b. Trần Xuân An - Thơ sử và những bài thơ khác - Tệp 2

 

HAI BÀI THƠ SỬ VIẾT ĐÃ LÂU

 

Bài 1

Trần Xuân An

MÁI TRANH

 

1

 

dưới hai hàng cây xanh

tôi về thăm quê Bác

nắng dọc đường đi êm ả hiền lành

hiện dần trong tôi nho nhỏ mái nhà tranh

tôi đã thấy qua thơ qua tiếng hát

(khúc ca nào lắng sâu hóa nỗi niềm riêng)

tôi đã thấy qua bao xóm làng quê hương

                                    thân thuộc

một nếp tranh vàng rất đỗi dân gian

dưới bóng tre xanh, xanh tự ngàn năm

 

2

 

lần đầu tiên ra thăm

sao như trở lại lòng mình

 

3

 

ngõ hóp chống cao, vạt lúa, đất phèn

hàng giậu xanh non dẫn vào nhà Ngoại

nếp nhà tranh lùi lại cuối góc vườn

ôi tiếng khóc sơ sinh của Bác Hồ cất lên

                                                     ở đấy

 

4

 

mảnh sân con tuổi thơ Người chật chội

bước chập chững vin vào khung cửi

giữa tiếng ngâm thơ và tiếng xa quay

dĩa đèn dầu dập dềnh bóng tối

khát vọng trăm miền nặng tiếng à ơi

nói tiếng đầu tiên

           khi ánh đuốc nghĩa quân rực cháy

nên Đất nước đau thương từ đấy có Người!

 

5

 

đứng lên! đồng bào ơi! –

           ngân vang gió suốt chiều dài Đất nước

ai hát trên rừng xưa, bây giờ tôi hát

bỗng thấy cả vòm trời bao la

           dưới mái tranh nghèo

hiểu khung vải dệt thời gian

           dệt tiếng ru  

           trĩu nặng

hóa cờ bay phấp phới cả trời sao

từ dĩa đèn dầu hắt hiu ấu thơ Người đó

đến hừng đông cho bao dân tộc tôi đòi

từ mái tranh nho nhỏ

           Bác Hồ ơi...                                  

 

6

 

“Miền Nam trong trái tim tôi”

Miền Nam ơi

nỗi khổ mỗi người

nỗi khổ mỗi nhà

           thành nỗi đau trĩu nặng lòng ai

nỗi cháy bỏng nhớ thương về Huế

cả Phan Thiết, Sài Gòn và trăm nơi

                            trái tim Người ấp ủ...

tuổi trẻ Người đi qua dưới cơn mưa nô lệ

chưa nắng đủ lòng vui, mưa Miền Nam

                                   đã ướt lại áo Người

rồi cơn đau cuối đời! Bác không về

                                                được nữa

Di Chúc vẫn lên đường, phấp phới nắng trăm nơi

 

7

 

con đường Bác đi, từ mái tranh nho nhỏ

nơi dừng lại bao la là giữa loài người

con đường Việt Nam, từ bùn đen loang máu

đã bừng lên rạng rỡ đóa sen tươi

mái tranh nho nhỏ

trở thành nơi hội tụ lòng người          

 

8

 

tôi về thăm

           gặp cả vòm trời

thu lại rất sâu trong từng đôi mắt

ánh mắt nào cũng chan chứa yêu thương

sáng lên từ Bác –

           nhân hậu mênh mang sâu thẳm ngàn năm

tôi về thăm

mái tranh vàng sắc nắng dân gian

bóng tre tỏa hòa bình yêu thương lên

                                                    mặt đất

và ai rưng nước mắt

thấm nụ cười ấm áp sâu xa

khúc ca nào vọng về thầm lặng ngân nga...

 

9

 

tôi cảm nhận Cõi Người

           qua hồn ông cha, Đất Nước

dưới vòm trời xanh bao la

xanh sắc Quê Nhà.

 

TXA.

Vinh – Huế, 1977

 

 

 

 

Bài 2

Trần Xuân An

SÁNG THÁNG GIÊNG Ở GÒ ĐỐNG ĐA

 

1

 

lặng mình trước tượng đài Quang Trung

gò Đống Đa dưới chân tôi!

