f. Trần Xuân An - Thơ sử và những bài thơ khác - Tệp 6

 

CHÙM THƠ SỬ VỀ QUẢNG TRỊ

(14 bài)

 

Bài 24

Trần Xuân An

SÔNG ÁI TỬ VÀ OA OA THẦN NHÂN

 

mở cõi, thuở đầu xa xăm

nhan sắc cũng đành ra trận

nước mắt đoá sen lấm bẩn

thành rừng ngọc sáng Nàng Lâm (1)

 

thần sông Ái Tử thương con

chẳng muốn phải nhiều máu đổ

nội chiến là điều đáng sợ

oa oa báo mộng chập chờn

 

Lập Bạo một mình trôi sông

quân Mạc vạn nghìn được sống

Cồn Tiên mấy làng trải rộng

rừng ngời thóc quả, mênh mông

 

chợt nhớ nơi nào Đào nương (2)

tiếng hát cũng đành vào trận

thành hoàng mừng và ân hận

Oa Oa chiến thắng và thương! (3)

 

sống giữa Quảng Trị bao năm

quê hương – ngoại xâm – cởi trói

rời xa, lắng từng đổi mới

yêu sao sử với hương trầm.

 

TXA.

21:20 – 22:05, 27-10 HB10

 

 

Bài 25

Trần Xuân An

TƯỞNG NIỆM NGƯỜI ANH HÙNG

TRẦN XUÂN HOÀ (?-1861)

 

đã đành hoa trắng Thâm Khê

thơm vào Mỹ Quý tư bề phương Nam

bao năm ở, mấy lần thăm

tìm đâu, Quảng Trị, đền trầm hương xưa? (1)

 

người anh hùng sáng lòng vua

đỏ lòng dân thuở bốn mùa nến chong

những gì tàn phá, trống không

chỉ còn trang sử rêu phong, quê mình!

 

phố phường quốc tế, rộng rinh

tên anh hùng sáng lặng thinh tên đường

tên Người – ngọn lửa cố hương

nung gươm Phủ Cậu Định Tường diệt Tây (2)

 

sáu lần toả đánh, giải vây

chí bền bĩ luỹ tre dày, hào sâu

rơi vào tay Pháp, lòng đau

giữ thơm danh tiết nghìn sau đất này

 

vẫn nghe Thành Cổ xót cay

đền thờ thuở ấy, lâu nay đâu rồi?

biển quê sóng nhắc khôn nguôi

Trần Xuân Hoà, xương rồng ngời sáng quê.

 

TXA.

15: – 17:45, 27-10 HB10

 

 

Bài 26

Trần Xuân An

TÌM MỘ ÔNG CHƯỞNG PHAN BÂN (?-1869)

 

mộ Người tìm ở nơi đâu

để dân hương khói, nghìn sau vẫn còn (*)

 

phỉ Tàu thuở quấy nước non

nghe Phan Bân đã lạnh hồn trốn xa

máu tử tiết mãi chói loà

người Hải Lăng, phút trót sa bẫy thù

 

đọc ngàn vạn sách vẫn mù

một hôm sáng mắt tuổi ngu ngơ nào

phải đâu huyền thoại trời cao

đất quê là sử, trót xao lãng lòng!

 

bỗng thèm học tại nguồn sông

mạch khe chóp núi cánh đồng quê xa.

 

TXA.

19: – 21:07, 27-10 HB10

 

 

Bài 27

Trần Xuân An

LÂM HOÀNH (1824-1883)

 

lòng muốn thét to, kìm khẽ giọng

– làm chi, cầm cự, hai mươi năm?

quân nhu luỹ chiến sơ sài quá! – ...

nhận lệnh, cúi đầu, Ông nghẹn thầm (*)

 

Ông cũng hiểu ra mưu giặc Pháp

luyện quân mua súng, chúng khuyên hoà

dàn tàu doạ dẫm, kích lương – giáo

cưỡng ước, vượt ngoài bao khoản xa

 

súng thép, Ông nhìn, đầy trái phá

lời chưa kịp nói, đạn vang rền

chia thuyền đánh úp, quân ta vỡ

gươm Pháp xô Ông xuống biển đen

 

phụ chính chỉnh triều, Ông đã mất

Lâm Hoành tử trận vội vàng sao!

hết lòng chiến đấu, quân thương khóc

bi tráng Thuận An, biển hận trào!

