d. Trần Xuân An - Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường - Tệp 4 / tập IV

author's copyright

TRẦN XUÂN AN

07/01/09

13-04 HB6

( 2006 )           

 

TẬP IV

 

 

Tệp 1

 

Tệp 2

 

Tệp 3

 

Tệp 4

 

Tệp 5

 

Tệp 6

 

Tệp 7

 

Tệp 8

 

Tệp 9

 

Tệp 10

 

Tệp 11

 

________

 

Hình ảnh:

 

Tệp 12

 

Tệp 13

 

Tệp 14

 

Tệp 15

 

Tệp 16

 

________

 

 

TẬP I

 

TẬP II

 

TẬP III

 

TẬP IV

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Kính dâng lên bàn thờ cao tổ phụ:

NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824 – 1886)

 

Trần Xuân An,

nội hậu duệ thế hệ thứ năm.

 

 

 

 

Tặng hai con thương quý của ba:

 

TRẦN XUÂN BÀI THƠ

& TRẦN XUÂN NHÂN VĂN

 

TXA.

 

 

 

 

Xem:

Blogger (Google) tháng 12-2005

http://tranxuananpcdtnvt4a.blogspot.com/

   & các trang tiếp theo: … 2a … 2b … 2c …

 

 

Tệp 4 –  Tập IV  

(phân đoạn 4, truyện kí thứ 11)

 

 

TRẦN XUÂN AN

 

THẾ TRẬN

“TOẠ SƠN QUAN SONG HỔ ĐẤU”

 

Truyện kí thứ mười một

(phân đoạn 4)

 

      17

 

      Tháng bảy nguyệt lịch Giáp thân (1884), hai quan phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết cùng đình thần vừa lo ổn định tình hình nội bộ, vừa lo tiếp chấn chỉnh lực lượng quân binh về mọi mặt, nhất là ra sức tổ chức xây dựng hệ thống sơn phòng, thượng đạo. Đó mới là nhiệm vụ trọng tâm, cơ bản. Thế trận “toạ sơn quan song hổ đấu”  vẫn tiếp tục được thúc đẩy, chiến tranh Pháp – Hoa đang nổ ra dữ dội tại Phúc Châu, Đài Loan và quân Thanh ngày càng qua nhiều hơn trên biên giới phía bắc nước ta (142). Nhưng phải tác động để hình thành thế trận ấy. “Tọa sơn”, hai chữ ấy cần hiểu sâu xa hơn, không có nghĩa là ngồi trên núi để xem và chỉ ngồi xem mà thôi. Phải xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm, cơ bản, trên cơ sở lấy sức quân mình, dân mình để lo liệu cho nước mình trước sự xâm lược.

      Cùng với Sơn phòng Ngãi – Định do lão tướng Đinh Hội phụ trách, Sơn phòng Quảng Nam là một trong những sơn phòng cần chú trọng ở phía nam tả kì. Ở đó, đang có những người nhiệt huyết đảm đương.

 

         “TU SỬA SƠN PHÒNG QUẢNG NAM Ở XÃ DƯƠNG HÒA, PHỦ THĂNG BÌNH” (143):

 

      “Đồng rừng thượng du có hàng muôn mẫu, đất rất màu mỡ, nhưng vì nước độc, khí nặng, gồm có giặc mán quấy nhiễu, đốc tiễu sứ là Trần Văn Dư [:Trần Dư] xin tăng thêm việc hoàn tụ để cho thế lực tả kì được mạnh lên, nên [vua] sai tu lí, để chứa muối gạo cho nhiều. Lại định cuộc buôn quế Quảng, chọn những người có hiểu tiếng mán ấy sung làm. Phòng quan [:quan sơn phòng] coi giữ công việc cấm những người ngoài cuộc không được giao dịch với người mán và vào trong làng mán bóc quế để thu lợi quyền riêng” (143) .

 

      Đồng thời, khai phục cho nguyên tổng đốc Bắc Ninh Trương Quang Đản hàm hồng lô tự khanh, thự lí tuần phủ [Quảng] Trị – [Quảng] Bình (144). Trương Quang Đản, xét quá trình từ trước tới nay, ông là là người cùng Bùi Ân Niên (Bùi Dị) rất kiên cường chống Pháp, cũng đã tỏ ra có tài thao lược. Do đó, bổ nhiệm ông ở Quảng Trị là nhằm thực hiện việc phòng thủ chiến đấu phía hữu trực kì, nơi có kinh đô thứ hai Tân Sở (144).

      Song song với việc tổ chức phòng thủ, chiến đấu, còn phải giải quyết những vấn nạn nội bộ chưa phải đã xong.

      Dương Danh Lập, trước đây, vào tháng hai Giáp thân (1884), khi Pháp đánh chiếm Bắc Ninh, ông ta đã yết kiến bọn Pháp. Bọn Pháp thấy thế, liền bố trí y làm tổng đốc! Nhưng rồi Dương Danh Lập phải lên Thái Nguyên nhậm chức tuần phủ. Nay can nghị, vì xin nghỉ, tự tiện bỏ về quê, nên mức nghị xử là mang hàm quang lộc tự khanh về hưu trí (145). Đoàn Văn Hội can tội toạ biếm, chủ “hoà”, cũng được nghị xử với mức như Dương Danh Lập. Về sau, y lại ra cộng tác dưới ngụy triều Đồng Khánh (146)!

      Kỳ phong quận công Hồng Đình nhiều lần can tội về đạo đức trong triều Tự Đức, nay buông lơi công việc, bị kết án  “thác cố bất triều” (147) (tạo cớ để bỏ bê hầu chầu, công tác) , lại vượt ngục, bị bắt được, vụt chết (147)! Chính Vũ Văn Đức buông tha cho Hồng Đình!  “Đề đốc phủ ấy là Vũ Văn Đức vì sự tư tuân dong túng, bị phạt trượng, đi đày” (147) ! Hồng Chuyên bị kết án  “về tội họp đảng cướp của” (148)  ở nhà người đã chết là cố thượng thư Trần Tiễn Thành (148). Là một người có công chiêu mộ quân Phấn Nghĩa nhưng Hồng Chuyên phạm pháp, làm mất uy tín nhóm chủ chiến triều đình Huế. Ông ta chỉ bị nghiêm giam để đợi lệnh (148). Nay ở trong tù, y lại thông đồng vượt ngục (149). Hồng Tu (con Tuy Lý vương) là trường hợp đối nghịch (câu kết với Pháp), y cũng vượt ngục! Cả hai đều bị bắt lại, chịu tử hình (149).

      Tất cả các vụ án đều có xét xử nghiêm cẩn.    

      So với các thời kì khác, các vụ án hoàng thân, tôn thất ở thời đoạn này là hết sức bình thường, theo một truyền thống vốn là nét son của triều Nguyễn:  “Luật pháp bất vị thân” .

      Bấy giờ, vụ Dục Đức vẫn chưa ổn. Nó có nhiều điểm khá giống với vụ Hồng Bảo sau khi Hồng Bảo bị “bỏ trưởng lập thứ”. Khi không được nối ngôi vua, chính Hồng Bảo hết câu kết với các cố đạo, giáo dân, lại câu kết với sư sãi tại Cao Mên để tìm mọi cách đánh đổ Tự Đức, chiếm lại ngai vàng. Dục Đức cũng thế!

 

 “Đã yên rồi nỗi Tây kia

Bây giờ mấy kẻ hiềm nghi lo trừ” (130)

 

      Hai kẻ bị “hiềm nghi” ấy không phải chỉ là bị hiềm nghi, mà quả thật có âm mưu câu kết với Pháp để chiếm đoạt hoặc lấy lại ngai vàng.

      Do đó, để giữ vững ngai vàng cho vua Hàm Nghi, Dục Đức phải bị thi hành án, để diệt trừ hậu hoạ!    

 

       “GIÁP THÂN, NĂM KIẾN PHÚC THỨ I (1884), THÁNG CHÍN, MÙA THU, NGUYỄN VĂN TƯỜNG, TÔN THẤT THUYẾT DỜI ĐỂ VUA MỚI NỐI NGÔI LÀ THỤY QUỐC CÔNG XUỐNG NGỤC, RỒI GIẾT NGẦM ĐI” (150):

 

      “Tháng trước, [hai quan phụ chính đại thần Nguyễn] Văn Tường và [Tôn Thất] Thuyết tâu nói: “Gần đây Nha Vệ thành canh phòng hờ hững, nên tên [Hồng] Đình, [Hồng] Chuyên đã vượt được ngục. Vậy tự quân ở lâu Viện Thái y (nguyên tự quân trước bị giáng làm công tử, giam giữ ở đấy), cũng nên làm sớm đi, để khỏi sự trở ngại về sau. Xin chuyển dời sang nhà ngục phủ Thừa Thiên để giam giữ cho được cẩn mật”.

      Tâu lên, làm ngay” (150) .

 

      Hai quan phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết tâu với vua Hàm Nghi hoặc với thái hoàng thái hậu Từ Dũ, sau đó, lập tức ra lệnh thi hành án một cách khẩn cấp, vì sợ bạo động lại xảy ra như các vụ Hồng Bảo, Ưng Đạo (Đinh Đạo), Hiệp Hoà và Hồng Hưu (vụ Hồng Hưu đang được điều tra, nghị xử).

 

      “Các con trai con gái đều cho theo về với mẹ, giao về quê ngoại quản thúc. Nguyên phi Phan thị (tức là hoàng thái hậu ngày nay) bèn cùng với người con thứ bảy (tức là vua bây giờ) [:vua Thành Thái, trị vì trong suốt thời điểm phần sử các kỉ IV, V được biên soạn], con thứ chín là Bảo Đóa (tức là hoàng tử thứ chín bây giờ) cùng về xã Phú Lương. Hoàng tử thứ mười là Bảo Khiêm theo sinh mẫu là Nguyên Văn thị về ngụ ở xã Phú Xuân. Hoàng tử thứ mười một là Bảo Lỗi còn ở trong bụng. (Tên các hoàng tử đều theo bộ “sơn”, lần này phải đổi theo bộ “thạch”; nay [thời vua Thành Thái] vẫn viết theo bộ “sơn”). Lương xướng do phủ Thừa Thiên đệ cấp.

      Rồi hai người [:hai quan phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết] bí mật sai không cho tự quân ăn uống.

      Đến ngày mồng sáu tháng ấy là ngày đinh mùi, giờ thìn, thì tự quân chết ở ngục. Người coi ngục cứ báo là chẳng ăn mà chết; bèn an táng ở cánh đồng xứ Tứ Tây, xã An Cựu, huyẹân Hương Thủy (nay [thời vua Thành Thái] dâng tên là An Lăng)” (150) .

 

      Cũng trong tháng chín nguyệt lịch Giáp thân (1884), Hồng Hưu cũng bị thi hành án theo bản án do Sở Túc vệ, Tôn nhân phủ, điều tra, xét xử công khai, Hội đồng phụ chính phúc thẩm. Như thế, không còn gì rõ ràng, minh bạch hơn: lời tâu hặc của Chấn Tĩnh quận công Miên Trí đã được thẩm định, xác minh chứng cứ (tang chứng, vật chứng, nhân chứng); bản tâu của quan phụ chính Tôn Thất Thuyết đã làm sáng rõ từng chi tiết của vụ án Hồng Hưu! Mức án là thích đáng.

      Bi kịch ở điểm đỉnh mâu thuẫn giữa hai phái chủ chiến, chủ “hoà” trong thời điểm gần đây, không khác về chất với vụ Hồng Tập, Đinh Đạo (cuộc chính biến nhằm tử hình Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành, cuộc khởi nghĩa “Chày Vôi”), nhưng khác nhau ở vị trí những người tiến hành (Hồng Tập không giữ chức vụ gì, Đoàn Trưng là kẻ sĩ thường dân; Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết là phụ chính đại thần) và khác nhau ở mức độ của tính chất, quy mô cuộc biến động (tích cực hơn, ít đổ máu hơn vụ do Đoàn Trưng lãnh đạo). Tuy vậy, nhìn ở góc độ khác, xét về giải pháp để bảo vệ ngai vàng, ổn định nội bộ triều đình, vua Tự Đức với hai phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết lại giống nhau.

      Không thể không nhớ lại bản dụ của vua Tự Đức đã được công bố vào thời điểm mười tám năm trước:

      “Đinh Đạo [Ưng Đạo] đến tế mả cha hắn là Đinh Bảo [Hồng Bảo], lũ giặc ấy trông thấy cho là không phải người thường, đem lòng kính mến, mưu dựng lên làm vua để mong giàu sang [!]. Các thân công là lũ Miên Định mật tâu xin trừ đi. Vua đem việc ấy bảo các quan đại thần xem lại, [các đại thần] xin y. Vua bảo rằng: “Lòng ta nếu không thể giãi tỏ với mọi người, [thì] còn có thể giãi tỏ với muôn đời, vì sự yêu ghét [hiện nay] đã thiên lệch, không thể bắt ép [mọi người] giống nhau được. Từ xưa [cũng đã] có nhiều việc như thế. Nhưng [ta] lòng tự hỏi lòng, không chút thẹn riêng. Trẫm từ trước đến nay, thương giấu [anh ruột là Hồng Bảo, cháu ruột là Ưng Đạo] cho nên trái với lời nói mọi người, để đến có việc ngày nay, thực là khổ tâm vô hạn! Nay không thể thôi được [việc] nghĩ đến xã tắc, không thể không theo lời các thân công và các quan đại thần. Làm ơn không đầy đủ, vẫn tự thấy thiếu, nhưng trừ kẻ ác cốt phải kì hết, nên quả quyết thì quả quyết, trẫm [thà] chịu tiếng hung ác, tàn nhẫn, mà trừ hết mầm ác, không để lo cho người sau. [Có thể] lũ tiểu nhân [nhân việc tận diệt,] có mượn cớ, [thì cứ] cho là [trẫm nhằm mục đích] để giữ kế lâu dài. Việc phải hay trái đã có công luận, không phải vua tôi ta có dụng tâm” (151) .

      Không thể không nhớ những câu tiếp theo trong bản dụ đó. Ấy là mức án: Gia đình Đinh Đạo (Ưng Đạo) gồm mẹ và các người vợ cùng bốn người con trai lẫn gái, tất thảy tám (8) người đều bị thắt cổ chết, để được toàn thây, lại được cấp cho quan quách, vải lụa để chôn (151)!

      Biện pháp ấy, chính vua Tự Đức cũng tự thừa nhận là chính đáng, nhưng bất đắc dĩ, và không phải không hung ác, tàn nhẫn:  “Nên quả quyết thì quả quyết, trẫm [thà] chịu tiếng hung ác, tàn nhẫn, mà trừ hết mầm ác, không để lo cho người sau. [Có thể] lũ tiểu nhân [nhân việc tận diệt,] có mượn cớ, [thì cứ] cho là [trẫm nhằm mục đích] để giữ kế lâu dài. Việc phải hay trái đã có công luận, không phải vua tôi ta có dụng tâm” (151) .

      Dẫu sao, ở một khía cạnh khác, sự thể còn là bi kịch tự trong bản chất của thể thức và chế độ truyền ngôi hoàng đế… Do đó, biện pháp hung ác, tàn nhẫn ấy phải được thẩm định xuyên qua lịch sử phong kiến hàng nghìn năm và trong điều kiện lịch sử – cụ thể của thời đoạn bấy giờ… Hầu hết các cuộc chính biến ấy đều có nguyên nhân trực tiếp là thực dân Pháp, cố đạo Pháp. Riêng ở cuộc khởi nghĩa “Chày Vôi”, thực dân Pháp, cố đạo Pháp cũng là nguyên nhân gián tiếp.

      Hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và Tôn nhân phủ lần này nhẹ tay hơn rất nhiều! Tất cả là để ổn định ngai vàng nhà Nguyễn, trước đây cho vua Kiến Phúc, lần này cho vua Hàm Nghi, tạo điều kiện cơ bản thuận lợi nhất cho công cuộc kháng chiến chống Pháp (Tân Sở với hệ thống sơn phòng, thượng đạo xuyên Trường Sơn – Việt Bắc, việc thúc đẩy thế trận “toạ sơn quan song hổ đấu”…) .

     

      18

 

       “Vì không thể cưỡng lại được, triều đình Huế phải kí các “hoà” ước Harmand [1883] và Patenôtre [1884]. Trong đó có một khoản giao cho Pháp khu Mang Cá [Trấn Bình đài]. Phe chủ chiến vẫn xem đây là một kế hoãn binh. Trong lúc còn hoà hoãn, Nam triều (trong tay phe chủ chiến) phải tích cực chuẩn bị kháng chiến và giữ bí mật tuyệt đối với Pháp, đặc biệt với giáo dân chung quanh giám mục Caspar.

      Thi hành “hoà” ước, Pháp cho trung uý Julienne đưa công binh chở xi măng, sắt thép đến xây lầu trong Mang Cá” (152) .

      Triều đình Huế vốn có một trong những điều cấm kị, đó là không cho phép bất kì ai có thể xây nhà cao hơn những lầu, gác trong kinh thành. Một lẽ nữa, nếu Pháp xây lầu, chúng sẽ rất dễ dàng quan sát những động tĩnh trong thành. Như vậy, những điểm bố phòng, trại lính sẽ khó thoát khỏi tầm mắt chúng. Không thể để cho quân Pháp phạm thượng, cũng không thể để chúng xây đài quan sát. Phụ chính Nguyễn văn Tường vốn là một người nổi tiếng về thông minh và rất mưu trí. Ông liền được sự đồng ý của triều thần, quyết đấu tranh buộc bọn Pháp phải nhân nhượng.

      Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường và những viên lính tuỳ tùng ra đến hiện trường xây cất. Ông nói với Julienne, nên triệt hạ, đình chỉ hẳn tất cả công việc xây dựng lầu cao, mà thực chất là xây đài quan sát của quân Pháp. Julienne cãi. Phụ chính Nguyễn Văn Tường đưa văn bản có mô tả khi bàn giao Mang Cá cho Pháp:

       “(Trấn Bình đài [được] làm ở ngoài cửa [thành, có tên là cửa] Trấn Bình. Thành cao một tầng, chu vi hai trăm bốn mươi sáu [246] trượng bảy [07] thước bốn [04] tấc [ta], tục gọi là thành Mang Cá)” (126) .

      Phụ chính Nguyễn Văn Tường nói:

      - Anh thấy chưa,  “thành cao một tầng” (126) , và chỉ một tầng mà thôi. Anh xem có ai trong kinh thành này xây cao như bản vẽ thiết kế của anh! Đó là tôi chưa giải thích cho anh hiểu thế nào là “nhượng thổ”. Vả lại, người phương Tây không hiểu thế nào, chứ người phương Đông có câu  “nhập gia tuỳ tục” ! Đấy là lịch sự phương Đông!

      - Thế thì tôi… xin quan phụ chính hãy chờ tôi quan hỏi quan khâm sứ Rheinart!

      Hôm sau, Rheinart gửi văn thư quan Nha Thương bạc, nhờ đệ chuyển lên Viện – Bạc. Được sự đồng ý, hôm sau nữa Rheinart qua Nha Thương bạc xin hội kiến với đại thần phụ chính Nguyễn Văn Tường.

      Rheinart trình bày và ngẫm nghĩ một lúc, định hỏi tại sao triều đình Đại Nam lại gây khó dễ trong việc xây cất ở nhượng thổ Mang Cá. Hẳn y không thể quên được năm y mới tới Huế, y đã lừa quan Thương bạc Nguyễn Văn Tường như thế nào tại Long Thọ Cương, để rồi được (và phải) xây Sứ quán tại địa điểm bây giờ! Trong bụng tên khâm sứ thực dân hạng nặng này rất ấm ức vụ triều đình, chủ yếu là hai phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, không chịu thuận theo ý y để tôn Hồng Hưu lên ngôi vua. Nhưng y cố nén lại sự tức giận mà có lần quan phụ chính nói cho y hiểu đó là cái tức giận của một tên ăn cướp, ăn trộm khi thấy quá khó trộm cướp mà thôi! Rheinart ôn tồn hỏi:

      - Thưa ngài phụ chính, tại sao việc xây dựng tại Mang Cá ấy lại khó khăn thế? Phải chăng quan phụ chính ngăn trở việc thi hành “hoà” ước?

      - “Ai ngăn trở việc thi hành “hoà” ước đâu?” (152).

      - Thưa quan phụ chính,  “vì sao ông lại ngăn không cho trúng uý Julienne xây cất doanh trại trong Mang Cá, khu nhượng địa của Nam triều đã kí dành cho Pháp?” (152) .

      Phụ chính Nguyễn Văn Tường chỉ mỉm cười, mặc cho Rheinart và Julienne càng lúc càng tức giận.

      - Tại sao quan phụ chính chỉ mỉm cười, lại không trả lời cho chúng tôi?

      - Tôi đã giải thích cho viên trung uý Julienne đây từ ngày hôm qua rồi! Hẳn anh ta đã nói lại với quan khâm sứ! Hôm nay thì cũng thế thôi! Tôi chỉ hỏi, ai nhìn trỏ (chỏ) mắt vào nhà các anh, các anh chắc không thích. Đấy là câu trả lời các anh tự tìm thấy ở trong đầu của các anh, sao lại hỏi tôi? – Quan phụ chính mỉm cười –. Phải không nào?

      Tên Julienne rút súng lục, y giấu đâu đó trong ngực áo. Nhìn khẩu súng lăm lăm chĩa vào quan phụ chính, mọi người đều sợ hãi. Các quan lính bên ta đều không ngờ tên trung uý này táo gan đến mức vi phạm luật ngoại giao!

      Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường vẫn mỉm cười, khoát tay bảo người lính cận vệ của ông đang đứng ngay trước mũi súng của Julienne, định đỡ đạn cho ông. Rheinart cảm thấy lúng túng, bèn bảo tên trung uý vứt ngay khẩu súng xuống đất, và xin lỗi quan phụ chính. Chính y, y bỗng giật mình, y cũng sợ không khéo lại trở thành cái bung xung, vật hi sinh cho luật pháp, tế Thần “Công lí” (!) của nước Pháp.

      Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường cũng vẫn mỉm cười. Ông điềm tĩnh nói:

      - Thế này, tôi chỉ nói lại một lần nữa thôi.  “Chúng tôi chỉ kí nhượng địa cho các ông, chứ không kí nhượng trời cho các ông. Các ông xây cất cao tầng, dân Nam ở chung quanh mở mắt ra đã thấy nhà các ông, nhân tâm sẽ không yên. Vì theo luật pháp nước tôi từ ngàn xưa, không ai được quyền xây cất nhà cửa cao hơn cung điện đài các của nhà vua trong Đại nội. Vì thế chúng tôi chỉ chống lại việc xây cất cao trái phép [đối với định lệ có tính chất luật pháp của] nước tôi. Và điều này không vi phạm gì đến các “hoà” ước!” (152) . Vả lại văn bản đây!

      Quan phụ chính bảo người tuỳ tùng mở ra cuộn giấy. Ông chỉ vào biên bản bàn giao:  “(Trấn Bình đài [được] làm ở ngoài cửa [thành, có tên là cửa] Trấn Bình. Thành cao một tầng, chu vi hai trăm bốn mươi sáu [246] trượng bảy [07] thước bốn [04] tấc [ta], tục gọi là thành Mang Cá)” .

      - Tôi cũng chỉ nhắc lại: Người phương Tây không hiểu thế nào, chứ người phương Đông có câu  “nhập gia tuỳ tục” ! Đấy là lịch sự phương Đông! Ai nhòm ngó mãi vào nhà mình, vườn tược mình, hẳn các ông cũng rất khó chịu! Thế mà… – Quan phụ chính vẫn mỉm cười, nói tiếp –. Hôm nay, các anh lại chứng tỏ văn minh người Pháp là chĩa súng vào người khác khi chuyện trò như thế, nhất là đối với một đại thần! Thế là văn minh sao?

      Cả Rheinart lẫn Julienne cảm thấy nhục nhã đến muốn trào nước mắt, cứng cả cuống họng. Bọn chúng kéo nhau xuống thuyền, sang bên kia sông Hương.

      Đến bờ bên kia, Rheinart mới có thể nói được:

      -  “Bọn chủ chiến trong Nam triều không sợ súng!” (152) .

      Một tên khác có vẻ trí thức hơn, tự nguyền rủa:

      - Nền văn minh nước Pháp chúng ta ở đâu? Sao lại dạy dỗ chúng ta kém cỏi và thảo khấu đến thế? Ôi, nền văn minh thảo khấu và  “ngoại giao đại bác” (153) !

 

      19

 

      Tháng chín nguyệt lịch Giáp thân (1884),  “khâm sứ Pháp đóng ở kinh là Lê Na (Rheinart) gửi thư nói: “Nước ấy và nước Thanh giảng hoà ở Yên Kinh, [nhờ] nước Nga đứng ra điều đình”” (154) . Đó là giai đoạn thoả thuận lại hiệp ước Lý Hồng Chương – Fournier (mười tám tháng tư nguyệt lịch, Giáp thân [17.05.1884]), sau năm tháng được kí kết và cả Pháp lẫn Hoa đều vi phạm. Tất nhiên triều đình cũng đã biết, nhưng lại một lần nữa có dịp phối kiểm tin tức.

       “Thư ấy [của Rheinart] do Viện – Bạc tâu lên [nhà vua]” (154) .

      Ngay sau khi Rheinart thông tư tin ấy cho Viện – Bạc với dụng ý răn đe, y cũng nhận quyết định triệu hồi về Pháp.

       “Khâm sứ mới của Pháp đóng ở kinh kiêm chức toàn quyền đại thần Bắc Kì là Lô Mi Ơ (một tên [gọi cách khác] là Lý Mai [Lemaire]) đến thay. Sứ cũ là Lê Na [Rheinart] về nước” (154) .

      Viên quan văn Lemaire đang giữ quyền trước đây của tên y sĩ nguyên lãnh sự Harmand, của hai viên tướng quân đội giặc Courbet, Millot.

      Lemaire được chuẩn cho vào triều yết kiến vua Hàm Nghi. Đoàn lính hộ tống và tuỳ tùng của y lên đến con số một trăm bảy mươi tên. Dẫu sao, Lemaire vẫn là một viên quan văn Pháp khá ôn hoà. Bọn thực dân chóp bu ở Paris đưa Lemaire sang làm khâm sứ tại Huế sau cuộc biến động do Rheinart, Guerrier gây ra là có dụng ý. Thực dân Pháp biết khó lòng làm sức ép để đưa Hồng Hưu lên ngai vàng, chúng lại đang sa lầy tại Đài Loan và bị giam quân tại Trường Giang bên Trung Hoa, do đó, chúng cần phải tạo không khí hoà hoãn tại Huế.

      Cuộc triều yết ấy vẫn bình thường như dưới triều Tự Đức.

      Hai phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và triều thần vẫn phải thực thi những công việc cấp bách và thiết thực sau khi tâu lên vua Hàm Nghi.

      Bấy giờ, tháng chín nguyệt lịch, ân khoa thi hương văn khoa tại hai trường thi Hà Nội, Nam Định phải tổ chức chung tại trường thi Thanh Hoá. Danh sách sĩ tử đến hơn ba nghìn (3.000) người.  “Kì thi đã định, [nhưng] rồi đốc thần tỉnh Nam Định là Phan Đình Bình cho rằng công sứ Pháp không cho học trò vào Thanh thi, đón đường cản về. Ở giữa đường, có người bị lính Pháp bức bách bắt làm công việc sai dịch” (156) ! Cuối cùng chỉ khoảng hai nghìn (2.000) sĩ tử được dự thi. Một số lớn lo sợ quay lui hoặc hết sạch tiền gạo mang theo, lại bị làm sai dịch. Do đó, triều đình có ban dụ cho sĩ tử vay tiền gạo nếu bị thiếu hụt (156)…

      Bọn Pháp thật hết sức lộng hành!

      Ngay kinh đô Huế, chúng cũng đang tìm thời cơ để tấn công, chiếm đóng!

      Về phòng thủ và chuẩn bị hậu lộ cho kinh đô, nhất là đình thần, nội cung, trường thi hương Thừa Thiên vốn ở gần và phía bên trái chùa Linh Mụ, tại xã An Ninh, huyện Hương Trà, nay được dời về địa phận hai xã La Chử, An Lưu cũng thuộc huyện đó (157). Trường thi Thừa Thiên ở địa điểm mới được xem như là nơi triều đình, nội cung sẽ nghỉ chân hoặc đóng tạm khi kinh thành có biến, và tuỳ theo mức độ tình hình (sự tấn công của giặc Pháp, kết quả phản công của quân ta) để từ trường thi ấy mà quyết định ra Tân Sở hay không.

      Và về việc sinh sống, hồi cư của dân hai tỉnh Sơn Tây, Bắc Ninh, sau khi chiến trận bùng nổ ở đấy đã lắng xuống, một bản dụ đã được ban bố. Trong đó, nhấn mạnh đến sự ổn định lại cuộc sống, không bỏ ruộng hoang (158). Hai tỉnh Hưng Yên, Hải Dương cũng có lệnh dụ cho đổi lúa mùa, cấy lúa chiêm sau một số vụ cấy ở các chân ruộng thí điểm (159).

      Mùa đông, tháng mười nguyệt lịch Giáp thân lại đến (1884)!

      Mặc dù vấn đề tiền giả (tiền sềnh, tiền đồng di dạng) vốn tạm lắng xuống nay lại nổi lên, phải tức thời giải quyết, nhưng vấn đề cấp bách phải tiến hành nhanh và mạnh là xây dựng, củng cố để hoàn chỉnh sơn phòng, nha doanh điền (cũng là một dạng  “ngụ binh ư nông” , đặt việc binh trong việc nông tang).

      Lần này, khởi phục cho Nguyễn Chính (Chánh), nguyên thái tử thái bảo, thượng thư Bộ Lại, kinh lược sứ Bắc Kì phạm lỗi hèn nhát, đã sửa lỗi, được sung Sơn phòng sứ Hà Tĩnh với hàm hồng lô tự khanh (160). Vì biết Nguyễn Chính tuy đã từng là quan đại thần nhưng hèn nhát, nên bên cạnh ông ta, phải có nhiều viên quan tâm huyết, nhiệt thành, kiên cường. Đồng thời, di dời và xây dựng củng cố Nha Doanh điền Quảng Bình.

 

        “ĐẮP THÊM PHÒNG SƠN PHÒNG Ở HÀ TĨNH” (161):

 

      “Nguyên trước Phòng ấy ở huyện Hương Khê, trong tiếp với Quảng Bình, Quảng Trị, ngoài thông với Thanh Hoá, Nghệ An. Thượng du lại tiếp với Xiêm La. Nhưng lúc buổi đầu đóng giữ ở đấy chỉ phái có ba trăm (300) người. Tự Nguyễn Chính sung làm chánh sứ và bọn phó sứ là Phan Trọng Mưu, tham biện là Phan Đình Phùng, trù tính xin làm, đã tư Viện thần [:đại thần Viện Cơ mật Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết] chước định:

      Xây đắp thành luỹ, công đường, tư thất và các nơi kì đài, pháo đài; phái vệ binh tám trăm ba mươi (830) người, chia ban đóng giữ; đặt súng gang, súng lớn hai mươi (20) cỗ, súng vượt núi [:quá sơn] năm mươi (50) cỗ. Phái quân Thần cơ hai (2) đội, đổi phiên nhau phụ đóng giúp việc. Lại mộ lính Mán, tên nỏ thuốc độc, để đủ sai khiến. Phàm việc đều do phòng thần chuyên làm; như có việc quân hay việc gì khẩn yếu, cho tỉnh thần họp bàn. Đổi đặt Nha Phó sứ ở Đồng Chi, huyện Hương Sơn, vì nơi [ấy] địa thế bằng phẳng đủ giúp cho sự bền vững. Mở hai con đường ở trên: phía nam thông với sách Thanh Lãng đến Sơn phòng Quảng Bình, phía bắc thông với huyện Thanh Chương, đến Sơn phòng Nghệ An” (161).

 

      “DỜI ĐẶT NHA DOANH ĐIỀN QUẢNG BÌNH” (162):

 

      “Nha này ở trang Thanh Lăng, huyện Bố Trạch, phần nhiều thuộc về nhiều trùng núi, không có thung lũng gì. Từ Trần Văn Chuẩn sung làm sứ Nha ấy, sai khám vẽ đồ, xin dời về huyện Phong Niên (nguyên cũ là Phong Đăng, [vì] kiêng tên huý, phải đổi]), [tại] địa phận xã Vạn Xuân, đã do Viện thần [:đại thần Viện Cơ mật Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết] tâu, chuẩn y cho làm:

      Dựng dinh thự, đắp luỹ đất, đặt pháo đài, đặt tham tá lại dịch, khuyên quyên tiền sung việc chi tiêu, như lệ ở các sơn phòng; mở hai con đường phía trên: phía nam thông với sông Tất đến Quảng Trị, bắc thông cửa Bái Đức đến Hà Tĩnh” (162) .

 

      Như vậy, từ Dương Hoà (Quảng Nam) đến Tân Sở (Quảng Trị), từ Tân Sở (Quảng Trị) đến Vạn Xuân (Quảng Bình), Đồng Chi và Hương Khê (Hà Tĩnh)… là một hệ thống sơn phòng liên hoàn với thượng đạo xuyên Trường Sơn suốt cả thượng du Trung Kì, thông qua Xiêm La, và nối liền với hệ thống sơn phòng ở thượng du Bắc Kì, thông qua Trung Hoa. Đó là chưa kể Sơn phòng Lão Thuộc (Quảng Ngãi – Bình Định), do lão tướng Đinh Hội phụ trách. Ngoài ra, còn  “đặt thành [luỹ], cắm chông ở hai huyện Cam Môn, Cam Cát thuộc về Hà Tĩnh (dùng thổ huyện thừa biện lí, phòng [chống] thổ phỉ)” (163) .

      Hai phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết đồng tâm, nhất trí hạ quyết tâm, xem việc xây dựng hệ thống sơn phòng, thượng đạo là nhiệm vụ trọng tâm, cơ bản nhất. Phan Đình Phùng, trước đây, trong vụ truất phế Dục Đức (Ưng Chân), đã phản biện việc đó nhưng không hiểu rõ sự thật về Dục Đức, nên ông bị cách chức, được giữ nguyên học vị tiến sĩ, về quê. Nay chính Phan Đình Phùng là người hưởng ứng tích cực nhất, ủng hộ hai quan phụ chính với sự thấu hiểu sâu sắc nhất.

      Phụ chính Nguyễn Văn Tường hết sức nhiệt thành bổ sung kế hoạch, thúc đẩy thực thi kế hoạch từ những năm còn là tri huyện, khâm phái bang biện ông đã bước đầu bắt tay vào thực hiện, kể cả những năm sau khi kí kết xong “hoà” tước Giáp tuất 1874 (vào tháng mười hai năm Tự Đức thứ mười chín, Bính dần [1866, đầu năm 1867], tháng mười năm Tự Đức thứ hai mươi tám, Ất hợi [1875]…):

       “Xin ở Tây Sơn tỉnh Bình Định và Trấn Ninh tỉnh Nghệ An, mở con đường ở thượng du thông đến Cam Lộ, để [trong việc] chống giữ, [giúp đỡ] lẫn nhau” (164).

      “Đặt Nha Kinh lí Sơn phòng tỉnh Quảng Trị, (văn vũ chánh phó sứ mỗi chức một người), lấy hai huyện Thành Hoá, Hướng Hóa lệ thuộc vào, theo lời xin của Nguyễn Văn Tường:

        ([Thượng thư Nguyễn Văn] Tường cho là đồn Trấn Lao, huyện Thành Hóa, giáp giới với Long Giang, đất tốt lợi nhiều, có thế khống chế. Trước [đây ông đã] vâng mệnh kinh lí nhưng không chuyên trách, sau không thành công. Xin châm chước công việc sơn phòng ở Sơn Tây,  đặt sơn phòng để được thực tế)” (165) .

 

      20

 

      Vấn đề tiền giả (tiền sềnh, tiền đồng dị dạng) từ tháng tư năm Tự Đức thứ hai mươi ba, Tân mùi (1871), đã là một quốc nạn. Tám, chín năm sau đó (1879 – 1881) thực sự là một quốc nạn nhức nhối. Đến lúc này, quốc nạn tiền giả (tiền sềnh, tiền đồng dị dạng) ấy lại nổi lên đến mức trầm trọng!

      Khoảng đầu hạ tuần tháng chín, Giáp thân (1884), vẫn còn niên hiệu Kiến Phúc (nguyên niên), biện pháp mạnh được chuẩn y.

       “Người lái buôn nhà Thanh là Lý Thành Long chở ngầm tiền đồng kiểu khác đưa vào vụng biển An Vĩnh, [thuộc] Quảng Ngãi. ([Y] thuê tàu thuỷ Địa Lỵ A chở hai mươi (20) bao, bao chứa trong thùng). Việc ấy phát ra, [Lý Thành Long bị Bộ Hình] kết án phạt trượng và phát lưu [đày]. Bộ Hộ [Phạm Thận Duật] đổi xin trảm quyết. Phụ chính [Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết] duyệt lại, xin y [như lời xin của Bộ Hộ]. [Vua] chuẩn cho chính pháp ngay [:thi hành đúng mức án lập tức], [đồng thời] thông lục cho các địa phương, có nơi nào như thế, cũng tuân [theo án chém tức khắc] làm một lượt.

      Rồi thì phố Gia Hội [ở Huế], phố Đô Hạ có hiệu buôn của bọn La Đậu, Phan Vu Hán và Phù Định Tam (là người buôn nhà Thanh) dùng tiền đồng kiểu khác, ngầm tính mua bán với nhau. [Chúng] cũng bị kết án chém ngay (La Đậu, Phan Vu Hán), trảm giam hậu (Phù Định Tam), có sai [biệt về] bậc [án]” (166) .

      Đó là một biện pháp cực mạnh nhắm đến bọn đầu sỏ phạm pháp. Nhưng đối với nhân dân, bao người đã lỡ cất giữ, tiêu dùng thứ tiền đồng giả ấy? Những năm trước, thời đoạn đại thần Nguyễn Văn Tường còn làm thượng thư Bộ Hộ, đã có nhiều biện pháp giải quyết, nhưng quốc nạn ấy chỉ giảm bớt một thời gian, rồi gần đây và đến lúc này, lại không đơn giản. Thật ra, những năm từ khi Pháp bắt đầu xâm lược Bắc Kì lần thứ hai (1882 – 1884), quốc nạn ấy vẫn như một căn bệnh kinh tế – tài chính trầm kha mà ngấm ngầm!

       “Khi ấy các tỉnh Thừa Thiên, Phú An [:Yên], Bình Định, Quảng Trị, có số tiền đồng kiểu khác, hai, ba năm nay lưu bá [:lưu hành rộng khắp] số nhiều” !

      Do đó, biện pháp thứ nhất: đổi cấp (khuyến khích dân đem tiền dị dạng đến kho bạc Nhà nước để đổi tiền thật theo giá ấn định). Biện pháp này không thể chu toàn được (167)! Biện pháp thứ hai: định mệnh giá thấp (có phân loại tiền); loại bỏ thứ tiền kĩ thuật đúc xấu và chất lượng đồng quá kém, tố giác với quan chức những ai tiêu dùng loại tiền xấu, kém ấy (167). Đi đôi với hai biện pháp ấy là nghiêm cấm (trọng cấm) và án chém lập tức được thi hành với những tên đầu sỏ nhập lậu, buôn tiền giả, rút tiền đồng thật của nước ta ra nước ngoài (như đối với bọn Lý Thành Long, bọn La Đậu, Phan Vu Hán) (167).

      Biện pháp đối với vàng bạc cũng được ban hành (168). Đó là quy định mức giá vàng  ở mức cao hơn giá thị trường lâu nay (mức giá tuỳ theo loại tuổi vàng). Bởi lẽ, do quốc nạn tiền giả, nên mệnh giá tiền lại đắt hơn mức giá vàng bạc, tính theo tỉ lệ và giá thị trường chung trước đây trong khu vực, gồm các lân bang châu Á Tế Á.

      Kết quả của biện pháp ấy như thế nào?

       “Khi ấy lệnh định giá vàng bạc sức [:ban hành] xuống [dân gian], bọn vô lại [:bọn xấu] và hiểu sự [:người hiểu biết sự lí] ở chợ phố phần nhiều cứ đi nhòm [:thám thính] những người đòi ăn của đút, hay cáo phát quan lại. Lại nhân đó, sinh ra rối việc. Chợ búa vì đó mà không được yên. [Thế] rồi dân gian mua bán, sau cũng tuỳ thời, thuận tình [:thuận theo tình trạng chung của thị trường] như cũ.

      Lệnh ấy trọn [:hoàn toàn] không thi hành được” (168) .

      Tháng mười như thế, đến tháng mười một, phải thực thi một biện pháp khác:  “Mở cục đúc tiền ở Nha Đốc công, kho Vũ khố” (169) với thợ làm khuôn ở Hà Nội được điều động vào (169). Tháng mười hai nguyệt lịch, “chuẩn đặt ti đúc tiền ở hai tỉnh Thanh Hoá, Bình Định” (170) .

      Đến tháng giêng, năm mới, bắt đầu lấy niên hiệu Hàm Nghi (nguyên niên), Ất dậu (1885), Vũ Trọng Bình vốn là một vị quan thanh liêm, khắp cả nước, trong triều ngoài tỉnh, lâu nay đã biết danh, liền được hai phụ chính và đình thần tâu xin  “khởi phục cho nguyên hàm tổng đốc hưu trí là Vũ Trọng Bình làm Hộ bộ thượng thư sung Cơ mật viện đại thần, thự hiệp biện đại học sĩ lãnh Hộ bộ thượng thư là Phạm Thận Duật đổi lãnh Hình bộ thượng thư” (171) . Còn thượng thự Bộ Hình Đặng Đức Địch được chuyển qua lãnh đạo Bộ Lễ. Nhưng bọn thực dân Pháp, cụ thể là tên Lemaire, không đồng ý! Thật là trịch thượng một cách xấc xược, bởi hai chữ  “bảo hộ”  hoặc  “bảo trợ”  áp đặt! Nhưng tên Lemaire này lại biết cách nói mát!

       “Tự khi sứ Pháp [Lemaire] cho [rằng], [Vũ] Trọng Bình nguyên tổng lí Nam Định cùng với quân Pháp giao binh, [nên Lemaire] sinh ra có ý nghi phòng, [y] gửi thư nói: “Quý quốc vâng mệnh kén dùng thượng thư sáu bộ, không [thông] tư cho [Sứ quán Pháp] biết, đó là ý không [thừa] nhận nước Pháp bảo trợ”. [Vũ] Trọng Bình lại nhân đó dâng sớ từ chối, rồi lại về hưu trí. [Vua lại] chuẩn cho Phạm Thận Duật lại điệu bổ lãnh Hộ bộ thượng thư” (171) (Nguyễn Thành Ý chuyển làm tả tham tri Bộ Hình, hội đồng bàn định công tác và quyền giữ khuôn dấu của bộ (171)) .

      Vũ Trọng Bình vốn rất ủng hộ Nguyễn Văn Tường. Không những là vị quan thanh liêm nổi tiếng, ông lại nhiệt thành với kế hoạch xây dựng, củng cố hệ thống sơn phòng, thượng đạo, chấn chỉnh lực lượng quân binh. Do đó, lần này, để đề phòng bọn giặc miệng tấn công, hai phụ chính và đình thần, được vua Hàm Nghi chuẩn y, đã triệu ông về kinh đảm nhiệm công tác lãnh đạo Bộ Hộ trước tình hình quốc nạn tiền giả (tiền sềnh, tiền đồng dị dạng) lại nổi cộm lên. Nhưng, tất nhiên, bọn Pháp liền ngăn trở biện pháp đối phó của hai phụ chính, đình thần, trước nguy cơ giặc miệng của bọn xấu, thân Pháp (“tả đạo”, chủ “hoà”…).

      Trong thực tế, rõ ràng  “bọn vô lại [:bọn xấu] và hiểu sự [:người hiểu biết sự lí] ở chợ phố phần nhiều cứ đi nhòm [:thám thính] những người đòi ăn của đút, hay cáo phát quan lại. Lại nhân đó, sinh ra rối việc” (168) . Bọn giặc miệng đã tấn công vào các quan chức trực tiếp thi hành lệnh định giá vàng bạc! Và về sau, các cố đạo thực dân người Pháp, sử gia dưới ách bạo quyền của thực dân (Delvaux, Trần Trọng Kim (172)…) lại xuyên tạc, bôi nhọ hai phụ chính (thượng thư Bộ Lại Nguyễn Văn Tường, thượng thư Bộ Binh Tôn Thất Thuyết) là hai vị đã tung ra thị trường tiền giả (tiền sềnh, tiền đồng dị dạng) (172). Sự tấn công ấy của bọn giặc miệng vẫn tập trung nhất vào phụ chính Nguyễn Văn Tường! Có người lương thiện hơn, cho rằng hai phụ chính đã tung tiền giả để mua lậu vũ khí chống Pháp! Cố nhiên điều ấy cũng sai sự thật. Mua vũ khí là điều tất nhiên, nhưng tung tiền giả ra thị trường lại thất sách. Không thể có chuyện tung tiền giả! Và ngoài ra, trong những tên giặc miệng “hiểu sự” [(dấu hỏi) :hiểu biết sự lí  /  (dấu sắc): hiếu sự : thích gây chuyện] viết đơn trương vu khống để gây rối, cũng có nhiều kẻ sĩ hiểu biết sự lí đã vô tư khách quan đấu tranh với bọn tham quan ô lại “đục nước béo cò”, bọn quan lại mặc kệ vận nước mệnh dân. Tình hình tiền giả (tiền sềnh, tiền đồng dị dạng) không thể nhanh chóng ổn định theo hướng tích cực, lành mạnh, đúng đắn, của những người có tri thức và tâm huyết, để giữ vững quyền tự chủ kinh tế – tài chính (tiền tệ) của Đất nước.

      Tuy tìm đủ mọi biện pháp, nhưng tình hình vẫn không khả quan là mấy. Hầu như diễn biến quốc nạn này lại gần như trước đây sáu, bảy năm. Biện pháp vào tháng mười một (Phạm Thận Duật vẫn là thượng thư Bộ Hộ): hạ mệnh giá loại tiền giả (tiền sềnh, tiền đồng dị dạng) đến mức rất thấp. “Chuẩn định cho tiền đồng kiểu mới khác [là] một đồng ăn hai đồng tiền kẽm; cho được tiêu dùng” (173) . Thủ phạm vẫn là bọn  “người buôn nhà Thanh” (173) . Đợt này, chúng lại nhập vào nước ta loại tiền nhỏ hơn, xấu và kém hơn rất nhiều,  “đã do Bộ thần [Phạm Thận Duật] tâu [xin] chuẩn kén bỏ không dùng” (173) . Nhưng  “sau vì phủ Thừa Thiên và các hạt phía nam, lưu bá tiền ấy đã nhiều, nếu hết thảy lựa bỏ, thì dân nghèo không được tiện lợi” (173) , nên phải chuẩn như trên! Chẳng khác gì hồi tháng mười một, năm Tự Đức thứ ba mươi mốt, Mậu dần (1878), Hoàng Diệu, Lâm Hoành, Đàm Khắc Nhượng, Đoàn Dao tâu xin bỏ cấm để đánh thuế loại tiền giả (tiền sềnh, tiền đồng dị dạng) ấy!

      Đó là lệnh chuẩn vào tháng giêng, năm Hàm Nghi thứ nhất, Ất dậu (1885).

      Tháng hai, sau đó một tháng, tiền lại khan hiếm, vật giá vọt cao lên. Hai quan phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và thượng thư Bộ Hộ Phạm Thận Duật lại phải họp để nhận định tình hình và đề ra biện pháp mới. Nguyên nhân tình trạng khan hiếm tiền trên thị trường, đẩy vật giá cao vọt lên là do  “phần nhiều các nhà giàu hay chứa để [:cất] tiền đồng, tiền kẽm” (174), “tiền của không lưu thông” (174) ! Biện pháp ban hành với nội dung quy định số lượng tiền đồng, tiền kẽm được cất chứa; ai bất tuân sẽ bị phạt; quan chức địa phương thu tiền vào, đổi cấp bằng bạc (hình dạng đồng, nén, đĩnh, gọi là bạc tiền tệ [:kim loại bạc ở dạng tiền tệ]) (174). Nhưng trong thực tế, chẳng mấy ai đem tiền kẽm đổi bạc tiền tệ ở kho Nhà nước (174)! Bởi lẽ, trong thực tế, số lượng tiền tệ trở nên khan hiếm.

      Ở Thanh Hoá (tỉnh đệm, tỉnh “bản lề”) và Bắc Kì trước nay chưa lưu hành tiền đồng, mà chỉ chuyên dùng tiền kẽm, nên không có quốc nạn ấy. Có chăng, cũng rất nhẹ. Đây là một quốc nạn chủ yếu xảy ra ở các tỉnh từ Bình Thuận trở ra, Nghệ An trở vào (175). Đến tháng tư nguyệt lịch, năm Hàm Nghi thứ nhất, Ất dậu (1885), do thông tư tham khảo từ Bộ Hộ đã gửi về các tỉnh ấy trước đó, những phản hồi từ các tỉnh có lưu hành tiền đồng lại đệ gửi về triều. Nhờ đó, thấy rõ sự bất đồng ý kiến trong tỉnh thần, đình thần.

      Cơ mật viện (ba đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, Phạm Thận Duật) lại phải xác định các dữ kiện (175):

 

+++ 1. Nguyên lí tiền tệ xác định mệnh giá đồng tiền (mệnh giá = giá vật liệu kim loại + công thợ + nhiên liệu + khấu hao công cụ sản xuất…) trong thực tế thị trường lại vận hành theo luật cung – cầu! Tiền đồng thật khan hiếm, nên mệnh giá lại rất đắt so với giá thành sản xuất.

+++ 2. Không thể đơn thuần dùng mệnh lệnh hành chính và biện pháp hình luật trong thị trường, mà phải kết hợp với biện pháp kinh tế – tiền tệ, đồng thời phải chú ý đến điều kiện, bối cảnh cụ thể.

+++ 3. Tiểu dân (dân thường) rất dễ bị mê hoặc, mà lập ra, duy trì pháp luật lại rất cần ở dân thường. Điều khó cho dân là “tiền lạ” (tiền giả, tiền sềnh, tiền đồng dị dạng) có hai loại không phân biệt được (loại ăn hai đồng tiền kẽm, loại ăn bốn đồng tiền kẽm).

+++ 4. Dẫu sao, nhân dân vẫn phân biệt được tiền nước ta (tiền thật) với “tiền lạ” (tiền giả, tiền sềnh, tiền đồng dị dạng, nói chung cả hai loại “tiền lạ”).

+++ 5. Không thể đủ khả năng để thu lại “tiền lạ” ấy (tiền giả, tiền sềnh, tiền đồng dị dạng) mà đem đúc lại thành tiền thật nước ta.

+++ 6. Do đó, để giản đơn hoá tiền tệ cho dân đỡ nhầm lẫn, rắc rối, chỉ còn cách quy ra hai loại, không kể đến mệnh giá trước đây quy định tuỳ theo kích cỡ lớn nhỏ, hoa văn khác nhau: một loại là tiền thật (mệnh giá nhất loạt sáu đồng), một loại là “tiền lạ” (mệnh giá nhất loạt ba đồng).

 

       ““Nay xin tiền đồng của nước ta, không câu nệ ở hạng nào, đều xin cho ăn giá sáu (6) đồng; còn dư các hạng tiền kiểu khác cũng không kể lớn nhỏ, dày mỏng, mới cũ đều theo nhất luật ăn giá ba (3) đồng. Duy đồng nào xỏ không được [không có lỗ] thì đều đổi bỏ. Như thế thì tiền trong nước và ngoài nước có phân biệt, năng nhẹ có thích quân, [nên] dân gian dễ [có] điều kiện nhận dấu, buôn bán vừa được lưu thông.

      Từ nay [trở] đi, y thế mà làm, quyết không thay đổi, không để ngờ hoặc nữa.

      Đến như tổng lí bang trưởng [người Hoa kiều] không hay [:luôn] kiểm xét tiền nước ngoài chở đến, [thì] xin từ nay cùng với tấn thủ [:quan viên, lính canh gác cửa khẩu ở biển] cùng Khoa [đạo] định phạt, để chính việc buôn gian”.

      [Vua] đều chuẩn đấy làm lệ [định]” (175) .

 

      Nguyên nhân nào gây ra quốc nạn tiền giả (tiền sềnh, tiền đồng dị dạng) này? Từ những năm trước, Viện – Bạc đã xác định: trực tiếp là bọn con buôn bất hảo người Thanh (nên đã gửi văn thư cho lãnh sự Anh ở Hương Cảng can thiệp), Pháp bao che và thậm chí khích lệ, chứa chấp cho bọn gian thương ấy (Gia Định là chỗ cất trữ, có thể cũng là nơi sản xuất tiền giả). Phải chăng Ngân hàng Đông dương Pháp đã sử dụng thủ đoạn thâm độc này để gây bất ổn thị trường hậu phương nước ta, nhằm tấn công quân sự và để áp đặt loại  “đồng bạc con cò”, “đồng bạc hoa xoè”  (tiền bằng kim loại bạc của Mễ Tây Cơ [piastre Mexicaine] (176)) và đồng bạc do Ngân hàng Đông dương của bọn tư sản tài chính Pháp phát hành? Không phải là tình cờ, tuỳ hứng mà bọn Pháp lại áp đặt Điều khoản XXVII  ở “hoà” ước thực chất là hàng ước Quý mùi 1883:     

        “… Đồng bạc Mễ Tây Cơ (Mexique) và các tiền tệ bằng bạc của xứ Nam Kì thuộc Pháp sẽ cùng với các tiền tệ của nước Nam đồng thời cưỡng bách lưu hành trên khắp vương quốc” .

      Nội dung này của điều khoản hai mươi bảy (XXVII) ấy tuy không hoàn toàn bị bãi bỏ trong “hoà” ước Giáp thân 1884, nhưng  “để bàn định sau” , do sự đấu tranh của các vị đại thần Nguyễn Văn Tường, Phạm Thận Duật, Tôn Thất Phan.

      Đối với quan đệ nhị phụ chính Tôn Thất Thuyết, đến lúc này ông càng thấm thía sự thâm độc của bọn tư sản tài chính – ngân hàng Pháp và bọn con buôn tiền giả người Hoa nhà Thanh, và hơn lúc nào hết, ông hiểu được sự trong sáng, dũng cảm, bình tĩnh đạt đến bậc nho tướng, sự mẫn tuệ đạt đến bậc đại trí của vị đệ nhất phụ chính Nguyễn Văn Tường. Ông hối hận biết bao vì tật  “nóng nảy, nói càn”  và sự  “ít học”  của mình, nhất là đã mắc mưu bọn giặc miệng thân Pháp, “tả đạo” hồi mấy năm trước (177)!

 

      21

 

      Tháng mười một Giáp thân (1884), Pháp lại bàn định với triều đình để bố trí tuần phủ các tỉnh Thái Nguyên, Ninh Bình, Quảng Yên. Những viên quan được giữ chức đầu tỉnh ấy đã từng là quan triều đình lâu năm (cả ba đều đương chức bố chính sứ sở tại) (178). Có một trường hợp, thự bố chánh sứ Quảng Yên Vũ Hữu Ngọc sau một thời gian quyền sung tuần phủ tỉnh ấy, lại cáo bệnh (178)!

      Pháp lại tiếp tục lấn bức triều đình về lĩnh vực khác. Đó là khai mỏ khoáng sản!

       “Thượng thư Bộ Hộ là Phạm Thận Duật sung toàn quyền khâm sứ, thự Binh bộ hữu tham tri là Hoàng Hữu Thường làm phó, hội đồng với Pháp toàn quyền khâm sứ là Lô Mi Ơ [Lemaire] bàn định thuế lệ về việc khai mỏ, chiểu theo “hoà” ước [Giáp thân 1884], khoản mười một (XI) [và khoản XVIII ?]. Lần ấy khâm sứ bàn định điều khoản công việc, phần nhiều không được ổn thoả. Đã hai, ba lần [thông] tư đi [thông] tư lại, bàn bạc [vẫn] chưa xong. Rồi việc cũng thôi” (179) .

      Pháp cố lấn bức triều đình, nhưng triều đình với sự lãnh đạo, cố vấn của hai quan phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, chúng không dễ dàng áp đặt ý muốn tham lam không đáy của chúng. Cho đến mãi về sau, dưới ngụy triều Đồng Khánh và với tên tay sai xu thời Nguyễn Hữu Độ, sự  “chấp hành, tuân theo” (?!) của Nguyễn Thuật, thực dân Pháp mới kí kết được điều ước về khai khoáng này (180)!

      Về việc khai thác các mỏ khoáng sản, chỉ có một lần chúng ép được triều đình kí kết hợp đồng khai thác mỏ than Hòn Gai – Hà Lầm trong thời hạn một trăm năm (kể từ ngày kí là mùng sáu tháng bảy Giáp thân [27.08.1884] – 1984). Văn tự hợp đồng gồm mười điều khoản, có bốn chữ kí và ấn triện của Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, Phạm Thận Duật và Hồng Hưu. Bên cạnh đó là chữ kí của Rheinart. Phía Pháp trao cho phía Đại Nam một khoản tiền là bốn chục nghìn (40.000) đồng bạc Mễ Tây Cơ [piastre Mexicaine] (181)!

      Thật ra, Hòn Gai đã bị Henry Rivière chiếm đóng từ hai năm trước (12.03.1883). Bấy giờ, hai phụ chính muốn nhờ tay Lý Hồng Chương, quân Thanh chiếm lại theo thế trận “toạ sơn quan song hổ đấu” (182) !

      Dẫu sao, đó cũng là một sự cưỡng bức “hợp đồng”!

      Vụ cưỡng bức kí “hợp đồng” khai thác mỏ than Hòn Gai – Hà Lầm này xảy ra vào thời điểm ngay sau khi vua Kiến Phúc mất, vua Hàm Nghi lên ngôi, và tàu thuyền, quân binh do Guerrier kéo vào Huế làm sức ép.

      Tại Bắc Kì, một toán giặc trốn của nước Thanh (những kẻ phạm pháp bên Tàu trốn sang nước ta) lại nổi máu “hiệp sĩ hảo hớn giang hồ”, từ rừng Đông Triều kéo ra tấn công một đồn của Pháp (183). Quân Pháp phải rút. Toán “giang hồ” ấy cũng bỏ đi. Bọn Pháp ngờ bang biện Đông Triều với những “hảo hớn” ấy đã liên hệ với nhau trước. Ông liền bị Pháp giết (183). Bọn Pháp lại nhặt được một bức thư, nội dung ghi rõ là tổng đốc Hải [Dương] – [Quảng] Yên Hà Văn Quan [bí] mật [thông] tư  cho tuần phủ Lạng Sơn để yêu cầu quân Thanh chi viện đánh Pháp (183). Chúng liền bắt Hà Văn Quan vào thành giam giữ. Đến khi xét khuôn dấu kiềm ở thư, so với khuôn dấu kiềm thật, biết là thư giả (183), bọn Pháp mới thả quan họ Hà về (183). Khi Hà Văn Quan cùng Đào Quý đi Hà Nội để trình bày lại vụ việc cho thống lĩnh Pháp Brière de L’Isle, lúc ngang qua Bắc Ninh, Hà Văn Quan lại bị quân người Hoa nước Thanh, không rõ là thổ phỉ, giặc trốn hay quân triều đình nhà Thanh, bắt đi, lại thả về! Hà Văn Quan tâu về triều đình:  “Trước bị quân Pháp bắt giữ, sau vì bọn giặc [Khách] đón bắt, lo sợ thành bệnh, sợ khó chịu nổi sự rối ren ấy. Xin chọn viên khác thay cho, [để được] về kinh chịu tội” (183) . Nhưng ông ta không được như ý. Triều đình không cho, Pháp cũng yêu cầu lưu chức (183)!

      Quả là một thời kì đau lòng, rối ren, hỗn loạn.

      Millot cũng đã về nước từ tháng bảy nguyệt lịch (184). Brière de L’Isle được thăng quân hàm trung tướng, thay y (184). Quân Pháp từ tháng mười một trước đã được tăng viện thêm một ngàn quân (1.000) viễn chinh ở Pháp sang. Trong những ngày cuối năm rét buốt, sau khi mộ được bảy ngàn (7.000) phu tải đồ, Brière de L’Isle chia bảy nghìn rưỡi (7.500) quân lính làm hai đạo, tiến đánh quân Thanh tại Lạng Sơn. Một đạo thuộc quyền tên thiếu tướng De Négrier. Một đạo thuộc tên đại tá Giovannielle (184).

      Quân Pháp đã nghiên cứu địa hình. Chúng biết con đường từ Kép lên Lạng Sơn là một hẻm núi. Quân Thanh phục kích sẽ giết gọn nếu quân Pháp tiến theo đường hẻm núi ấy. De Négrier vờ đem quân từ Hà Nội đến Kép (Bắc Ninh), phô trương thanh thế, làm như sắp tiến quân theo hẻm núi ấy. Thực ra, tên tướng giặc Pháp này lại hành quân tới Chu [:Chũ]. Ngày mười tám, mười chín tháng chạp, chúng đánh tạt ngang, lấy được đồn Tuần Muội (ải Chi Lăng), đồn Điều Vàng của quân Thanh. Ngày hai mươi hai, Pháp chiếm xong đồn đại doanh Giản Hoàn. Quân Thanh đang đóng tại Bắc Lệ, thấy bị chặn đường về, bèn rút (184).

      De Négrier lại tiến đánh. Ngày hai mươi chín cuối năm ta, sau bốn ngày nổ súng công thành, giặc Pháp chiếm luôn thành Lạng Sơn (184)! Thành Lạng Sơn, nơi có bao nhiêu kỉ niệm của quan phụ chính Nguyễn Văn Tường, Đoàn Thọ, Vũ Trọng Bình, Đặng Toán, Lê Văn Dã, Ông Ích Khiêm!

      De Négrier lại đánh thẳng lên Đồng Đăng. Quân Thanh chia ra hai ngã về nước: Thất Khê và Nam Quan. Giặc Pháp đánh và phá cả cửa ải Nam Quan, vào ngày mùng tám tháng giêng Ất dậu (1885). De Négrier giao lại cho viên phó của y, còn y lại về Hà Nội (184).

      Lã Xuân Uy và các tỉnh thần khác của ta đều về chức cũ, theo lời bàn định của các đại thần Cơ mật viện (184).

      Khi quân Pháp đang tiến đánh Lạng Sơn, quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc từ mạn sông Hồng, sông Lô lại lập tức kéo về đánh thành Tuyên Quang (185). Từ đầu tháng mười một Giáp thân (1884), quân của họ Lưu đã về đóng ở phủ Yên Bình, phủ Đoan Hùng. Quân Thanh chặn hết những chỗ hiểm yếu, không cho quân Pháp lên tiếp ứng, sau đó, quân Lưu Vĩnh Phúc tấn công thành Tuyên Quang. Trong thành, có sáu trăm (600) quân do tên thiếu tá Dominé chỉ huy. Những trận công thành nổ ra cho đến rằm tháng chạp,  quân Lưu Vĩnh Phúc mới vây hãm được thành Tuyên. Hai bên cứ công, thủ giằng co (185).

      Ngay sau khi chiếm xong thành Lạng Sơn, tên trung tướng Brière de L’Isle giao binh quyền cho De Négrier. Mùng hai Tết Nguyên đán Ất dậu (1885), y kéo quân về theo đường đồn Chu, tới Hà Nội, rồi lên giải cứu cho Dominé. Ngày mười ba tháng giêng, Brière de L’Isle lên Đoan Hùng, rồi hành quân vượt sông Chảy (185).

      Quân Pháp với quân Thanh giao chiến ba ngày trời, Pháp mới giải vây được thành Tuyên Quang. Hai bên đều thiệt hại nặng nề. Dẫu vậy, quân Tàu phải rút lên mạn ngược (185).

      Ngay khi quân Pháp giải vây thành Tuyên, tại Lạng Sơn, chúng lại bị quân của tướng nhà Thanh Phùng Tử Tài (đề đốc Quảng Châu) chuẩn bị tấn công. Tướng họ Phùng vốn khá quen thân với quan phụ chính Nguyễn Văn Tường trong những năm về trước. Lúc này, ông đang đóng đại doanh ở Long Châu. Đến ngày mùng sáu tháng hai Ất dậu (1885), ông cho quân sang đánh Đồng Đăng. De Négrier tiếp viện cho quân Pháp tại đó và dự định đánh cả Long Châu trên đất Tàu. Nhưng sau hai ngày giao chiến, giặc Pháp bị thiệt hại nặng. Ngày mùng tám tháng hai, quân Pháp và cả tên De Négrier đều phải rút về Lạng Sơn. Chúng tải thương về đồn Chu (186).

      Lực lượng quân Pháp lúc này tập trung tại Lạng Sơn đến ba vạn rưỡi  (35.000) tên (186)! Một con số rất lớn từ trước đến nay!

      Ngày mười ba tháng hai, quân Thanh tràn sang đánh đồn Kỳ Lừa. Tên tướng De Négrier bị thương nặng. Tên trung tá Herbinger giữ quyền chỉ huy. Nhưng quân Pháp không chống nổi quân Thanh với một lực lượng hùng hậu. Herbinger đành cho rút quân về ải Chi Lăng (đồn Tuần Muội), rồi rút dần về đồn Chu, đồn Kép (186).

      Tên trung tướng Brière de L’Isle điện về Pháp xin quân cứu viện, sau trận đại bại nhục nhã đó tại Lạng Sơn (186)! Y lại đưa quân lên đồn Chu để án ngữ.

      Quân Thanh hoàn toàn chiếm giữ được Lạng Sơn. Nhân thế thắng đó, từ mạn sông Hồng, quân của các quan kháng chiến nước ta lại kéo về tấn công quân Pháp để chiếm lại những vùng đất gần Hưng Hoá, Lâm Thao (186)…

      Chính chiến thắng của quân Phùng Tử Tài tại Lạng Sơn đã xô ngã tên thực dân chóp bu Jules Ferry khỏi ghế thủ tướng Pháp với hình thức “từ chức trong danh dự” (187)!

      Chính phủ Pháp tại Paris liền ra lệnh cho Patenôtre lo việc hoà nghị với Lý Hồng Chương. Mặt khác, chúng cho quân viễn chinh Pháp sang tiếp viện thêm. Tên trung tướng Roussel de Courcy giữ chức thống đốc quân dân sự vụ, tên trung tướng Warnel làm tổng tham mưu trưởng. Hai tên thiếu tướng khác là Jamont và Proudhomme chỉ huy hai sư đoàn quân xâm lược Pháp (188). Tất cả quân chi viện cho Brière de L’Isle đang lên tàu binh sang Bắc Kì nước ta!

      Những ngày cuối năm Giáp thân (1884), đầu năm Ất hợi (1885), quả thật chưa thể nói tới niềm vui! Những ngày trầm hương ấy, triều đình vẫn phải xem xét các nghi thức tâm linh cổ truyền. Có một lệnh dụ ban ra,  “đình việc phong những mĩ tự cho bách thần, có vị nào chưa được phong mới xét rõ phong tặng” , bởi “thông minh, chính trực mà chuyên nhất là thần, há vui gì sự khen hay của người (189), chỉ là hư văn hót nịnh” (189) ! Đất nước, nhân dân tang thương như thế,  “há vui gì sự khen hay của người” ! Nhưng cũng không thể không thấy quân Pháp vất vả, khốn đốn và tốn hao xương máu thế nào trong thế trận “toạ sơn quan song hổ đấu”  của phụ chính Nguyễn Văn Tường!

      Và rõ ràng, dẫu phải dựa vào quân Thanh, những vị quan kháng chiến của nước ta cũng làm cho giặc Pháp phải nhiều phen kinh hồn táng đởm!

      Tháng chạp năm ấy cho đến tháng gần hết trung tuần tháng hai, ba đại thần Viện Cơ mật Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và Phạm Thận Duật không biết Tết nhất với những sắc màu mùa xuân là gì! Có những cuộc họp đến thâu đêm với những bản tâu trình về tình hình chiến sự Pháp – Hoa ở Đài Loan (thuộc Trung Hoa) và tại Lạng Sơn, biên giới nước ta, nhất là về lực lượng của các quan ta kháng chiến.

      Thế trận “toạ sơn quan song hổ đấu”!

 

      22

 

      Tháng giêng năm Hàm Nghi thứ nhất, Ất dậu (1885).

      Thực dân Pháp vẫn cố lấn hiếp nước ta. Từ tháng chạp năm ngoái, chúng bắt đầu tổ chức thu thuế thương chính tại đồn hải phòng tỉnh Quảng Nam, chuyên thu thuế xuất nhập cảng của khách thương người Hoa nước Thanh (190). Ở đấy, đành chỉ để lại hai viên trực thuộc tỉnh để khai báo về tỉnh. Ngoài ra, súng ống, thuốc đạn đều đưa về tỉnh lị (ở Vĩnh Điện, Điện Bàn) (190).

      Công cuộc tổ chức xây dựng hệ thống sơn phòng, thượng đạo vẫn tiếp tục hoàn thiện. Pháp cố quyết không chịu cho triều đình bổ nhiệm Vũ Trọng Bình, một vị quan thẳng tính và thanh liêm làm thượng thư Bộ Hộ sung đại thần Cơ mật viện. Vị quan họ Vũ này liền nhận công tác bí mật, lo liệu việc chuyển vàng bạc, các vật dụng, tài liệu trữ ở kho tàng kinh đô vào Sơn phòng Dương Hoà tại Quảng Nam và các sơn phòng khác, Tân Sở ở Quảng Trị, Vạn Xuân ở Quảng Bình, Hương Khê ở Hà Tĩnh (191)…

      Tháng hai, vua Hàm Nghi lại se mình, ngã bệnh (192). Lemaire đã cử thầy thuốc Pháp sang điều trị (!), nhưng may thay Viện Thái y đã thăm mạch, bốc thuốc và vua đã khỏi (192).

      Thời tiết giữa xuân này còn dịu mát, tuy vậy, vẫn phải lo liệu phòng ngừa dịch tễ cho dân. Ngay từ tháng chạp, Viện Thái y đã cử người đi học phương pháp chủng ngừa đậu mùa rất thô sơ nhưng hiệu nghiệm (tại Hương Cảng và ngay cả tại Sứ quán Pháp ở Huế). Phương pháp ấy chỉ đơn giản là lấy mủ ở người đã bị lên đậu mùa, cấy trồng lại cho người lành mạnh với số lượng mủ rất nhỏ, rất ít, để tập cho cơ thể tự đề kháng với vi khuẩn bệnh. Đến tháng ba, mùa viêm nhiệt bắt đầu, Viện Thái y phái Võ Duyệt đi vào phía nam, Bùi Hanh đi ra phía bắc để truyền bá cho nhân dân phương pháp ấy (193).

      Sách Tây vẫn được tìm mua và phiên dịch tại Ti Hành nhân. Số lượng sách mua tại Gia Định lần này đến bốn trăm mười hai (412) quyển (194).

      Tấn phong phụ chính thân thần: Hoài Đức quận công Miên Lâm là Lạc quốc công, Hoà Thịnh quận công Miên Tuấn là Thịnh quốc công (195). Đó là một việc rất đáng ghi nhận khác.

      Ngoài ra, tổng đốc Nghệ An Trần Văn Chuẩn đang bí mật nhưng ráo riết xây dựng, củng cố sơn phòng, nhất là tăng cường phòng thủ ở hai phủ Tương Dương, Quỳ Châu, nên ông tâu xin bổ sung tuần phủ là Lương Quy Chính (196).

      Tên khâm sứ Lemaire lại lựa lời cho khéo nói nhưng nội dung lời nói lại rất nguy hại cho sự phòng thủ kinh thành! Y bàn nên dẹp bỏ các khẩu đại bác trên thành vốn chỏ vào Sứ quán Pháp (197). Thống chế Thần cơ Tôn Thất Phê và đề đốc kinh thành Nguyễn Hữu Ngoạn cùng với các tên chỉ huy quân Pháp phải họp bàn và đi kiểm xét (197). Mặc dù các quan ta, nhất là thượng thư Bộ Binh Tôn Thất Thuyết rất phản đối, phản đối dữ dội, nhưng cuối cùng ông và các quan Cơ mật, đình thần cũng phải nhân nhượng cho chúng bịt lỗ châu mai ở các cửa đặt súng, đến bốn mươi lăm (45) cỗ (197)! Ngoài ra, còn phải cất súng khỏi các nơi ở đài Nam Xang, Bắc Trung và tại Trấn Bình đài (197)! Lemaire bảo, đã kí kết “hoà” ước Giáp thân 1884 rồi, sao đặt súng làm gì, nhất là sao lại chỏ (trỏ) họng súng đại bác vào Sứ quán (197)! Thật ra, ai chả biết chính bọn Pháp lại xé bỏ các cái gọi là “hoà” ước trước tiên!

     Chính lúc ấy, quân Pháp bị bại tại Lạng Sơn. De Négrier bị thương, y về điều trị tại Hà Nội. Phái viên Viện – Bạc ở ngoài ấy, một cách rất ngoại giao, đem một số tặng phẩm đến biếu y. Silvestre trách, sao người trao vật phẩm lại quan cấp thấp! Phạm Thận Duật, Hoàng Hữu Thường đành sang Sứ quan tại Huế để làm động tác gọi là ngoại giao ấy (198)!

      Trong khi đó, Pháp vẫn phá bớt thành của ta tại Hải Dương, xây dựng lại ở đấy căn cứ phòng thủ, đóng quân. Chúng đưa đến đó thêm hai chiếc tàu thuỷ, năm, sáu nghìn (5.000 – 6.000) quân Ả Rập, ba trăm (300) con ngựa (199)…

      Pháp lại lấn hiếp nước ta mạnh hơn tại Nha Thương chính và Nha Hải phòng tỉnh Bình Định! Một tên thống nhiếp Pháp La Rơ Ri Ê (?) đem quân đến cưỡng bách, đoạt lấy tiền ở kho, cố quyết thu lấy thuế thương chính như ở Đà Nẵng (200). Cũng tại đó, chúng đóng đinh bịt kín lỗ châu mai đến sau mươi bảy khẩu súng đại bác của ta, cướp hết súng mổ bụng, lưỡi lê và tiền kho mang đi! Lemaire ở Huế nhận được văn thư yêu cầu trả lại đủ, nhưng y vẫn im lặng, không trả lời (200)!

      Để đối phó với tình hình ở Bình Định, hiệp lí thuỷ sư Lê Thận liền được điều động vào thay Trần Lưu Huệ, với hàm thự tuần phủ, lãnh chức vụ tổng đốc hai tỉnh Bình Định – Phú Yên (201). Nhân dịp đó, thị lang Bộ Binh Trương Văn Đễ cũng được đề bạt thăng thự tả tham tri Bộ Binh (201).

      Bấy giờ, tháng ba nguyệt lịch, bọn Pháp lại yêu sách, buộc triều đình phải chấp nhận cho chúng huấn luyện, trang bị vũ khí cho một nghìn (1.000) viên lính của ta, kể cả việc trả lương, chi cấp quần áo! Không những tại Hà Nội, chúng còn yêu sách các tỉnh khác rồi cũng như thế (202)!

      Một sự bức hiếp nữa của bọn Pháp:

       “Phái viên Pháp bắt thự tổng đốc Hải – An [:Yên] là Hà Văn Quan, vây dinh tổng đốc và nơi ở của phó lãnh binh, soát lấy giấy tờ và kiềm ấn quan phòng, các dấu đồ kí và vàng bạc ở kho tỉnh ấy, cùng các triện riêng của các nhân viên, rồi đem Hà Văn Quan xuống thuyền chèo về Gia Định!

      Việc ấy động đến tai vua [Hàm Nghi], [vua] sai Cơ mật [thông] tư cho khâm sứ Lô Mi Ơ [Lemaire] biết. Khâm sứ ấy cho rằng tướng Pháp là Cô Ra Xi [De Courcy] ngờ đốc thần ấy có thông đồng với quân Thanh, phúc lại [:trả lời lại] cho biết các [vật] hạng đã lấy, sẽ giao trả lại” (203) .

      Cũng như quan khâm sai và các quan tỉnh Hà Nội lúc tên Françis Garnier gây hấn (Quý dậu, 1873), Hà Văn Quan lại bị De Courcy hành hung thô bạo như thế! De Courcy nhận lệnh bọn Pháp chóp bu tại Paris sang nước ta, từ ngày hai mươi sáu tháng hai nguyệt lịch Ất dậu (12.04.1885) (204). Y đến Bắc Kì ngày mười tám tháng tư nguyệt lịch (31.05.1885), sau gần một tháng rưỡi đi đường biển (204). De Courcy vốn là một tên tướng Pháp rất hung hãn, lỗ mãng.

      De Courcy đến nơi, biết sự thể đã xảy ra, ngay lập tức y chỉ thị chuyển Hà Văn Quan từ chỗ giam cầm xuống tàu và chở vào Gia Định thuộc Pháp!

      De Courcy lại gặp được Nguyễn Hữu Độ!

      Cuối tháng ba, Nguyễn Hữu Độ hoàn toàn bị vạch trần bản chất tay sai của y. Hơn bao giờ hết, tài nịnh hót và xu thời, “xem gió chuyển buồm” (205) của Nguyễn Hữu Độ được bộc lộ một cách rõ rệt đến thế. Y như người dong buồm trên biển, không cần biết gió sẽ đưa thuyền đi đến đâu, miễn là no thân ấm cật, khỏi nhọc sức. Nguyễn Hữu Độ không có một định hướng nhất định của kẻ sĩ chân chính. Nói cho đúng, Nguyễn Hữu Độ không phải không khôn ngoan, nhưng cái khôn ngoan của y chỉ vì áo cơm, quyền chức cho dù là quyền chức của một thứ tay sai, nịnh trên đạp dưới, phản dân hại nước, phụng sự bọn xâm lược. Lúc Brière de L’Isle, De Négrier kéo quân lên đánh chiếm Lạng Sơn, chính Nguyễn Hữu Độ đã tâu về kinh xin đề bạt hai tên “đàn em” cùng một giuộc với y là Hoàng Cao Khải và Nguyễn Huy Lân giữ chức quyền ở đấy để trợ giúp cho bọn xâm lược Pháp (206). Hai phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết đã trách cứ, thậm chí khinh bỉ Nguyễn Hữu Độ, nhưng y quả là một tên vô sỉ!

       “Thị lang quyền lí Hà [Nội] – Ninh [Bình] tổng đốc Nguyễn Hữu Độ vì rút quân giản binh về trạm, “được” giáng bốn cấp, điệu bổ, [nhưng] hãy tạm chuẩn cho lưu chức.

      [Nguyễn] Hữu Độ lại nhân quân Pháp đến Lạng Sơn, xin đem Hoàng Cao Khải quyền bố chánh sứ Lạng Sơn, Nguyễn Huy Lân quyền án sát sứ.

      Vua [Hàm Nghi] dụ khiển trách rằng:

      “Đặt quan, chia chức, quyền tự triều đình. Cứ theo [“hoà”] ước mới thì [cấp quan như] ngươi không được dự [việc bổ nhiệm]. Duy gần đây nhân việc chiến tranh xảy ra, ta đặt quan viên nam bắc, [thấy] nên [thông] tư [cho] biết trước. Đó là do lúc thế sự khẩn yếu. [Như thế] chỉ là [cho ngươi] có quyền tạm một thời thôi. [Nếu] như nay tỉnh ấy có quyền đặt, quan Pháp thống sứ [nếu] như có bàn nói, [ngươi phải] lập tức giữ theo lời [“hoà”] ước [mới], bàn [với chúng] thôi đi, và [lập] tức tâu lên chờ chỉ [dụ]. Huống chi toàn hạt ngươi chỉ có hai tỉnh Hà – Ninh nay bèn yển nhiên lấy cả toàn [Bắc] Kì theo mình. Phép nước, lòng bầy tôi, hỏi vậy có đúng không? Nếu kẻ kia [Brière de L’Isle] một niềm cố yêu cầu, thì mặc họ làm lấy! Mình không dự đến” (206) .

      Quả thực, sau khi đánh chiếm gần xong Bắc Kì, bọn Pháp rất muốn đưa Nguyễn Hữu Độ lên chức “phó vương” (kinh lược sứ Bắc Kì), với một quyền hạn rộng, chỉ hệ thuộc triều đình trên danh nghĩa. Chúng rất cần những tên tay sai như tổng đốc Trương (1873), Nguyễn Trần Cáp, Nguyễn Hậu (1883), Hoàng Cao Khải, Nguyễn Huy Lân, và nhất là tên Nguyễn Hữu Độ, một kẻ vốn  “nghe theo lời bọn con buôn lão luyện mưu lợi” (207)  hồi Quý Dậu (1873), thời điểm Jean Dupuis gây hấn, khích biến tại Hà Nội! Chính những tên “đàn em” của Nguyễn Hữu Độ đã được y đưa lên, vốn do y lợi dụng quãng thời gian chiến tranh (1883), bấy giờ triều đình đã phải nhân nhượng Pháp, cho y có một phần quyền hạn bổ nhiệm. Ngay khi đã hơi ổn định tình hình, hai phụ chính thấy cần phải thay đổi các quan chức Bắc Kì do Pháp và Nguyễn Hữu Độ chọn đặt, De Courcy liền phản đối.

       “Đô thống tướng mới của Pháp là Cô Ra Xi (lại tên nữa là Đa La Câu Ra Xuy, tướng cũ là Mi Lô về, tướng mới lại thay) [thông] tư cho khâm sứ ở kinh, bàn tâu xin quan lại Bắc Kì chớ vội thay đổi” (208)

      Nguyễn Hữu Độ, Hoàng Cao Khải, Nguyễn Huy Lân là như thế đó!

      Trong lúc đó, đầu tháng tư nguyệt lịch Ất dậu (1885) này, thự tổng đốc [Nghệ] An – [Hà] Tĩnh Trần Văn Chuẩn mất! Triều đình, nhất là hai phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, hết sức thương tiếc. Vị tiến sĩ, người huyện La Hà, tỉnh Quảng Bình đó đã  “lén làm, lậu giữ”  trong công việc tăng cường, củng cố hệ thống sơn phòng, thượng đạo chuẩn bị cho công cuộc kháng chiến không thể không xảy ra. Ông  “làm mọi công việc ở hạt ấy rất giỏi giang, sĩ dân đều yêu mến. Gia ơn truy thụ tổng đốc, chiểu hàm cấp tuất. Do địa phương quan bắt phu đưa quan cữu về quê” (209) .

      Tổng đốc Trần Văn Chuẩn lại như thế đó! Tổng đốc họ Trần yêu nước, thương dân và bọn tay sai Nguyễn Hữu Độ, Hoàng Cao Khải, Nguyễn Huy Lân bán nước, hại dân là cả một trời một vực!

      Nguyễn Hữu Độ còn là một tên tự sùng bái đến mức trâng tráo, không biết xấu hổ (210). Y đã tự xây dựng đền sinh từ cho chính mình thông qua việc câu kết, mớm ý với bọn cường hào, địa chủ và những gã “đàn em” nịnh hót có khoa bảng như Nguyễn Huy Lân, thậm chí có cả văn tài như Hoàng Cao Khải! Đền sinh từ vốn là đền thờ người còn sống, có công lao to lớn với dân tộc, với nhân loại, và hoàn toàn, tuyệt đối do nhân dân tự nguyện đóng góp để xây dựng. Một người được tôn thờ khi đã chết, thiên hạ dễ thể tất quên đi những khiếm khuyết, nhưng một người được thờ sống như thánh hiền là là một người hầu như toàn bích… Thế mà Nguyễn Hữu Độ dám trâng tráo, trơ trẽn tạo uy tín cho mình như thế: Một vị thần sống làm tay sai cho giặc cướp nước!

       “Trước đây [năm Giáp thân, 1884] tỉnh Hà Nội có dựng đền sinh từ Nguyễn Hữu Độ. [Y vốn] là quyền tổng đốc tỉnh ấy. Đốc thần [Nguyễn Hữu Độ] ấy đã dâng [tập] tâu xin lỗi.

      (Lược nói [trần thuật, lược ý]: Thân hào hạt ấy bảo là đốc thần ấy làm việc ở hạt ấy đã lâu, [mọi] người đều biết, cảm tình, xin quyên và xuất của riêng tự [xây] dựng [cơ] ngơi sinh từ. Đốc thần ấy đã nhiều lần từ chối, nhưng bọn ấy giữ ý không nghe, tình [trạng] khó ngăn trở).

      Rồi vì [quan] Khoa đạo là Bùi Hữu Tạo tâu hặc.

      (Lược nói: Đốc thần ấy nghe lời nịnh hót của [bang biện] Hoàng Cao Khải và đề đốc Trương Văn Hậu, xây dựng sinh từ, trù phí [tổn] động tới [số tiền ở mức] hàng vạn. Hai viên bang biện, đề đốc ấy gửi tờ [giấy quyên góp] cho các thân hào phủ huyện, chia bổ [phần đóng góp số] bạc cho mỗi người [là] hai trăm (200) lạng! Xin xét nghiêm nghị để ngăn sự gian tà ở trong quan trường).

      [Vua Hàm Nghi] chuẩn cho đốc thần [Nguyễn Hữu Độ] ấy và hai ti phiên, niết [:bố chánh, án sát], đồng thành thần [:quan cùng một tỉnh thành] là bọn Lê Đĩnh, Cao Xuân Dục đều đã minh bạch hồi tấu [:tâu phản hồi]. Đến đây, tập hồi tấu đã đến. [Trong tập tâu đó] từ ý đều nói sinh từ do dân thôn Đông Thành huyện Thọ Xương là Võ Văn Hoạt xướng làm mà thôi. ([Võ] Văn Hoạt là môn thuộc của đốc thần [Nguyễn Hữu Độ] ấy, khai nhận tự chủ [động] công việc, và tập nhận cữu, tập tham tâu đều tả [:sai lệch] cả).

      Phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết duyệt [hồ sơ tố tụng], nói: “Đền ấy dụng làm, [phí tổn] tới hơn vạn đồng. [Võ] Văn Hoạt, hệ là một người tiểu dân [:dân thường], [cho nên] khó đoán [chắc] được sự lập tâm làm việc này. Chẳng qua trước thì người ta chỉ bảo, sau thì bị người [ta] rời bỏ”.

      [Hai phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết] bèn tâu, [xin] chuẩn cho hai ti phiên, niết tỉnh ấy lại làm [việc] nghiêm giam [Võ] Văn Hoạt, bắt [y] khai để [thông] tư xử án.

      (Từ lâu [vụ việc] chưa phúc [:xét lại, tâu trả lời lại]. [Bùi] Hữu Tạo nói với người rằng: “Người nguyên tham [:Nguyễn Hữu Độ], bị phụ chính thần đã chê [trách, phản] bác”.

       Dần đến mùa hạ năm sau [Ất dậu, 1885], kinh thành xảy chuyện [:cuộc kinh đô quật khởi và thất thủ], việc bèn tẩm [:dìm việc, không tiếp tục xử lí])” (210) .

      Cuối tháng tư nguyệt lịch, năm Hàm Nghi thứ nhất, Ất dậu (1885) ấy, De Cham peaux lại một lần nữa đến kinh đô Huế, thay thế Lemaire. Thế là đã gần trọn tám tháng trời Lemaire giữ chức khâm sứ (résidents généraux, 10.10.1884 – 05.06.1885)!

     De Champeaux, y đã lần thứ ba đến kinh đô cổ kính này. Lần này, tên thực dân khâm sứ De Champeaux ấy hí hửng mang theo một thông tin.

      “Tham Bô [De Champeaux] đưa thư nói: “Hai nước Thanh, Pháp giảng hoà ở Yên Kinh nhà Thanh, [vào] ngày hai mươi tám tháng [tư, nguyệt lịch] ấy. Tờ [hiệp] ước [đã] áp dấu, kí tên, trao đổi việc xong. Xin [thông] tư cho các tỉnh Bắc Kì biết”.

      “Lại thư khác nói: “Quan khâm sai nhà Thanh trước đến Hà Nội, quan Pháp phái quân hộ tống, đi các tỉnh Hưng Hoá, Tuyên Quang, Lạng Sơn thông báo cho quân [Thanh] rút về [nước]…” (211) .

      Thế là hết?

      De Champeaux còn yêu sách triều đình phải làm một việc đau lòng:  “… khi [quân hộ tống Pháp] đưa [khâm sai nhà Thanh] đến hạt Hưng, Tuyên, gián hoặc vì đạo quân của nguyên bố chánh Sơn Tây Nguyễn Văn Giáp đánh, có bị thương, bị chết. Xin chiểu luật mưu phản, đại nghịch nghĩ xử và thông dụ cho mọi nơi biết” (212)! Đây là một thủ đoạn của Pháp, nhằm hoàn toàn cắt lìa triều đình Đại Nam với cả những đội quân kháng chiến, “những toán này [vốn] được sự ủng hộ bí mật của triều đình Huế” (213) !

       Đây là một nỗi đau lòng cho vua Hàm Nghi, hai phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và đình thần! Vua Hàm Nghi còn nhỏ tuổi, vẫn hiểu thấu nỗi đau bế tắc của hai phụ chính! Nhưng bố chánh sứ Nguyễn Văn Giáp đã bỏ đi mất biệt (212)!

     Chẳng lẽ thế trận “toạ sơn quan song hổ đấu” đã hoàn toàn chấm dứt? Không! Hai phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết vẫn thu thập được thông tin từ nhiều nguồn, thám báo phương xa của ta, khách thương người Hoa và cả người buôn nước mình. Hai vị và đình thần biết rõ tên trung tướng Courbet và hạm đội do y chỉ huy vẫn còn bị giam chân tại Đài Loan. Chúng đang cố sức vây Đài Loan để làm sức ép! Nhưng một điều rất thật là hiệp ước Thiên Tân đã được kí kết giữa Jules Patenôtre và Lý Hồng Chương, Tịch Sầm, Đặng Thừa Tu, vào ngày hai mươi bảy tháng tư, năm Quang Tự thứ mười một, Ất dậu (09.06.1885). Hiệp ước ấy có tên là “Hiệp ước hoà bình, hữu nghị và thương mại” (214), được kí sau khi chính phủ Jules Ferry bị  sụp đổ! Cả thảy gồm mười điều khoản. Có một số điều khoản chính:

 

+++ Về phía Trung Hoa:

 

- Trung Hoa thừa nhận và chấp nhận việc Pháp thống trị Đại Nam; chấm dứt hẳn việc coi Đại Nam là một thuộc quốc của Trung Hoa.

- Trung Hoa không được đưa quân đội sang Đại Nam.

- Trung Hoa không được cản trở công cuộc bình định của Pháp ở Đại Nam.

- Trung Hoa phải tôn trọng, hiện nay cũng như sau này, tất cả những bản hiệp ước, quy ước, cùng tất cả những cuộc điều đình trực tiếp đã có hoặc sẽ có giữa Pháp và Đại Nam.

- Trung Hoa phải có trách nhiệm giải tán, đàn áp, hoặc trục xuất tất cả những người Đại Nam nào sử dụng lãnh thổ của Trung Hoa để làm căn cứ hoạt động chống đối Pháp.

 

+++ Về phía Pháp:

 

Pháp sẽ rút quân khỏi Cơ Long (thuộc Đài Loan), ngay sau khi kí xong hiệp ước này, và một tháng sau Pháp sẽ hoàn toàn giải toả Đài Loan khỏi sự bao vây của quân Pháp.

 

+++ Pháp và Hoa:

 

 Hai bênsẽ làm lễ hỗ giao hiệp ước tại Thiên Tân (Bắc Kinh) sau khi đã được tổng thống Pháp và hoàng đế nhà Thanh Trung Hoa phê chuẩn (214).

 

      Đó là việc chính thức hoá quy ước Thiên Tân (hiệp ước Fournier – Lý Hồng Chương, kí ngày 11.05.1884 [mười tám tháng tư Giáp thân]) và quy ước đình chiến tại Paris (giữa giám đốc Các Công việc chính trị Bộ Ngoại giao Pháp Billot với uỷ viên kiêm bí thư thường trú của tổng thanh tra Thương chính, Hàng hải Trung Hoa James Duncan Campbell (mang hàm nhị phẩm nhà Thanh), kí ngày 04.04.1885 [mười chín tháng hai Ất dậu]) (215).

      Những con đường sang Lào, sang Xiêm dày đặc bọn “tả đạo” của Puginier (216)! Con đường sang Trung Hoa bị hiệp ước Patenôtre – Lý Hồng Chương ngăn cản! Mối liên hệ của triều đình với các đội quân kháng chiến, bọn Pháp muốn cắt lìa! Thực dân Pháp đã dồn dân tộc ta và triều đình Đại Nam vào chỗ hoàn toàn bế tắc, không lối thoát!

                                 

Hết tệp 4

(PHÂN ĐOẠN 4)

TRUYỆN KÍ THỨ 11

 

Khởi viết từ 07 giờ 30 sáng ngày 06.01.2003

(04.12 Nh. ngọ HB.3)

            Viết đến dòng chữ này vào lúc 09 giờ kém 10 phút

ngày 16.01.2003 (14.12 Nh. ngọ HB.3)

tại thành phố Hồ Chí Minh.

 

TRẦN XUÂN AN

 

                                                                                                                                        

 

(142) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 128; VNSL., Nxb. Tân Việt, bản 1964, sđd., tr. 545.

 

(143) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 165; Nguyễn Q. Thắng, Trần Văn Dư với phong trào Nghĩa hội năm 1885 (TVD. VPTNH.), Nxb. VHTT., 2001.

 

(144) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 165.

 

(145) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 169.

 

(146) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 169.

 

(147) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 169 – 170.

 

(148) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 101.

 

(149) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 171.

 

(150) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 170 – 173.

 

(151) ĐNTL.CB., tập 31, sđd., 1974, tr. 53 – 57.

 

(152) HGCS., giai thoại “Không sợ súng”, Tủ sách Sông Hương xb., 1886, sđd., tr. 42 – 43. Theo cước chú của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, giai thoại này được tổng hợp từ tư liệu của nhà thơ tiền chiến Phan Văn Dật (giảng viên Đại học Văn khoa Huế) và các tư liệu khác. Về Phan Văn Dật (người Quảng Trị), xin xem: Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam (nhiều lần tái bản với nhiều nxb. khác nhau).

 

(153) Báo cáo và đề nghị của Thomson (thống đốc Nam Kì): “Sau khi thất bại [ở] Hà Nội [vụ Henry Rivière bị hạ sát], nên bỏ cái cách dùng thương thuyết. Khi nào Tự Đức nghe tiếng đại bác đầu tiên thì Tự Đức mới kí hòa ước; cho nên phải đánh ở Huế. Muốn đánh Huế thì phải lấy pháo đài Thuận An”. Dẫn theo: CXL., Nxb. Tp.HCM. tái bản, sđd., 2001, tr. 422.

 

(154) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 174.

 

(155) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 174.

 

(156) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 174 – 175.

 

(157) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 178.

 

(158) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 178 – 179.

 

(159) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 179.

 

(160) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 184.

 

(161) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 184 – 185.

 

(162) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 185.

 

(163) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 190.

 

(164) ĐNTL.CB., tập 31, sđd., 1974, tr. 103 – 104.

 

(165) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 255.

 

(166) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 179 – 180.

 

(167) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 183 – 184.

 

(168) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 184.

 

(169) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 187.

 

(170) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 190.

 

(171) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 197 – 198.

 

(172) Tập san Những người bạn cố đô Huế (NNBCĐH) (Bulletin des amis du vieux Huế [BAVH.], linh mục Cadière làm chủ bút.), bài “Phái bộ Pháp ở Huế và những phái viên đầu tiên” của linh mục Aldophe Delvaux, Đặng Như Tùng dịch, Phan Xưng, Bửu Ý, