúc mộng đẹp . Sáng sau chàng đi làm còn hôn vợ từ giã mong sớm gặp nhau. Trưa về chờ đón trước cửa. Sinh nhật, kỉ niệm ngày cưới lễ lạc linh đình.
Nhà họ không hề thiếu hoa tươi. Những lời khen tặng nhau. Họ sống đúng theo "sách vở" . Thời buổi khó khăn nầy hiếm có gia đình nào như họ.
Mọi sự đều có căn nguyên của nó. Trước tiên là điều kiện kinh tế. Nếu vợ chồng đầu tắt mặt tối thì còn hơi sức nào bỏ công làm cái chuyện "tiểu thuyết" như thế ? Đàng nầy cô vợ nhờ hưởng khoảng hồi môn lớn, với cơ sở sản xuất tháng nào cũng có đồng vào, mà lại nhiều nữa, tiêu không hết, không sống phong lưu cũng uỗng. Chị Viên còn thừa hưởng của gia điønh cái tính nghệ sĩ, lãng mạn, ảnh hưởng nặng nề phim ảnh TV và cũng bởi tiểu thuyết tâm lí ái tình và nhất là thi ca ướt át. Chị ta cố sống sao cho thật giống những nhân vật tài tử giai nhân ấy. Thuở còn đi học chị Viên đã có ước mơ, sau nầy tổ chức cuộc sống và hướng cho người bạn đời của mình, ngày nào cũng vui như ngày mới cưới, đêm nào cũng thú vị như đêm tân hôn. Cuộc đời phải thi vị hoàn hảo như thế từ ngày đầu tiên cho đến khi tóc bạc răng long từ giã cuộc đời nầy. Viên sợ nhất là thiếu tình yêu. Nàng còn sợ vợ chồng nhàm chán nhau, sự nhàm chán là kẻ thù của hạnh phúc. Muốn được thế, mỗi ngày phải là một ngày mới, phải tìm ra niềm vui mới lạ để cuộc sống luôn luôn lấp lánh ánh sáng hạnh phúc diệu kì. Muốn được thế còn phải có thêm một điều kiện nữa là người bạn đời cũng phải đồng quan điểm.
Cũng may, anh Tưởng chồng cô là một người hết sức ba phải. Vợ nói gì anh cũng nghe theo. Anh lí luận: Chìu vợ lợi trăm bề, được ăn ngon mặc đẹp, việc nhà chẳng cần mó tay, cơm nước tiền nong chi tiêu trong nhà đã có người lo. Vậy thì chống lại vợ làm gì? Cái tự ái hão huyền của thằng đàn ông ích lợi gì? Lí luận nầy cũng đặt trên cơ sở "tương quan lực lượng kinh tế". Cán cân nghiêng hẳn về phía người vợ. Chị giàu anh nghèo. Anh tứ cố vô thân. Mỗi khi mấy người bà con xa của anh đến thăm chỉ làm anh xấu hổ với vợ. Anh xuất thân từ một gia đình nghèo. Cái vốn của anh chỉ là bộ mặt điển trai với cái bằng kĩ sư tại chức.
Tuy thế anh Tưởng cũng có công việc làm trong nhà. Anh chọn cho mình một loại công việc nhẹ. Tuy nhẹ song đó là công việc mang tính sáng tạo, giống kiểu lao động nhà văn, nhà thơ... Ấy là việc ngày ngày tìm lời tán tỉnh vợ. Những câu khen tặng không thể cứ ngày nầy sang ngày nọ không được thay đổi. Nói rặt một câu thì chán chết. Phải đổi mới, giống như hàng ngày đổi món ăn. Vì thế anh cũng phải động não tìm cái mới. Thời gian đầu có bao nhiêu câu khen tặng hay ho anh đã phung phí hết cả rồi. Thành ra cái vốn ấy đáng lí ra để dùng cho một thời gian lâu dài, anh tiêu nhẵn trong có mấy tháng đầu sau lễ cưới. Vì thế anh phải sáng tạo, sáng tạo mãi. Cũng may Tưởng là người sáng dạ. Khi đã cạn những lời xưng tụng, anh tìm "nguồn" trong sách vở, nhất là trong mấy bộ tiểu thuyết ái tình rẻ tiền, loại in chữ lớn, dày cộm. Tưởng mở sổ tay ra chép mấy câu văn hay ho nầy, học thuộc lòng, có dịp đem ra nịnh vợ. Lần nầy anh chàng đã biết tiết kiệm lời khen, mỗi ngày chỉ đem ra dùng một câu, không dám phung phí như buổi đầu. Nhưng rồi nguồn nầy cũng cạn. Tưởng lại tìm đọc. Anh trách sách vở ngày nay viết bật bạ quá. Trai gái bây giờ chúng chẳng bỏ công tán tỉnh nhau, mới quen đã lôi vào phòng ngủ. Tưởng thầm oán xã hội ngày nay đã đánh mất sự lãng mạn. Tưởng xoay qua tìm nguồn trong thơ. Lúc đầu chưa có kinh nghiệm, anh vớ phải mấy tập thơ siêu thực. Anh cầm lên ngâm nga, chưa được bao nhiêu câu đã hoảng hồn vì thơ ngày nay chẳng có câu gì nghe êm tai cả. Đại loại như:" requiem, hom hem, tèm lem...!" Cũng may mấy năm gần đây thơ tình lạm phát. Nhớ lại cái thời thơ tình là món hàng quốc cấm, bài nào có chữ "em ơi" là bị sổ toẹt ngay. Đích thị là "một thời để nhớ". Song con người luôn luôn hành động theo kiểu quả lắc đồng hồ, chẳng bao giờ nó chịu đứng yên ở cái thế trung dung mà thường từ cực tả sang cực hữu. Thơ cũng thế. Sau khi được buông thả, thơ chuyển sang hướng cực hữu, thể hiện rõ nhất ở chỗ người người làm thơ tình. Lão ông lão bà gần đất xa trời cũng miệt mài làm thơ tình. Thơ tình đủ cấp độ, từ phường xã tới trung ương. Anh Tưởng cứ việc theo kiểu trích cú tầm chương, chép vào sổ tay, lâu lâu xổ ra một câu. Cái lỗ tai của cô Viên cũng tiến kịp với trào lưu văn nghệ hiện đại. Trình độ nàng cũng đã thưởng thức được những câu tán dương cao cấp, trừu tượng, siêu thực...Viên rất bằng lòng về người chồng có thể gọi là lí tưởng nầy. Những hoài bão lớn trong cuộc sống của nàng đã thành hiện thực. Chỉ còn vấn đề...
Trong cuộc sống, có một loại sinh hoạt tối quan trọng, đó là việc gối chăn. Viên còn muốn trộn lẫn cái chất lãng mạn vào lĩnh vực "trần tục" nầy. Nàng không thể chấp nhận chủ nghĩa thực dụng đi vào trong cái chốn đầy sự tế nhị nầy. Chỉ riêng cái cách mời gọi nhau cũng là một vấn đề.
Làm sao để người bạn tình biết rằng mình đang cần và lúc nào là an toàn và thích hợp nhất. Lâu nay Viên áp dụng ngừa thai theo phương pháp Ogino, nàng rất sành tính toán, lại thêm cái tính cẩn thận, muốn được an toàn tuyệt đối, nên tính tới tính lui, trừ hao, mỗi tháng chỉ còn lại có hai ngày. Hai ngày ngắn ngủi làm sao để chàng biết nhiệm vụ. Việc nầy không thể dùng lời lẽ, vì dù có văn hoa văn vẻ cách mấy cũng thành phàm tục. Cũng không thể làm theo kiểu mấy ông lớn ở cơ quan, đầu tuần giao ban và sau đó "lên lịch công tác". Theo Viên phải có một loại tín hiệu, tín hiệu hồng, hín hiệu xanh, gọi chung là tín hiệu mùa xuân, để báo rằng người phụ nữ đang ở trong mùa xuân, sẳn sàng nở hoa kết trái, và rất cần ong bướm. Lọai thông điệp mật nầy chỉ có hai người biết. Nghĩ mãi không ra. Mọi phát kiến lớn về khoa học thường thường đến do tình cờ. Ở đây cái phát kiến ra "thông điệp mùa xuân" cũng xuất hiện một cách tình cơ.
Một hôm hai vợ chồng ngồi ăn cơm trưa. Chàng thấy dưới mái tóc ngắn đen bóng cắt theo hình cánh chim sắc cạnh, có chiếc hoa tai bằng nhựa, một tấm nhựa dày màu hồng hình quả tim vỡ. Chàng cất lời khen:
- Trông thấy chiếc hoa tai tim vỡ em đeo lòng anh thấy rạo rực. Anh thèm khát yêu em...
Sự thật vì buổi trưa hôm ấy trời rất nóng, chàng vừa nốc hai chai bia Saigon, chất cồn chảy rần rần trong máu nên mới có lời khen ngợi "mạnh bạo" này. Song lời ca ngợi ấy làm khuấy động sâu xa lòng nàng. Từ đó không hẹn mà cả hai cùng chấp nhận chiếc hoa tai tim vỡ là dấu hiệu mùa xuân đã tới đối với người phụ nữ lãng mạn. Mỗi lần nàng mang nó, anh ta hiểu ấy là nàng bật đèn xanh cho anh hành động.
Phát kiến thật vĩ đại giải quyết một cách hết sức tế nhị cái chuyện vô cùng tế nhị giữa hai người. Nó chính là "tín hiệu mùa xuân" trong lòng và thể xác người nữ. Nó thành hình trong tình cờ và giúp cho vợ chồng giải quyết được việc lớn. Nó hoàn thành trách nhiệm tốt trong một thời gian dài, kể ra cũng gần mười năm. Thế nhưng tình hình giữa cặp này có thay đổi. Nàng ngày càng phây phây, ở tuổi tiền mãn kinh, nàng béo ra, cổ có ngấn, da bụng dày cả tấc. Trong khi ấy người nam lại rơi vào tình trạng đi xuống, sức khoẻ xuất hiện nhiều vấn đề. Những dấu hiệu đi xuống hiện rất rõ nơi cái đồ thị sinh lý người nam. Đồ thị lúc đầu chỉ là một đường cong nhẹ, về sau, mũi tên đi xuống, chúc xuống nhiều hơn. Cuối cùng nó gần như rơi tự do. Tội nghiệp, trong khi đó con đường người nữ lại có xu hướng đi lên, cuối cùng nó phóng lên cao như tên lửa, rồi thì hình dáng đồ thị người nữ như ớt chỉ thiên!
Lúc này anh Tưởng thấy nàng mang hoa tai liên tục. Nhiều lần chàng giả bộ không chú ý, không thấy. Nàng cố làm cho chàng thấy, và mỗi khi ngồi gần chàng nàng còn vén cao mai tóc lên, rung rinh lúc lắc đầu để chiếc hoa tai rung động, gây chú ý. Thế nhưng có gây chú ý cách gì anh chồng cũng làm bộ không thấy. Song làm lơ mãi không được. Đôi khi anh Tưởng thấy giận chiếc hoa tai mùa xuân. Anh nghĩ phải chi không có nó, nó biến mất đi thì hay biết bao nhiêu ! Và thế là anh tính ăn trộm hoa tai. Anh biết nàng cất nó ở đâu. Sau anh nghĩ vô lí quá. Chẳng cần là Sec-lốc-hôm cũng đoán ra thủ phạm. Có thằng ăn trộm nào khó khăn vào nhà để chỉ ăn cắp chiếc hoa tai bằng nhựa rẻ tiền? Song anh chưa biết tính thế nào thì một hôm...
Một hôm anh chở vợ đi chợ, đang đi bỗng xe rung động và tiếng nàng la thất thanh:
- Cướp! Cướp ! Cướp !!! Đuổi theo nó nhanh, cái thằng mặc chíếc áo Pul màu đỏ kia kìa !
Anh rồ ga đuổi theo. Chạy chỉ một đoạn anh đã thu ngắn khoảng cách. Chỉ cần tông vào nó, cả hai đều ngã là tóm được.
Anh hỏi:
- Nó cướp cái gì?
- Chiếc ví tay
- Có gì trong ấy?
- Có tiền,
- Nhiều không?
- Ít thôi, nhưng có đôi hoa tai tim vỡ !
Chợt anh mừng thầm, nghĩ, nó cắp đôi hoa tai là giúp mình, sao mình lại hại nó. Đây đích thị là thằng cướp nghiệp dư. Ai đời đi cướp giật mà mặc áo đỏ rất dễ nhận ra trong đám đông. Tội nghiệp, mình tính ăn trộm đôi hoa tai thì nó đã làm giùm mình. Đang tăng tốc bỗng anh đột ngột giảm ga thắng gấp. Viên ngã nhào tới, mặt nàng tống vào lưng anh. Nàng hét lên :" Tại sao thắng lại?". Anh la to:
- Chiếc xe chết tiệt, hỏng hóc rồi. Thôi không đuổi nữa.
Anh dừng xe, thấy bóng dáng thằng ãn cắp tà tà chạy trước./.
Quý Thể
&&&
Chuỗi Hạt Cườm
Nguyễn Chính
Chưa đến tuổi sáu mươi mà trông bà Am già lắm, dáng hom hem, tiều tụy, tóc bạc gần hết. Ở cái phố nhỏ của thị trấn tỉnh lẻ này ai cũng biết bà, bởi cái nghề mà bà đã cố giữ suốt mấy tháng nay: Nghề bán vé số dạo. Mà bà cũng chẳng còn có nghề gì nữa để làm. Có mấy chị ở cơ quan nọ nhờ bà trông con hộ, nhưng chưa được mươi ngày, họ đã trả tiền công cho bà cả tháng để gửi con chỗ khác. Họ sợ bà bị lao. Ở cùng với bà trong con hẻm sâu hun hút, suốt ngày nhớp nháp chỉ vừa đủ một người đi bộ này là nhà thằng Hùng.
Năm nay nó mới mười một tuổi. Nhà nó nghèo. Ba má nó đông con, lại chẳng có nghề ngỗng gì, suốt ngày hết ở ga lại ra bến xe đón khách gánh hàng thuê. Để phụ giúp người lớn, nó đã phải bỏ học từ năm lên chín, nhận vé số của đại lý về bán dạo. Thằng bé hay sang chơi bên nhà bà, nhất là những buổi tối ba nó uống rượu say la hét om sòm. Một buổi tối như vậy, nó sang thấy nhà bà tối om. Nó bảo: "Sao bà Am không bật đèn cho sáng? ". Nó nghe bà thều thào: "Bóng tròn tốn điện lắm, tháng trước đã có tiền trả nhà đèn đâu". Nó ngồi bệt xuống thềm nhà, không nói gì.
Bẵng đi có đến một tuần không thấy, rồi một buổi chiều nó sang tìm bà, giọng nó oang oang: "Bà Am, bà Am, con đã nhận được vé số cho bà rồi nè, làm dễ ợt à, mỗi ngày cũng được vài ngàn, đủ trả tiền nhà, tiền điện và trang trải cho những bữa ăn thất thường, đạm bạc của bà". Thế mà nghe thằng bé nói vẫn còn hơn thu nhập của kỹ sư tập sự.
Mỗi ngày bà đều phải đi qua hàng phở nhà lão Hinh. Vốn máu chuyện đỏ đen, ngày nào lão cũng bỏ tiền mua vài ba cặp vé số. Lão thường bảo: "Vé số là thời vận. Đời người, mấy ai đã gặp thời, gặp vận". Từ hồi không thấy thằng Hùng, lão Hinh vẫn mua vé số của bà. Mặc dù thằng bé đã nhường những chỗ mua quen và gần cho bà Am, nhưng mỗi lần về đến hàng phở nhà lão Hinh, bà Am đã thấy mệt nhoài, hai chân nặng trĩu. Mùi phở bốc lên thơm phức, lại còn phải sốt ruột nghe lão huyên thuyên đủ chuyện với khách khứa, trước khi dùng những ngón tay sưng húp, cẩn thận lần giở từng tờ vé số.
Trả tiền cho bà, chưa bao giờ lão để thừa một đồng tiền lẻ. Và luôn nhắc cái điệp khúc như từng nhắc với thằng Hùng: "Trúng độc đắc, tôi sẽ chia phần cho bà một nửa". Bà chẳng bao giờ tin vào lời hứa của những người như lão. Nhưng thằng Hùng thì nói chắc như đinh đóng cột: "Ông ấy thiếu gì tiền. Để rồi bà xem". Cuộc sống tưởng cứ trôi đi bình thường như vậy. Bà thấy vui vui sau mỗi buổi tối bà và thằng Hùng ngồi tính số vé bán được, chia "hoa hồng". Nếu không xảy ra chuyện này: Hôm ấy thằng Hùng bán còn thừa một vé. Bà với nó bàn nhau giữ lại, biết đâu trúng độc đắc.
Nhưng họ cũng gặp may, trúng khuyến khích, được ba ngàn đồng. Thằng Hùng mang tiền về chia cho bà. Bà bảo nó: "Vừa đủ hai bát phở, bà con ta đi làm bát phở Hinh cho bõ". Phải nói phở của lão Hinh ngon thật, đúng vị phở Bắc. Đã lâu lắm, dễ có đến cả chục năm, bây giờ bà Am mới lại ăn tô phở Hà Nội. Bà lau đũa chén, nhặt rau, cho thêm gia vị... Mỗi động tác đều khoan thai, trân trọng, khiến thằng Hùng vừa ăn, vừa nhìn bà như người lạ.
Có chiếc xe máy đỗ xịch trước cửa. Một người đàn ông đeo kính cận, ôm một khung ảnh lớn bước vào. Lão Hinh lao ra trách: "Sao đến khuya thế, bộ quên hả?". Không trả lời, người đàn ông chắc là họa sĩ cẩn thận mở lớp giấy bọc: "Đây, còn hơn cả lịch tàu nhá, vừa ý chưa?". Lão Hinh giơ cái khung lên ngắm nghía hồi lâu rồi trầm ngâm: "Được, được lắm". Người đàn ông sốt sắng: "Nào, định đặt chỗ nào đây? ". Lão Hinh chỉ bức tường bên phía cửa ra vào: "Đây, ông giúp mình treo lên chỗ này". Thằng Hùng đã ăn xong từ lúc nào. Nãy giờ nó vẫn tò mò dán mắt vào cái khung ảnh. Nó nghĩ, chắc lại một kiểu ảnh gì đó mà nó vẫn thấy ở các tiệm cà phê, tiệm phở. Nó đã lầm.
Trong cái khung lớn là hình một thiếu nữ còn rất trẻ, chỉ độ mười tám đôi mươi là cùng, khuôn mặt trái xoan thanh tú, đôi mắt bồ câu đen láy, cổ áo dài tím chảy xuống đôi vai tròn lẳn làm nổi lên chuỗi hạt cườm. Bà Am chẳng để ý gì đến xung quanh. Bà đang chậm rãi nhấm nháp từng muỗng nước dùng. Ngó thấy thằng Hùng nhìn tấm hình trân trân, bà mới ngước lên bức tường. Chùm hạt cườm cùng khuôn mặt thiếu nữ đập vào mắt bà. Bà khẽ ơ một tiếng rồi lật đật dứng dậy, bước đến gần... Lão Hinh cười: "Bộ bà già cũng chịu người đẹp hả?".
*
Đã ba hôm nay, bà Am nằm liệt giường. Thằng Hùng phải bán cả phần vé số của bà. Nó dặn lũ em ở nhà nấu cháo bưng sang cho bà. Tối nào về nó cũng mang cặp lồng sang quán phở lão Hinh mua cho bà một ngàn. Nó phải ép mãi bà mới ăn được vài muỗng. Mẹ nó đun nước cho bà xông và nói để đưa bà đi bệnh viện. Nhưng bà lắc đầu, bảo đừng đưa bà đi đâu cả. Hôm ăn phở đêm nhà lão Hinh, trên đường về hai chân bà cứ quýnh vào nhau như người say.
Đến nhà, bà nằm vật ra giường, nước mắt chảy thành dòng, thành dòng... ướt đẫm cả khuôn mặt hốc hác. Cái chuỗi hạt cườm có chữ H ở mút nối hình trái tim to bằng đồng năm xu ấy đây. Bà vẫn dấu kỹ trong cái khăn lúc nào cũng đội trên đầu này. Còn người trong ảnh đó chính là bà cách đây ngót bốn mươi năm. Sao lão Hinh lại có nhỉ? Lão lượm được ở đâu rồi đem truyền thần, hay người ấy đã cho lão? Chuyện xảy ra lâu quá rồi, bà làm sao mà biết được. Bà chỉ nhớ là bà đã yêu và đi tìm con người ấy đến tận bây giờ.
Bà Am sinh ra từ một vùng thôn quê cách Hà Nội hơn một trăm cây số. Cha mẹ đều mất sớm lúc bà mới lên năm. Người cậu ruột là một thương gia ở Hà Nội đón bà về nuôi. Vợ chồng người cậu không có con. Bé Am càng lớn càng xinh, được cậu mợ cưng chiều như con . Năm 1952, Am mười sáu tuổi. Một hôm ông cậu nói với cô: "Cậu mợ sắp phải đi xa, xa lắm, có lẽ không đưa con đi cùng ngay được. Con đã lớn. Cậu mợ định gả con cho thằng Hưng cùng quê. Thằng ấy khá, có học lại tháo vát hơn người, chỗ tin tưởng, con đừng cãi cậu". Cô chỉ biết khóc. Thời ấy, ngay ở Hà Nội đâu phải cặp trai gái nào cũng được tìm hiểu, yêu đương tự do. Rồi Hưng đến. Anh hơn cô sáu tuổi, người cao to, không có dáng thư sinh, nhưng anh có khuôn mặt đẹp như tài tử điện ảnh. Mới gặp mà hai người đã cảm nhau. Rồi họ phải lòng nhau như cách nói hồi bấy giờ. Gia đình người cậu mừng lắm. Hôm cưới không có họ hàng nhà trai. Ông cậu chỉ giải thích với cô ngắn gọn: "Ở quê, nhà thằng Hưng đang gặp nạn".
Sau này Hưng đã kể với cô, anh cũng sinh ở quê nhưng được gửi ra Hà Nội học từ năm lên mười trong nhà một người bạn buôn bán với cậu ruột của cô. Ông nội Hưng làm địa chủ, bị xử bắn năm cải cách. Sau đó bố Hưng cũng mất vì bệnh lao. Bố mất, Hưng bỏ học về làng. Một hôm, cô ruột anh không biết nghe ai, đã đến nói với anh: "Tộc họ chỉ có mình cháu. Họ bảo, nhà nó có máu địa chủ. Cụ truyền cho ông nội, ông nội truyền cho bố. Bố nó cũng truyền máu địa chủ sang cho nó. Cháu không muốn bị xử như ông nội à? Thế thì phải đi, đi thật xa". Bà cô mở bao, dúi mấy chỉ vàng vào tay cháu: "Cháu đi bình an, lúc nào yên nhàn thì về. Mẹ mày ở nhà đã có chúng tao".
Mấy chỉ vàng đó, sau này Hưng đã mua chuỗi hạt cườm bằng đá quý làm quà cưới. Sau khi tổ chức đám cưới cho cô cháu, gia đình người cậu đi Pháp, từ đó không có tin tức gì. Vợ chồng Am sống với nhau thật hạnh phúc trong ngôi nhà lớn của ông cậu để lại. Nhưng cũng chỉ được nửa năm. Một đêm, thấy Hưng thao thức khó ngủ, Am đặt tay lên trán chồng. Cô hốt hoảng thấy nước mắt Hưng đầm đìa. Hưng buồn rầu nói với vợ: "Anh lại phải đi thôi Am ạ!".
- Đi đâu? - Cô sửng sốt
- Nghe đâu ở Hà Nội, người ta cũng bắt đầu cải tạo thương nghiệp, thương gia gì đó. Ngôi nhà này cũng không còn là của mình.
- Tưởng gì chứ chuyện đó thì có gì mà phải đi - Am cắt ngang - Mình sẽ mua một chỗ khác. Với lại nhà này cũng đâu phải của mình.
- Nhưng người ta sẽ tìm ra anh. Người ta sẽ biết đến cái dòng máu địa chủ của anh... Người ta sẽ...
Suốt đêm đó hai người im lặng. Mấy ngày sau, Hưng bùi ngùi nói với vợ: "Đang có đoàn đi Nam. Anh đi trước, ổn định rồi sẽ ra đón em ngay". Năm sau, việc đi lại đã khó khăn lắm rồi. Hưng không ra được nữa. Bà Am chờ mãi... chờ mãi, hai mươi năm đơn chiếc. Phải chi Hưng và bà có với nhau một đứa con. Nhà nước đã thu nhà của người cậu và đổi cho bà một chỗ ở khác. Sau giải phóng miền Nam, bà Am bán nhà lên tàu Thống Nhất vào Nam. Dòng dã mười năm, bà đã đến tất cả các thành phố, thị trấn lớn nhỏ để tìm Hưng. Bà không về các vùng nông thôn, vì Hưng có lần đã thề với bà, không bao giờ ở nông thôn để thành địa chủ. Quá mệt mỏi và thất vọng, vả lại tiền cũng không còn, cuối cùng bà về thuê nhà ở lại thị trấn nhỏ này.
*
Giờ thì bà mê man trong giấc ngủ chập chờn. Bà vừa tỉnh lại. Im ắng quá. Hình như mẹ con thằng Hùng vừa ở đây, nâng bà dậy, đút cháo cho bà... Ừ... hình như thằng Hùng nói vé bán ế quá, phải đem trả lại phần vé nó đã nhận cho bà... Ừ... Lão Hinh chiều nay mua những cặp vé... Ừ, kệ lão, có quan hệ gì đến bà. Rồi bà lại lịm đi trong mớ suy tư...Lão Hinh, ừ phải rồi lão Hinh. Hưng của bà cũng cao to như lão, nhưng gọn gàng, chắc lẳn. Lão Hinh béo quá. Nhưng lúc ấy Hưng mới ngoài hai mươi... Ừ nhỉ. Lão Hinh sống độc thân. Suốt mấy năm bà ở đây, chưa nghe ai nói đến vợ con lão. Nếu có chắc thằng Hùng đã nói với bà. Chuyện gì ở cái thị trấn nhỏ này mà thằng bé chả biết. Bà chỉ nghe nói, thỉnh thoảng lão vẫn có gì nhỉ, à... "bồ nhí ".
Khỉ thật, vậy mà quên mất. Nhưng cũng chẳng sao, bà nghĩ vậy. Một người đàn ông còn khỏe mạnh như lão. Biết đâu, lão chính là Hưng của bà? Nếu vậy, tại sao lão không nhận ra bà? Ừ phải rồi, đã bốn mươi năm, lúc Hưng đi bà mới mười tám tuổi. Bà thay đổi nhiều quá, tiều tụy quá. Thỉnh thoảng soi gương, mới cách nhau mấy ngày mà bà còn chẳng nhận ra mình nữa là. Nhưng bà cũng có nhận ra lão đâu.