 

TXA.

17:30 – 18:15 & 21:37, 28-10 HB10

 

 

 

Bài 28

Trần Xuân An

TÂN SỞ VÀ DỤ CẦN VƯƠNG

 

Dụ Cần vương dậy Trường Sơn

Giải Triều, trung nghĩa, tờ son gửi về (1)

bình Tây, sát tả-tà-mê

cho Tân Sở – Huế  tư bề hoa giăng

lễ tần viết sắc “hòa” ban (2)

Tôn Thuyết chiến để Nguyễn Văn Tường đàm

Pháp tung cáo trạng Bắc – Nam

lưu đày Kì Vĩ, chết thầm đảo xa (3)

súng rền, khâm sứ bôi nhòa

hòm tù đỏ, Hạnh Thục ca hoen vàng

Vè Thất thủ giữa dân gian

giọng run lệch bởi chuông vang giáo đường

thơ Nguyễn Thượng Hiền buốt sương

thương thái phó, ngó sen vương, dặm về (4).

 

TXA.

1985 – 1999

 

 

Bài 29

Trần Xuân An

 

TÌM NGUYỄN TỰ NHƯ,

HỘI NGUYÊN NĂM MẬU TUẤT (1898)

 

Pháp chém anh, và cha Pháp trói

tim Ông nung núi rựa rừng liềm

cờ Cần vương gió xoay nghiêng ngả

đành nộp mình, nhờ bại tướng Viêm (1)

 

nộp thân mình, xóm làng thôi cháy

cam rụng đầu thay tuổi hạc già

bia tiến sĩ, mộc che ẩn nhẫn (2)

nước suy trầm, chí có phôi pha?

 

quãng cuối đời rơi vào khuyết sử

sách đèn vui? áo mũ buồn rầu?

thương hùng tâm gác câu chờ nước

Nguyễn Tự Như! Tìm Ông ở đâu?

 

TXA.

8:30 – 10:43, 28-10 HB10

 

 

 

 

Bài 30

Trần Xuân An

 

HOÀNG HỮU XỨNG (1831-1905)

 

Ông mắng giặc Tây và tuyệt thực

về kinh lầm lũi trước ngai rồng (1)

vận suy thế nước nhoà mê tỉnh

(giặc đánh, thép trui lẫn mật hồng!)

 

nước mất, Ông lặng thầm chép sử (2)

quản chi xuôi ngược, cứ gom đầy

muôn đời mặt nước là công lí

phun ngược đổ xuôi vẫn thẳng ngay

 

chống Pháp, Pháp đày, sử gọi giặc

nghìn sau hậu thế sẽ tôn vinh

(dăm đời nhân vật đành lem nhọ

sử thắt tâm Ông như cực hình!)

 

yêu sử, Ông đau thời khuyết sử

cam làm nghịch sử, khỏi hư không

nhưng ai đảo được cân công lí

Sử quán giữ tâm – tâm ẩn trong.

 

TXA.

14: – 15:45, 28-10 HB10

 

 

Bài 31

Trần Xuân An

TRUYỀN THUYẾT MỚI VỀ HUYỀN TRÂN,

BÀ MẸ XỨ SỞ

 

tóc huyền xinh, xinh mắt huyền

răng huyền ngời nụ cười duyên môi hồng

vào Chiêm, sóng nghẹn thuyền rồng

qua Ô qua Lý, nghe lòng bâng khuâng (1)

 

Huyền nương vào với Chế quân

Trân cùng Mân hẳn liền vần ngàn năm

đâu ngờ Mân hoá khói trầm

cướp Trân khỏi lửa, phăm phăm, lao thuyền (2)

 

yếm đào cởi giữa phút thiêng

cắt đôi nuốm vú, xin nguyền thuỷ chung

máu rỏ Trường Sa muôn trùng

mùa sim từ đó tím rưng rức rừng

 

xưa sau truyền thuyết lưng chừng

ngọt hương mọng trái biểu trưng quê mình

sim Huyền Trân mãi trung trinh

sử dù lưu oán triều đình hai bên!

 

ngậm sim là ngậm cái tên

chúa Huyền Trân – chúa Ngọc đen, kính hoài (3)

kính thêm rau muối đời dài

sớm hôm trời tím, khoan thai chuông thiền

 

hoa sim thăm viếng tiên hiền

trái sim thắm ngọt miếu thiêng, linh đài

hồn Nhữ Hài Huế không phai (4)

chín huyền Quảng Trị trải dài Quảng Nam.