                                             Nắng tỏa

từ quản bút lưng trâu và chú bé Hồ Thơm (1)

                        trên đèo núi chập chùng

từ thanh gươm Nguyễn Huệ Tây Sơn

nghe sử thi thắp tim mình chói lóa

 

2

 

ông cha vào khai khẩn đất phương nam

mãi xót lòng nỗi cằn cỗi Nghệ An

phải đổi họ lấy chút yên thân nơi xứ lạ

vua, và hai chúa hai Đàng

Đất nước nát tan

và chất chứa nguy cơ nát tan

đành dựng cờ đào trên nguy cơ rối bời tàn phá

với thanh gươm nghĩa cả

 

3

 

lần đầu tiên ra đây đến ngồi trên ghế đá

tôi ngẩng mặt trên bàn đá

đọc lời hịch hào hùng chói ngời dân dã

chạm lên tảng đá

sáng rọi nghìn sau

ngước nhìn tượng đài Ông cao vút trời sâu

mắt Quang Trung

nhìn tận Cửu Long

– lũ lũ đàn đàn quân Xiêm tan rã – sạch làu!

mắt Quang Trung

vượt qua gò đất chiến công

– một núi xác Tàu –

tầm kế sách vượt bao triều vua vương giả

 

4

 

sao để mãi hồn dân tộc bao đời dài lâu

đành sáng ngời trong văn tự rất quen mà vẫn "lạ"!

(dẫu hai ngàn năm, vẫn không buồn nói tiếng Tàu)

bắt con Trời Càn Long đầu gật mày chau

Quang Trung lấy lại Lưỡng Quảng nghìn xưa

           bằng hào quang và một cỗ cau trầu!

(ôi lịch sử loài người!

           những dân tộc

           những quốc gia

           dồn đuổi nuốt tươi nhau!)

 

5

 

thực dân Phương Tây từ lâu

dò la Bắc – Nam

run rẩy đưa cao thập giá

run rẩy đưa cao nhánh lá (2)

kèm bản đồ

           giấu trong hàng hóa:

thư về nước, ngẩn ngơ, kinh hoàng

phơi lòng dạ!

ngợi ca Át-ti-la Phương Nam (3)

nét chữ bần thần nghiêng ngả

nguyện cầu!

 

6

 

danh sĩ Bắc Hà tâm phục đến chầu (4)

Hoàng đế Phương Nam, áo vải,

                                    da sạm nâu

rất mưu lược

sao hiền hòa chân thành quá

rất bản lĩnh

và ân tình đến lạ

 

7

 

lặng mình trước tượng đài Quang Trung

hiểu tuổi sống của thiên tài Tây Sơn

thắp sức sống nhân dân

sáng bừng vận nước

nhưng “Ai tư vãn” muôn đời còn đau! (5)

đau đến muôn trùng!

 

8

 

tôi ngồi trên ghế đục ra từ núi đá

ngẩng mặt trên bàn đục ra từ núi đá

trên xác thù bạo ngược

gò Đống Đa

ngập nắng sáng, tháng giêng

lá xanh, xanh mướt

thầm hát câu thơ về người áo vải anh hùng

cảm khái dân tộc mình dựng lên tầm cao Tổ quốc

phải bằng sông máu núi xương

và gò xác giặc điên khùng!

ôi, gò xác này chỉ là biểu trưng

một tầm cao, cao thẳm, không biết

                                        lấy gì đo được!

 

9

 

đâu rồi đền miếu, bát hương thuở trước

đã thắng giặc bằng căm thù

và bằng cả bao dung!

hương khói

tỏa lên dăm nét chữ chỉ đích danh:

lũ rối sắt máu, từ tim đen Càn Long

luôn chờ cớ xua quân cướp nước!

ôi lịch sử

nhân và nghĩa

cho vô cùng!

 

10

 

Quang Trung

người dựng mùa xuân

trên nỗi tan hoang hai miền Tổ quốc

bằng muôn triệu kiếm cung

trổ lên từ đồng Nam ruộng Bắc

bằng thanh gươm lóe thép Tây Sơn

bằng mùa mai thắm tươi ra Bắc

bằng mùa đào sáng bừng vào Nam

mùa xuân nối liền

vết thương sông Gianh

hai trăm năm

đau thắt Miền Trung

 

11

 

Hồ Thơm: Nguyễn Huệ: Quang Trung!

từ Nghệ An cỗi cằn

ông cha vào phương nam khai hoang

cánh chim Phượng Hoàng

mơ về đậu đỉnh xanh núi Quyết

chỗ đòn gánh kê vai gánh trĩu mùa vàng

chín rạn và bầm huyết

phải chăng

Trung Đô (6)

chiến lược nối liền Nam – Bắc hai Đàng?

và phải chăng

lệch tình ruột thịt cố hương nên nghiêng đổ hết?

 

12

 

Quang Trung

chỉ là lực biến dịch

            cho sông Gianh thôi gào thét?

để vận nước nối liền bằng thanh gươm Gia Long

cựu thần Đàng Ngoài cuồng trung giẫy chết

Nguyễn Du khóc Kiều đứt ruột đắng lòng

qua Đèo Ngang, buổi nắng tà uá rét

"quốc quốc gia gia" hoài Lê thê thiết

Bà huyện Thanh Quan

           tự đục tên khỏi gia phả nhà chồng? (7)

ngỡ mình là Hán tộc Hồng Tú Toàn,

           Cao Bá Quát huà theo lũ châu chấu điên ngông (8)

           quyển thơ thiên tài máu bết!

Phê-rô Tạ Văn Phụng (9)

           mạo danh con vua Đa-vít Viễn Đông

           Kinh Thánh rao giảng ngược,

                                     ngược ngôi sao Na-za-rét (10):

           “Nhà Nguyễn là đế quốc La Mã

                                                            bên sông Hương!”

           – ngược lời,

           lâu la hú hét –

           máu chảy ngược sông Hồng!

ôi, Quang Trung! Quang Trung!

chỉ là lực biến dịch

           cho sông Gianh thôi gào thét?

để Đàng Ngoài cứ mãi hoài Lê

           với nỗi cuồng trung!

 

13

 

từ Hà Nội mùa xuân

ngậm ngùi tưởng tiếc

ngồi trên gò Đống Đa

trên đỉnh cao chiến công Quang Trung

nắng hồng xanh non cỏ cây tháng Tết

tôi ngước nhìn Quang Trung

Quang Trung, Quang Trung, lực biến dịch

           loé chớp

           lành lặn vết thương sông Gianh

           nối liền non sông nối liền biển biếc

trước thanh gươm vó ngựa Gia Long

Đàng Ngoài phải chăng tự dựng mùa đông?

mùa đông lan vào Đàng Trong

           trăm năm thực dân tàu đồng súng thép...

Giê-su vô can, mười chín thế kỉ Người đã chết

           sao giáo đường sáng trưng

           thắp bằng máu mỡ Việt?

Đàng Ngoài – Đàng Trong

           bỗng chung một nỗi lạnh tê rỉ rét...

 

14

 

từ Hà Nội mùa xuân

ngậm ngùi tưởng tiếc

Quang Trung, Quang Trung

tôi chợt hiểu chút máu thái thú bao đời trong Ông

mãi vỡ mạch muôn đời trên trang sử chép

vết thương Bến Hải đã xa, xa lắc, trập trùng

nếu tôi viết từ uẩn khúc Miền Nam,

           uẩn khúc thuyền nhân:

           "nội – nội phân tranh

           ngoại – ngoại phân tranh"

           thì lịch sử viết thẳng hay uốn cong?

và sao vang ra tận đây

           – Hà Nội mùa xuân –

           những tiếng khóc ròng?

vết thương Bến Hải

           thiếu vắng một Quang Trung?

Quảng Trị quê hương

           đau thương, hào hùng, quyết liệt

sao vang ra đây

           câu hỏi nghẹn ngào róng riết

thiên tài Lê Duẩn là Quang Trung?

ý chí kiên cường Lê Duẩn là Gia Long? (11)

lịch sử đã lặp lại chăng?

lịch sử đã hoán vị hai Đàng?

đâu rồi bao tấm lòng đau niềm chung da diết

ai đó còn thao thức, khắc khoải, chờ mong

           (ta chờ mong trái tim ta rất Việt!)?

sông Gianh – Bến Hải, nắng nỏ, bão bùng

           nỗi niềm đứt ruột Miền Trung

           vết thương chưa thôi gào thét?

 

15

 

ra thăm Hà Nội, ngắm hoa đào mùa Tết

tôi mỉm cười, bâng khuâng.

 

TXA.

Hà Nội, 05.03.1997

Tp. HCM., 20.03.1997  & 02.2004

 

 

Xin xem chú thích ở cuối tập thơ (tệp 7)

 

TÁC GIẢ GIỮ BẢN QUYỀN

TỪNG CHỮ, TỪNG Ý TƯỞNG

 

TRANG BÌA TẬP THƠ

MỤC LỤC TẬP THƠ

 

Google Sites /  host

WORDPRESS, GOOGLE PAGE CREATOR, DOTSTER, MSN. & YAHOO ...  /  HOST, SEARCH & CACHE