Thời gian, ôi thời gian. Nếu đúng là Hưng của bà thì phải có một sẹo nhỏ, nhỏ lắm, chỉ bằng hạt đậu là cùng nhưng khá sâu ở chân mày bên phải. Bà tự trách mình, bao nhiêu lần ghé vào bán vé số cho lão mà chưa bao giờ bà nhìn kỹ mặt lão. Sự bám víu cuối cùng của bà giờ đây chỉ còn là cái sẹo nhỏ đó và chuỗi hạt cườm này. Còn tấm hình, bà chụp sau hôm cưới, có nói bây giờ cũng chẳng ai tin. Từ ngày Hưng bỏ làng ra đi, bà không bao giờ chụp ảnh. Được, bà có cách rồi. Bà sẽ nhờ thằng Hùng. Thằng bé sẽ giúp bà. Nếu lão Hinh có cái sẹo nhỏ đó, bà sẽ nhờ thằng Hùng đưa chuỗi hạt cườm này đến cho Hưng.
Ừ, Hưng chứ không phải Hinh. Tội nghiệp thằng bé sẽ không hiểu gì cả. Nhưng rồi nó sẽ hiểu, lo gì. Nếu lão Hinh không phải là Hưng của bà, bà sẽ giao chuỗi hạt cườm này cho thằng Hùng. Bảo nó dấu kín đi như bà từng dấu kín trong bấy nhiêu năm, để sau này nó làm quà cưới cho vợ. Bà biết, thế nào nó cũng không nhận. Nhưng nó phải nhận chứ, đằng nào thì nó cũng phải lấy vợ kia mà...
Bốn giờ sáng, bà Am còn tỉnh lại một lần nữa. Bà yếu quá rồi. Bà cố sức gỡ cái khăn quấn trên đầu. Đây, chuỗi hạt cườm của Hưng. Bà lần từng hạt, từng hạt cho đến khi ngón tay run rẩy chạm vào mút nối có chữ H. Bà làm như vậy không biết đến bao nhiêu lần. Nước mắt bà ứa ra, ứa ra ướt đẫm hết áo ngực. ...Mà sao thằng Hùng lâu sang thế nhỉ ... à mà trời còn tối quá. Chắc nó còn đang ngủ say. Bà thở dài, tội nghiệp thằng bé...
Thằng Hùng ngủ dậy lúc hơn sáu giờ. Như thường lệ, nó chạy đến chỗ đại lý vé số xem kết quả quay tối hôm trước. Nó lật đật móc tờ giấy trong túi có ghi những cặp vé số bán hôm qua. Nó nhìn lại lần nữa rồi chạy như bay về nhà bà Am. Chưa vào tới nhà, nó đã la toáng lên: "Bà ơi, lão Hinh trúng... trúng độc đắc rồi...". Nhưng nó cũng đã đến muộn mất rồi... Bà Am đã bất động trong một tư thế nằm như đang muốn vươn dậy, vươn mãi, chuỗi hạt cườm vẫn nằm chặt trong tay.
Nha Trang 8 - 1991
Nguyễn Chính
&&&
Thằng Tít Rằn
Từ Sâm
Tôi có thằng bạn, tôi không gọi nó bằng tên tục mà gọi " tít rằn ". "tít rằn" quê tôi cho là keo kiệt, bủn xỉn. Tốt nghiệp đại học cùng khóa, cùng cơ quan , lương thưởng cũng kha khá, nhà cửa con cái đàng hoàng thế mà chọn cách sống của Grăngđê bên nước thực dân cách đây cả thế kỷ. Thời đại a còng, người ta thi nhau uống bia ruợu có chữ tây như "Heniken", "Tiger", "White black", ... thì hắn chỉ kêu "333" như là chỉ mình hắn yêu hàng nội. Sáng nào hắn cũng đi sớm, thực tình chẳng có việc gì mà bận rộn như vậy, hắn đến tự pha cà phê để tiết kiệm 4 ngàn, bật quạt, coi báo trên mạng ...toàn những thứ mà ở nhà phải trả tiền.
Gặp hắn ăn tiệm khó hơn trúng xổ số, thế mà, một sáng chủ nhật, tôi mục sở thị hắn vào quán phở Bắc "bình dân" đường Trần Phú. Hắn vào trước, ngồi lựa hàng và chuẩn bị sướng thì thấy tôi loay hoay đưa xe máy lên lề. Lập tức hắn đứng dậy thì thầm với chủ quán cái gì đó rồi nhanh nhảu bước ra. Khi chạm mặt nhau, hắn "xin chào, cà nhà vui vẻ nhỉ" tớ xong rồi, còn lấy tay chỏ tăm vào miệng mới tức chứ. Mả tổ, nó tưởng tôi không biết, chưa đầy năm phút mà xong rồi à, chắc chắn nó thoát khi thấy đoàn tàu há mồm nhà tôi chuẩn bị đỗ ga và tự dưng không mời ...và mời thì chắc chắn không đủ tiền, trong túi nó có trăm ngàn thì nằm mơ nhé .
Nhìn bộ cánh hắn hoành tráng, áo chữ "nước ngoài" hình diêm dúa, tôi thừa biết rặc sida rẻ tiền, duy nhất và nó dùng đồ mới là áo may ô , bàn chải đánh răng và ...dao cạo râu.
Một trưa chủ nhật, đang nằm viện, tôi lẩn thẩn dạo qua khu "cơm miễn phí cho bệnh nhân nghèo", thấp thoáng ai như thằng Tít. Làng nác ơi , hết chỗ hay sao mà đến chốn này ké cơm , đốn mạt thế là cùng. Tôi không tin, gỡ kính ra, đưa kính vào, không nhầm được, nó còn bày đặt chỉ món này món nọ như vô nhà hàng thấy tức nổ con mắt. Tôi định chạy đến tặng hắn tiếng chào, như mèo ăn vụng thấy động, nó lẫn vào đám đông, mất hút như Tôn ngộ không. Trước mắt tôi là những bệnh nhân tàn tạ, rách rưới ngơ ngác chờ đến lượt chia phần .
Tôi hỏi thăm một người bạn mà thứ bảy, chủ nhật là bỏ chồng bỏ con đến làm công quả, "em biết anh mặc áo ....lúc nãy không". "Có chứ, chủ nhật nào anh ấy cũng đến, ít thì vài trăm, nhiều thì một triệu không chừng , nhờ những người như anh ấy mới duy trì được bếp".
Tôi không nén nỗi bàng hoàng , liền chửi đổng một câu " Đù mẹ thằng Tít sống với nhau bao lâu mà tao không hiểu mày...".
Nha trang vào mùa mưa bão 2011
Chiếc Đòng Hồ
Quý Thể
Mười năm là đúng mười năm, pháp luật thật là sòng phẳng, không thêm không bớt cho tôi một ngày, một giờ nào. Khi tôi sung sướng cầm tờ giấy phóng thích đi vào phòng giám thị nhà giam, thấy chiếc đồng hồ treo tường chỉ đúng 9 giờ 15 phút. Nơi đây người ta trao cho tôi một chiếc phong bì lớn dán bằng thứ giấy bao xi măng, màu giấy đã úa vàng, bên ngoài có ghi tên tôi, số tù, ngày vào và ra tù, phong bì dán kĩ, đóng dấu. Tôi mở ra thấy một vài món lặt vặt khi đi tù không được giữ, như cái nịt da, họ sợ người tù dùng nịt treo cổ và chiếc đồng hồ quả quít vỏ mạ vàng, đây là kỉ niệm của người cha thân yêu của tôi còn giữ được tới ngày vào tù. Tôi cầm chiếc đồng hồ, mở nắp ra xem. Ồ kì dị thay! Nó cũng dừng lại đúng 9 giờ 15 phút. Như thế trong mười năm qua chiếc đồng hồ này đã dừng lại, giống hệt như cuộc đời tôi, mười năm ấy cũng đã ngừng lại trong bốn vách tường nhà giam, thật là một sự trùng hợp mỉa mai và cay đắng. Tôi ra khỏi nhà tù.
Những bước chân tự do đầu tiên của tôi là những bước vô định. Tôi không biết đi về đâu, làm gì? Tôi còn nhớ vào tù được vài năm, tôi nhận được tờ đơn li dị của vợ tôi chuyển vào cho tôi kí tên thuận tình li hôn để cô ta lấy chồng khác. Tôi chỉ còn cách mượn cây bút của người cai tù đặt tờ đơn xuống nền nhà viết câu :" Tôi hoàn toàn đồng ý li dị vì tôi không còn xứng đáng với vợ tôi nữa." Tôi nắn nót kí tên và viết tên mình. Cái đơn được chuyển ra ngoài ngay hôm đó. Tháng sau vợ tôi lấy chồng. Họ kéo nhau về ngôi nhà do mồ hôi nước mắt của tôi làm ra, leo lên ngủ trên cái giường ngủ chính tay tôi đóng. Như thế tôi vừa mất vợ mất nhà, mất giường.
Tôi nhận được lá thư độc nhất cuối cùng của hai đứa con tôi cách đây cũng đã năm năm. Chúng nó, mỗi đứa viết vài hàng hỏi thăm lấy lệ. Trong tù tôi đã nghĩ ngợi về chúng nó không sót một ngày một đêm nào. Trên mảnh giấy nhỏ của bao thuốc lá tôi đã mài ngòi bút cho nét nhỏ, để víêt chi chít hàng ngàn chữ gửi cho con, không biết chúng có đọc không? Hay đem vứt bức thư của ngươi cha đi tù xấu xa. Giờ này các con tôi ở đâu?
Tôi vào phòng điện thoại công cọng gọi cho một người bạn chí thân. Khi tôi vừa cầm máy lên thì một khuôn mặt phụ nữ hiện ra ngoài cửa kính, một khuôn mặt lạ, mụ ta nhìn tôi trừng trừng rồi bỏ đi. Mụ bước đi vài bước quay nhìn lại cho kĩ khi nhận ra đúng tôi mụ nhổ nước bọt bỏ đi luôn. Ở đầu dây bên kia, tiếng nói không thể nào lầm được của người bạn chí thân cũ. Khi hắn nghe tôi xưng tên, liền cúp máy.
Tôi không làm sao hiểu nổi ai cũng nhận ra tôi là một tên tù. Tôi cố gắng đi đứng thật tự nhiên, mạnh dạn, nhưng hình như từ người tù phát ra cái gì lạ lùng lắm, khiến ai cũng biết. Họ sợ và họ lánh xa. Đến cả chó cũng nhận ra cái mùi đáng tởm của tên tù, đi đâu chúng cũng sủa vang.
Trong lúc đó chẳng thiếu cơ hội xô đẩy tôi trở lại con đường xấu xa tội lỗi năm xưa. Lũ bạn trong băng tội phạm ngày trước được tin tôi đã ra tù liền kéo đến đề nghị giúp đỡ, và nhất là gợi ý về những "phi vụ" hấp dẫn kiếm bạc tỉ khác. Mặc dù cuộc đời bạc đãi tôi thậm tệ song lần này tôi nhất quyết không quay trở lại con đường đen tối trước. Trong khi ấy những người chung quanh tôi và hoàn cảnh hình như hùa nhau xúm đẩy tôi trở về bóng tối. Không biết tôi có giữ mình được mãi hay không?
Tôi đã sống những ngày dài đầy khó khăn như thế. Mười năm tù tội lấy đi của tôi bao nhiêu thứ. Tôi không biết tuổi thanh xuân là gì, tự do ra sao. Sức khoẻ tôi suy sụp nhanh chóng. Khi vào tù tôi nhanh nhẹn vui tươi trẻ trung, đặt niềm tin mạnh mẽ vào con người và rất yêu đời. Ra tù tôi trở thành một lão già chậm chạp, xấu xí, bệnh hoạn và tệ hại hơn cả là thù hận con người và tôi mất cả niềm tin ở con người.
Cuối cùng tôi cũng tìm được một việc làm. Loại công việc này chẳng ai nhận vì nó vất vả, nguy hiểm, buồn chán mà đồng lương chết đói. Thế mà tôi lại rất thích vì loại công việc này rất hợp với tôi. Công việc cho tôi cơ hội xa lánh mọi người. Suốt ngày làm việc một mình, không có bạn đồng nghiệp, không tiếp xúc với bất cứ kẻ nào. Suốt ngày tôi phải treo mình bên ngoài những ngôi nhà cao tầng, để khi thì cạo sạch lớp vôi cũ, khi thì lau cửa kính. Tôi đứng trên mảnh ván nhỏ treo bằng hai sợi dây ở trên cao, rất cao, có khi hàng trăm mét. Tôi làm việc lầm lũi một mình, không có người bên cạnh, không chuyện trò với bất cứ người nào, tôi đỡ bận tâm về con người. Mỗi lần lên cao tôi mang theo nước uống, cả bữa ăn trưa. Buổi trưa, nhờ sợi dây bảo hiểm tôi cũng có thể chợp mắt vài phút. Lâu rồi tôi tập được cách sống ở trên cao, làm việc, ăn, ngủ...Những lúc nghỉ ngơi tôi giải trí bằng cách ngắm thành phố từ trên cao. Hàng đoàn xe nối đuôi nhau chạy trên đường trông như bầy dán đủ màu. Từ trên cao nhìn xuống tôi thấy người đi đường giống như những que diêm dựng đứng, chuyển động. Tại sao tôi lại sợ, lại thù hằn, ngại tiếp xúc những "que diêm" ấy đến thế?
Một hôm đang lúc làm việc bỗng có một chiếc tàu bay giấy từ trong ô cửa sổ ném ra. Nó đảo lượn vài vòng trong khoảng không rồi bay lại cạnh tôi, tôi đưa tay ra bắt lấy nó. Từ một khung cửa chỉ cách tôi vài thước có hai đứa bé chồm người ra. Chúng ngơ ngác tìm xem chiếc máy bay. Hai đứa bé kinh ngạc vì bất chợt trông thấy có một người treo mình phía bên ngoài căn nhà của chúng. Hai đứa bé có khuôn mặt thật dễ thương. Tôi trao chiếc máy bay cho chúng, chúng rất sung sướng, ngỏ lời cảm ơn. Từ ngày ra khỏi tù cho đến giây phút đó tôi mới nghe có người nói lời tử tế. Hai đứa bé không nhận lại chiếc tàu bay giấy. Chúng nói : "Bác ném cho nó bay tiếp đi!" Tôi thẳng cánh ném thật mạnh lên cao. Chiếc máy bay giấy xếp thật cân bằng, thật khéo léo, nó đảo lượn nhiều vòng, có khi vút lên cao rồi chúc xuống, chợt lấy lại thăng bằng, mở ra những vòng tròn đẹp. Lũ trẻ thích thú nhìn theo, cho đến lúc không còn trông thấy chiếc máy bay giấy. Đứa bé trai nhìn thấy tôi đứng trên mảnh ván nhỏ , hỏi:
- Bác làm việc trên cao không sợ sao?
- Không, bác thấy trên này vững hơn đứng trên mặt đất...
Đứa bé gái nói:
- Ôi lạ quá nhỉ? Trên cao lại vững hơn dưới đất ?
Tôi định giảng giải cho hai đứa bé hiểu, song tôi thấy rất khó giải thích, chúng không thể hiểu nổi tâm trạng người như tôi. Nói ra chỉ làm vẩn đục đầu óc trong trắng lũ trẻ. Đứa bé trai quay ra sau kêu mẹ :
- Mẹ ơi, lại xem, có một bác làm việc phía bên ngoài ngôi nhà của chúng ta.
Tôi nghe tiếng giày, rồi một người phụ nữ chồm ra. Cô ta nhìn tôi. Đôi mắt ngạc nhiên và đầy cảm tình? Rồi cô nở một nụ cười thiện cảm với tôi. Đây là nụ cười đầu tiên tôi nhận được của đồng loại kể từ ngày tôi ra khỏi chốn lao tù. Tôi không thể nói gì nhiều về nàng vì tôi chỉ trông thấy cô trong chốc lát. Thời gian ngắn ngủi đó chỉ đủ cho tôi thấy cô gái không đẹp lắm, chỉ có nụ cười là đẹp vô cùng, một nụ cười tử tế đầy tính đồng loại. Cái nhìn thiện cảm và nụ cười thân ái của cô đã làm thức dậy cả mùa xuân, sức sống hồi sinh mạnh mẽ trong tôi. Như một chuyện thần tiên. Tôi lấy chiếc dồng hồ quả quít, kỉ vật người cha ra. Tôi cẩn thận lên dây, đưa chiếc đồng hồ lên sát tai lắc nhẹ. Những tiếng tích tắc, tích tắc, tích tắc... Chiếc đồng hồ ngừng mười năm nay bắt đầu làm việc lại. Quả tim tôi cũng bắt đầu rộn ràng cùng hơi thở mùa xuân!
Quý Thể
&
Trầm Hương
Nhà chúng tôi nằm trong con đường nhỏ yên tĩnh. Bên kia công viên um tùm cây trăm tuổi che mát lối đi điểm trang bằng đủ loại hoa. Ông nội quen nghiệp rông rừng tìm trầm nên ba thế hệ nhà tôi thường rảo công viên sau bữa cơm chiều, sợ nội đi một mình té. Trầy trật mua căn nhà cạnh công viên vì vậy. Với kinh nghiệm thực địa và nghề thuốc Bắc, nội khật khưỡng giảng cho chúng tôi nghe dược tính cây lá và bịnh tật của chúng. Đã thuộc nhuyễn môi, vẫn làm bộ lắng nghe. Tới góc nào nội cũng lức láo như thể có trầm ẩn dật đâu đó chờ nội moi ra ít nhất vài bao tải, phỉ chí giấc mơ biệt thự. Cô đe Này, khi nào có cơ ngơi mới đừng hòng ngủ ké giường tao nữa nhé. Tôi vênh váo con cóc thèm. Biệt thự là bự thiệt, con sẽ đòi một phòng to gấp đôi cái chuồng cô hiện tại, cấm cửa cô. Một lần tôi hái cái hoa đỏ tươi cánh mỏng như bướm, lạ hoắc, chưa kịp hỏi nội hoa gì đã bị cô bóp tay thổi vào tai: Mày có thấy anh chàng ngồi đọc sách trên băng đá kia không? Theo hướng mắt cô nhướng, tôi gật đầu. Khẽ hơn: Tao chịu anh chàng đó. Tôi thích thú tròn mắt: Mà... - Im mồm. Cấm thèo lẽo đấy nhé!
Đêm đó tôi leo vào giường sớm, bắt cô phơi lòng trải dạ. Tôi tự động tuyên thệ đủ điều, rằng con sẽ không mách lẻo, cạy miệng con cũng không mở, bố hay ông nội đánh con cũng không hé răng , ai mua chuộc gì con cũng im ... Tôi kéo Chúa làm chứng. Cô cười ngặt nghẽo. Cô Út không chim sa cá lặn nhưng được cái duyên cười và kể chuyện. Nghe cô cười đang tang lễ cũng quên khóc. Không phải thủy tinh loảng xoảng. Không phải suối nguồn róc rách. Không phải tơ lụa lao xao. Không phải gió chiều nghịch lá. Mà tất cả những âm thanh ấy cộng lại, oà vỡ, tràn lan, lây nhiễm. Cô kể chuyện thì kiến trong hang cũng bò ra ngóng. Phụ với miệng, mắt mũi tay chân đều râm ran, đủ thứ âm thanh và muôn vàn hình ảnh trước mắt người nghe, lao xao rộn ràng. Chỗ nào hấp dẫn ly kỳ nhất cô im, chờ giục. Tôi ôm riết, vòng tay nhỏ bé quấn không hết thân hình ai cũng cho là phục phịch. Thường nhiều điều chưa thể hiểu hết, hỏi thì cô bảo không hiểu rồi sẽ hiểu, bây giờ mày cứ nghe, không cần thắc mắc. Tôi nói cô xem con như cái thùng rác xổ bầu tâm sự. Cô cười to, bảo ừ đúng vậy, không chịu thì xéo. Nhưng tôi là cái đuôi, cái bóng, cái gót chân cô. Có bao giờ cái đuôi lìa phần hậu. Có bao giờ cái bóng tách khỏi người. Có bao giờ cái gót không dính vào chân. Bà Tư hàng xóm nói cô khuôn lớn, tôi khuôn nhỏ. Cô cười rót vào tai tôi, khẽ như thể có ai đứng sát bên giường hóng chuyện: Có gì đâu mà kể? Tao thấy anh chàng đó luôn luôn ngồi tư thế đó, trên băng đá đó, cầm quyển sách bằng tay trái. Không cái gì khác trừ quyển sách. Hình như nhà phía bên kia công viên, đố thấy đi đâu một bước. Người như vậy chắc là nhút nhát và chung thủy. Đó là loại đàn ông tao cần. Mà này, cấm thèo lẽo đấy nhé!
Tôi không hiểu chuyện người lớn nhưng chẳng hỏi, cô sẽ trả lời không hiểu rồi sẽ hiểu. Tôi vui lòng chờ ngày xa xôi ấy, để hiểu vì sao mạnh bạo như cô lại thích người nhút nhát? Người chuyên môn tìm tòi phát minh các mẫu mã quần áo thời trang phải thay đổi mỗi ngày, lại thích người luôn luôn cùng tư thế? Hay là giữa bao thay đổi thường xuyên, người ta cần điểm gì bất dịch? Trong bóng đêm, bán diện xanh xao người đàn ông ngồi xeo xéo trên băng đá, mắt chăm vào sách, ăn mặc gọn gàng tươm tất lừng lững bước vào đầu tôi. Chiếc sơ mi trắng nổi bật trên đám cỏ xanh và xa xa, trông có vẻ lung linh huyễn hoặc. Ngoài vườn chim kêu đêm lanh lãnh buồn. Tôi nhắm mắt.
x
Bà nội thường chép miệng, thương cô gầy rộc từ ngày ông nội bất ngờ lìa đời. Hôm đó đang nằm đọc báo nghe tiếng cửa rục rịch, nội nhanh nhẩu bước ra. Không ai cả. Lần thứ hai cửa lại rục rịch, lại ra, cũng nhanh. Khi trở vào nội xùi bọt mép, mắt đứng tròng. Trên đường lên bịnh viện nội tắt thở. Bố la, mày làm việc nhiều gấp đôi, thức đêm thức hôm bảo không gầy tọp sao được. Bác Cả thỉnh thoảng ghé thăm kêu toáng, có mập gì cho cam mà ăn uống kiêng khem để sụt kí lô ngần ấy mà vẫn làm việc cần cù như kiến. Cô chỉ cười. Nhưng dạo này tiếng cười cô rất khác. Nó không còn âm thanh, lặng lẽ, nhìn mới thấy, nghĩ mới biết, nếu không chỉ là cái nhếch môi khó lòng đặt tên. Mắt cô bỗng dưng mơ màng. Thưa lời, cử chỉ không bão táp như xưa. Mẹ và tôi hiểu khác. Từ ngày ông nội mất, thói quen dạo công viên mỗi chiều chúng tôi không còn. Thằng Tí chẳng chờ bảo cũng cho cây tùng uống nước, một ly thôi nghe con, thằng cha mày mấy tuổi là cây tùng đó ở trong nhà từng ấy năm, bữa bứng nó tao suýt chết vì con bò cạp... Một lần cô ngất, tôi phải khai thật cho mẹ nghe chuyện riêng của cô. Chúng tôi đều nghĩ anh chàng cô thích gầy người, phải bớt kí lô cho xứng. Mẹ nhắc khéo: chẳng gì bằng sức khoẻ, cô cứ để thế thì chết mất. Cô cũng chỉ cười, nụ cười thoang thoảng buồn, loang loáng nhẹ như bông... Bây giờ đi đâu về, cô không ào vào nhà như gió miệng sôi nổi Úi trời, úi trời, nếu có thì cũng chẳng có gì theo sau hoặc ba hoa quá nhiều, toàn chuyện ba láp đâu đâu. Nhưng thường cô xa vắng, ngơ ngẩn.
Một hôm tôi tuông vào buồng chớp nhoáng, la:
-Úi trời, chuyện lạ bốn phương, cô ơi ra xem nè...
Tôi khựng ở cửa, cô giật mình đỏ mặt nhét vội mấy phong thư vào ngăn kéo, bóp khoá. Lần đầu tiên có khoá. Cô có gì giấu giếm khiến tôi tự ái, bất mãn. Tôi nhìn trân ổ khoá rồi ngúng nguẩy quay lưng nhanh khỏi phòng. Lẽ ra thư từ trao đổi với chú ngồi băng đá chẳng nên giấu giếm tôi, cho tới bây giờ tôi là người kín miệng mà. Hay với ai khác mà tôi không biết? Lẫy quá. Tôi vặt vài lá tùng ông nội cưng hơn cưng bà nội, cho bõ ghét. Cô ra đứng bên cạnh, nịnh:
- Cái gì mày la toáng lên rồi im? chuyện lạ gì vậy?
Tôi dấm dẳng:
- Chẳng chuyện gì cả.
Rồi tất bật bỏ đi. Chợt hối tiếc ngay sao không vòi cô sự thực. Tôi quay ngoắt lại, cô đăm chiêu và khe khẽ thở dài khiến tôi chột dạ. Dù dỗi cô có gì giấu mình, thâm tâm tôi vẫn ân hận đã quá quắt nên không dám hỏi, cảm giác sẽ chạm vào điều kín đáo đau đớn của cô. Chắc cô nhớ nội lắm, có hôm bảo nếu nội còn, cô sẽ không cằn nhằn khổ quá ai cũng thuộc lòng cái con bò cạp suýt cạp cậu rồi mà cứ nói mãi. Cô cũng sẽ không dẹp cây cảnh nội đặt đầy trên cửa sổ, trên bàn nước. Theo khoa học, ban đêm cây nhả thán khí hại cho sức khoẻ, mà giường nội ngay đấy. Hễ cô dẹp thì nội bày lại, hai cha con cho mấy chậu cây chơi trò cút bắt. Nội ứ hự bây bày đặt khoa học với chả, ở đâu nhiều cây bằng rừng, vậy mà hồi xưa tao ngủ cả hai ba tháng trong đó nếu chết làm sao có tụi bây. May sẩy con bò cạp, không là chết vì nó chớ chẳng thán khí thán gió gì cả... Chẳng ai biết mặt mũi con bò cạp, nhưng cứ nghe nội kể thì nó có phép thần thông, mạnh mẽ hung hãn độc địa ghê gớm lắm mà nội thoát được là phúc đức bảy đời.