 

TXA.

9: – 11:30, 07-11 HB10

7: – 8:52, 03-12 HB10

 

Bài thơ này đã được bổ sung thêm 4 câu (màu đen nâu)

03-12 HB10

TXA.

 

 

 

 

 

Bài 32

Trần Xuân An

TIẾNG VỌNG HOÀNG KIM HÙNG (1764-1835),

TƯỚNG NHÀ TÂY SƠN

 

Ô Lý, sính lễ cưới Huyền Trân

nhưng rộng đất, xanh rau, ơn chúa Nguyễn

ta chẳng hiểu vì đâu gươm mài võ luyện (1)

ngựa bay theo Tây Sơn ra Bắc vào Nam

 

buổi đầu quân, nâng chén rượu, khóc thầm

nhạt lòng trung cũng vì bạo thần, ấu chúa (2)

tưới rượu vào, chẳng tắt trong ta nỗi đau ngọn lửa

sông Gianh đỏ máu, đất nước hai Đàng!

 

thống nhất non sông, ta toan giũ áo về làng

lại phải đuổi Tàu, vun gò Đống Đa như trái núi

chống kiếm về quê, sông Hiếu nhìn ta mừng tủi

dẫu sao, ta không khoanh tay trong cơn lốc thế thời

 

khi chúa Nguyễn về kinh xưa, ta ngẩng mặt ngó trời

dưới mồ sâu, cả cười nghe kể tội

ngỡ con cháu mấy đời lầm lội...

chỉ sử sách ngầm ghi công

                                 Tây Sơn thống nhất hai Đàng

 

thời Pháp chiếm, đẩy Nguyễn suy tàn

ta vẫn vô danh trong pho địa chí

cũng đã xa lắm rồi thời chống Mỹ

Hoàng Kim Hùng, ai khẽ nhắc tên ta?

 

nhắc ta, hãy nhắc thời non sông xé cắt thịt da

để liền da thịt, phải đánh Xiêm, đánh Tàu,

                          sau khi đánh tan một vua hai chúa

hãy nhớ ta, tướng Tây Sơn,

                                  cũng ngập mồ lời nguyền rủa

khói trầm hương không huyền ảo hay tâm thành,

                                  càng mịt mờ thân thế ta xưa!

 

thắp giùm ta dăm ngọn nến chưa?

soi mặt ư? Ra sông Hiếu, múc thêm thau nước

thay nước sông Bến Hải, nước sông Gianh thuở trước

uống chén rượu, nhớ nỗi đau ngọn lửa xa rồi!

 

TXA.

13: – 14:50, 07-11 HB10

 

 

Bài 33

Trần Xuân An

CÒN LẠI CỦA NGƯỜI XƯA

 

khắc vào vách núi quê hương

dăm họ tên, may chưa mất?

bút giấy đêm sâu trầm mặc

súng gươm cứu nước sáng rừng!

 

Nguyễn Văn Hiển, danh thơm lừng

Phù Cát, “Đồ Bàn thành kí”

“Bình – Phú – Nam đạo chí…”

rộng tâm lo khắp dân nghèo (1)

 

Nguyễn Công Tiệp ngỡ bọt bèo

từ Tây Sơn quy thuận Nguyễn

vẫn ngời ấn gươm, kinh truyện

“Sĩ hoạn tu tri…” giúp đời (2)

 

tác phẩm các ông xa xôi

tro than, và hoài phủ bụi

tìm đâu, tìm đâu, nhắn gửi…

còn chăng dăm bản hiếm hoi!

 

rừng sâu cờ nghĩa chói trời

giúp vua, cứu dân, đánh Pháp

Trương Đình Hội như mờ lấp

cùng Hoàng Hoản, Trần Quang Chuyên! (3)

 

thân thế các ông như thuyền

chìm dưới đáy sâu lịch sử

may sao còn dăm dòng chữ

Phạm Ngọc Tản lại mơ hồ! (4)

 

khắc vào vách núi không mờ

cũng cần dấu son tiền bạc

khắc vào trang thơ, càng nhạt

kém xa sử chí ngày xưa?

 

thôi chờ hội đình, lễ chùa?

danh – vị, có – không, còn – mất

thơ này chép ra và thắp

thay nén hương, dâng núi sông?

