Trần Xuân An - Thơ sử về Quảng Trị, chùm 4 (2 bài)
Xem tiếp từ trang:
Các chùm thơ sử về Quảng Trị:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/tieu-luan-5/txa-chumtho-3b-14-9hb10/9bai (+ 1 bài)
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/tieu-luan-5/txa-tho-su-quang-tri chùm 1
Cũng có thể xem tại:
http://txawriter.wordpress.com/2010/11/23/tho-su-ve-q-tri-chum4_2bai/
21 & 22-11 HB10:
Chùm thơ đang được gửi đăng ở báo chí (tạp chí điện tử...):
http://trannhuong.com/news_detail/7119/THĂM-NHÀ-LƯU-NIỆM-CỐ-TỔNG-BÍ-THƯ-LÊ-DUẨN-(1907-1986)
http://www.phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=11559
Xem thêm:
Hai bài thơ sử được viết đã lâu, về hai nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh và Nguyễn Huệ - Quang Trung:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/tieu-luan-5/txa-2baithosu-viet-dalau
Thơ sử về Quảng Trị
bài 13 & bài 14
bài 13
Trần Xuân An
KHÓA BẢO NGUYỄN HỮU ĐỒNG (1860-1920)
theo ra Tân Sở cần vương
Ông cam chọn lại quê hương, đất này
kiệu vua triền đông, dốc tây
nỗi niềm kẻ ở đêm ngày ngóng trông
quan Tường, Côn Đảo, cứng lòng
đày Pa-pơ-ét, đày không ngày về (1)
quan Thuyết, sơn phòng Hương Khê
lại băng trăm núi ngàn khe sang Tàu!
vua Hàm Nghi, gửi rừng sâu
Quảng Bình hoang rậm, biết đâu mà tìm!
chí Cần vương đành lặng im
nón tơi cày cuốc với sim mua buồn
luyện gươm cho bút khỏi suông
nhưng trường thi Huế cũng tuồng Đầm Tây!
làm dân, thuế cướp trắng tay
cùng dân vùng dậy bao vây tỉnh đường
ba năm tù sáng mười phương
vua Duy Tân cũng dầm sương thăm thầm
súng gươm quật khởi chôn hầm
lộ cơ mưu, non với tầm thời cơ! (2)
chín năm tù, tóc trắng phơ
lại về dạy học, lặng chờ một mai
tuổi già ngắn, vận suy dài
huyệt sâu chôn lấp tâm tài ngàn năm
Cam Thành khuya một đêm rằm
tấc lòng còn đỏ hương trầm tỏa thiêng
và sân trường bóng cây nghiêng
nâng bao ngực áo khung viền tên Ông (3).
TXA.
00:30 – 02:23, 22-11 HB10
(1) Papeete thuộc quần đảo Tahiti, giữa Thái Bình Dương, gần Trung Nam châu Mỹ, nơi Nguyễn Văn Tường bị lưu đày biệt xứ và vô thời hạn, sau khi đã bị đày ra Côn Đảo. Ông mất vào ngày 30-7-1886 tại đó. Di thể được Tôn Thất Đính đưa về quê nhà.
(2) Cuộc khởi nghĩa Duy Tân 1916. Nhờ Khóa Bảo Nguyễn Hữu Đồng, nên Trần Cao Vân, Thái Phiên và các đồng chí của các ông mới biết tâm và ý của vua Duy Tân. Nhưng cuộc quật khởi bất thành vì lộ cơ mưu, và cũng do lực lượng còn non yếu, trong khi thời cơ đã xuất hiện (chiến tranh thế giới lần thứ 1, 1914-1918).
(3) Trường PTCS. Khóa Bảo, tại Cam Lộ.
Cố TBT. Lê Duẩn, 1927 (1907-1986)
Nguồn ảnh: TTO.
Bài 14
Trần Xuân An
THĂM NHÀ LƯU NIỆM
CỐ TỔNG BÍ THƯ LÊ DUẨN (1907-1986)
chiều đưa về với Bích La
bóng tre chỉ lối tìm qua bên này
Hậu Kiên, thời mở cõi đây (1)
bốn trăm năm, vút đỉnh mây sáng bừng
đề đốc uất buồn kiếm cung
trần lưng thợ mộc, cao nung lá nguồn
sinh Người, thông sáng lạ thường
đành làm thư kí bên đường sắt Tây! (2) (*)
ngậm hờn nước mất, đắng cay
lao vào cách mạng. Tù đày, xiềng gông
ngấm đau khổ nhục, bền lòng
thắng Tây. Mỹ xé núi sông. Sao đành!
tắt chiến tranh bằng chiến tranh
xua đói nghèo, tóc trắng nhanh, vẫn nghèo
Tàu kia mặt nạ rơi vèo! (3)
suối sông bờ cõi: trong veo – đục mờ!
ba năm chạm trán hư vô (4)
Người nghe đất biển Liên Xô rạn dần
con đường cứu nước trọn phần
dở dang, rẽ lối cứu dân, vắng Người!
trưa Nhà Lưu niệm nắng tươi
chiều về hoa lá vẫn ngời hoàng hôn
dấu chân thơ dại mãi còn
và còn muôn thuở nước non giọng Người.
TXA.
19: – 21:40, 21-11 HB10
(*) 12-12- HB10: TXA. đã chỉnh sửa khổ thơ thứ hai.
14-12 HB10: bổ sung chú thích (dẫn nguồn tài liệu tham khảo).
(1) Ông được sinh ra tại nguyên quán: Bích La Đông, Triệu Đông, Triệu Phong, Quảng Trị, nhưng thời tuổi nhỏ, sống tại làng Hậu Kiên, gần đó. Hiện nay, Nhà Lưu niệm được xây dựng tại Hậu Kiên.
(2) Xem: Lê Bá Tạo, “Gia đình đồng chí Lê Duẩn những năm 1946-1953 ở Bích La Đông”, đăng trong tạp chí Cửa Việt, số 151 (bộ mới), tháng 4-2007, tr. 83-85; cũng đã đăng trên báo Quảng Trị và tập san Tình Quê của Hội Đồng hương Quảng Trị tại Đà Nẵng. Cố tổng bí thư Lê Duẩn có thời làm thư kí kho vật tư tại ga xe lửa Đà Nẵng, Hà Nội, dưới thời Pháp xâm lược, thống trị, cũng như chủ tịch Tôn Đức Thắng đã có thời là lính thợ của thực dân Pháp (tôi viết câu thơ này trong tinh thần hòa giải, hòa hợp dân tộc). Tuy nhiên, ông sớm tham gia cách mạng (1930), trải qua hai lần tù tại Côn Đảo, 1931-1936 và 1940-1945…
(3) Xem: Bộ Ngoại giao Nước CHXHCN. Việt Nam, “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc 30 năm qua”, Nxb. Sự Thật, 10-1979.
(4) Ông bắt đầu ngã bệnh vào năm 1982.
Xem tư liệu: Lê Bá Tạo, “Gia đình đồng chí Lê Duẩn những năm 1946-1953 ở Bích La Đông”:
Côn Đảo
Vị trí Tahiti
Papeete - Tahiti
<<<<<<<<< >>>>>>>>>:
Trần Xuân An -- CHÙM THƠ SỬ VỀ QUẢNG TRỊ, 07 bài
(chùm thứ 1) -- bài 1 - bài 7
Trần Xuân An -- Những tồn nghi trong loạt thơ sử mới viết
(luận giải)
Trần Xuân An -- Viết tiếp thơ sử về Quảng Trị, 3 bài
(chùm thứ 2) -- bài 8 - bài 10
Trần Xuân An -- Thơ sử về Quảng Trị, 2 bài
(chùm thứ 3) -- bài 11 - bài 12
Trần Xuân An -- Thơ sử về Quảng Trị, 2 bài
(chùm thứ 4) -- bài 13 - bài 14
Hai bài thơ sử được viết đã lâu - 1977 & 1997
Google Sites / host
WORDPRESS, GOOGLE PAGE CREATOR, DOTSTER, MSN. & YAHOO ... / HOST, SEARCH & CACHE