Buổi chiều xuống rất chậm. Không gian thời gian quyện vào nhau, chững lại. Tiếng chén bát cơm chiều từ bếp vẳng ra tận hè trước, mẹ sắp gọi vào bàn. Tôi nắm tay đập mạnh vào trán. Hình ảnh xiêu xiêu anh chàng của cô đi ngang trước nhà khi nãy tan loãng, tan loãng... bay vào mắt tôi cay xé.
x
Đám tang cô vào một sáng mùa thu tuyệt đẹp. Nắng mềm mại dịu dàng rải lên cây cỏ và lối đi một màu vàng trong suốt tơ trời. Gió hiu hiu vuốt ve các vòng hoa phúng điếu, phe phẩy vạt áo tang thằng Tí đi xà lui trước cỗ quan. Lừng lững trên vai sáu thanh niên rắn khoẻ, chiếc quan tài vàng sẫm như đi vào huyền thoại. Bên trong sáu tấm gỗ dọc ngang, thân hình cô tôi teo tóp tựa trẻ lên mười nằm bất động giữa bao gói thuốc lá cây và trà chèn ép. Hơn tuần nay bỗng dưng tôi vượt lớn nhanh hơn Thánh Gióng và hiểu ra nhiều điều. Sự hiểu biết đó dẫn tôi vào thế giới hy sinh lẫn cam chịu lặng lẽ táo bạo của cô.
Ngược thằng Tí khệnh khạng áo thụng mũ gai, tôi xênh xang lớp công chúa ngàn lẻ một đêm cải tiến giữa cái nhìn lạ lùng hai bên lối xóm. Việc này bố mẹ cũng đã lên giọng khá nhiều. Mẹ bảo không, bố ngần ngại. Tôi cứng rắn như có cô nhập, tuyên bố con sẽ vì cô làm điều cô muốn. Mẹ bảo mà con ơi quái dị lắm, ai lại ăn bận đẹp đẽ màu sắc cầu kỳ trong đám tang, thiên hạ cười chết. Tôi nói con không sợ thiên hạ cười, con chỉ muốn làm cô hài lòng vì cô dặn con như vậy. Bố trố mắt cô đã dặn con ư? Thế là bố bảo được, mẹ ngần ngại. Một hôm khuya rồi cô còn cặm cụi vẽ kiểu cho show thời trang, tôi giật mình vì cây kéo rơi, cô nửa đùa nửa thật khi nào cô chết, mày phải diện bộ cánh công chúa đưa tang cô đấy nhé. Lúc đó tôi tủm tỉm mỉa mai, nghĩ khi phải đưa tang cô thì mình cũng có cả đám lủ khủ theo sau, khuôn lớn ở vậy mang tiếng gái già chớ khuôn nhỏ sẽ chễm chệ xe hoa, tay vàng tay ngọc... Bây giờ tôi bước đi trong nắng, tà áo nhẹ hẫng thinh không và chiếc mũ công chúa quấn vành tang trắng lạc lõng cõi người.
Đám tang rồng rắn bà con bạn bè qua công viên. Lá chín vàng còn đậu đầy cành, rực lửa trong nắng sáng đẹp dị kỳ. Tôi nhìn băng đá trống, hai chiếc lá vàng thin thít cạnh nhau. Hay cô lặng lẽ nán lại chờ chú đến chiều? Có lần cô kể bạn phản đối hôn nhân vì đã thương người khác, bị cha mẹ cấm cửa không cho đi đâu, cô ấy nằm rệp cả tháng tương tư lả người, cuối cùng phải cho bạn trai tới thăm. Hôm học về nghe cô ngất đi bịnh viện cấp cứu lần cuối, tôi chạy ra băng đá giật quyển sách hổn hển khẩn khoản chú ơi, chú đến bịnh viện thăm cô cháu một lát chú nhé, chú cháu mình đi ngay nhé. Chú nhìn tôi đăm đăm ngạc nhiên mặc tôi giải thích chẳng nói gì, rồi đứng lên với tay đòi quyển sách. Uất quá, tôi xé tung quyển sách ném vào mặt chú: Này đọc đi, đồ vô tâm, đọc đi, đọc đi, aller au diable, aller au diable! xéo đi, xéo đi (câu này học lõm bố). Tôi chạy vụt về nhà vùi đầu vào gối tức tưởi. Nhục cho cô. Thương cô quá. Và hận. Sáng hôm sau nhỏ bạn cùng lớp hỏi hôm qua mày bị chú Cảnh làm phiền gì vậy, nghe mày la tao chạy tới không kịp, chú ấy câm điếc thườnghiền queo mà... Tôi và mẹ tìm chìa khoá lục lọi nỗi niềm cô, sững sờ trước đống thư từ chẳng gì khác hơn là giấy tờ bịnh viện bao lâu nay cô kín đáo lo liệu một mình. Mẹ khóc rấm rứt. Tôi ân hận tột cùng đã lẫy cô vô cớ...
Hôm nay bác Cả gái ở nhà trông bà nội, lúc quan tài ra cửa nội hỏi bây đưa ông đi công viên đấy à. Bác Cả cắn môi dìu nội vào trong. Mùi trầm thoang thoảng ngạt ngào khu vườn nhỏ. Ông nội nói nhiều về mẻ trầm đặc biệt dạo ấy. Cố bảo quay về vì tao bị sốt mà rừng thì bây không biết đâu, lạnh rịt da, chích thấu xương. Nhiều nơi dày kịt mặt trời cố chen chân chân cách nào cũng không tới được, cái lạnh lưu cửu ngàn năm ấy mà, mới ghê. Nhưng tao nhất định đòi đi sâu thêm chút nữa, cứ như ma dắt. Rốt cuộc hai hôm sau gặp mẻ trầm cực kỳ tốt, cực kỳ thơm chưa từng biết. Tao tưởng bị mê sảng... Vậy là cơn sốt mừng trầm át cơn sốt bịnh. Khai sinh cô mới ba tháng đã làm lại, đổi tên Trầm Hương. Xuyên lớp gỗ, tôi thấy hình ảnh Trầm Hương trên giường bịnh viện tấm ra trắng nhờ nhờ nhiều lần giặt giũ, Trầm Hương không thể khô hơn được nữa. Như cả đời chỉ trải qua hai mùa nắng gió. Da tái nám đen bọc nhúm xương xốc xếch lụng thụng trong chiếc áo mẹ may vội vàng khỏi phải bận quần. Tóc lơ thơ dính trán chẳng khác những cộng len xám khâu vào chiếc váy cô tạo mẫu ngày thi hoa hậu, mắt chỉ là hai hốc tối lờ màu tro lốm đốm vàng, nhìn tôi mà không nhìn tôi...
Trên một thư bịnh viện, cô nguệch ngoạc: "Sáu tháng phải thay máu một lần, mỗi lần một trăm năm mươi triệu, tiền đâu? Mẹ bị đái đường gần mù". Và bố ghìm môi run nói nhỏ bên xác cô: "Phải chi anh như người ta, giấy tờ gì cũng ký thì có tiền chữa bịnh cho em" ... Tôi ngẩng cao đầu không khóc. Tất cả còn mới tinh mà đã hôm qua. Ngày mai sẽ khác. Bây giờ tôi bước đi trong nắng, tà áo nhẹ hẫng thinh không và chiếc mũ công chúa quấn vành tang trắng lạc lõng cõi người...
MIÊNG
&
Tình Thù Rực Lửa
Quý Thể
Số phận kết hợp hắn với tôi lại đúng một trăm ngày. Trong thời gian đó bao nhiêu điều kỳ lạ đã xảy ra, điều kỳ lạ hơn cả là cuộc trả thù mà tôi hay bất cứ ai cũng không thể tưởng tượng nổi. Năm đó, vào giữa hè, mùa thi đã qua, chúng tôi, những cô cậu sinh viên hăm hở tham gia biểu tình chống chế độ Ngô Đình Diệm, thật ra cũng chẳng phải lý tưởng gì, biểu tình chỉ là một trò chơi, trai gái được dịp gặp nhau thú vị lắm.
Tôi và cô sinh viên y khoa năm thứ hai tên Huyền Trân được phân công cầm biểu ngữ đi đầu, khi cảnh sát dã chiến của ông Diệm tới đàn áp, cô sinh viên ném cho tôi tấm biểu ngữ, tôi không chạy kịp nên bị tóm cổ. Ra toà, tôi lãnh cái án một trăm ngày, là ba tháng mười ngày đúng thời hạn các bà sinh nở cúng phong long. Còn hắn tên là Đinh Thìn, ra toà lãnh cái án hình sự ba năm.
Buổi chiều hôm đó chúng tôi bị nhốt trong xe bít bùng chở vào khám Chí Hoà. Thời đó tù nhiều quá nên người ta nhốt chung tù chính trị với thường phạm vào một chỗ. Ngồi trên xe hai chúng tôi còn xa lạ chẳng nói với nhau một lời. Xe đến nơi hắn nhường cho tôi xuống trước. Không phải vì lịch sự mà hắn có ý riêng. Khi tôi xuống đất quay lại còn thấy hắn dán mắt nhìn vào khung cửa lưới mắt cáo.
Hắn chăm chú nhìn một cô gái mặc bộ bà ba trắng, tay cầm cái nón đứng bên kia đường Hoà Hưng. Hắn xuống xe rồi vẫn chần chừ không chịu bước. Hắn cố kéo dài thời gian được nhìn cô gái. Còn tôi thì ngượng chín người cố làm sao thoát thật nhanh cái cảnh bị còng tay đứng giữa chốn đông người. Cuối cùng thì mấy người cảnh sát cũng đẩy chúng tôi vào cái chuồng sắt khổng lồ hình bát giác khó trở ra đó .
Người mới ở tù lần đầu tiên như tôi thì lòng dạ trăm mối ngổn ngang. Tôi trông thấy hắn lại rất ung dung. Tôi chắc hắn đã vào tù ra khám đã nhiều. Tới phòng giam hắn chọn cho hắn và cho tôi một chỗ nằm. Hắn bày cho tôi cách sống ở trong tù. Không có những lời khuyên đó tôi đã khốn khổ biết bao nhiêu. Chỉ một vài ngày sau thì hắn trở thành đại ca. Việc lên ngôi này tương đối êm thấm, không xảy ra một cuộc xô xát nào. Hình như thành tích của hắn ở ngoài đời cũng như ở trong tù làm cho mấy tay anh chị khác trong phòng giam lép vế chịu thua non. Tôi lại nghĩ khác. So với các tay anh chị khác thì hắn tỏ vẻ thư sinh, tướng mạo không "ngầu" chẳng hung tợn.
Sau này tôi mới biết người ta sợ hắn vì cài gì. Hắn cao dong dỏng, nước da tái xanh, mái tóc dài phủ gáy, tóc phía trước thành hình tam giác che khuất một bên mặt, thỉnh thoảng hắn phải hất về phía sau .Phải biết trong cái xã hội chật chội này tiếng nói của đại ca giá trị vô cùng. Thế mà hắn giới thiệu tôi với mọi người giống như tôi là một vị anh hùng xả thân vì chính nghĩa. Hắn nói tôi ngày nay là một "người tù chính trị", sau sẽ là lãnh tụ! Tôi nghe nhiều người xì xào và họ nhìn tôi với cặp mắt ngưỡng mộ. Nhờ thế mà tôi sống khá thoải mái. Thực tế là giỏ thăm nuôi của ai tôi cũng được dự phần. Trong cảnh đó, giữa hắn và tôi nảy nở một tình bạn thắm thiết. Có lần hắn đột ngột hỏi tôi :
- Bạn có người yêu chưa ?
-
Tôi phân vân không biết trả lời làm sao. Cái cô Huyền Trân rủ tôi đi biểu tình xem như một trò chơi trong ngày hè chắc là chẳng yêu tôi như tôi nghĩ. Tôi còn nhớ lúc tụi cảnh sát dã chiến ném tới một quả lựu đạn khói cay. Quả đạn đang xì khói thì Huyền Trân vội vàng quăng tấm biểu ngữ lên người tôi rồi nàng cúi xuống cầm đôi guốc cao gót co giò chạy. Tôi phải công nhận rằng cô ta chạy rất nhanh. Cái vẻ yêủ điệu thục nữ của nàng biến đi đâu cả.
Nàng xuất phát và chạy chẳng kém gì một vận động viên 100 m lão luyện. Lũ cảnh sát với khiên mây, quần áo trận đuổi theo không kịp. Còn tôi đang luống cuống gỡ tấm biểu ngữ vướng trên người thì đã bị giáng cho một gậy rồi bị lôi xềnh xệch lên chiếc xe cảnh sát màu xám. Từ khi tôi vào tù cũng chẳng thấy bóng dáng nàng. Tôi chắc là nàng chẳng yêu gì tôi. Tôi trả lời hắn :
- Tôi chưa yêu ai và cũng chẳng có ai yêu tôi.
- Mình thì có rồi, thú vị lắm !
- Người yêu của anh là ai ? tôi hỏi .
- Con Lài, Nguyễn Thị Lài. Lúc hai đứa mình xuống xe chỗ cuối đường Hoà Hưng nó đứng bên kia đường ngó qua đó .
- Ồ tôi nhớ ra rồi. Phải cái cô gái mặc quần lãnh đen, áo bà ba trắng, cầm cái nón và xách chiếc giỏ ?
- Đúng rồi, đẹp chớ ?
- ƯØ đẹp lắm !
Tôi nói thế cho hắn vui lòng chớ tôi đâu có trông rõ người yêu của hắn. Hắn thì khoái trá ra mặt. Khi người ta yêu thực là kỳ lạ. Cái tay anh chị vào tù ra khám không biết mấy lần cũng trở nên mơ mộng như một thi sĩ. Đôi khi tôi thấy hắn tì tay vào song sắt thả ánh mắt về chốn xa xăm. Hắn kể cho tôi nghe về cô Lài. "Con nhỏ dễ thương lắm, bán nhạc vọng cổ in thành tập chỗ góc đường Công Lý - Nguyễn Huệ, con nhà tử tế..." tôi nghe hắn kể rất nhiều về người hắn yêu .
Mỗi lần như thế trông hắn tràn ngập hạnh phúc. Tôi chẳng có chuyện gì để kể cho hắn nghe. Tôi phải đặt chuyện nói láo về mối tình của Huyền Trân với tôi. Nghe xong hắn khuyên tôi, lời lẽ như một cụ già.- Người ta không yêu thì thôi. Người ta yêu mình thì người ta gửi xương gửi thịt cho mình. Đừng có dụ dỗ người ta cho được chuyện mình rồi bỏ, tội chết !Thời gian trong tù trôi đi một cách bình thường. Ai ngờ, một đêm, trong khi cả phòng đang yên giấc, bỗng có tiếng dộng cửa, tiếng chìa khoá tra vào ổ lách cách, rồi tiếng quát tiếp theo :
- Thằng Đinh Thìn đâu? Trình diện mau !
Tôi thấy hắn lồm cồm bò dậy. Một tên giám thị tính nhào tới, tên khác lôi lại. Thìn đứng lên nhìn tên giám thị gườm gườm. Hắn lùi lại một bước. Đã vào chốn tù rồi mà tôi thấy hắn vẫn còn uy. Tên giám thị dịu giọng :
- Hồi chiều mày xin cây kim thêu của thằng Tư Bắp sú ở H3 để làm gì ?
- Để vá mấy cái quần áo rách.
- Nói láo, vào tù rồi mà còn dở trò thanh toán trả thù. Lấy cây kim đưa tao, lệnh của thiếu tá trưởng khu đó .
Tôi thấy hắn vạch lưng quần lấy gói giấy nhỏ trao cho tên giám thị. Tên này mở ra xem hỏi tên Tư :
- Phải cái kim này không ?
- Dạ phải .
Cả bọn bỏ đi, trong phòng yên lặng trở lại nhưng không ai tài nào ngủ được. Về sau tôi nghe họ bàn tán những cuộc trả thù ghê gớm ở trong tù . Lần này họ nghi Đinh Thìn dùng kim đâm đui mắt một tên ở Q12. Tôi đem chuyện này ra hỏi, hắn nói :- Không có đâu."Con nhỏ" nó dặn tui vào tù lần này đừng để xảy ra chuyện gì bị chồng án thêm nặng, ở ngoài đời chờ lâu, tội nghiệp nó . Vì thế bao nhiêu chuyện ân oán giang hồ tui dẹp cả. Tui mượn cây kim là để làm chuyện khác .Hắn không nói gì thêm, tôi tin rằng là hắn nói thực.
Mấy ngày sau tôi thấy khi ăn hắn lén để dành một chiếc xương cá sòng. Hắn mài nhọn, phơi khô rồi cất cẩn thận. Hắn không qua mặt được mọi người. Họ lại bàn tán thế nào trong nay mai cũng sẽ chứng kiến một cuộc trả thù ghê gớm. Nhưng trong những ngày kế tiếp, tôi thấy hắn cố ý vặn cho thật cao ngọn đèn dầu lửa để có thật nhiều khói. Hắn lấy cái ca thường ngày dùng để lấy cơm hứng lấy khói đèn. Được bao nhiêu khói hắn cẩn thận cho vào chiếc hộp quẹt. Tới bữa ăn hắn để dành cục mỡ heo cho vào khói đèn rồi trộn thành một chất dẻo quánh. Đến lúc ấy hắn mới nói với tôi:
- Bây giờ đến lượt tôi nhờ bạn .
- Tôi sẵn sàng .
Đến lúc này tôi mới hiểu hắn mượn cây kim rồi bị tước mất, sau đó hắn mài chiếc xương cá và hứng khói đèn để dùng vào việc gì . Hắn nhờ tôi vẽ hình cô Lài người yêu của hắn lên cánh tay, ở dưới viết tên nàng và dòng chữ "Yêu em mãi mãi" . tôi nói thực với hắn rằng tôi không có tài hội hoạ . Hắn nói :
- Ở chỗ bần cùng mạt hạng này chẳng có ai hơn bạn.
Tôi đành phải nhận lời. Tôi còn nhớ rất rõ cái đêm hắn cùng với tôi làm công việc xăm mình này. Đợi cho tất cả mọi người đi ngủ, hắn kêu tôi dậy. Lúc này tới phiên tôi trổ tài vẽ và viết. Hắn xắn tay áo lên. Tôi kinh ngạc về những bắp thịt săn chắc trên cánh tay hắn, thảo nào mà giới giang hồ kiêng nể hắn cũng phải .
Tôi cố tưởng tượng hình dung cô Lài nhưng không làm sao nhớ nổi. Tôi chỉ mới thoáng thấy cô Lài đứng bên kia đường. Cuối cùng tôi vẽ hình một cô gái nhìn nghiêng, tóc thả ngang lưng, áo bà ba. Tôi vẽ theo cách đơn giản nhất và dễ dàng nhất. Dĩ nhiên bức hình trông chẳng giống ai. Nhưng kỳ dị thay tình yêu xui khiến hắn nhìn thấy cái hình ấy chính là cô gái hắn yêu thương. Hắn trầm trồ :
- Trời ơi, giống quá !
Tôi viết và vẽ bằng thứ mực tàu đặc biệt do hắn chế ra. Hắn cầm chiếc xương cá bắt đầu xâm, vừa xâm hắn vừa nói:
- Xâm thực sâu để thứ mực này thấm vào bên trong da. Nó nằm mãi ở đó cho tới chết chưa phai .
- Có đau lắm không ?
- Không .
Tôi thấy hắn cắm thật sâu chiếc xương cá vào lớp da ở cánh tay. Hắn xâm thực sâu và thực dày. Xâm xong hình cô gái hắn dùng đầu ngón tay chà xát mạnh cho lớp khói đen thấm sâu vào những vết châm. Tôi nghĩ chắc là đau lắm, nhưng nét mặt hắn lại tỏ vẻ khoái trá. Rõ ràng ái tình không để lặng câm trong lòng. Tình yêu phải thể hiện ra ngoài bằng cách nào đó . Cách này thực là đau đớn nhưng lại có giá trị vĩnh viễn. Và như hắn nói thì chỉ có cái chết mới phai. Có lẽ khi làm việc này hắn tìm thấy trong chính sự đau đớn có trộn lẫn khoái lạc tuyệt vời. Gần sáng thì hoàn thành tác phẩm.
Chúng tôi đều mệt nhoài. Tôi là sinh viên y khoa, tôi tin chắc hàng ngàn vết xâm bằng chiếc xương cá với thứ mực đặc biệt đó, thế nào hắn cũng bị nhiễm trùng. Nhưng lạ thật, cái thứ khói đèn trộn mỡ heo lại là một thứ thuốc sát khuẩn tuyệt vời. Tôi định bụng khi nào ra trường tôi sẽ nghiên cứu thêm và trình luận án "Chất sát khuẩn mới: Khói đèn và mỡ heo".Ngày hôm sau chỗ xâm chỉ hơi tấy đỏ. Ba ngày sau đóng vẩy rồi những ngày kế tiếp lớp vảy bong ra để lộ tác phẩm hội hoạ và nét chữ tệ hại của tôi. Hắn thì lại rất mãn nguyện. Thỉnh thoảng hắn lại vén tay áo lên xem. Có khi tôi thấy hắn mỉm cười.
Hắn mỉm cười với em Lài và chuyện trò với người yêu trong cánh tay hắn .Tính tới lúc này tôi đã ăn cơm tù hơn một tháng. Bây giờ tôi không còn thấy nhớ nhà và nhớ cô Huyền Trân nữa. Tôi đã bắt đầu quen vói cuộc sống ở trong tù. Lúc này tôi mới hiểu được vì sao người ta có thể ở tù lâu dài. Bí quyết của họ là coi nhà tù như nhà của mình. Riêng hắn thì hắn sống khá điều độ. Tôi mời thuốc, hắn từ chối. Hắn nói:
- Con nhỏ Lài không cho tôi hút. Nó nói phổi tui nám, hút nhiều ho lao, chết đi rồi nó biết sống với ai ?
Các cuộc nhậu trong tù, người ta mời đại ca, đại ca cũng chỉ uống vài ly bia. Tôi hỏi, hắn lại nói :
Con nhỏ Lài không cho tôi uống nhiều rượu. Nó sợ tui đau gan .
Tôi không làm sao hiểu nổi cái cô Lài nào đó bảo gì hắn cũng nghe. Người như hắn mà vươn lên sống thành người tốt thật là khó. Có phải nhờ uy lực của tình yêu hay không ? Còn một tháng hai tuần nữa thì tôi mãn án. Một hôm người ta dẫn đến người tù. Tên này trước là đàn em của Đinh Thìn. Hắn tên là Rèn. Hắn gặp được đại ca thì mừng rỡ ra mặt. Hắn bị bắt vì tội buôn thuốc phiện lẻ. Hắn kể chuyện ngoài đời cho đại ca nghe. Đang khi nói chuyện thì Thìn hỏi Rèn :
- Con nhỏ Lài lúc này ra sao ?
- Tui nghe nói nó bỏ về Gò công rồi .
Nét mặt hắn biến sắc :
- Sao ?
- Bỏ đi rồi ! Nghe nói chạy theo cái thằng lơ xe đò đường Chợ Gạo gò Công.
Tôi thấy hắn chết lặng. Hắn biết tụi giang hồ không hề nói láo và tin tức chẳng bao giờ sai và cũng vì tình yêu mà hắn biết đây là chuyện thật . Hắn chạy tới chỗ song sắt, hắn bám vào, thanh sắt rung lên bần bật. Tôi thương hắn quá, cũng chạy laị ôm lấy hắn kêu nho nhỏ :
- Anh Thìn, chuyện đâu còn có đó...
Hắn vùng vằng xô tôi ra, quay lại nhìn tôi, bộ mặt hắn trông rất lạ. Hình như cơn đau làm cho hắn chẳng nhận ra tôi là ai nữa.
*
Đêm đó tôi không làm sao ngủ được. Hắn cũng trằn trọc. Khuya thì hắn ngồi dậy đem ngọn đèn cầy tới chỗ vắng người. Hắn rút trong người ra miếng thiếc mỏng, thứ thiếc người ta làm vỏ đồ hộp. Hắn lấy cục gạch ghè cho phẳng thành con dao. Tôi hỏi :
- Anh tính làm gì đó anh Thìn ?
- Trả thù !
Tôi lạnh toát cả người, tôi lại hỏi :
- Anh tính vượt ngục tìm thằng lơ xe với con Lài mà thanh toán à ?
- Không cần. Tui trả thù ngay tại đây ...
Hắn xắn tay áo lên, nhìn cô gái thật lâu, đôi mắt buồn bã. Rồi bỗng hắn gầm lên, nghiến răng lại, dùng con dao bằng thiếc rạch thật sâu ngang mặt cô gái :
- Cho mày chết, đồ bạc tình!
Hắn lại rạch một đường nữa rồi gầm lên :
- Đồ phản bội !
Máu hắn chảy từng dòng xuống khuỷu tay. Tôi ôm hắn lại, năn nỉ :
- Anh hành hạ mình làm chi anh Thìn ?
- Không tui có hành hạ gì tui đâu? Trả thù sung sướng lắm .
Nói xong hắn cười ha hả. Nửa giờ sau cái hình vẽ nát bấy không còn hình thù gì nữa. Tôi xé cái áo sơ mi của mình ra băng lại cho hắn. Băng xong hắn trở vào ngủ lại. Nét mặt hoàn toàn thanh thản .
Quý Thể
&
Trăn Trối
Miêng
Người vợ Pháp nhìn anh với ánh mắt trắc ẩn, nao lòng. Chị nhìn thấy cái răng vàng trong tận cùng hàm trên qua miệng anh mở rộng, phần còn lại chỉ là một cái đầu lâu bọc một lớp cao su cũ, vàng úa nhợt nhạt có điểm nhiều chấm nốt ruồi.
Chị biết thân thể anh đã kiệt cùng sức sống, không còn đủ sức phấn đấu dù chỉ để đổi thế nằm. Trong tay anh, cái bấm đổi vị trí giường nâng phía đầu lên xuống, rớt ra. Cơn đau toàn thân cứ âm ỉ nhưng mãnh liệt, âm thầm mà tàn nhẫn đã hành hạ anh từ nhiều tháng nay. Các cơn đau oái oăm đó đã đẩy vợ chồng cha con gần lại, dù chỉ để nói với nhau vài tiếng không đâu vào đâu, hay chỉ nhìn nhau và biết là mọi việc đều trễ muộn - ngay cả lòng ân hận sao đã không tương hợp từ lâu.
Chị trân trọng ngồi xuống mép giường, ấp bàn tay củi khô vào hai tay mình và nhìn anh với cái nhìn của những người đàn bà Âu Châu đón tin chồng trong hai trận chiến.
Chị ngồi như vậy rất lâu, nhẫn nại như trời mùa đông xám ngắt bên ngoài chờ đèn lên để biết là ngày đã hết. Mắt anh nhắm nghiền, hơi thở nhọc nhằn không muốn thoát ra khỏi cổ, hai môi như hai vụn bánh tráng nướng vụng, bất động. Bỗng mấy ngón tay anh cựa quây trong tay chị, ánh mắt yếu lả qua đôi mắt anh hé mở, nhìn chị rất lâu. Chị cúi xuống, hai tay ôm chiếc sọ hầu như không còn tóc :
- Tu veux dire quelque chose ? (1)
Anh gật đầu, ánh mắt hướng về phía sau lưng chị. Thằng con trai đang đứng đó nhìn cha, vẫn với cái nhìn hơi rụt rè xa cách. Nó có đời sống của nó mà anh không chấp nhận. Anh vẫn muốn có một cô con dâu cho anh vài đứa cháu nội, với hy vọng sẽ đền bù những thiếu sót với con vào các cháu tương lai. Nhưng người bạn đời nó chọn lại không phải đàn bà. Từ đó cha con trở nên hầu như xa lạ và khi anh chị chia tay, nó ngả hẳn về phía mẹ.
Chị đứng lên đặt tay ấn vai con ngồi xuống, rồi tới bên cửa sổ nhìn mông lung mấy dãy xe đậu dọc sân bịnh viện ươm ướm sương chiều. Mắt chị ươn ướt đỏ.
Thằng con vụng về cầm tay bố, không biết nói gì. Anh động đậy bàn tay trong tay con rồi thều thào :
- Con, bố tiếc, là, đã không dạy, con văn, hoá, Việt Nam, bố...
Ngoài hành lang vẳng lên tiếng gọi, tiếng chân hấp tấp chạy và tiếng khóc. Trời như sụp tối xuống nhanh hơn, mưa lất phất trên cửa kính óng ánh ánh đèn.
Anh ngừng lại để thở, rất lâu. Thằng con bối rối gọi mẹ. Chị rời cửa sổ đến cúi người xuống gần. Anh thở cực nhọc đứt quãng :
- Bố tiếc, là quá, khe, khắt với, con, bố tiếc, không, dạy, con tiếng, Việt, con chưa, biết, Việt, Nam, bố muốn, con ráng, sống, sao cho, ra, người, bố...
Thằng con kêu lên :
- Mais papa, j'ai rien compris. Tu délires ou quoi ? Qu'est-ce que tu veux dire ? (2)
Anh nhắm nghiền mắt lại :
- Ah oui, bố, veux, dire... (3)
Hẳn là anh có nhiều điều muốn nói, ít nhất một lần trong đời, như tất cả các người cha đều có những chuyện phải nói với con. Anh đã từng ngồi hằng giờ với cơn đau thắt ruột để say sưa nói cho bạn bè nghe về những dự án của mình, với quyết tâm sẽ thực hiện khi lành bịnh. Nhưng bây giờ với con, dù chỉ vài câu thôi, anh cũng không toại nguyện...
Như các dự án muôn đời vẫn chỉ là phôi thai ấy, những gì anh muốn nói cho con hiểu trước lúc lâm chung đã theo anh xuống lònghuyệt lạnh. Sau cố gắng đó đầu anh quẹo qua một bên, cả người bất động. Bên kia cửa kính, mưa bắt đầu nặng hạt.
Điện thoại chợt reo vang, người vợ Pháp chụp lấy vội vàng như thể không muốn tiếng động khuấy rối sự yên nghỉ của chồng, chị nói rất khẽ :
- A lô... Vâng... A chào anh... Ô cám ơn anh. Tôi vẫn thường nghe nhà tôi nói về quyển sách ấy... Vâng, anh ấy rất cần... Vâng, nhưng bây giờ thì trễ quá rồi. Cám ơn anh nhiều... Vâng... Xin chào anh.
Có phải những điều người ta muốn nói với nhau nhất trong đời thường không bao giờ đúng lúc ?
Miêng
(1) Anh muốn nói gì phải không ?
(2) Nhưng bố ơi, con chẳng hiểu gì cả. Bố mê sảng hay sao ?
Bố muốn nói cái gì ?
(3) A ừ, bố, muốn, nói là...
Nàng Thơ
Truyện ngắn của Quý Thể
Năm mười bảy tuổi tôi học lớp đệ tam. Lớp này cuối năm không thi nên học hành cầm chừng, dành sức cho hai năm sau thi hai cái bằng tú tài. Năm đó tuổi dậy thì đã biến chúng tôi từ cậu bé thành chàng thanh niên. Riêng đối với tôi nó còn biến tôi thành thi sĩ. Suốt ngày tôi say sưa làm thơ. "Nàng thơ" của tôi trong thời kỳ đó là chị Ngọc. Chị Ngọc là con gái đầu của bác Thi. Vợ chồng bác thi là bạn lâu đời của ba má tôi. Hai bác có nhà ở Hội An, tôi được gởi ăn học nơi đây. Chị Ngọc tuổi Mùi tôi tuổi Hợi, chị hơn tôi năm tuổi. Chị là con một, chị rất yêu thương tôi, còn tôi tôn chị làm nàng thơ. thế mà thằng Tú, nó bày tôi lén nhìn chị ... tắm !
Tôi thường làm những bài thơ trường giang đại hải tả nhan sắc chị. Chị là nguồn cảm hứng bất tận của tôi. Bài thơ "Suối tóc" tôi tả chị đứng trước gương chải mái tóc óng mượt. Trong thơ có câu :" ...mắt như nhung..." để chỉ đôi mắt đen sâu thẳm, chứa chan bóng tối có cái nhìn êm đềm dài dại. Sau này tôi mới biết chị cận thị nặng, nhưng không chịu mang kính. Tôi còn ví thân thể cô con gái này bằng đủ thứ.
Có bài thơ tôi sánh chị ngọt ngào như viên kẹo ".. cởi bỏ áo ra viên kẹo ngọt ngào...". Những bài thơ kiểu đó tôi không dám đưa chị xem. Độc giả duy nhất của tôi là thằng Tú. Hắn học môn gì cũng dở. Chỉ có môn văn là khá. Đã vài lần hắn hỏi : "Mầy làm thơ tả phụ nữ mà mầy đã thấy đàn bà ở truồng lần nào chưa?". Tôi ngượng ngùng thú nhận chưa. Hắn chê là xoàng và bảo tôi tìm cách xem cho được chị Ngọc tắm thì làm thơ mới hay được. Hắn đã gieo cho tôi ý tưởng táo bạo đó và nó không bao giờ rời khỏi tâm trí tôi.
Tôi chọn chị Ngọc làm nàng thơ là rất xứng đáng. Chị đẹp lắm. Chị đang ở tuổi trái chín tới. Nước da chị có cái màu sắc đặc biệt. Nó khiến cho cái áo lụa tơ tằm chị mặc trong người trở nên mềm mại và ngọt ngào hơn. Chị mặc màu đen làm cho cái màu tối tăm này trong ra. Chị khoác màu trắng, làm cho màu trắng bớt chói chang hơn. Thời gian đó trong nhà chỉ có mấy người, việc nhà ít, chị dành hết thời gian chăm sóc sắc đẹp. Chị có thể ngồi trước gương hàng giờ, chấm cái bông phấn vào hộp phấn hồng, vỗ nhẹ lên đôi gò má.
Chị tô môi son xong, ngậm miệng bậm môi lại cho son trải đều hai vành môi mọng. Bàn học của tôi cạnh đó, quyển sách mở rộng trước mặt nhưng tôi không thấy gì cả. Tôi say sưa nhìn chị, tôi tôn sùng chị, tôi tưởng chị là người của cái thế giới đàn bà cao vợi khác hẳn cái thế giới bọn đàn ông con trai chúng tôi. Chị có một đặc điểm là chăm sóc sự sạch sẽ của thân thể kỹ lưỡng. Có những ngày trời rét tôi co ro trong áo ấm, vẫn thấy chị đi tắm... tắm xong da thịt chị đỏ ửng lên trông rất hay .
Mùa hè, đêm nào chị cũng ra giếng tắm. Cơm nước dọn dẹp xong, chị xách gàu, khăn tắm, bánh xà phòng men theo con đường mòn len giữa hai bờ cỏ, ra giếng. Cái giếng này nằm sau vườn, với bức tường loang lổ vây quanh, có vườn mía tím mọc đầy, là nơi ẩn mình rất tốt.Từ ngày nghe thằng Tũ nói, tôi không thể nào cưỡng lại ý muốn nhìn trộm. Cơm nước xong tôi lẻn ra núp trong vườn mía. Lần nào cũng thế, tới giếng chị ngồi xuống, thủng thẳng giặt áo quần, giặt xong mới tắm. Nơi này tối , lại chẳng có ai nên chị Ngọc tắm truồng. Trong bóng đêm mờ mờ tôi chỉ thấy cái lưng rất trắng với mái tóc đen dài chảy xuống nửa lưng. Chị kỳ cọ xối nước ào ào, vuốt ve khắp người rồi dừng lại chiêm ngưỡng hình hài tuyệt mỹ của mình.
Trong đêm cái thân thể trần truồng hiện ra mờ mờ, xa xa, kích thích cả người tôi nóng bừng. Da mặt tôi ran ran như mặt trống. Tôi chưa bao giờ được nhìn toại nguyện, no say. Anh sáng trăng chỉ cho tôi thấy một cách chừng mực , cái lưng trắng và thỉnh thoảng một vài hình ảnh phía trước, ngực, bụng thoáng qua, và cũng chỉ có thế. Sự thiếu thốn cứ kích thích mãi, nhất là khi chị trở vào, đi ngang qua cách chỗ tôi ngồi chỉ mấy bước chân. Tôi ngửi được lẫn trong sương đêm mùi chanh, mùi bồ kết. Một tập hợp hương vị quyến rũ không chịu được .
Giữa năm đó có người từ Đà Nẵng đem trầu cau đến hỏi chị. Hai bác bằng lòng. Mấy ngày sau người chồng tương lai của chị đến. Anh ta là nhà giáo. Họ thường đi ăn đi chơi và lần nào cũng có tôi đi theo. Có lần chúng tôi đi tắm biển Cửa Đại. Lần đầu tiên dưới ánh sáng mặt trời, tôi được chiêm ngưỡng toàn vẹn hình hài chị trong màu áo tắm đỏ rực. Thế nhưng cũng không bằng màu da trắng loang loáng nước dưới ánh trăng trong vườn mía.
Cho dù chị Ngọc có lấy ai đi nứa thì chị vẫn cứ là nàng thơ của tôi. Tôi khoác vương miện và đưa chị lên ngôi nữ hoàng thi ca. Tháng sau họ làm đám cưới. Cưới xong chị về Đà Nẵng ở. Tôi rất buồn mà hai bác Thị cũng buồn. Mấy tháng sau chị Ngọc lại về Hội An. Tất cả chúng tôi đều vui. Tôi nghe nói chị đã có thai. "Con so nhà mạ" mà. Anh chồng bận dạy học không về được. Lần trở về này chị Ngọc đổi khác rất nhiều. Chị mập ra, trắng hơn , nhợt nhạt. Bụng chị chưa to nhưng mông nảy nở, da mặt căng, cổ phập phồng. Chị thường ngồi một chỗ thở dốc. Trông chị nặng nề , mệt nhọc, khác hẳn vẻ lanh lợi trước kia.
Mấy tháng sau màu da chị trở nên vàng và trong hơn. Thời kỳ này mặc dù gần tới ngày sinh, nhưng đêm lại chi vẫn còn ra giếng tắm. Lúc này người chị đẫy đà, toàn thân trắng nhờ nhờ, bụng đầy lên. Một người đàn bà nhà quê tên là Mộc, là bà mụ vườn, thường đến khám thai, dặn : "Đi đứng làm việc cho nhiều vào, đừng có nằm, sau khó sinh...". tôi thấy càng ngày chị càng nặng nề mệt nhọc, lúc nào cũng có thể ăn và ngủ. "Nữ hoàng thi ca" của tôi đang rơi vào tình trạng khó khăn u uất nặng nề, khó mà dìu hồn thơ tôi bay lên ngọn đỉnh trời được.
Trưa hôm đó, khi chị Ngọc ngồi rửa chén, chị la "Oi chao ơi!". chị nhăn mặt, ôm bụng. tôi hỏi , chị nói đau quá. Tôi hỏi tới ngày chưa ? Chị nói, tính theo âm lịch thì còn nửa tháng. Chị đau nhiều hơn. Bác Thị bảo tôi lấy xe đạp đi mời bà mụ Mộc.
Tôi chở bà mụ về, ở nhà chuẩn bị đủ cả. Trên bếp đặt nồi nước lớn, phòng chị ngủ thành phòng sanh, cửa buông màn. Từ đó tôi chỉ biết lăng xăng bên ngoài. Ở trong có tiếng bác Thị gái với bà mụ và tiếng rên nho nhỏ của chị Ngọc. Lúc sau tiếng rên to hơn. Có tiếng dỗ dành của bác Thị. Tiếng mụ Mộc: "Con so mà. Năm lần bảy lượt chưa thấy chi..." Tiếp đó là nhiều tiếng la, sau đổi thành tiếng thét. Bác Thị trai và tôi ở ngoài không yên. Bà mụ nói: "Mới mở một phân. Chín mười giờ chưa chắc đã rục rịch..." Mụ Mộc đi ra ngoài, ngồi trên ván nhai trầu, nói một mình : "Đã nói làm lụng , đi đứng, đừng có tẩm bổ mà không chịu nghe, để tới giờ cái thai con so mà to như con rạ ..."
Tới mười giờ tối chị Ngọc lăn lộn trên chiếc giường tre. Mười hai giờ khuya đứa bé vẫn chưa xổ ra. Tới lúc này bà mụ không giữ được bình tĩnh nữa. Mụ luôn miệng nói :"Ráng đi con ! Ráng đi con !..." Rồi bỗng nhiên yên lặng hoàn toàn. Tôi tưởng đã xong, nhưng không. Tiếp theo là tiếng khóc rấm rức. Tôi thương chị vô cùng. Trong phòng có tiếng hô giống tiếng hò khoan của lão già hô bạn trai kéo súc ở bến đá. Bà mụ hô "rặn" từng nhịp một. Vừa hô vừa rặn tiếp sức. Chị Ngọc thều thào :"Mệt quá, không nổi nữa !"
Từ trong phòng có tiếng gọi giật ngược: "Cái cậu gì đo vô đây giúp một tay". Tôi rụt rè vén tấm màn chui vào. Tôi không ngờ quang cảnh lại khủng khiếp đến thế. Thân thể chị Ngọc trần truồng , trắng tóat mồ hôi nhễ nhại, đang quằn quại trên cái giường tre không trải chiếu chỉ có vạt giường. Tóc chị rối tung đẫm mồ hôi bết cả vào thái dương. Mụ Mộc ngồi xổm giữa hai chân sản phụ. Mụ ta ghì chặt hai đầu gối đẩy về phía trước và cố sức đè cho dạng ra hai bên. Mụ vừa ngậm cái bã trầu vừa hô. Đầu chị Ngọc lắc liên hồi, miệng khi ngậm bậm môi cố sức, khi há ra thở dốc. Chị hét thất thanh mỗi khi cơn đau tới. Trong ánh sáng cây đèn dầu lửa vặn hết sức to tôi lấy hết sức can đảm nhìn xuống bộ phận ghê gớm nhất. Mùi máu tanh tưởi, mùi dầu gió , mùi khói lò than đỏ rực đặt trong phòng làm cho không khí thật ngột ngạt khó thở. Tôi nín thở, nhắm nghiền mắt lại.
Mụ Mộc thét:"Rọi vào chỗ này!". Tôi mở mắt ra nhưng chịu không nổi phải nhìn đi nơi khác. Trong phòng đầy âm thanh kỳ dị. Tiếng mụ Mộc lúng búng nước trầu. Tiếng niệm Phật của bác Thị gái. Con chó vện cũng bị cái mùi máu tanh tưởi cứ lảng vảng dưới giường. Cuối cùng có tiếng khóc oe oe. Bác Thị kêu lên :"Con gái!". Tôi tìm chỗ đặt cây đèn, chạy ra giếng. Tôi ôm thành giếng thở lấy thở để cái không khí trong lành mát rượi lúc gần sáng. Trên đầu tôi một trời chi chít đầy sao. Bỗng nhiên trong miệng tôi dầy một thứ nước nhàn nhạt trào ra, nôn nao, khó chịu, không giữ được, tôi gập mình nôn thốc nôn tháo. Con chó vện theo tôi ra giếng. Nó cúi xuống ngửi, liếm thử rồi bỏ chạy vào nhà.
Kỷ niệm khủng khiếp đó đeo đẳng tôi trong nhiều năm , "Nàng thơ" đã vỡ tan và chết giữa tâm hồn tôi một cách thảm hại. Từ đó tôi không còn làm thơ ca tụng phụ nữ nữa. Và nói chung tôi cũng không có hứng thú gì để làm thơ. Tôi còn mắc thêm cái bệnh, không rõ đó là bệnh gì ? Và có ai mắc bệnh này như tôi không ? Tôi gớm mọi người đàn bà trên thế gian này ! Tôi không dám ăn thức ăn của họ nấu. Đến nỗi tới nhà ai, cô chủ nhà xinh xắn pha trà mời tôi, nhưng khi nâng chén lên miệng, nghe phảng phất mùi nước hoa từ bàn tay phụ nữ tôi cũng không uống. Tôi đặt xuống và nói một điều gì đó để đánh lạc chú ý của họ. Ba má tôi dỗ dành nhiều lần nhưng tôi cương quyết không lấy vợ.
Tới năm bốn mươi tuổi, chiều theo ý muốn cha mẹ, tôi lấy nhà tôi bây giờ. Có điều lạ là cùng với tình yêu, bỗng dưng tôi thấy sự sinh nở thật là hay. Phụ nữ họ la hét tưởng chừng như chết đến nơi, nhưng khi đứa bé chào đời, tiếng khóc như khúc ca hoan lạc, cái cảnh đau đớn kia qua đi nhanh chóng, và rồi ai cũng quên. Và sau này, mỗi lần cô ấy "vượt cạn" đều có tôi bên cạnh, giống như cổ động viên bóng đá đi theo đội bóng nhà. Cái giây phút mà trước kia tôi cho là kinh khủng ấy bây giờ tôi lại thấy nó thiêng liêng. Người phụ nữ sau đó nhanh chóng trở lại bình thường, xinh đẹp mà còn quyến rũ hơn trước.
Nàng thơ sống lại trong tôi. Tôi làm thơ ca tụng những người mẹ tương lai và rồi tôi lao vào trò chơi quen thuộc, triền miên, không chán. Tôi chạy theo những người đẹp, kể cả mấy cô trùm khăn, bốc đầy mùi dầu gió.
Quý Thể
&&&
Đôi Mắt Hình Chiếc Lá
Bùi Kim Chi
Anh nghệ sĩ. Rất trẻ so với tuổi - một thanh niên lớn tuổi. Bạn bè đã nhận xét vui như thế khi nói về anh. Đó là mẫu đàn ông giàu cảm xúc luôn khắc khoải với những hoài niệm đẹp của một thuở xa xưa nơi một thành phố thơ. Không phải Huế nhưng anh rất yêu và mê Huế, Huế của những tháng ngày cũ có cô em nho nhỏ, dáng yêu kiều đã len nhẹ vào đời anh.
Với anh, Huế và em là hai "phạm trù" tình yêu mà anh không thể rời xa. Thế mới biết em và Huế đã thu hút và gắn bó cùng anh như thế nào để đến hôm nay anh vẫn thẩn thờ, ngẫn ngơ vì Huế ...
*
Huế ơi, tôi đang mơ một giọng Huế dễ thương, nũng nịu ; mơ một tà áo trắng nhẹ bay trong nắng thu thôn Vĩ ; mơ một chiếc nón Huế dịu dàng, e ấp trên chiếc cầu có màu sơn nhũ bạc. Tôi mơ một dáng hạc thanh thoát trong ngôi trường màu hồng của một thành phố lãng mạn với thành quách rêu mờ. Nơi đây, một thời là khung trời thơ mộng của gái Huế, yểu điệu thả hồn bay trong không gian, thời gian lặng lẽ với một chút hương riêng, hương Huế. Tất cả chỉ còn là một nét duyên xưa nhưng với tôi thì đó là cả một khối tình - tình Huế.
Từ bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc ẩn hiện trong ngày với thơ, nhạc, họa mà tạo hóa đã ban riêng cho Huế ; em đã bước vào đời, đẹp, mong manh như sương khói.
Ơi, Huế xưa - một thời em và tôi đã dạo quanh những "con đường tình ta đi" bốn mùa reo vui ...
Em và Mùa thu Huế.
Trời Huế vào thu rất đẹp. Mỗi thời khắc trong ngày Huế khoác lên mình một chiếc áo đẹp riêng, nền nả, kiêu sa. Đẹp nhất là những sáng có sương mai mờ lối rồi sương bỗng nhẹ tan như khói hương bay ; những chiều có nắng vàng phai và những đêm bàng bạc ánh trăng thu. Một buổi chiều, em lang thang trong nắng. Nắng mà chẳng là nắng để em phải đi tìm - tìm nắng. Những mảng nắng hạ cuối mùa còn lại, yếu ớt mong manh trong sắc vàng phai quyến rũ dưới chiều thu. Tôi cũng như em, đếm bước dưới trời thu nhưng không tìm nắng mà theo em, người đi tìm nắng. Tôi lần theo bước chân em nhẹ lướt trên đường. Nắng nhạt dần ... nhạt dần ... Màu vàng mơ xuất hiện, nhẹ nhàng, thênh thang. Em thấp thoáng trong tà áo trắng dưới nắng vàng phai. Chiều thu mênh mang, mây bay như khói. Em thì cứ bồng bềnh trong khói còn tôi thì cứ lặng lẽ theo em. Có lẽ chỉ trong cảnh sắc thu ta mới cảm nhận được vẻ đẹp của cảm xúc con người ẩn dấu bên trong. Cảm ơn đời đã cho tôi - em. Em đã bước vào đời tôi từ buổi chiều hôm ấy, một chiều thu có nắng vàng phai...
Huế lập Đông và em.
Mưa nhuộm tím bầu trời. Huế đã vào đông. Mưa Huế là lạ. Mưa bay. Mưa nghiêng. Mưa thẳng đứng. Mưa xôn xao. Mưa rả rich. Mưa dầm. Mưa kéo dài lê thê... Ôi ! mưa Huế. Trời se lạnh, lành lạnh, lạnh run, lạnh tê tái, lạnh buốt người. Lạnh lắm ! Thế mà em và tôi vẫn cứ dạo chơi dưới mưa và gió lạnh. Gió reo lẫn vào tiếng nhạc mưa lúc trầm, lúc bổng tạo thanh âm rộn rã của tiếng lòng tôi. Dưới mưa em thật đáng yêu và ngộ nghĩnh trong chiếc áo mưa tím model một thời có cái mũ áo như chiếc khăn trùm đầu đáng yêu. Em nhí nhảnh và dễ thương. Vừa đi em vừa đưa tay xoa nhẹ những làn mưa trước mắt rồi quay sang tôi : "Anh ơi! mưa đẹp quá. Trắng và bồng bềnh như tấm thảm nước". Quay sang em. Gương mặt em nhạt nhòa trong nước rất xinh... Tôi nhìn em. Em nhìn tôi đắm đuối. Trong sâu thẳm tâm hồn tôi, em là tất cả. Mưa đổ muôn chiều, em và tôi vẫn trong mưa. Hai đứa qua đường Hàng Đoát. "Những cây đoát già chơi vơi trong mưa. Tội nghiệp". Em nói. Tôi cười : "Em sợ già ?". "Không phải. Em sẽ không già để suốt đời được nhìn anh". Tôi bỗng "chơi vơi", không phải vì sợ "già" mà sợ "mất em". Tôi mỉm cười - nụ cười yêu thương dành cho em.
Đây, đường Lê Lợi. Con đường tình của tuổi học trò. Mưa bay nghiêng. Trời mùa đông mặc áo màu khói hương. Hàng cây bên đường lặng thầm nhìn mưa bỗng vươn cành reo vui mời gọi hai đứa tôi làm nền cho con đường tình của Huế. Guốc em gõ nhẹ trên đường chầm chậm, dịu dàng bên tôi. Lòng tôi nghe như say trong khúc nhạc mưa yêu thương của một chiều đông.
Con đường dẫn về nhà em - đường Hàng Me có nhiều người đẹp. Ngôi nhà màu hồng với giàn hoa Tim Vỡ trước ngõ đã bao lần níu bước chân tôi. Tôi từ giã em lòng bâng khuâng, một mình quay gót với hình bóng em mập mờ bóng nước.
Mưa bắt đầu nặng hạt. Một ngày đông ngọt ngào đã qua ...
Mùa Xuân Huế cùng em.
Đầu xuân em đi lễ chùa. Tôi theo em. Tôi đi xa xa không dám gần vì em đi cùng với me. Sân chùa ngập trong nắng xuân với hương và sắc hoa rực rỡ. Chuông chùa vọng hồn người. An nhiên. Tự tại. Em quỳ trước điện Phật, tâm thành, dịu dàng trong chiếc áo màu lam. "Lạy Phật cho con lấy được người con yêu". Cả hai cùng khấn nguyện...
Chiều xuân nắng vàng tươi. Huế rộn rã trong tiếng cười của xuân. Mai vàng khoe sắc. Thơ duyên bay đầy trời Huế nhưng mấy ai cầm được một cánh thơ ?. Huế là thế! Vui vui, thơ thơ, thắt thắt, mở mở, ẩn rồi hiện nhẹ nhàng, kín đáo. Khó có ai ngoài Huế mà hiểu được Huế của em. Hai đứa đạp xe rảo qua các con đường tình của Huế. Từ cầu Trường Tiền qua khu Gia Hội, xuống Diệu Đế, qua Ngự Viên, về Đông Ba, ra Thượng Tứ và dừng chân ở bến Thương Bạc. Hai chiếc xe đạp bình an, đằm thắm tựa vào nhau.
Chiều sông Hương nước xuân trong xanh như ngọc dưới sắc màu của mây trắng, nắng vươn cao. Tôi và em lãng du cùng mây nước với hương xuân bàng bạc mùi trầm. "Ngày xuân, em - buồn xuân thêm tuổi". Nghiêng nghiêng mái tóc, mắt em cười. Bất chợt tôi hỏi em : "Em sợ già ?". Em thỏ thẻ, miệng cười tinh nghịch : "Không, em sẽ không già để suốt đời yêu anh". Giọng nói của em, một giọng Huế hết sức đặc biệt. Cuốn hút, mời gọi người nghe. Tôi yêu em.
Hoàng hôn thả giọt nắng cuối vàng đậm trên sông. Cả một trời mây nước xôn xao chuẩn bị tiễn một ngày qua. Hai chiếc xe đạp tình tứ bên nhau trên đường. Hương mai nhả khắp nơi. Thấp tha thấp thỏm, hối hả vì "Em sợ me la. Tối rồi!".
Tôi về Thành nội. Đường nội thành Sầu Đông tím ngát ...
Em, tôi với Mùa Hạ Huế.
Em, nàng Tằng Tôn Nữ tôi yêu. Một trong những người đẹp của Hàng Me. Tóc dài buông lơi. Dáng yêu kiều. Một nàng thơ của riêng tôi. Em có gương mặt ưa nhìn với đôi mắt đen hình chiếc lá rất ấn tượng, đã cuốn chặt đời tôi. Tôi, một chàng trai Nam bộ , học Sư Phạm nhưng có chút lãng tử . Không đẹp trai lắm nhưng mang dáng vẻ đàn ông. Huế đã dẫn tôi và em lãng đãng trong cuộc tình đầy thơ và ngát hương ...
Trời trong xanh, dòng sông trong xanh. Hạ đã về thật rồi. Hương Giang vọng tiếng hò tha thiết, man mác buồn. Tôi và em lao xao theo hạ với những trưa hè rộn rã tiếng chim ca, những chiều dạo bước dưới những hàng cây xanh chập chờn hoa nắng xô đuổi nhau trên đường. Tôi mê những hàng phượng đơm bông đỏ thẳm cả một khoảng trời hồng trên đường Trịnh Minh Thế, trước Phu Văn Lâu cùng tiếng ve gọi hè rạo rực một mùa thi. Trời chiều nắng hạ vàng ươm, em và tôi đạp xe lên đồi Thiên An. Đồi thông lộng gió hát khúc yêu thương hòa cùng nhịp đập đồng điệu của trái tim em và tim tôi. Hạnh phúc thật đầy. Nắng vàng phủ đồi thông. Tôi và em như bay trong không gian của một chiều hạ êm đềm, dịu ngọt của Huế. Một dãi lụa hồng vắt ngang trời. Màu tím xuất hiện. Vội vã. Hoàng hôn đã về trên đồi. Giọt nắng cuối đã tắt. Tôi và em chia tay. Em xuôi Đập Đá. Tôi qua cầu Trường Tiền về ngôi nhà trọ ở xóm Ngự Viên. Huế khoác màu áo đen lấp lánh ánh đèn đêm ...
*
- Cuộc tình đã mất ?
- Vâng, đã mất. Mất thật rồi.
Anh trả lời. Mắt buồn xa xăm.
Sông Sài Gòn nước không trong xanh như Hương Giang Huế nhưng nơi đây anh vẫn tìm thấy đôi mắt em - hình chiếc lá gọi hồn anh. Một thời em, một thời anh và cả một cuộc tình đẹp như thơ đã mất trên đất Huế rồi. Huế ơi!
Bùi Kim Chi
Phế Tịch Huy Hoàng
Truyện ngắn của Quý Thể
Năm lớp nhất tôi trọ tại nhà thầy. Cha mẹ tôi nghe thầy nghiêm khắc gửi tôi đến, nhờ cô nấu cơm, nhờ thầy kềm cặp chữ nghĩa và đạo đức cho nên người. Theo lời đồn đãi thì thầy rất nghiêm khắc. Thế nhưng tôi được học với thầy ở trường, sống với thầy một nhà. Tôi biết cuộc sống riêng tư của một ông thầy ngày trước. Không như lời đồn, thầy tận tụy với nghề và thương yêu học trò. Sống với thầy tôi phát hiện ra nhiều điều kỳ dị. Mỗi khi bước vào lớp dáng đi của thầy bệ vệ oai nghi, lưng thẳng, tay chân cử động không thừa không thiếu một động tác nào, giống như thầy đóng kịch trên sân khấu. Thầy đổi cả giọng nói mỗi khi đến giờ tập đọc, viết chính tả. Thầy uốn lưỡi, đổi giọng, phát âm thật chuẩn. Đó thực là con người khác hẳn ngoài đời. Lúc thường ngực thầy lép, lưng cong như tôm, tay chân khẳng kheo, cử chỉ chậm chạp rù rờ như một ông lão. Giọng thầy ngày thường rất khó nghe, lí nhí, thiếu chữ, thiếu hơi, nói sai và đầy âm sắc địa phương.
Tôi còn nhớ thầy chỉ có hai bộ áo quần, một kiểu, một màu, một loại vải. Suốt năm thầy chỉ thay đổi hai bộ đồ này. Bọn học trò con nhà giàu tưởng thầy chỉ có một bộ, chế riễu "công tử nhất manh". Có hôm bận, cô giặt xong không ủi. Thầy cầm chiếc áo nhăn nheo lên tỏ vẻ không bằng lòng. Cô nói;
- Đi dạy chớ làm quan quyền gì mà phải ăn mặc cho sang?
Thầy nói;
- Không cần sang, chỉ cần sạch, phẳng.
Cô cố hạ thấp nghề nghiệp của thầy, mỉa mai:
- Ông dạy ba đứa con nít chứ làm ông to bà lớn gì mà chưng với diện ?
Thầy nói dạy người lớn chẳng cần. Dạy con nít mới khó. Ông thầy ăn mặc chững chạc con nít nó mới sợ mới chịu học...
Cô cười mà chúng tôi cũng cười cái lý lẽ kì dị của thầy. Chúng tôi đều cho rằng áo quần ông thầy không có liên quan gì đến việc học bọn trẻ.
Cô nói, quất cho mạnh vào chúng nó sợ chớ sạch mà chúng sợ sao? Thầy nhỏ nhẹ : " Ai lại đánh học trò ..."
Hình như thầy chỉ hơn cô năm ba tuổi, tôi đoán lúc ấy thầy chỉ khoảng 40, một cái tuổi rất còn trẻ so với bây giờ, thế nhưng vì lối sống khắc khổ của một nhà mô phạm và bệnh tật làm cho thầy già nua, già hơn tuổi rất nhiều, trông như cha con. Cô xấu hổ với mấy thầy trợ giáo trẻ, thầy thông, thầy phán...Cô là con trong một gia đình nhiều chị em. Mấy người kia nhan sắc thua cô một trời một vực mà chồng họ hơn chồng cô nhiều. Có người nhà giàu, kẻ làm to, hầu hết đều trẻ trung đẹp đẽ. Còn số cô đen bạc lấy phải ông giáo quèn. Cô thường gọi cái nghề của thầy như thế. Ngày kỵ giỗ trong gia đình cô chẳng dám dẫn thầy về, Có ai hỏi, sao ông giáo không đến? Cô nói, đọc sách ngâm thơ cả ngày, chẳng chịu đi đâu cả. Sự thật ngoài giờ đến trường về nhà thầy thui thủi một mình trong nhà chấm bài, soạn bài đâu có thời gian ra ngoài đàn đúm, cũng chẳng mấy khi phong lưu đọc sách ngâm thơ.
Thầy có cái nón cối bằng điên điển rất nhẹ và đôi giày bata. Mỗi tuần vào chiều thứ bảy là lúc thầy đánh phấn giày, mũ, Thầy lấy cái bàn chải răng nhúng nước chải trên hộp phấn khô thành một thứ bột trắng nhão phết lên giày, mũ. Thầy đánh rất kỹ, mọi thứ đều trắng tinh, đem ra hàng rào phơi. Cô ngồi trước gương tô son điểm phấn. Thường ngày mỗi khi thầy đi làm , cô ít khi ở nhà, cô đi dạo, đi đánh bạc, đi chơi...Chiều thứ bảy thầy ở nhà cô không thể bỏ đi được, cô bực lắm. Cô trang điểm xong nhiøn bóng mình lộng lẫy trong gương cùng với bóng ông chồng xấu xí của mình, ở trần, gầy giơ xương, quần cộc, lưng tôm, đầu gối quá tai, cặm cụi làm việc, dáng thiểu não, cô ngao ngán thở dài rồi cô gắt:
- Đánh giày mũ lúc nào chẳng được ?
- Phải tập làm đúng giờ giấc cho qnen
Cô vặn vẹo:
- Đúng giờ làm chi?
Thầy ấp úng không trả lời, chỉ ậm ừ " ...Ờ thì làm gương cho mấy đứa học trò ấy mà..." Một lần nữa cô hạch sách :" Dạy học chớ làm thầy tu hay sao mà làm ông thánh cho mấy đứa con nít trông à ? " Thầy biện bạch yếu ớt : "Lỡ theo cái nghiệp mất rồi..."
Thầy sống như một cái đồng hồ, ăn uống thức ngủ đều đúng giờ. Chiều thứ bảy là để dánh giày, không thể bỏ được. Tính cô khác hẳn, cô dễ dãi xuề xòa ham vui, trẻ trung. Cô vui vẻ nói cười với tất cả mọi người. Cô chỉ bực tức gắt gỏng với chồng. Cô rất ghét, rất chán cái lối sống của thầy. Lúc đầu cô la lối chê bai mỉa mai đủ cách mà thầy vẫn không đổi, cô chán, không nói nữa. Cô bất cần thầy muốn làm gì thì làm, cô sóng theo kiểu mình.
Buổi tối cơm nước xong thầy vào phòng soạn bài, chấm bài, cô với bọn trẻ ra nhà sau trò chuyện, mua quà ăn khuya vui vẻ lắm. Cô người lớn nhưng tính trẻ con, cô thích nghe chuyện ma. Có đêm chúng tôi quây quần cạnh cây đèn măng sông hiệu Aladin cháy vù vù rất ấm nghe chuyện ma. Bọn trẻ thích cô hơn thầy. Ban đêm chúng tôi thường thức rất khuya, sáng dậy trễ, thầy la cô:
- Để cho trẻ con ngủ sớm, dậy sớm đầu óc minh mẩn học bài mau thuộc. Năm nay bọn chúng phải thi.
Cô mỉa mai: Ai mà theo ông nổi, ngủ như gà, mới chạng vạng đã lên chuồng. Rồi cô kể lể, người già, người bệnh cũng phải thông cảm cho người khỏe, người trẻ. Bắt họ sống theo kiểu dở sống dở chết thế ai chịu nổi... Cô nấu cơm tháng cho học trò ăn, nhưng có tháng cô đánh bạc thua hết, cho học trò ăn cơm với nước mắm. Thầy biết được rầy cô, trẻ con cần ăn ngon, ăn bổ, ăn nhiều. Chúng nó ăn để học tập, hoạt động, để lớn. Còn người lớn ăn rồi già, rồi chết ích lợi chi?
Có lần trong nhà hết đũa ăn. Cô nói, đến giờ thủ công ông bắt học trò làm đũa để nhà dùng. Chúng tôi đều cho đó là chuyện tự nhiên. Thầy không chịu, thầy nhíu mày gắt: Thầy giáo ai lai bắt học trò làm đũa đem về dùng?
Cô còn trẻ đẹp, sinh lực dồi dào, cô chán cảnh nhà lắm. Về sau cô không chơi với bọn học trò trong nhà nữa. Tối lại khi thầy đóng cửa phòng soạn bài, cô son phấn đi đánh bài với mấy thầy thông thầy phán, trợ giáo, kể cả quan đốc học. Thầy biết cả nhưng thầy không nói.
Khi tôi mới đến nhà thầy trọ học, có người khuyên: Ông giáo bị lao phổi nặng lắm, coi chừng lây...Lúc đầu tôi không thấy thầy ho hen giø cả, không có vẻ gì là người mắc lao. Không giống như những cặp vợ chồng thành thị, thầy cô không ngủ chung. Phòng cô trang hoàng đẹp lắm, giường Hồng Công, suốt ngày buông tấm màn tuynh màu hồng thoang thoảng hương son phấn đàn bà. Thầy nằm trên tấm phản cũ kỹ mốc meo, đầu gối trên chiếc gối đan bằng mây, với cây quạt mo. Ở nhà thầy mang guốc gỗ dày cộm, đóng quai da bò. Bước chân thầy bao giờ cũng rón rén chỉ sợ làm ồn.
Khi chẳng còn tình yêu người ta nhờm tởm nhau. Cô ghê tởm mọi thứ của thầy. Sau này cô không giặt áo quần thầy, học trò phải giúp thầy. Trong nhà thầy có chén bát đũa riêng. Buổi sáng thầy ho khục khặc vài tiếng. Đến trường tôi không thấy thầy ho hen gì cả. Trưa về đến nhà thầy ho hen khạc nhổ rất nhiều. Thầy lấy vôi bột cho vào ống nhổ đem đổ vào cái hố sau vườn. Có lần tôi xin giúp, thầy không cho, thầy nói, phổi trẻ con dễ bị vi trùng lao xâm nhập. Tôi chẳng thấy thầy chữa trị gì cả. Không có thuốc hay chỉ vì thầy không có tiền mua thuốc ? Lâu lâu thầy sai tôi qua nhà thương xin xi rô hiệu Tô lu. Đây là thứ thuốc ho xoàng xĩnh chữa bệnh ho gió cho cả trẻ con lẫn người lớn. Cô nói, hôm nào ho nhiều xin phép nghỉ, vào lớp ho như thế làm sao dạy dỗ cho được ?
Thầy nói:
- Ở nhà tôi mới ho. Vào lớp tôi đâu dám ho !
Trời ơi hóa ra khi đứng lớp thầy nín ho. Thực là tài, tôi không thể nào làm được. Tôi không hiểu tại sao thầy lại cấm mình ho? Sau này tôi mới biết ho hen khạc nhổ ở chỗ đông người là mất lịch sự.
Có lần đi dạy về, thầy nói, con sáng mắt tìm trong áo thầy có con gì nó cắn thầy suốt cả buổi rất khó chịu. Tôi thấy cổ, lưng cánh tay thầy đầy vết mẩn đỏ. Thầy gãi như cào cấu da thịt mình. Cô hỏi, gãi chi mà ghê thế? Thầy nói, cả buổi sáng đứng trên lớp tôi đâu dám gãi!
Tôi không hiểu nổi thầy đã chịu đựng cho những con kiến cắn suốt buổi sáng để dạy dỗ mấy đứa chúng tôi. Thuở ấy chẳng có thuốc men giø, tôi xin vôi ăn trầu về bôi cho thầy. Tôi thấy trong áo thầy có nhiều kiến lửa. hóa ra có bầy kiến thấy hơi mỡ bò lên chỗ thầy móc áo.
Chúng tôi không làm sao hiểu nổi thầy sống khó nhọc như thế để làm gì ? Thầy tu theo cái đạo khổ hạnh gì hay thầy muốn quan trên tăng lương, tăng chức? Tôi biết không phải. Bệnh lao thời ấy là bản án tử treo lơ lửng trên số phận, thầy cần gì lương với chức.
Phải lâu lắm, nhiều chục năm sau tôi mới biết được lý do của sự ép xác. Nhờ đọc mấy cuốn sách về tâm lý thiếu nhi, sách nghệ thuật sư phạm, tôi thấy có một học thuyết cho rằng: Đối với trẻ con, ông thầy là thần tượng cho chúng nhìn vào, bắt chước noi theo. Nên ông thầy phải hóa thân thành vị thánh, một thần tượng có thực để chúng chiêm ngưỡng. Ông thánh giả bằng xương bằng thịt phải biết lột xác, quẳng cái xác phàm để thăng thiên hiển linh thành vị thánh. Đã là thánh thì phải có hình hài uy nghi, diện mạo nghiêm trang, suy nghĩ chính trực, nói năng đứng đắn...Tôi không biết học thuyết này có đúng và có góp gì vào công cuộc đào tạo những con người còn non nớt này? Nó còn phù hợp với thời đại nữa không? Nhưng rõ ràng thầy tôi là một tín đồ thuần thành. Thầy áp dụng một cách máy móc các tín điều vào việc dạy dỗ của mình. Thầy tôi vốn thực thà mộc mạc, đã tin thì tin một cách hết lòng.
Trời ơi ! Thầy tôi nghèo khổ mà cố lo sao vào lớp phải có bộ cánh tươm tất. Hình hài ốm o tiều tụy mà cố đi đứng cho oai vệ. Ho không dám ho. Kiến cắn không dám gãi...Thầy tôi đã làm hết sức để vứt bỏ cái xác phàm khi đứng trên bục giảng cho những tâm hồn non nớt tựa vào đó mà bay cao lên bầu trời tri thức.
Thầy dạy thêm nửa năm nữa thì bỏ. Trước đó khi đứng lớp thầy thường bỏ chạy vào nhà cầu ho và khạc. Một lúc sau thầy trở ra mặt mày nhợt nhạt. Cũng chẳng được lâu, cơn ho khác lại kéo đến...Thầy yếu dần. Áo quần thầy cô gớm không giặt ủi, không còn tươm tất như trước. Thầy xuống sức nhanh chóng, ngực lép hơn, vai nhô cao, hai tay khẳng kheo da bọc xương. Sức nặng đè cái cột sống đã mòn mỏi làm oằn xuống, khiến cho thầy đi đứng không còn thẳng thớm, oai vệ. Vi trùng lao đục thủng phổi thầy. Thầy chẳng hớp đủ không khí, thầy hụt hơi, chẳng thể nói được rõ ràng mạch lạc. Giày và mũ thầy dùng bao nhiêu năm đã tả tơi. Mốc meo thảm hại...
Một buổi mai học trò trong nhà thấy thầy run rẩy. mặc áo quần, đội mũ, mang giày, đứng trước gương. Thầy ôm cặp lên rồi đặt cặp xuống, luyến tiếc vuốt ve cái cặp da bò đã theo thầy bao năm. Thầy lấy tờ giấy nắn nót viết. Thầy lấy sổ điểm, sổ soạn bài gói lại nhờ cô đem tới trường. Cô hỏi. giọng tò mò:
- Cái gì đây ?
- Đơn
- Đơn giø?
- Đơn xin nghỉ dạy.
- Đang dạy sao lại nghỉ ?
Thầy hỏi
- Mình thấy tôi giống ai ?
Cô tưởng thầy lẩm cẩm, nói:
- Thì ông giống ông chớ giống ai?
- Không, ý tôi muốn hỏi tôi có còn giống ông thầy giáo nữa không?
Cô gắt:
- Ngớ ngẩn !
Thầy cười. Sống gần thầy ít khi thấy thầy cười. Lần này nụ cười buồn héo hon, rồi thầy tự diễu cợt:
- Trông tôi giống lão ăn xin. Ông thầy giáo chết rồi. Tôi còn dạy dỗ sao được nữa ?
Cô chẳng hứng thú gì để giểu cợt. Cô bận , cô vội đi, cô nói:
- Bây giờ tôi bận lắm, không đi cho ông được. Tối nay ông đốc học đánh bài bên nhà cô Án, gặp ông ấy tôi đưa cho...
Thầy nói;
- Không được, công văn ai lại đen đến chỗ bài bạc. Việc công phải đem đến trường.
Cô quay đi gằn từng tiếng:
- Vẽ chuyện...lôi thôi...công với tư !
Cuối năm thầy qua đời.
Quý Thể
******
Con thuyền chén đĩa
Truyện ngắn của Quý Thể
Mỗi người có một thú tiêu khiển, trò chơi của chị Thuận là rửa chén bát đũa muổng...Phải ngồi xem chị ấy rửa hay nghe chị hướng dẫn cho cô Thu em gái của chị mới thấy, công việc rửa chén bát đĩa không đơn giản.
Sau bữa cơm, anh Nguyện dẫn tôi lên nhà trên chuyện trò.Anh kể tiếp chuyện thời kháng chiến 9 năm chống Pháp. Hồi đó anh làm C trưởng ( đại đội trưởng). Câu chuyện đang đến hồi hấp dẫn, đó là đoạn sau một trận đánh lớn ở miệt rừng Phan Thiết. Quân ta quân địch chưa kịp thu dọn chiến trường, cứu thương, mang xác đồng đội về, thì mấy con cọp đã làm trước chuyện đó. Xác ta xác Tây kể cả mấy người bị thương nặng nhẹ, chúng cũng dọn sạch. Anh kể rất chi tiết đoạn hấp dẫn nầy. Thế nhưng tôi vẫn không bị câu chuyện đầy tình tiết li kì ấy hấp dẫn mà dán mắt xuống bếp, chỗ có cái vòi nước máy xem chị Thuận, hướng dẫn cô em gái kĩ thuật, lẫn nghệ thuật rửa chén. Thuận nói:
- Làm đàn bà con gái, mỗi khi nấu ăn xong phải bắc lên bếp ấm nước...
Thu không hiểu ý chị, nói:
- Nước sôi nấu từ sáng, pha trà, còn dư chế phích rồi. Nấu làm chi nữa?
Chị Thuận :
- Không phải có nước sôi rồi thì không nấu. Chị nói với ý khác. Còn than củi trong bếp phải biết tận dụng. Nhà người ta vẫn nhốt than đỏ lại, làm thế cũng hao, chi bằng nấu ấm nước trụng chén đĩa lợi hơn.
Rồi chị nói qua những giai đoạn rửa:
- Trước tiên phải tráng qua một ít nước lạnh. Tráng qua thôi để dồn thức ăn thừa lại đổ vào thùng nước gạo, cho ông Tư hàng xóm xách về nuôi heo. Mình được cái tiếng giúp người, lại còn được cái đức cần kiệm, không phí hạt cơm là hạt ngọc của trời, sau nầy về làm dâu con người ta, không ai chê vào đâu được. Hôm nào thức ăn nhiều dầu mỡ phải rửa xà phòng thực kĩ...
Chị nầy miệng nói tay làm, cử chỉ gọn gàng, mấy cái chén đĩa kiểu phát tiếng kêu kin kít trong đôi bàn tay, va chạp nhau lanh canh trong chậu nước. Trong chậu bọt xà phòng dậy lên rồi tan ra, từng khối bọt chạy vòng vèo trong chậu, trông như chiếc pháo chuột. Theo tôi thì mọi vật tới giai đoạn nầy đã quá sạch, song đối với chị Thuận chỉ mới bắt đầu. Phải còn qua hai giai đoạn nữa là rửa nước thường và trụng nước sôi. Đến đây mới được xem là xong việc rửa. Úp vào chạng, đem phơi. Phơi đối với chị cũng hết sức nhiêu khê. Chị dặn Thu:
- Hôm nào trời âm u mà bọn trẻ con không đá bóng thì có thể đặt chén bát phơi dưới giàn hoa thiên lí nhà mình. Ngày nào nắng gắt mà bọn trẻ con ra sân chơi đá bóng, bụi bay mịt mù thì phơi ở sân sau, gần cây khế ngọt, nhưng cũng phải đậy điệm cẩn thận.
Tính kĩ lưỡng của người phụ nữ nầy khó ai sánh kịp. Cô Thu học bài học vỡ lòng về môn tề gia nội trợ này xem ra chẳng chút thích thú. Cô vô tình lấy năm ngón tay ướt sũng nước rửa chén xòe ra làm lược, chải ngược mái tóc ngắn lòa xòa trước trán ra sau. Chị Thuận thét lên:
- A ! Trời ơi cái con này! Tay chân ướt mèm xà phòng dầu mỡ, nước rửa chén lại bôi lên đầu? Với lại đã xong đâu? Còn rửa nồi niêu son chảo úp lên giá, quét dọn nhà bếp. Tính bỏ đó cho ai, đi chơi hả?
Hình như chị Thuận thấy mình đã to tiếng với cô em gái trong khi nhà trên đang có khách. Chị hạ giọng : "Tòan là khách đàn ông. Người ta đến coi mắt đó. Liệu mà làm lụng đi! "Cô Thu miễn cưỡng làm theo lời chị. Thuận giống như vị giám khảo nghiêm khắc, đứng chống nạnh mắt nhìn cô em tỏ vẻ chẳng chút bằng lòng. Thu cũng bất cần bà chị khó tính, bất cần luôn mấy thằng đàn ông tới coi mắt. Lúc nầy cô chỉ muốn lui về phòng mình, cởi cái quần jean bó chặt mông đùi, cứng như gỗ, rất khó chịu. Tháo cái nịt vú thít chặt phía trên, rất khó thở. Mấy thứ này đều do Thuận bày đặt ra cho cô em gái mình suốt cả buổi sáng, lại kéo em tới bàn phấn săn sóc nhan sắc cho đứa em gái bất cần đời nầy.
Anh Nguyện nói chuyện song thỉnh thoảng vẫn ý tứ đưa mắt xuống bếp nhìn hoạt cảnh dưới ấy. Rõ ràng hôm nay dưới bếp nhà anh đã xảy ra chuyện quan trọng do vợ giàn dựng. Để tôi bớt chú ý anh kéo tôi tới bàn nước. Uống tới chén thứ hai anh giục: "Thôi nghỉ trưa nửa tiếng, đi làm" Chiều nay vợ tôi đi Bình Tân.
Tôi không hiểu anh nhắc chuyện vợ vắng nhà cho tôi biết làm gì? Bốn giờ chiều hai chúng tôi đi làm về. Một lần nữa anh Nguyện giữ tôi ở lại ăn cơm. Tôi độc thân, quanh năm cơm hàng cháo chợ, tôi rất thèm không khí đầm ấm và bữa cơm gia đình. Anh chị Nguyện đã nhiều lần gợi ý mời tôi đến ở chung, tôi còn ngại, vì trong nhà có cô con gái chưa chồng. Chiều nay anh Nguyện đi làm về anh chạy ngay xuống bếp, cố làm ra vẻ ôn tồn, hỏi:
- Chị về chưa em?
- Không biết!
Nguyện hơi xẳng giọng:
- Sao lại không biết?
- Không biết là không biết chớ tại làm sao?
Nguyện cố nhẫn nại:
- Cơm nước có chưa em?
- Có rồi!
- Dọn lên chưa?
- Dọn rồi!
Tôi để ý thấy nhà nầy lạ lắm. Trong khi cô chị nói năng lúc nào cũng ý tứ ngọt ngào thì cô em lại cộc lốc, cụt ngủn, nhát gừng. Thu không chịu lên ngồi ăn chung với chúng tôi. Nàng ra hiên ngồi xem người đi qua đi lại. Nàng nhìn tất cả mọi người một cách hết sức chú ý. Lúc đầu tôi tưởng cô chờ ai. Sau thấy cô nhìn ai cũng có vẻ say sưa, tôi không hiểu cô đang chơi trò gì?
Chúng tôi ăn xong, Nguyện nói trổng:
- Dọn xuống rửa đi!
Thu nghe nhưng làm như chẳng nghe, không chịu rời ghế rời trò chơi nhìn và đếm người qua lại. Một lúc sau cô mới chịu vô nhà. Nguyện rất biết tính Thu nên chẳng dám giục nữa, anh làm bộ không quan tâm. Theo đúng cách thức chị Thuận hướng dẫn, mỗi khi nhà trên ăn xong, bưng mâm xuống bếp, lấy ngay khăn lên lau sơ, sau lau bàn ăn bằng khăn ướt, để ruồi không bu, và để khách khứa tới nhà không nghe thoang thoảng mùi nước mắm. Thu chẳng làm theo. Trên mặt bàn đầy cơm và thức ăn rơi vãi. Chính anh Nguyện thấy chướng quá phải đứng dậy lau bàn. Tôi nhìn xuống bếp xem cô em có nhớ bài học buổi sáng hay không? Hình như cô gái quên tất cả. Cô làm theo ý mình.
Chiều hè, trời tối rất chậm, trong nhà bếp còn sáng cô Thu vẫn mở ngọn đèn tuýp thước hai sáng trưng, ngồi nhà trên nhìn xuống rất rõ. Cô lấy chân đẩy cái thau nhựa màu đỏ tới dưới vòi nước, mở ra, nước chảy ào ào vào , một lúc sau nước đầy thau. Thu ngồi xuống, chậm chạp lấy từng cái chén cái đĩa, cái tô...cẩn thận đặt lên mặt nước trong thau, sao cho chúng không chìm. Tất cả nổi bềnh bồng. Bây giờ trong thau chén đĩa nhấp nhô như những con thuyền trên bến cảng. Thu ngồi yên ngắm cái bến cảng tí hon với đội thuyền đông đúc của mình có vẻ hết sức thích thú. Nàng lấy bột giặt rắc đều lên như người ta rắc hoa giấy ( Confetti) lên áo cưới cô dâu chú rể. Kế đó cô lấy đũa khuấy nhè nhẹ. Những con thuyền chén đĩa sóng sánh va vào nhau lanh canh. Những con thuyền bắt đầu chuyển động theo vòng tròn, ban đầu chậm, sau nhanh dần. Hạm đội chén đĩa giống như bị rơi vào con xóay lớn. Có chiếc nghiêng ngửa rồi chìm. Rồi thì tất cả hạm đội vùi mình dưới lòng nước sâu, cô nhặt lên từng cái, đặt vào sóng chén bát. Tôi chưa thấy ai rửa chén bát nhanh và dễ dàng lại rất thú vị như cô gái nầy!
Có lần nhìn hai chị em đứng cạnh nhau tôi bắt đầu nghi ngờ về cái thuyết di truyền của nhà khoa học Mendel. Về hình dáng hai người không có điểm nào giống nhau. Về tính tình lại còn khác xa nhau một trời một vực. Thuận tế nhị, khôn ngoan, lanh lợi và tinh quái, "đàn bà" một trăm phần trăm thì trái lại Thu ngây thơ, nghịch ngợm, lơ đễnh. Chị em ruột thịt cùng cha cùng mẹ sao khác nhau đến thế? Có lần tôi nghe anh chị Nguyện nói xa gần về tính tình cô em gái, và họ cũng đang rất nóng lòng về đường tình duyên của cô. Thu đẹp, có thể dưới cái nhìn của tôi Thu đẹp hơn chị, chỉ có điều trong cô chất "đàn bà" quá ít . Khuôn mặt và nhất là cơ thể cô thiếu những đường cong dịu dàng của phụ nữ, thiếu cả sự mũm mĩm, mềm mại và tròn trịa của phái yếu. Nét mặt cô sạch và gọn ghẽ quá, tóc thì ngắn và không được chải chuốt thường xuyên, đi đầu trần nên tóc ngả sang màu vàng hoe hoe như tóc bọn con trai chạy chơi suốt ngày trong nắng. Thế nhưng cô vẫn có cái duyên thầm rất bắt mắt đàn ông. Chị Thuận thường làm tiệc bảo chồng dẫn bạn trai về thử có ai lọt mắt xanh cô em gái. Nhưng hình như kế hoạch tìm chồng cho cô đến nay chưa thành.
Tuần sau tôi lại được anh chị mời cơm lần nữa. Lần này cũng toàn những món ăn đặc trưng của người Huế. Trong khi ăn tôi mở miệng khen món nào thì chị Thuận liền nói: "Của em Thu nó làm, còn vụng lắm, khen em nó mắc cở". Thỉnh thoảng anh chị có đôi lời vừa trách nhưng lại ngụ ý khen ngợi về tính tình ngây thơ trong trắng và của cô em: "Con gái con lứa hai mươi mấy tuổi rồi mà chẳng có bạn bè xứng đôi, cứ đi theo chơi với mấy thằng bé con..."
Lần đó, cơm nước xong cô Thu bưng mâm lên dọn. Lúc này tôi đã qua bàn khác, anh Nguyện đem bình nước ra sân súc, chị Thuận ở dưới bếp. Nhà trên chỉ còn cô Thu và tôi. Tôi thấy cô đứng nhìn chăm chăm con ruồi đậu trên mép tô canh. Thu sè sẹ đưa tay ra búng, con ruồi giật mình bay tạt sang bên rơi tõm vào tô canh. Nó ra sức lội vào bờ, đến nơi thì hai cánh đã ướt mèm. Cô Thu lấy móng tay giúp nó bò lên thành tô, cô hất cho nó rơi xuống mâm, nó trườn được một đoạn rồi dừng lại giũ cánh chải chuốt, một lúc sau mới bay lên được.
Và cũng chỉ một lúc sau cô gái này tìm ra trò chơi khác. Cô ném mẫu xương giữa con chó với con mèo, cô tính toán thế nào mà hai con vật phải xuất phát thật nhanh mới chộp được. Kết quả là anh mèo mun được, hối hả phóng lên giàn mướp, con Ki phóng theo, chồm lên sủa. Cô Thu thích thú dừng tay đứng nhìn hai con vật. Tôi không rõ sau đó bưng mâm xuống bếp cô còn tìm ra được trò chơi nào khác không?
Khi anh từ sân đi vào, chị từ bếp đi lên, họ thấy mặt bàn loang loáng nước cùng với những hạt cơm trắng, hai người yên lặng nhìn nhau, một cái nhìn đầy ý nghĩa, cả hai đành câm lặng... Chị xuống bếp, nói gì đó nho nhỏ với Thu, lúc sau tôi thấy cô cầm khăn lên lau bàn. Ba chúng tôi uống nước ở bàn bên, không hẹn mà cùng liếc mắt qua chỗ cô Thu. Tôi thấy anh chị nhíu mày, tôi biết họ rất bất bình về việc cô Thu không chịu lau bàn nhanh mà còn đứng đấy lấy ngón tay vẽ từ mấy giọt nước trên bàn thành ra nhiều hình thù kì dị.
Trưa hôm đó do sự sắp xếp thế nào mà anh chị cùng vắng nhà, để hai chúng tôi lại. Chị Thuận đã ra tới đường còn quay vào dặn em:
- Hồi nào anh Bách ( tên tôi ) ngủ trưa dậy, em ra gánh chè mụ Tôn mua chè hạt sen đường cát cho anh xơi. Nói mụ Tôn làm một chén đặc biệt nhiều sen Tịnh tâm với đường cát trắng. Nhớ lấy chén đĩa kiểu đi mua, đem theo đĩa để bưng, đĩa để đậy, giờ đó trẻ con thường đá bóng, bụi bay đầy đường. Aø mà này ! Trưa nay chúng kéo nhau lại đá bóng, đuổi đi để cho anh ngủ nghe em...
Tôi khâm phục tính cẩn thận của chị Thuận và thầm mong sau này có được người vợ giống chị. Giọng chị thanh tao ngọt ngào còn cô Thu thì cộc lốc: "ƯØ!" Tôi không có thói quen ngủ trưa, hôm nay đến nhà anh chị tôi đóng vai công chức trung lưu, trưa cũng phải lên giường nằm cho hết buổi. Tôi nằm úp tờ báo lên mặt, lén nhìn cô Thu chơi trò gì. Trong nhà nhìn ra tôi thấy cô Thu thơ thẩn dưới gốc cây, mắt cô ngước lên tìm kiếm cái gì ở trên cành. Cô đến gốc cây, bỏ guốc, xắn quần. Tôi tính, nếu cô gái này trèo cây tôi cũng sẽ ra vườn, đứng dưới ngó lên, thế nào cũng được chiêm ngưỡng hai quả đào tiên vừa chín tới. Cô Thu leo mà không được, cô gắng sức ghê lắm, mặt đỏ bừng, tóc bết mồ hôi. Cô làm động, lũ kiến vàng chui ra cắn, cô cuốn quít phủi kiến. Cô gái bỏ ý định trèo cây, xoay qua trò khác, cô quanh quẩn, nhìn đất, hoá ra cô tìm hòn đá. Cô cố ném hòn đá bay vu vơ chẳng hiệu quả nào. Cô vô nhà, lúc sau lấy ra cây chổi cán dài, lấy que cột làm cái móc. Cuối cùng cũng có được quả ổi chín vàng rơi xuống. Cô nhặt lên cắn, ruột ổi đỏ tươi. Tôi ra vườn, cô quay nhìn, chẳng chút bối rối. Tôi hỏi:
- Sao cô Thu không ngủ trưa ?
- Ngủ rồi !
Tôi nghĩ, may quá, cô gái cũng biết nói láo. Đối với tôi, một cô gái nói láo là chuyện bình thường. Tôi thầm mong cô Thu cũng bình thường như mọi cô gái khác. Tôi cố tìm câu chuyện gì đó hợp với cô, chưa tìm ra, Thu hỏi:
- Anh ăn chè chưa tôi đi mua ?
- Thôi cảm ơn, tôi không ăn.
- Không ăn đâu được !
Tôi ngạc nhiên về cái mệnh lệnh kì quái bắt phải ăn chè này. Tôi hỏi:
- Tại sao không ăn không được?
- Việc này anh chị tính toán đã bốn ngày nay...
- Việc gì?
- Việc mua chè cho anh ăn. Anh mà không ăn , tôi bị rầy.
Tôi không hiểu tại sao có chuyện kì cục này, tôi hỏi:
- Mấy ngày nay anh chị bàn chuyện chi?
- Thì hai người nhỏ to bàn tính chuyện tiếp đãi anh...
- Có gì to tát, quan trọng đến thế ?
- Hai người còn gây lộn nhau nữa chớ bàn tán.
- Gây nhau về chuyện gì?
Anh Nguyện nói: "Chỗ quen biết đừng bày vẽ quá mất tự nhiên" Chị Thuận cãi: "Trước khác nay khác, phải tiếp đãi cho tươm tất, đàng hoàng" Rồi hai người to tiếng. Tí nữa anh Nguyện xáng vỡ cái ấm.
- Nhưng mà chuyện gì mới được chớ?
Anh Nguyện nói : "Để từ từ, không gì phải vội" Chị Thuận nói: "Từ từ sao được. Con Thu mà ế chồng thì ông chịu!"
À tôi hiểu ra mọi chuyện. Đối với người khác tôi không dám hỏi câu này, nhưng cô Thu, một cô gái đặc biệt, tôi dám, tôi hỏi:
- Có phải anh chị muốn kiếm chồng cho Thu không?
- Ừ !
- Có người nào chưa?
- Có rồi !
- Ai?
- Anh chớ ai!
***
Buổi trưa hè, trong vườn lặng gió, mấy quả bưởi to nặng quá làm cành cây oằn xuống mỏi mệt. Thu đừng dưới gốc cây, bóng nắng đu đưa trên một gương mặt rất sạch, cặp lông mày lưỡi kiếm rất con trai, rất đẹp cạnh chiếc trán thông minh và cặp môi lúc nào cũng tinh nghịch. Tôi thích cô gái này, nơi nàng có cái gì rất dễ gần gũi, có thể đùa cợt như với người bạn trai. Lúc này chỉ có một nam một nữ trong khu vườn vắng, chẳng khác gì cảnh vườn địa đàng. Buổi trưa hè nóng nực vốn thường làm cho tôi khó chịu, đó là cái bứt rứt thôi thúc, khó khăn của một chàng trai. Lúc này tôi làm chuyện gì mà chẳng được? Nắm tay cô, ôm hôn, hay thậm chí mở từng hạt nút, nhưng không hiểu tại sao tôi cảm thấy làm việc đó với cô gái khác thì được, còn cô gái này lại không. Làm như thế thì xoàng quá, ác quá, vả lại với cô gái này không có cái quyến rũ để làm chuyện tầm bậy. Tôi chợt nãy ra ý tưởng ngộ nghĩnh, một trò chơi đặc biệt, tôi nói:
- Bây giờ chơi trò cởi nút áo, ai nhanh thì thắng.
Để cô gái không có thời gian suy nghĩ, tôi liền đếm , một, hai, ba! Tôi cho tay lên hạt nút đầu tiên cổ áo mình. Giống như một vận động viên khi nghe tiếng súng lệnh, cô Thu xuất phát rất nhanh, nhanh hơn tôi. Rồi hạt nút thứ hai thứ ba cũng rất nhanh. Thế nhưng tới hạt nút thứ tư cô dừng lại, không chịu mở nữa. Hình như tới lúc này, cái bản năng gìn giữ tự vệ của con gái từ thời nguyên thuỷ, thể hiện bằng cái đuôi đậy kín bộ phận sinh dục lại, ngăn cô không hành động nữa. Cô gái nhìn tôi, thoáng chút nghi ngờ, nói : "Không chơi trò đó nữa!" Trò chơi quái gở vừa rồi bất thành nhưng tôi rất mừng. Tôi nghĩ dù sao ông trời cũng phú cho những cô gái khôn ngoan đúng lúc. Tôi hỏi:
- Cô Thu có thích lấy chồng không?
Thu ngần ngại chưa trả lời, tôi giải thích:
- Lấy chồng là hai người nam nữ sống với nhau, ăn ở với nhau, tối lại lên giường ngủ chung với nhau, sinh con đẻ cái, lần hồi nhà đông người lên, chén đĩa nhiều lắm, rửa chén đĩa mệt lắm.
Cô Thu vội cướp lời:
- Rửa chén đĩa có gì nhọc đâu. Mình chơi trò thả thuyền ấy mà./.
&&&
Khoảnh khắc Sống
Dưới hàng me xanh. Tôi đếm bước. Trời trong, mây bàng bạc làm nền cho con đường nhỏ có lá me bay. Yên ắng, dễ thương, đẹp; con đường đưa tôi đến sông Đồng Nai. Đứng trên sông, gió mát lạnh. Tôi cảm nhận được mùi hương riêng của sông, thoảng nhẹ, tinh khiết lãng đãng trong gió sớm của một sáng đầu mùa. Với tôi, đây là con sông thơ, hiền hòa và đáng yêu; một trong những con sông đẹp của cả ba miền đất nước.
Bình minh trên sông.
Trước mắt tôi là bức tranh sinh động. Trời, nước mênh mông. Dòng sông phẳng lặng trải dài, gợn sóng lăn tăn. Một mảng hồng trang điểm cho sông. Từ chân trời, màu hồng, màu khói hương quyện vào nhau rồi từ từ chuyển sang vàng mơ. Tôi ngẩn ngơ. Ngắm. Một khoảng trời đẹp và lãng mạn cuốn hút hồn người bởi màu sắc liên tục thay đổi của buổi bình minh. Sông làm dáng như nàng thơ yểu điệu chuyển mình dưới bầu trời khoác áo ngũ sắc đang tình tứ phát tín hiệu. Màu vàng bỗng sáng lên, mặt trời ló dạng... Xa xa, cầu Ghềnh thấp thoáng khoác màu áo bạc, chiếc cầu có tuổi trên một trăm ( ở Đồng Nai, người Biên Hòa chính thống thường gọi tên là cầu Gành ). Sau tai nạn do một chiếc xà lan chở cát bị tắt máy, trôi tự do trên sông đã đâm vào trụ giữa của cầu khiến cầu Ghềnh bị sập hai nhịp. Một thoáng xúc cảm, tôi nghĩ về Huế, nơi ấy cũng có chiếc cầu màu áo bạc, do biến cố lịch sử cũng bị đổ vài, sập nhịp như cầu Ghềnh của Đồng Nai. Cả hai chiếc cầu có cùng tuổi thọ vẫn không tránh được biến cố xảy ra. Ngẫm ra, con người cũng thế thôi. Chỉ cần hiểu rằng, cùng với thời gian, mình đã làm được và lưu lại gì cho đời ... Trên sông, một vài chiếc thuyền nhỏ lặng lẽ buông câu. Một khúc sông yên bình như cuộc sống bình yên của người dân hiền hòa đất cù lao Phố. Sông làm dáng ôm nghiêng vầng trời sáng điểm chút vàng pha sương. Trước mắt tôi, một khoảng lặng êm đềm. Theo dòng, một đám Lục Bình nhẹ trôi. Cò trắng bay về đậu trên sông. Một thoáng rộn rã rồi vỗ cánh bay xa... Bình minh khép lại mở đầu một ngày nắng đầu mùa...
Nắng trưa vàng.
Buổi trưa. Trời lên cao. Nắng đổ vàng tươi. Nắng đi qua, sông thấp thoáng nụ cười mời gọi nắng trưa vàng... Trời Đồng Nai tỏa nắng, nước nhảy múa rộn rã trên sông, lả lướt xoay mình trong điệu luân vũ. Màu vàng của nắng, màu trắng bạc của nước đan nhau làm thành một dãi lụa vàng ươm điệu đàng vắt qua sông. Rồi sông bỗng dậy sóng. Một chiếc thuyền máy, rồi một chiếc thuyền máy nữa tiếp nhau. Dòng nước chia đôi. Sóng to rồi sóng nhỏ dập dìu màu trắng bạc lấp lánh dát bạc trên sông. Một khoảng trời nước thênh thang trước mắt tôi. Trời trắng như bông bởi những áng mây vội vàng di chuyển vờn quanh mặt trời rực rỡ tỏa nắng xôn xao. Dưới sông , nước dịu dàng, thầm thì với nắng trưa vàng. Sông Đồng Nai nước không trong xanh màu mắt con gái như nước sông Hương; nhưng ở đây, con người dù là khách phương xa vẫn cảm nhận được nét hiền hòa đáng yêu của sông với màu mắt vàng pha nâu , màu của trời, mây, sông, nước miền nam. Nước vẫn theo dòng bình thản trôi. Chim én từ đâu tung cánh bay về buổi trưa. Con sông rộn rã tiếng chim ca... Nắng vàng trùm lên cả mặt sông. Ráng chiều bắt đầu xuất hiện. Ôi, con sông thơ, đẹp và duyên quá. Tôi mỉm cười với ý nghĩ dễ thương - sông nước và trời Đồng Nai luôn là điểm hẹn của nhau trong bất kỳ thời khắc nào để trang điểm cho thiên nhiên làm đẹp cuộc đời...
Bóng chiều tà.
Cuối buổi chiều. Mặt trời xuống thấp thả chút nắng còn lại trang điểm cho sông. Sông vươn mình ôm trọn giọt nắng cuối ngày lấp lánh khoe sắc. Trên sông, vài ba chiếc xà lan rẽ sóng trở về sau một ngày dài rong ruổi mưu sinh. Tôi đưa mắt nhìn trời, nhìn sông thu vào tầm mắt ngắm bức tranh đẹp cuối ngày. Trên cao, mây vội vàng đuổi nắng chực chờ thời khắc buông màn. Sắc hồng chuyển sang nâu. Trời chọn màu lam làm chủ đạo. Mặt trời tắt nắng. Sông từ từ bình thản khoác chiếc áo nhung huyền nền nả, đằm thắm, ngước mắt nhìn trời rồi lặng lẽ xuôi dòng... Công viên Sông Phố lên đèn. Dòng sông kín đáo mượn màu áo mới.
Một nét đẹp rất riêng của sông Đồng Nai. Cũng thơ, cũng lãng mạn và quyến rũ giữa đất trời phương nam. Trời vẫn ươm nắng, sông vẫn xuôi dòng như bao con sông khác nhưng với riêng tôi, sông Đồng Nai vẫn là dòng sông đẹp, dịu ngọt chứa đầy sắc hương của tâm hồn, của cảm xúc con người không ngừng mơ mộng; luôn sống trong hoài niệm và ước mơ.
Một khoảnh khắc đẹp cùng sông!
Bùi Kim Chi
Bóng Chân
Nhà xoay lưng vào bià núi. Con đường nhỏ ngoằn ngoèo bên sườn như cắt mái đá xám làm đôi. Ruộng hoa cải dầu vàng tươi bao quanh nhà và trong sân, những cây mẫu đơn, cây mận cây đào rực hoa bên cạnh hàng rào xanh mượt như tấm thảm Ba Tư đầy màu sắc.
Cô gái như tìm gặp căn nhà trong mơ, đảo mắt chiêm ngưỡng chung quanh một lần nữa trước khi đưa tay nhấn nút chuông nằm ẩn dưới vòm chesứ trắng.Cô hồi hộp vu vơ mặc dù không phải lần đầu tiên đi thuê nhà xứ lạ. Tiếng chim líu lo trên các cây bên đường nghe vui tai và xa xa đâu đó, một con cú cất giọng đùng đục như thể cằn nhằn ngủsuốt mùa đông chưa đẫy giấc. Cô hân hoan ngửa mặt lên đón nắng và khép hờ mi, mỉm cười vô tư với buổi sáng xuân bình an thơm mùi hạnh phúc...
- Bonjour, mademoiselle.
Cô gái giật mình, chào người đàn ông đứng tuổi đang nhoẻn cười và qua lớp kính, ánh mắt thẳng thắn dìu dịu của ông làm cô yên bụng. Màu da sậm với mái tóc muối tiêu hơi bồng bềnh ôm khuôn mặt xương xương khắc khổ. Có cái gì nơi ông gợi lên lòng tin cậy dễ gần. Cô nói ý định mình, ông tự giới thiệu là quản gia và đưa cô vào nhà trên lối đi nở vô số uất kim hương và iris...
- Cô là người Việt Nam ?
Ông quản gia bất chợt hỏi. Rồi không chờ câu trả lời, trỏ tay vào ngực :
- Vợ tôi cũng người Việt. Còn tôi chà và.
Thấy vẻ ngỡ ngàng của cô gái, ông cười vui vẻ tiếp :
- Tức là người Ấn Độ, bán vải ở Sàigon. Cô còn trẻ quá, chắc không biết.
Bỗng nhớ đến câu hát ��Chà và ma ní tí te, Cái bụng chè è con mắt ốc bươu�� sao mà khác xa với người trước mặt, cô gật gật đầu nhìn ông, hồn nhiên nở nụ cười thân mật. Bốn bực thềm men đỏ dẫn vào căn phòng khách rộng rãi bày biện kiểu xưa. Cô thầm nhủ nếu có Thu Hà ở đây, chị sẽ nói mình nghe bộ xa lông này, chiếc bàn ăn và tủ sách cao nghệu sát tường kia thuộc thời Louis thứ mấy. Nhưng chắc vẫn không ghê gớm bằng hai tủ cẩm thạch chị đặt mua từ bên Tàu. Lại còn những bức tranh và vô số đồ xưa ! Ồ, một ngày nào mình sẽ cố thuyết phục Thu Hà cùng lên đây để chị ngắm nhìn và đánh giá. Cái gì chớ đồ cổ là chị mê, mình quê mùa nên ngược lại...
- Trên lầu, mời cô...
Ông đưa tay về phía chiếc cầu thang gỗ bóng nhẵn đã bắt đầu hơi lõm. Bước rất khẽ nhưng cũng nghe tiếng gót giày vang dội khắp nhà, cô chợt e ngại mình khuấy động một cái gì đang yên tĩnh lắm...
Cô gái. Tuần thứ nhất.
Nhận phòng sáng chúa nhật, buổi chiều cô dạo phố. Thành phố nhỏ miền núi trông thân mật dễ thương, nhà lên xuống theo triền dốc vàhầu hết là cửa hàng mùa này thưa khách. Khác với các vùng biển hay đồng bằng miền Nam, ở đây các bà không tụm năm tụm ba hay ngồi trước hè nói vọng qua bên kia với hàng xóm, con nít không chơi banh ngoài đường và các ông già không đánh boules trên những khu đất trống. Cô tha thẩn suốt buổi chiều nhìn ngắm mọi điều trước mắt. Một thành phố sống nhờ vào du khách không bao giờ thấy ai là lạ mặt. Cô thầm nghĩ ở trên xứ người mà mình không cảm thấy là ngoại quốc như năm kia về quê hương...
Ra khỏi khu phố nhỏ, hai bên đường mọc đầy hoa dại, những loại hoa miền núi chẳng bao giờ biết mùi cửa kiếng. Ánh vàng rực mặt trời buổi chiều hãy còn lưu luyến rong chơi và vài con chim chiều xa xa trên bầu trời trong vắt. Trong lòng thung lũng, hai chiếc deltaplanes đỏ nổi bật giữa màu rừng, đang chao lượn. Cô nghe tiếng sỏi lạo xạo dưới chân như tiếng trẻ con đùa nghịch nghiến răng và tiếng lá rì rào trong gío như to nhỏ tự tình. Cô hít thật sâu bầu không khí trong lành như để chuẩn bị sức lực cho ngày mai bắt đầu làm việc.
Căn nhà chìm trong yên tĩnh hoàn toàn khi cô về sau bữa ăn tối. Chỉ phòng của ông quản gia còn sáng, và âm thanh của đài truyền hình yếu ớt vọng ra. Cô lên cầu thang rất khẽ...
Người đàn ông. Tuần thứ nhất.
Theo lời ông quản gia thì cô ấy có cái đẹp khoẻ mạnh và vui vẻ tự nhiên. Sáng nào cô cũng chạy bộ lên đồi sau nhà rồi về tắm xong là đi mãi tới tối mịt mới về. Cả tuần qua ông thấy cô mỗi sáng nhưng chỉ có dịp trò chuyện vài lần trước khi cô trở lại Paris.
Tôi vào phòng buổi chiều hôm đó, lười biếng ườn người lên giường với chăn gối của cô. Hơi hướm đàn bà hãy còn phảng phất ngập ngừng khiến lòng tôi ngây ngất nao nao. Tôi cố tưởng tượng hình dáng cô nằm : nghiêng, hai chân hơi co lên ôm chiếc gối vào lòng hay thẳng, duỗi dài chân và hai tay đặt hờ lên ngực ? Và mắt cô nhìn đâu, phía cửa sổ trước nhà với xa xa ngọn núi mờ trong mây hay phía cửa sổ bên hông với đỉnh rừng phong đang mùa đơm lá?
Sáng hôm sau nắng mai trườn lên người và đánh thức tôi với giọng ấm áp nhẹ nhàng. Bở ngỡ trong căn phòng này hầu như xa lạ, tôi đảo mắt nhìn quanh. Chiếc mũ đàn bà móc trên tường nhìn tôi đăm đắm như muốn kể niềm vui suốt tuần đã theo cô tới đâu và bảo vệ mái tóc làn da cô thế nào. Tôi mỉm cười với nó, làm quen. Những cộng lát sơn trắng tranh cãi gì đó với những cộng lát màu xanh biển, phải nhờ giải lụa màu trời làm trọng tài đứng giữa. Giải lụa nhu mì, vừa hoà giải những cộng lát đa đoan vừa nháy mắt mỉm cười với tôi trong ánh nắng...
Cô gái. Tuần thứ hai.
Cô trở lại vùng núi chiều chúa nhật tuần thứ ba của tháng. Trên bàn hãy còn vài tờ báo địa phương và quyển �Thằng Gù Nhà Thờ Đức Bà� của Victor Hugo. Trên bệ sưởi, hai bức tượng nhỏ kiểu Hy Lạp đầu người mình thú mà ông quản gia bảo là của người thuê phòng xen kẽ với cô. Quái, nhà này, ngay cả người thuê cũng có «gu» cổ điển !
Cô sắp các thứ ấy vào một góc vì không sính những hình thể bất thường dù là nghệ thuật. Đối với cô người đẹp là người cân đối, không phải một khuôn mặt nhỏ xíu nằm chót vót trên chiếc cổ dài ngoẵng kiểu Modigliani. Cô cũng rút cái đèn đọc sách ở giường dẹp đi. Kiểu cái đầu người méo mó màu đen để ánh sáng toát ra từ miệng và hai hốc mắt làm cô ghê người.Và khi tháo tấm khăn giường và bao gối có hình cá sấu há miệng thật lớn, gớm ghiếc, cô nhún vai mỉm cười...
Cô lại tới sân golf. Tuần này phải nhắm địa thế để làm ít nhất hai cái hồ nhân tạo cho parcours. Parcours ba cây số hai là quá dài, với đường núi lên xuống gập ghềnh chóng mệt. Cô dự định sẽ bắt đầu parcours từ tee thứ hai, chỗ tee thứ nhất sẽ sửa lại thành nơi practice. Như vậy hợp lý hơn, banh sẽ văng ngược lên chỗ dốc và phải phá mấy bụi rậm cho banh không mất. Tiếp theo phải tính farway cần bao nhiêu đất lấp những chỗ lồi lõm đầy sỏi làm bước đi khập khiễng khó chịu. Golf là môn thể thao thư dãn, sau khi đi một vòng parcours người ta phải thấy thoải mái, khỏe ra. Ngoài ra phải đào thêm một bunker và chữa lại cái đã có, vừa nhỏ vừa dốc quá.
Và cô bước đi dưới nắng, giấy bút trên tay, vừa chỉ trỏ cho hai đồng nghiệp đi bên cạnh.
Người đàn ông. Tuần thứ hai.
Tôi không phật lòng khi thấy đồ đạc mình bị gom vào một xó, bơ vơ dưới đất. Vậy mà khi bày ra, tôi chỉ hy vọng chút nghệ thuật sẽ làm vui lòng cô gái thuê nhà. Tôi cũng lịch sự không dẹp bức tượng Đức Mẹ bày trên bệ sưởi. Người có niềm tin vào thánh thần, theo tôi, vẫn là người đạo đức.
Tôi nhìn quanh phòng : bình hoa hồng đỏ sẫm vẫn còn tươi trên bàn, đôi giày đi núi màu da bò nằm cạnh chân giường, sọt rác đầy giấy nháp... Có cảm giác như người ăn vụng, tôi hôn mấy đoá hoa và nghĩ đến đôi môi son trẻ của cô. Tôi ôm đôi giày vào lòng như vuốt ve đôi chân xinh đẹp của cô. Và tôi cầm những tờ giấy kéo từ sọt rác đầy hình, mỗi tờ vẽ một mẩu đất với nhiều ghi chú. Tôi ôm chúng vào lòng như ôm lấy nghị lực và sức sống của cô... Bỗng dưng tôi ao ước được gặp cô. Tôi thèm được nhìn thấy cô mặc dù trong thâm tâm, chẳng biết để làm gì. Chưa bao giờ tôi thoải mái khi đối diện với đàn bà. Thực ra là tôi chẳng thích trò chuyện với ai cả. Tôi thường gửi gấm nỗi lòng mình cho mây chiều hờ hững chẳng biết về đâu. Tôi thường tâm sự với sương mù vây quanh đỉnh núi mỗi sáng nắng chưa về hay mỗi chiều nắng đi vội vã. Và xa xa, những mây những sương với hình thù kỳ ảo chập chùng sẽ che dấu nỗi niềm tôi rồi mang đến mở ra cho người nào đọc được cùng ngôn ngữ - thứ ngôn ngữ mà đối với cô hẳn là xa lạ.Và tôi đâm ra thèm muốn thứ tiếng cô dùng...
Buổi chiều, tôi ngồi hằng giờ nhìn mông lung qua cửa sổ. Ráng chiều ửng hồng các bià mây và xa xa, đỉnh núi nhô lên một thân cây nhỏ trơ trọi, cô đơn. Tôi như thân cây kia, lúc nào cũng xa cách mọi người. Nhưng nếu nó trốn chạy, vượt lên cao rồi buồn rầu ngạo nghễ nhìn xuống nhân gian có bao sinh linh đang sống và đang chết - thì tôi, một con người tầm thường vượt lên được tới đâu và nhìn xuống cái gì, ngoài sự cô đơn vừa cao khiết vừa quằn quại của mình ? Bởi tôi sống mà một nửa đã chết rồi, niềm vui nỗi buồn chẳng ảnh hưởng gì tới mình nữa. Mọi thứ tình cảm đều như mơ hồ không thật. Vậy mà tôi lại mong gặp người con gái thuê phòng, dù chẳng biết để làm gì ! Chắc tại ý nghĩ ra vào cùng một cửa, nằm cùng trên một giường - còn có sự đụng chạm nào gần gũi thân mật hơn thế nữa ?
Cô gái. Tuần thứ ba.
Vừa bước vào phòng, cô ngạc nhiên đầy thú vị khi thấy bình hoa hồng tươi thắm trên bàn (mà sáng hôm sau được cám ơn, ông quản gia tỏ vẻ bối rối nói không phải của mình). Đống đồ «nghệ thuật» vẫn nằm lặng lẽ ở góc nhà và thêm vào căn phòng là cái máy truyền hình và đầu máy vidéo với cuốn phim �Cái Trống� theo tiểu thuyết của Gunter Grass. Vở �Con mèo cái trên mái tôn cháy bỏng� của Tennessee Williams nằm ngơ ngáo trên mặt bàn đêm. Máy nghe nhạc của cô được đặt cẩn thận trên chiếc tủ nhỏ cạnh giường.
Cô lại tới sân golf. Tuần này phải nhắm địa thế gần cổng ra vào để nới rộng căn phòng vừa cho thuê dụng cụ, vừa thu tiền. Căn phòng hiện tại nhỏ như cái hộp chỉ vừa đủ chỗ cho một cái bàn con với khoảng chục bộ đồ golf. Ngộ nhỡ trời mưa thình lình thì khách nấp vào đâu ? Khách khát nước phải tìm chỗ nào ? Khách cần điện thoại ? Và cần phải có một máy cho thuê banh...
Cô dạo một vòng xuống Saint Martin, ngôi làng e ấp nằm lọt trong thung lũng đẹp nên thơ. Đường vòng khu phố râm bóng mát, nhà cửa khang trang và các loại hoa muôn màu nằm ngoan ngoãn như con nhà lành trong vườn rào thấp. Con đường phố chính hẹp dốc theo triền núi, giữa lòng đường có rãnh, nước suối chảy xuống trong veo mát rượi. Nhà hai bên thường là cửa hàng cho du khách, trông kín đáo, trang nhã và thân tình. Nhưng suốt làng chỉ có một bảng quảng cáo sân golf !
Người đàn ông. Tuần thứ ba.
Tôi sung sướng săm soi mẫu giấy nhỏ trong tay, tim tưởng muốn nứt ra. Cô viết cho tôi ! Nét chữ cô mềm mại mà mạnh mẽ, đầy cá tính. Chỉ mấy chữ thôi, gọn quá, mà tôi như thấy cả một rừng văn học. Văn chương là nơi tôi ẩn mình tìm lãng quên, an tịnh. Mỗi tác phẩm, tôi tìm kiếm hình ảnh một nhân vật có cái gì chung với mình rồi chuyện trò bắt đầu bằng tâm sự mà họ đã bày ra trên giấy. Nhưng chẳng bao giờ ai tỏ ra lưu tâm tới sự ân cần đầy thiện cảm của tôi. Ngay cả trong sách, con người cũng lạnh lùng cách biệt. Và như một cái bóng, tôi theo dõi họ âm thầm mà dai dẵng.
Nhưng bây giờ đã có người lưu ý sự hiện diện của tôi ! Tôi sung sướng đến hổn hển và choáng ngợp niềm hạnh phúc. Tôi ấp mảnh giấy nhỏ lên môi, cảm giác như chạm vào đôi môi cô - trinh nữ. Tôi nhắm mắt tưởng tượng giờ này cô đang làm gì, ở một nơi chưa bao giờ chân tôi đặt đến ? Những chữ viết cho tôi có làm cô bối rối - hay biết đâu, biết đâu cô cũng chẳng còn nhớ gì đến mẩu giấy con con này nữa? Cùng lúc tôi thấy giận dỗi và ghen tị vu vơ. Tôi muốn biết cô đang làm gì nơi ấy ?
Tôi lại lôi trong giỏ rác, những tờ giấy vẽ căn nhà nhỏ cạnh cổng ra vào, mấy ngọn đồi lên xuống với nhiều chú thích chuyên môn tôi không hiểu hết. Cùng với những tờ tuần trước, tôi cất chúng cẩn trọng như những lá thư đầy kỷ niệm. Một ngày nào có dịp, tôi sẽ trải dài chúng ra, từng tờ cho cô xem, gợi cô nhớ lại những ngày đầu thuê chung phòng với một người khác phái, xa lạ. Và chúng tôi sẽ nói cho nhau nghe những gì đã nghĩ về nhau trong thời gian thuê cùng căn phòng như chơi trò cút bắt.
Tôi nâng chiếc gạt đầy tàn thuốc gần như thành kính, và run rẩy vụng dại nhặt một mẫu có dấu môi son màu hồng nhạt, châm lửa. Tôi hít khói thuốc vào như hít hơi thở đầy sinh lực của cô. Rồi tôi ho, sặc sụa, bị cô trừng phạt. Tôi mím chặt môi trên đầu thuốc, tôi cắn, răng môi xé nát đầu lọc nhỏ tội nghiệp, như môi ai...
Tôi mở tủ áo, những váy ngắn váy dài làm tôi băn khoăn tội lỗi. Ông quản gia nói ngay cả đầm, ít ai có cặp giò đẹp như cô. Tôi đặt chiếc váy ngắn với chiếc áo cánh mỏng của cô lên giường. Rồi tôi nằm bên cạnh. Và chúng tôi bắt đầu trò chuyện. Tôi kể cô nghe những gì tôi làm trong ngày, không nhiều nhặng gì, bởi tôi cũng dấu nhẹm những bài thơ vụng về dù rút tận cùng xương tủy của lòng chân thật. Và tôi chờ đợi nghe kể những việc cô làm, hẳn là lý thú...
Chúng tôi hẹn nhau trên ngọn đồi thấp sau nhà. Tôi mang theo giá vẽ, nhẩn nha ngồi nhìn mây bông gòn đùa nghịch đuổi bắt nhau trong gió chiều, chờ cô đến. Không gian yên ắng đến nỗi nhịp tim tôi dồn dập như quá ồn ào. Gió vi vu nhè nhẹ và cây lá xạc xào hỏi tôi đang làm gì ở đây, đơn chiếc. Tôi vội vàng phơi trải lòng mình với thiên nhiên, bảo rằng tôi chờ đợi như chưa từng chờ đợi, tôi nôn nao như chưa từng nôn nao. Và tôi pha màu, một màu hồng rực rỡ để tô lên đôi má xuân thì, một màu đen huyền nhiệm để tô lên mái tóc trẻ trung và một màu xanh biêng biếc như bầu trời cho chiếc áo mỏng lộ hai cánh tay trần...
Chợt hoa lá reo vui như đón mời bước chân ai đang đến, hơi ngập ngừng rồi dừng lại. Tôi hối hả quay nhìn trên lối đi : cô bước nhún nhẩy bất an như con sóc nhỏ, tay kéo cao váy tránh những bụi gai rừng... Bỗng tất cả lặng im, hoa tái nhợt cui đầu như muốn xỉu và lá đỏ mặt, không còn ba hoa nữa.Và tôi nhìn... và tôi nhìn... trời ơi, đôi chân cô ...
Cô gái. Tuần thứ tư.
Cô nhìn bức tranh nằm ơ hờ trên tường, ngọn núi xa xa với một thân cây trơ trọi, cô đơn. Và trên tường bên kia là bức tranh có bình hoa hồng nhung sẫm, tách trà bên cạnh, bốc hơi. Màu sơn còn mới. Biết rồi, anh chàng vẽ ngọn núi trước nhà chứ gì ! Cô lắc đầu mỉm cười, không thích tranh tĩnh vật, và phong cảnh thì không thể vẽ cái gì tươi tắn hơn sao ? Màu sắc gì mà u ám !
Cô muốn viết vài giòng nói về hai bức tranh, nhưng suốt tuần bận quá, cô còn khối việc phải làm và buổi tối về nhà quá trễ, mệt nhoài tắm xong là ngủ vùi rồi sáng hôm sau lại bắt đầu một ngày mới đầy bận bịu. Cô làm việc cật lực, tối đa ba tuần nữa phải xong. Chưa chi mà cô đã được đề nghị cho một dự án khác. Đôi chân dài bước nhanh trên đường sự nghiệp.
Phần 2
Người đàn ông. Tuần thứ tư.
Tôi hơi buồn khi thấy trên bàn, mấy CD nhạc vẫn chưa bóc giấy. Cầm mẩu giấy nhỏ cô viết cho mình trên tay, tôi mang cảm giác kẻ thất bại. Giỏ rác đầy giấy nháp, tràn lan ra ngoài. Tôi gom hết lại, nhìn ngắm từng tờ và cẩn trọng vuốt thẳng từng nếp, xếp cất như nhặt nhạnh linh hồn đau đớn của mình. Căn phòng hơi bừa bộn, vài món đồ dùng vương vãi và trong phòng tắm hãy còn mấy món riêng tư... Tôi thu dọn, âu yếm như một người chồng giúp vợ trong nhiều bận bịu hằng ngày.
Gần chín giờ tối cô mới về nhà. Tôi biết là khoảng năm ba phút sau cô sẽ tắm...Tôi hồi hộp nhìn vào lỗ khoá, cô đang trần truồng dưới vòi sen, mờ ảo qua lớp kiếng và ánh sáng đèn màu hồng. Cô ngửa mặt lên, nước chảy dạt dào lên tóc cô, nước chảy dạt dào lên bóng của mái tóc cô ép sát da đầu... Nước tràn lan lên mặt cô sáng trưng, nước tràn lan lên bóng khuôn mặt cô nhạt nhoà bồng bềnh trong nước... Nước xối xả xuống tấm thân cô nõn nà màu sữa đặc, nước xối xả lên bóng thân hình cô đu đưa như liễu... Đôi gò ngực thanh tân cao vút núm vú nhỏ màu hồng, từng luồng nước lăn tăn vội vã đuổi bắt nhau như tranh giành độc quyền ve vuốt. Và nước chảy xuống, chảy xuống khu rừng nhỏ rộn rã niềm hoan lạc. Và nước chảy xuống, chảy xuống len lách vào khe rạch như người đi săn tìm kiếm con mồi. Và nước như thác tuôn ào ạt, ào ạt, xuống đôi chân, trời ơi, trời ơi, xuống đôi chân mỗi lúc mỗi cong queo, khẳng khiu, xấu xí đến nao lòng !
Tôi nín thở, nhìn. Tôi nghẹn ngào, nhìn. Tôi sung sướng, nhìn. Tôi thấy bị ngộp thở. Có cái gì cắt ngang cổ họng, đau điếng. Tôi nuốt nước bọt ở đâu dâng trào như suối ngàn mùa lũ lụt. Tôi cắn môi đến bật máu rồi nuốt ực những giọt tanh tanh mằn mặn hoà cùng nước mắt... Tôi thương cô quá đỗi. Tôi mãn nguyện quá đỗi. Và tôi ung dung mở cửa bước vào phòng tắm, ôm chầm lấy tấm thân cô tràn trề sinh lực. Nước trên cao đổ xuống hai chúng tôi da thịt chạm vào da thịt, mềm mại, gợi cảm. Mắt hai đứa nuốt trững nhau, môi hai đứa cắn xé nhau, tranh giành với nước từng ly từng phân thân xác. Tôi lơi vòng tay để nhìn xuống vùng núi đồi ngạo nghễ, vùng đồng bằng như những đụn cát mịn màng và bãi cỏ non e ấp thẹn thùng. Tôi quấn đôi chân mình vào đôi chân tàn tật của cô, hoàn toàn hả dạ... tôi kêu lên sung sướng và giật mình vì chính tiếng mình kêu, bước ra khỏi phòng tắm người ướt đẫm vì mồ hôi trong cơn bàng hoàng tỉnh giấc...
Lòng chùng xuống, tôi trằn trọc thâu đêm. Thật lâu, rồi tôi rũ rượi khập khiễng bước vào giấc ngủ đầy mộng mị. Đang đêm, tôi chợt thức giấc vì tiếng mèo gào tìm đực. Tiếng gào nghe sao mà dữ dội, bức thiết và buồn như ai khóc. Tiếng gào như xuyên thủng núi rừng, xuyên suốt trăng miền núi vằng vặc trên cao. Tiếng gào như kêu cứu, như van xin, như cùng đường, như gây hấn, như đe doạ... Con mèo cái bên ngoài và người đàn ông bên trong cùng một nỗi niềm. Chỉ khác là người đàn ông gào thét âm ỉ trong lòng và trong phòng. Còn con mèo cái thì gào lên thành lời, giữa trời không dấu diếm. Tôi muốn bước ra xua đuổi như xua đuổi lòng mình, nhưng chân tay bỗng nhiên bủn rủn. Một luồng điện chạy qua làm tôi tê liệt rồi chạy ngược về thiêu đốt tôi hực hở. Toàn thân tôi run rẩy, quờ quạng trong đêm. Chị Hằng lấp ló nhìn trộm từ cửa sổ, rồi bỗng trêu ngươi rực rỡ lách người vào, khoan thai mà trần tục, tươi thắm đĩ thỏa trườn lên người tôi, trườn lên, trườn lên... Tôi bật dậy như lò xo rồi lại nằm vật xuống.
Mắt chị sáng trưng, nồng nàn ham muốn, như thể gần gũi tôi chị sẽ được hoá thân. Một phần thân thể tôi đau đớn , nhức nhối, hoảng loạn... Tôi tự cào cấu lên tay, lên ngực. Tôi vò đầu, giựt từng chùm tóc. Tôi úp mặt xuống gối, trăn trở. Rồi tôi ghì chặt gối vào lòng, chặt hơn, chặt hơn nữa. Và tôi lăn lộn như một con thú bị thương. Tôi lên cơn sốt. Tôi lên cơn đồng thiếp. Tôi kêu rên. Tôi bập bẹ những lời không đầu không đuôi. Tôi hổn hển đứt hơi. Tôi cuống quýt vụng về ... Tôi giúp mình qua cơn đau đớn...Tôi phải giúp mình qua cơn đau đớn... Tôi và cô gái... Tôi và chị Hằng... Cô gái và chị Hằng... Tôi với cô gái và chị Hằng... Ba chúng tôi quấn vào nhau như những sớ dừa bện sợi. Ba chúng tôi siết vào nhau như những lọn tóc dài thắt bín. Ba chúng tôi vật vã, rên siết, quay cuồng...Và tôi rú lên như con thú hoang, như con mèo cái...
... Tôi đưa bàn tay nhớp nhúa lên ôm mặt, xấu hổ, tủi nhục, lặng lẽ khóc như bao lần...
Cô gái. Tuần thứ năm.
Cô hơi khựng nhìn đóa hồng nhung nằm trên gối. Bình hoa, đĩa nhạc hay hộp kẹo chỉ khiến cô mỉm cười vu vơ, biết là có người quan tâm tới mình nhưng chỉ là một cảm giác hời hợt thoáng qua. Nhưng đóa hồng nằm đây, nó biểu hiện một cái gì khác hơn là sự chỉ quan tâm tới một người không hề quen biết. Cảm giác đó làm cô hơi ngẩn ngơ, vừa thắc mắc thú vị vừa thấy bâng khuâng nhè nhẹ.
Cô cầm đóa hoa lên, phản ứng là đưa lên mũi, không, cô đưa lên môi, một sự động chạm khe khẽ khiến cô bối rối. Bỗng dưng cô thở dài. Có thể như bạn bè thường nói là cô hơi lạnh nhạt, nhiều tham vọng, chỉ biết lưu tâm đến công việc và những thành công trong đời. Cô chưa hề để tâm tới một người đàn ông nào nếu không nói là sự tán tỉnh làm cô khó chịu. Có người còn nói cô bị chứng lãnh cảm hoặc con tim ngoài nhiệm vụ hô hấp chẳng dùng được vào việc gì. Nhưng bây giờ, cầm đoá hồng của một người xa lạ, bỗng dưng lòng cô hơi chùng xuống, rộn ràng.
Đoá hoa vẫn trong tay, cô bước tới cửa sổ nhìn mông lung ra ngoài như thể bất chợt sẽ nhận ra người ấy. YÙ nghĩ đó khiến cô nhìn sững một người đàn ông đảo mắt nhìn căn nhà rồi dừng lại nơi cửa sổ có người con gái đang áp đoá hồng lên môi. Bốn mắt gặp nhau. Một cái nhìn trong tích tắc xui khiến cô lao xuống thang lầu, chạy băng ra đường dáo dác kiếm tìm. Nhưng trong bóng chiều, người đàn ông không để dấu tích gì trên con đường làng...
Cô trở về phòng, cẩn trọng đặt đoá hồng lên bàn rồi thay tấm trải giường. Bỗng cô giật bắn người khi dời chiếc gối : chiếc xi-líp nhỏ màu hồng mà tuần trước đó vội vàng bận bịu, cô đã bỏ đâu đó trong phòng tắm... Cô nhìn sững. Có phải của mình không ? Đúng là của mình ! Có phải mình bỏ quên trên giường không ? Không ! Một cảm giác như ghê tởm làm cô lợm giọng. Cô tức tối như bị sỉ nhục. Thế là suốt cả tuần, người đàn ông kia đã ôm ấp một phần thân thể của cô ! Chỉ một người bịnh hoạn mới có thể làm điều đó.
Chỉ là một thằng đàn ông không ra gì, ngu xuẩn, bẩn thỉu, vô lại... Cô nghẹn và uất, không biết tìm từ ngừ nào nữa. Cô vẫn nhìn sững, bàng hoàng đến nỗi e như không phải đồ dùng của mình, như thể sợ phải nhặt nó lên. Cô chợt rùng mình nhìn quanh, cảm tưởng như có người đang ở bên cạnh, đang theo dõi từng cử động. Vô thức, cô quàng hai tay trước ngực và bấu chặt vai, mắt vẫn dán vào chiếc xi-líp vô tội màu hồng...
Cô hậm hực, khinh bỉ, điện thoại tâm sự với bạn rất lâu xong xuống phố, thành phố đã lên đèn. Và cô lang thang tìm kiếm, bất mãn vì thấy như người đàn ông nào cũng mang dáng dấp của người đã nhìn cô trên cửa sổ. Cô không hiểu nếu gặp, mình sẽ phản ứng ra sao, sẽ nói cái gì, sẽ có tình cảm như thế nào. Nhưng cô muốn gặp, cứ gặp rồi hẵng tính. Đi suốt dãy phố vắng vẻ, vào hết mấy tiệm ăn, quán cà phê, cô nhìn từng người. Chợt trong quán cà phê cuối phố, một người đàn ông đang đứng ở quầy có cái nhìn làm cô giật mình. Chỉ một cái nhìn rất nhanh, rồi người ấy bỏ đi, phía cửa sau. Cô vội bước theo nhưng không kịp nữa. Cô có cảm tưởng hắn biết và tránh mặt mình. Cô uể oải ăn tối, uể oải ra về và cuối cùng, uể oải vất chiếc xi-líp hồng vào giỏ, uể oải thay ra trải giường...
Nhìn lên hai bức tranh buồn thiu cô đơn, cô nhớ tới lời bạn nói khi chiều và suy nghĩ. Ờ, Quyên có lý phần nào (dù có kèm theo tiếng cười chọc phá) khi bảo nếu hắn bịnh hoạn thì chắc đã vẽ theo bức tranh «Nguồn gốc nhân loại» của Gustave Courbet rồi ! Đây chỉ là người kín đáo, cô độc, buồn và thiếu dạn dĩ tự tin. Bất chợt cô thở dài. Một thứ tình cảm là lạ khó định nghĩa nhen lên làm cô xốn xang - lần thứ nhất trong đời.
Nhìn qua cửa sổ, vầng trăng khuyết treo lửng lơ trên bầu trời đêm trong vắt sậm màu như ngả tím, đỉnh cây thông nổi lồ lộ màu đen, song cửa sổ khắc hình một người đang đọc sách ... mọi cái đều mang hình ảnh nghiêm trang và thanh tịnh làm cô chột dạ. Cô vùng dậy xới tung đống sách đặt bên lò sưởi : toàn về cuộc đời ẩn cư của tu sĩ, về những người cô độc và những kẻ tài hoa nhưng bất hạnh...
Thở dài, cô nhìn lại lòng mình, một cảm giác êm đềm gần như lòng trắc ẩn dấy lên làm cô khó ngủ...
Sáng thứ sáu, cô điện thoại về sở ở Paris, nói chuyện rất lâu.
Người đàn ông. Tuần thứ năm.
Tôi chờ cô trên đồi. Vẫn nắng chiều vùng núi êm ả vắng người và mây thì lang thang vô định. Tôi ngồi bên gốc cây thông già tróc vỏ sần sùi như mụt ghẻ, như linh hồn tôi trầy trụa. Những trái thông khô nằm nghiêng ngả hớ hênh rải rác trên bờ đường đầy sỏi, bất trắc như con tim tôi yếu đuối. Tôi muốn gom góp các trái thông khô, nhóm lửa. Ngọn lửa thông sẽ thiêu đốt những gì đang chất chứa trong tôi. Khói thông sẽ mang đến cô lời tạ tội thành kính của tôi. Và tro thông sẽ làm chất keo dán hai tôi gần lại. Ô, lẽ ra, lẽ ra tôi phải cẩn trọng hơn. Lẽ ra tôi không được bỏ quên một phần đời mình trên gối...
Tôi vẫn chờ, lòng như muôn ngàn tổ kiến. Một tiếng chim kêu cũng làm tôi rùng mình và một chiếc lá rơi cũng làm tôi thấy hụt. Gió nhè nhẹ đùa nghịch từng nhóm tóc trên đầu bốc lửa, tôi dáo dác nôn nao. Từng giọt rồi từng giọt lệ âm thầm chảy ngược vào tim. Từng tiếng rồi từng tiếng nấc rưng rức ngập hồn. Tôi chắp hai tay thành khẩn nguyện cầu. Lời nguyện cầu thổn thức quặt què...
Chẳng biết bao lâu, tôi không còn khái niệm gì về thời gian nữa, cuối cùng thì cô đến, như hào quang từ trời hiện xuống. Tôi chói vì nước mắt long lanh trước cô rực rỡ. Tôý nghẹn vì muôn nghìn tiếng tranh nhau muốn trào ra cùng lúc. Tôi đau đớn khó thở vì không gian như chỉ quanh quẩn bên cô. Tôi muốn chạy đến ôm đôi chân khẳng khiu, cong queo xấu xí đến nao lòng của cô, nhưng hai chân tôi như có gì vướng víu, bận bịu gỡ không ra khỏi đất. Tôi loay hoay cuống quýt. Còn cô, lạnh lùng dửng dưng, sải dài từng bước về hướng đâu đâu. Tôi muốn kêu lên, muốn khóc to cho cô nghe, nhưng cái gì chận ngay ở cổ... Tôi chới với đưa tay về phía cô... Chẳng thèm đoái hoài, cô cứ sải dài bước chân, rồi từ đỉnh núi này bước tới đỉnh núi kia nhẹ nhàng khoan thai như đi dạo, cô hơi chồm người về phía trước nhổ thân cây nhỏ trơ trọi cô đơn... Tôi kêu lên như chính linh hồn mình bật gốc. Đá ở bià núi vỡ ra ào ào đổ xuống tung bụi mịt mù ... Đất trời như trải qua cơn cuồng nộ, sâm sét, tiếng cây cối , tiếng đá đổ ầm ầm vang rền nghe đến rợn người...
Ông quản gia quýnh quáng mang nhầm dép. Vùng núi chẳng ai gọi cửa giờ này, và nếu là cảnh sát... nhưng việc gì mà cảnh sát tới tìm?
Ông chạy xuống thang lầu, bật đèn khắp nơi rồi vừa lật bật mở cửa vừa lên tiếng bảo chờ một chút. Khi cánh cổng mở ra, ông hốt hoảng như gặp ma : cũng nơi này, vào một buổi sáng cách đây mấy tuần, ông đã đón tiếp một cô gái tươi cười hồn nhiên rất thánh thiện. Giờ thì cũng cô gái ấy nhưng trong đêm, sắc mặt có vẻ khẩn trương, hổn hển :
- Cho tôi lên. Tôi muốn gặp người thuê cùng phòng.
Ông quản gia lúng túng khép cổng :
- Không được đâu cô... chắc ông ấy ngủ rồi !
- Mặc kệ, tôi sẽ xin lỗi.
- Không ! không được...
Xô mạnh ông quản gia qua một bên, cô vụt chạy lên lầu. Ông quản gia già đáng thương chạy theo, hốt hoảng, rụng rời... Cô mở cửa phòng như một cơn lốc, bật đèn :
- Đâu ? Người nào thuê phòng này ?
Nhìn chăn nệm có vẻ như có người nằm, cô sờ thấy còn hơi ấm. Cô bước nhanh tới phòng tắm bật đèn, hoàn toàn trống vắng. Ông quản gia bối rối tránh ánh mắt giận dữ của cô, im lặng. Cô bước qua phòng bên cạnh :
- Và phòng này là một bà nhân viên kế toán thuê ? Và phòng này là cô tiếp viên hàng không thuê ? (Cô gào lên như hụt hơi) Ông nói dối ! Mà tại sao ông nói dối ? (Cô cắn môi) Ông trả lời đi chứ ? Tôi không về Paris, tôi ở khách sạn góc đường kia để nhìn : ba ngày nay không một bóng người nào ra vô ngoài ông thôi !
Cô hổn hển vì tuyệt vọng, vì căm tức. Mặt cô đỏ gay, mắt long lanh như người lên cơn sốt, hai tay bấu chặt cầu thang. Té ra người đàn ông này đã ôm ấp chiếc xi-líp của mình ! Cô đã đem lòng tin cậy một người tưởng như đồng hương. Nhưng giờ thì cô nhìn, thấy đôi mắt như con thú bị thương kia đang hăm hở lật từng trang sách Kamasutra. Cô ngồi bệt xuống thang lầu như người bị ngất. Một cảm giác kỳ lạ làm cô nghẹn. Nước mắt bỗng trào ra. Cô không biết mình đang ghê tởm hay thương hại người đàn ông này, hay thương hại chính thân mình. Ông quản gia bở ngỡ lấm lét nhìn cô, mắt ươn ướt..
Ông ngần ngại bước tới đưa tay ra, môi run run như muốn nói cái gì. Nhưng cô vùng đứng lên, không, không thể để cho người ta thấy mình yếu đuối. Cô chạy vào phòng quơ nhanh áo quần hãy còn treo trong tủ và một số vật dụng cá nhân, nhét vội vào xách. Cô lao xuống cầu thang như mũi tên. Ông quản gia buồn rầu gọi với theo, tuyệt vọng... Ông chạy theo sau như con chó lạc đường, luống cuống, vụng về... Cô gái xẹt như tia chớp, xuống nhà, ra cửa, ra vườn, ra khỏi cổng. Không một tiếng cửa nào đóng sầm lại: không phải cô tức giận, mà cô trốn chạy, như thể ở thêm một giây phút nào ông cũng có thể làm hại đời mình...
Ông quản gia bước ngược lộ trình, từ cổng lên lầu. Trông ông thiểu não như vừa đánh mất cái gì ghê gớm lắm. Ông thở nặng nề. Trong phút chốc, ông như già sụm hẳn đi. Ông vào căn phòng tối om, bật đèn. Ánh đèn vàng vọt cho thấy một người đàn ông ngồi ở bàn, quay lưng lại. Ông quản gia nói như rên :
- Cô ấy...
Một bàn tay đưa ra ngăn ông nói tiếp. Ông bước tới sau lưng ghế, im lặng. Người đàn ông quay mặt nhìn phía cửa sổ. Hiểu ý, ông quản gia đẩy chiếc ghế bành - không, đó là chiếc xe lăn - về phía ấy và vén màn. Từ cao nhìn xuống làm ông đau lòng : mái tóc rậm đen mượt hơi quắn, đỉnh mũi cao, thẳng... E dè một lát rồi ông nói như xưng tội :
- Con nghe hết cổ nói không ? Cổ tưởng ba có ý gì mờ ám, cổ sợ. (Thở ra) Thôi, con đừng buồn...
Con trai ông không trả lời. Ông nhìn qua vai, nhìn xa xuống chút nữa, hai ống quần cột lại đong đưa, đong đưa... và nhớ ngày con trai vừa lên tám, một hôm đã chạy băng qua đường gọi Tí ơi, hàng về, hàng về, ba tao lột vải ra nhiều lắm, qua lượm hình... Hình mấy cô đầm tươi cười trong cây vải bỗng nhăn mặt khi con trai ông chạy trở về vẫn kích động réo Tí ơi, quên không nhìn trước nhìn sau như ông dặn. Một chiếc xe thắng gấp. Một tiếng rú, nhiều tiếng rú nổi lên. Ông chạy ra điên dại ôm con, một thằng con lên tám không còn hai chân nữa... Và ông cũng đã gọi thất thanh, mẹ nó đã gọi thất thanh, nó như chết rồi, không trả lời... Người cha chép miệng ngập ngừng :
- Chẳng mấy thuở gặp người cùng quê...
Người con trai vẫn im lặng.
-May là tuần rồi cổ nhờ ba đem hình đi rửa, ít nhứt mình cũng còn kỷ niệm ...
Nhưng con ông bỗng bẵn gắt chua chát ngắt lời:
-Không á! Mấy tấm hình đó không thật, không thật á!
Dưới đường, phố đêm miền núi vắng teo. Ở góc ngã ba con đường nhỏ, ánh đèn yếu ớt rọi lên phần dưới đôi chân dài di động vội vàng. Người con trai xốn xang nhìn theo đôi chân càng lúc càng nhạt nhoà xa - một đôi chân khẳng khiu, cong queo, xấu xí đến nao lòng đang khua gót nhỏ trên đường phố vắng...
Miêng
Paris
Bóng hồng phố cổ
Chút hương chiều bảng lảng. Xôn xao lá me gọi hồn con gái. Mây vội vàng đuổi nắng. Bàng bạc sắc lam pha hồng. Trời nhẹ tênh đưa mây xuống thấp. Đẹp. Một thoáng mà như có cả trời thu - thu phương nam. Con đường dễ thương của Sài Gòn đang níu bước chân tôi. Ngắn. Nhỏ. San sát vài ngôi nhà cổ. Mùi thơm gỗ quí như bừng dậy. Giật mình. Tôi bỗng nhớ...nhớ lắm. Nhớ Huế của ngày xưa với phố cổ Gia Hội, ở đó có những ngôi nhà rường nhỏ nhắn, thanh thoát đến lạ. Mỗi ngôi nhà mang một vẻ đẹp "thầm kín" riêng mà với tôi, đó là "hồn" của nhà cổ. Người Huế chính thống không ai là không biết con đường Gia Hội (sau được đổi thành Chi Lăng).
Con đường chạy dài từ cầu Gia Hội về chợ Dinh, ngày xưa có các dinh thự, phủ phòng của các ông Hoàng, bà Chúa dòng dõi Hoàng tộc nhà Nguyễn. Ngoài ra còn có nhà của các quan lại , công chức , thương gia...Nói chung, đây là con đường cổ kính, đẹp của các gia đình "quí phái" một thời và đặc biệt, con đường có nhiều người đẹp mang dáng vẻ đằm thắm, dịu dàng, đài các, sang trọng của con gái phố cổ một thời - hồn của nhà cổ.
Ngày ấy, tôi là một "thiếu nhi" thích làm "thiếu nữ". Mười hai, mười ba, làm điệu. Mười bốn, mười lăm biết tìm ngắm người đẹp mà ngắm say sưa mới ghê. Tôi thích đạp xe lang thang qua các con đường có dấu ấn của người đẹp để biết " nơi chốn đi về" của họ. Con đường phố cổ Gia Hội, dập dìu tài tử, giai nhân là con đường tôi mê. Tôi đã từng ngẩn ngơ khi được ngắm một người đẹp phố Gia Hội vào buổi bình minh dưới sắc trời trắng bạc trong tà áo dài lụa trắng ngần. Chiếc nón lá đội lệch với quai nón nhung đen, yểu điệu ban trưa che nghiêng khoảng trời nhỏ khoác chiếc áo màu hỗ hoàng sang trọng.
Người đẹp của tôi diệu kỳ làm sao. Hoàng hôn, trời chiều man mác người đẹp Gia Hội lại lung linh, mờ mờ, ảo ảo gọi hồn. Tôi cứ mơ mơ màng màng như thế từ thời con nít. Bạn bè tôi rủa. Con nít ranh. Mà ranh thiệt. Nhìn, ngắm rồi tự mình nhận xét, bình luận với vài câu thơ ghi lại sau khi về nhà và sau tất cả là sự "ngưỡng mộ" vì phố Gia Hội có nhiều con gái đẹp quá. Đến tận bây giờ khi đã trở thành "thiếu nữ lớn tuổi" của Huế thì may mắn thay, hình ảnh đẹp của ngôi nhà rường, những gương mặt đẹp cùng dáng vẻ đài các, cao sang, thùy mị, e ấp của con gái phố cổ một thời vẫn còn nguyên vẹn trong tôi, thu hút cảm xúc của tôi.
Ai đó, ở độ tuổi như tôi, 70 hoặc hơn thế nữa, 75, 80 và cũng có thể là 90 sẽ khó quên được những người đẹp ở giai đoạn của mình tại phố Gia Hội ngày xưa (90 không hiểu ai đó có còn nhớ đến một người đẹp phố cổ nào không hè !)...
Đây, phố Gia Hội. Con đường cổ kính có nhiều con gái đẹp ngày xưa. Trên con đường này có hai rạp xi nê nổi tiếng là Châu Tinh và Li Đô, một thời thu hút giới trẻ Huế với những loạt phim tình cảm lãng mạn Pháp. Sở thích của trai, gái Huế thời ấy là đi xem xi nê. Con gái thích đi ăn chè (chè ông Thân ở múi cầu Đông Ba), chè Cồn ( ở Vỹ Dạ đi về). Con trai thích đi uống cà phê (cà phê ở bến xe bus Đông Ba), cà phê Phấn, cà phê Lạc Sơn (phố Trần Hưng Đạo), cà phê Tôn, cà phê cô Dung (trong Thành Nội)...
Đây là một sở thích rất dễ thương của thanh niên, thiếu nữ Huế ngày xưa. Bún bò mụ Rớt là tiệm bún có tiếng cũng nằm trên con đường này. Với tôi, đẹp nhất vẫn là những ngôi nhà rường còn lại của phố mà ngày nay không còn và người đẹp thì đi về đâu, nơi đâu theo dấu chân thời gian...
... Sông Đông Ba thấp thoáng những con đò nhỏ neo bến đậu làm cho cầu Gia Hội trở nên xinh và duyên hơn. Qua khỏi cầu nhìn sang bên trái ở góc đường Bạch Đằng - Chi Lăng (ngày xưa thật xưa , đường Chi Lăng tên là Hàng Đường), có tiệm Đồng Quí chuyên bán đồ Đồng. Trong ngôi nhà xưa này có người con gái đẹp. Da trắng, mắt đen, mũi thanh, miệng cười chúm chím, ăn nói từ tốn, nhỏ nhẹ. Gương mặt chị đẹp, tóc thề mượt đen để dài ngang lưng (có đôi lúc tóc của chị được tết thành hai con rít thả trước ngực) cùng dáng người nhỏ nhắn, xinh xinh của chị đã làm đắm say bao chàng trai Huế. Biệt danh "Trâm hàng Đồng" đã theo chị Trâm suốt thời con gái và cả đến bây giờ, khi nhắc đến chị mọi người đều gọi "Trâm hàng Đồng"...
Đối diện với tiệm Đồng Quí là cây xăng của nhà bác Chỉnh. Con trai ghé bác đổ xăng cũng có mà ghé bác để nhìn trộm con gái của bác cũng có. Bởi chị Luân con gái bác Chỉnh đẹp . Gương mặt trái soan. Mắt đẹp, sáng long lanh như mắt nai. Tóc uốn lọn, dài, một nữa mái buông hờ trước ngực trông lạ và xinh tôn vẻ đẹp sắc sảo của chị Luân. Học sinh, sinh viên ở hội Quảng Tri bên kia bờ sông Đông Ba đường Hàng Bè (nay là Huỳnh Thúc Kháng) cứ thế mà chiêm ngưỡng vẻ đẹp của hai chị...
Chiều chiều, con đường phố cổ lại nhộn nhịp bước chân người, người buôn , kẻ bán, người dạo chơi nườm nượp. Đó đây, xuất hiện nhiều người đẹp qua lại trên đường. Xe đạp có, đi bộ có. Tất cả đều mang vẻ đẹp riêng của phố. Trong tà áo trắng, cổ kiềng, eo thon, chị Cẩm Thạch lặng lẽ xuất hiện bên cô em gái Cẩm Hoa. Chị Thạch đẹp, duyên dáng, dễ thương. Nét đẹp của chị mang vẻ thuần khiết, mềm mại với mái tóc uốn nhẹ qua vai. Thân hình cân đối, mảnh mai. Nhìn chị Cẩm Thạch thanh thoát quá. Bên kia đường nhiều anh đang ngắm chị. Hiền lành, đằm thắm, ẩn một chút kiêu sa của của con gái phố cổ thuở mới lớn.
Con gái phố Gia Hội "sang" ghê. Ai nhìn mặc ai. "Giữa phố đông người. Lặng lẽ tôi". Chị Cẩm Thạch dưới mắt tôi thuở ấy là thế... Sáng sáng , khi sương mai còn đọng đầy trên những mái ngói rêu phong của phố cổ, con đường Gia hội như bừng dậy với những tà áo trắng tung bay - thiếu nữ phố cổ lao xao trên đường đi học. Gió sông Hương len qua những con hẻm nhỏ thổi hồn nước lên phố nhẹ nhàng, mênh mang. Nổi bật trong nhóm thiếu nữ này là nàng Lâm - Lâm thị Kim Cúc. Mình hạc, xương mai . Lâm Cúc đẹp với đôi mắt đen, da ngăm, miệng cười duyên thật duyên. Kim Cúc cao, thân hình cân đối, gương mặt ưa nhìn. Tóc đen tuyền, dài ngang eo - nét đẹp rất riêng của Kim Cúc. Phố Gia Hội đã làm cho vẻ đẹp của Cúc mặn mà hơn, duyên dáng hơn.
Trước ngôi nhà 123, nhiều anh thấp thoáng ngắm để rồi phải hồi hộp thả thư bay, qua tay người khác để giúp mình "tỏ tình". "... Tôi mơ một nhân dáng, tôi khát một vòng tay... nhưng... mọi sự đều chạy trốn". Lãng mạn vô cùng. Trai Huế mà. Có điều trai Huế "nhát gái" so với con trai các miền khác ( nhận xét của riêng tôi ). Trên chiếc xe đạp đầm, guidon hình chữ U, tà áo trắng của nàng Cúc lượn bay mờ mờ trong gió chiều "Em ngang qua, gỗ đá cũng ngẩn ngơ - nhìn" . Ngày ấy, Lâm Kim Cúc có rất nhiều anh theo nhưng "em hiền thật hiền" vì "ba mạ em khó quá" (Con gái ra đường không được nói chuyện với con trai). Có hôm đi học, xe đạp bị hư, Cúc phải đi bộ .Thế là trên đường đi học về , có một anh đã âm thầm gửi xe của mình ở đâu đó, rồi thả bộ theo sau nàng đến tận nhà. Vừa đi vừa chiêm ngưỡng dáng hạc. Rồi bóng hồng "lặng lẽ vào nhà" và chàng "ngẩn ngơ rời gót".
Đường về nhà em ngắn quá! . Kim Cúc là em gái của thầy Lâm Tài, người thầy khả kính của nhiều thế hệ học trò Huế... "Biển xanh như người tình. Ta nằm cùng bãi cát. Thư em không gửi được. Đành xếp giấy làm thuyền". Đây là lời tự sự rất dễ thương của một anh con trai xứ Quảng ra trọ học ở Huế dành riêng cho một người đẹp phố Gia Hội. Xúc cảm. Tôi nghĩ, đoạn thơ hay trên của nhà thơ Phan Như đã nói hộ tâm trạng khắc khoải của anh ấy. Không quen làm sao mà gửi thư được hè, hơn nữa nàng là một người đẹp "kín cổng cao tường", nết na, đoan trang, thùy mị của ngôi nhà số 83, một gia đình công chức có tiếng nề nếp, gia phong. Thừa hưởng nét đẹp quí phái của mẹ, gương mặt và vóc dáng của chị đẹp. Mặt bầu bĩnh, da trắng hồng, mắt tròn, nhấp nhánh đôi hàng mi cong. Dịu dàng, hiền lành, e ấp, kín đáo sau chiếc nón bài thơ che nghiêng.
Phan thị Tịnh đúng là mẫu gái Huế của phố cổ Gia Hội. Tịnh ít nói, đoan trang, thùy mị. Nhìn lành lạnh nhưng thật ra Tịnh khiêm tốn, dễ thương và đáng yêu. Bản tính nhút nhát thêm chút e lệ của Phan Thị , con trai cùng phố cũng như con trai Huế ít ai dám biểu lộ tình cảm với Tịnh, chỉ đứng xa xa - nhìn , không mở cửa được trái tim của Tịnh... Tuy là phố cổ nhưng mai Tết không nhiều và vườn nhà nào ở phố có mai là cả một khung trời "dát ngọc vàng mai". Mai đương thì con gái, mai lão vẫn là mai. Đẹp và quí. Thấp thoáng sau lão mai là một nàng Tôn Nữ đẹp xuất hồn, dáng quí phái, nền nả. Đôi mắt to, đen, ươn ướt như hai hạt nhãn với hàng mi cong, đôi mày như vẽ. Người đẹp Phương Hạnh đã làm cho một anh cùng phố và cả những anh khác phố của Huế phải bâng khuâng, chiều 30 Tết cứ lãng vãng trước ngõ. Con trai Huế thích chị nhưng chỉ dám đi ngang nhà chị, đạp xe qua, đạp xe lại và bồi hồi " nhìn ".
Trời cho chị gương mặt đẹp, nhất là đôi mắt hút hồn người. Đôi mắt biết nói, biết cười và chính đôi mắt này đã thay chị nói lên tất cả những buồn , vui con gái. Đài các trong chiếc áo dài Tết truyền thống Huế màu ngọc bích, chị Phương Hạnh là một Tôn Nữ khuê các trong khu vườn cổ Gia Hội và là một hoa khôi của Huế ngày xưa ấy. Đẹp nhất với tôi thuở ấy là hình ảnh của chị với chiếc áo lụa vàng mơ và chiếc nón quai nhung đội lệch vành. " Gió chiều vương áo nàng Tôn Nữ, quai lọng nghiêng vành chiếc nón thơ ". Xin mượn lời của thi sĩ Đông Hồ để tặng riêng chị Tôn Nữ Phương Hạnh, một thời con trai Huế " mê như điếu đỗ "... Nắng. Nóng. Hạ đã về trên phố. Phố Gia Hội không có cây xanh làm dáng ven đường tỏa cành lá che nắng che mưa cho con gái của phố, không có trăng xôn xao chen nhau qua kẻ lá xuống phố dạo chơi ; thế nhưng phố vẫn có nét duyên riêng làm nền cho người đẹp Gia Hội qua về trên đường dịu dàng gõ vào tim ai đó.
Qua khỏi bến đò Cồn một đoạn, có ngôi nhà đẹp, trang nhã. Sáng mùa Hạ, hoa lá làm dáng nhảy múa quanh vườn. Bên vườn Hồng, chị Cao Thanh Tâm xinh thật xinh, thơ ngây trong chiếc áo đầm trắng tinh khôi dù chị đã vào tuổi 18. Gương mặt sáng, da trắng hồng, nụ cười hiền rạng rỡ trên đôi môi đỏ thắm, chị Tâm đang gọi gió Hạ về trong khu vườn nhỏ. Ngày ấy, từ ngôi nhà đối diện, tôi chỉ mượn dừng chân để được - ngắm chị. Nét đẹp vừa thanh , vừa duyên của chị đã thu hút tái tim của trai Huế một thời. Chị Thanh Tâm là con gái của thầy Cao Xuân Duẫn, người thầy hiền lành, có tâm, có đức được nhiều thế hệ học trò ĐK-QH trân quí. Các anh QH vẫn thường kháo nhau : "
Con gái của thầy Duẫn đẹp ". Đẹp nhưng các anh không biết làm sao để tiếp cận con gái của thầy. Thư cũng không gửi được. Làm quen cũng chẳng dám. Có lẽ, chỉ có con trai không là học trò của thầy mới dám làm quen. Thế là, các anh Q.H chỉ biết âm thầm, lặng lẽ " nghễ con gái của thầy "... Tôi như đang đứng ở đây với mùa Thu Huế đến muộn. Mây lang thang tỏa khói hương bay, nhả hương thu xuống ngôi nhà cổ số 3 đường Chi Lăng ngày xưa. Nơi đây, một thuở là ngôi nhà rường đẹp, cấu trúc hài hòa, trang nhã, đẹp mắt và nhất là... có người con gái đẹp. Đẹp lắm. Giữa hương thu, hương thơm của gỗ quí bàng bạc khắp gian nhà như phảng phất đâu đây ; hình ảnh thiếu nữ trong tà áo dài màu tím than nền nã của Lương Thúy Anh đang trở về với tôi, mời gọi tôi.
Lương Thúy Anh một thời đã quyến rũ tôi, theo tôi cho đến tận bây giờ. Gương mặt trái soan, mắt đen tròn, trong veo, mũi dọc dừa, môi đỏ như tô son nổi bật trên làn da trắng nõn, mịn màng. Thúy Anh đẹp như thiên thần. Nét đẹp vừa thơ ngây, vừa mong manh của nàng thơ phố cổ đã thu hút con trai lẫn con gái Huế. Thuở mười bốn, mười lăm, gương mặt Thúy Anh đã hiện rõ nét thanh tú từ mắt, mũi, miệng với đầu tóc uốn ngắn. Thúy Anh nũng nịu như búp bê. Mười bảy, mười tám Lương Thúy Anh đầy đặn nét hoa với gương mặt, vóc dáng cùng mái tóc thề đen dài. Đẹp. Đằm thắm. Gợi cảm. Trong lòng phố cổ, Thúy Anh là nàng thơ " để trần thế ngước mắt chiêm ngưỡng " và với riêng tôi, con gái Thành Nội, một thời rất ngưỡng mộ con gái phố cổ : " Nàng thơ ơi, em vẫn là em - hồn thiêng phố cổ "... Cuối thu, Huế cuộn hồn người với sương mai lãng đãng gợi không gian buồn. Rồi những giọt nắng yếu bất chợt xuất hiện đầu đông, phố Gia Hội có dịp khoe áo mới - vàng mơ pha lam.
Đó đây, mùi thuốc Bắc thơm thơm dễ chịu thả hồn trong gió gọi người xưa trở về. Tiệm thuốc Bắc Thuận Thái Đường , nhà số 60 như đang ở trước mắt tôi. Duyên dáng, quyến rũ với hai lúm đồng tiền nho nhỏ rất duyên ở hai bên khóe miệng, Hồ thị Hảo con gái của bác chủ tiệm thuốc Bắc xinh quá. Tên là Hảo nhưng tôi vẫn thích gọi là người đẹp Hồ thị. Da trắng, má hồng, miệng cười rất tươi của gái Huế đương thì xuân sắc. Ngày hai buổi qua về trên phố, nàng để lại trên đường vô số mắt nhìn. Hảo xinh và rất duyên. Tôi mê nụ cười cùng dáng vẻ đằm thắm của Hảo trên chiếc xe P.C màu tím. Áo trắng, tóc dài tung bay điệu đàng chở gió muôn phương. Trai Huế, nhiều anh phải "long đong " theo nàng...
Huế của tôi và của những người con Huế đi xa hay thương và nhớ về chốn cũ ; nơi xưa cũ đó có những người thân yêu, có ngôi vườn cũ, căn nhà xưa và có những người đẹp thoáng qua đời mình. Tôi nhớ phố Gia Hội , ở đó có cô bạn thân của tôi , cũng là một trong những người đẹp của phố. Phố còn nhiều người đẹp, trước tôi, thời của tôi và cả sau tôi nữa nhưng tiếc quá, tôi chưa từng được chiêm ngưỡng.
... Giật mình. Tiếng còi xe nhắc nhở. Tôi đang ở đây. Sài Gòn không phải Huế. Không là phố cổ Gia Hội ngày xưa. Ngập ngừng, bẽn lẽn tôi nhìn xuống đất. Bàng hoàng. Một thoáng... tàn giấc mơ hoa. Cậu em Sài Gòn tròn mắt nhìn với một khoảng lặng cảm thông người đàn bà đang lãng du trong chiếc bình gốm cổ.
Phố xưa ơi, một thời in bóng giai nhân...
Bùi Kim Chi