 

TXA.

15: – 18:10, 07-11 HB10

Bài 34

Trần Xuân An

GIẾNG CỔ TIÊN THIÊN

 

rất khi không, bỗng nhớ

rừng mọc làng và trường

tiểu thuyết ta từ đó

một thời quá dễ thương

cổ sơ hơn giếng cổ

 

giếng Tây Nguyên trường xưa

buốt lạnh chân đồi vắng

tre chẻ đôi làm máng

vũng đọng trong hơn mưa

khe tràn quanh năm tháng

 

không đá lót viền bờ

không máng mài kiên cố

như giếng cổ Ca Lơ

vạn khối mồ hôi đổ

chưa hoá đá Chiêm sơ! (1)

 

sách vở và phấn bảng

cao xa đến ngạc nhiên

khảo cổ thành sơ đẳng:

nguyên lí giếng, tiên thiên!

mạch ngọt trái đồi đắng...

 

vốn sống ven đại ngàn

“Ngôi trường tháng giêng” đọng (2)

hiểu giếng cổ Gio An...

kì công hoài vang vọng

rất khi không, bàng hoàng!

 

dễ thương, bỗng dễ sợ

nếu đầu độc giếng lành

quặng thải lềnh bùn đỏ

bệnh tật tuôn tràn nhanh

và nếu sẽ chiến tranh (3) …

 

TXA.

6: - 16:20, 16-11 HB10

 

 

Bài 35

Trần Xuân An

QUẢNG TRỊ, TRỐNG ĐỒNG

VANG VỌNG ÂM DƯƠNG

 

quê mình, đất cổ Việt Thường

trống đồng Trà Lộc mười phương nắng dồn (1)

 

nguyên âm ( - ) Dương Lệ không mòn (2)

lớn lao nhất cõi, thoảng hồn Khu Liên (3)

Triệu Phong lòng nối Cát Tiên

nguyên dương ( + ) to tát nhất miền Phù Nam

 

mình, con Chim Lạc tìm trầm

bao năm ngậm ngãi nhớ thầm Trà Liên

trống đồng vọng đến vô biên

phi thời gian vang tận tiền kiếp xa

 

nghìn năm có thật trong ta

Nhật Nam rồi đến Ô – Ma, đến giờ... (4)

mình thành Quảng Trị liền bờ

Miền Trung mở cõi rộng Cồ Việt ra

 

chúng mình cũng chính chúng ta

Trường Sơn là mái, chái nhà Bắc – Nam

sân Trung chống bão nghìn năm

chồ Nam vàng thóc, bếp trầm Bắc thơm (5)

 

xuân Miền Trung đẹp mâm cơm

trăm con Chim Lạc theo nồm về đây

Trà Liên gõ trống liền tay

tiếng đồng Trà Lộc vang say tiếng cười

 

cựu dinh, kinh cũ, Đất – Người (6)

hai trăm năm rộng gấp mười mươi xưa.

 

TXA.

16: – 18:00, 17-11 HB10

 

 

 

Bài 36

Trần Xuân An

KHÓA BẢO NGUYỄN HỮU ĐỒNG (1860-1920)

 

theo ra Tân Sở cần vương

Ông cam chọn lại quê hương, đất này

kiệu vua triền đông, dốc tây

nỗi niềm kẻ ở đêm ngày ngóng trông

 

quan Tường, Côn Đảo, cứng lòng

đày Pa-pơ-ét, đày không ngày về (1)

quan Thuyết, sơn phòng Hương Khê

lại băng trăm núi ngàn khe sang Tàu!

 

vua Hàm Nghi, gửi rừng sâu

Quảng Bình hoang rậm, biết đâu mà tìm!

chí Cần vương đành lặng im

nón tơi cày cuốc với sim mua buồn

 

luyện gươm cho bút khỏi suông

nhưng trường thi Huế cũng tuồng Đầm Tây!

làm dân, thuế cướp trắng tay

cùng dân vùng dậy bao vây tỉnh đường

 

ba năm tù sáng mười phương

vua Duy Tân cũng dầm sương thăm thầm

súng gươm quật khởi chôn hầm

lộ cơ mưu, non với tầm thời cơ! (2)

 

chín năm tù, tóc trắng phơ

lại về dạy học, lặng chờ một mai

tuổi già ngắn, vận suy dài

huyệt sâu chôn lấp tâm tài ngàn năm

 

Cam Thành khuya một đêm rằm

tấc lòng còn đỏ hương trầm tỏa thiêng

và sân trường bóng cây nghiêng

nâng bao ngực áo khung viền tên Ông (3).

 

TXA.

00:30 – 02:23, 22-11 HB10

06-12 HB10

 

 

Bài 37 (vui lòng xem bài bổ sung, 29-12 HB10) 

 

Bài 38

Trần Xuân An

THĂM NHÀ LƯU NIỆM

CỐ TỔNG BÍ THƯ LÊ DUẨN (1907-1986)

 

chiều đưa về với Bích La

bóng tre chỉ lối tìm qua bên này

Hậu Kiên, thời mở cõi đây (1)

bốn trăm năm, vút đỉnh mây sáng bừng

 

đề đốc uất buồn kiếm cung

trần lưng thợ mộc, cao nung lá nguồn

sinh Người, thông sáng lạ thường

đành làm thư kí bên đường sắt Tây! (2) (*)

 

ngậm hờn nước mất, đắng cay

lao vào cách mạng. Tù đày, xiềng gông

ngấm đau khổ nhục, bền lòng

thắng Tây. Mỹ xé núi sông. Sao đành!

 

tắt chiến tranh bằng chiến tranh

xua đói nghèo, tóc trắng nhanh, vẫn nghèo

Tàu kia mặt nạ rơi vèo! (3)

suối sông bờ cõi: trong veo – đục mờ!

 

ba năm chạm trán hư vô (4)

Người nghe đất biển Liên Xô rạn dần

con đường cứu nước trọn phần

dở dang, rẽ lối cứu dân, vắng Người!

 

trưa Nhà Lưu niệm nắng tươi

chiều về hoa lá vẫn ngời hoàng hôn

dấu chân thơ dại mãi còn

và còn muôn thuở nước non giọng Người.

 

TXA.

19: – 21:40, 21-11 HB10

 

(*) 12-12- HB10: TXA. đã chỉnh sửa khổ thơ thứ hai.

14-12 HB10: bổ sung chú thích (dẫn nguồn).

 

 

Xin xem chú thích ở cuối tập thơ (tệp 7)

 

 

 

Bổ sung ngày 29-12 HB10 (2010):

 

Bài 37

Trần Xuân An

NGHI THỨC NHẶT CƠM RƠI

CỦA BÀ MẸ QUÊ

 

                 nhớ bài thơ về Đa Nhim, 1981

 

quý hạt ngọc trời, thói quen từ bé

chao vào muỗng canh những hạt cơm rơi

đưa lên miệng, kính cẩn lời niệm khẽ

chưa từng nhạt phai, dù tuổi tám mươi

 

Ất Dậu, bốn lăm, niềm đau trận đói

(cha lén ăn, để chết lịm con thơ

quá tủi thẹn, đã tự mình treo cổ!)

suốt đời bà, chưa khuây quên bao giờ

 

chuyện quê buồn, tôi nghe từ tuổi nhỏ

người thành ma đói, ngập chợ đầy đường

một cơ khổ giữa trùng trùng cơ khổ

năm năm giặc Nhật, mấy triệu đau thương

 

trở mặt Đông Du, mị lừa Đại Á

xót đau, biết trước, còn bịp ai đây!

nay tóc bà vẫn trắng mây nhân hậu

lỡ cơm rơi, nhặt lại, dẫu đủ đầy

 

nỗi mất nước khắc sâu vào số phận

tiếc ngọc trời thành nghi thức nguyện cầu

Hiro, Naga cũng hằng tưởng niệm

với tiếng bẻ gươm? vỗ cánh bồ câu.

 

TXA.

14 – 15:25, 29-12 HB10

 

 

Xem tiếp:

Thơ bạt: "Cuối năm dương lịch ở phố Tây và Xưa Nay"

(31-12 HB10)

 

 

TÁC GIẢ GIỮ BẢN QUYỀN

TỪNG CHỮ, TỪNG Ý TƯỞNG 

 

TRANG BÌA TẬP THƠ

MỤC LỤC TẬP THƠ

 

Google Sites /  host

WORDPRESS, GOOGLE PAGE CREATOR, DOTSTER, MSN. & YAHOO ...  /  HOST, SEARCH & CACHE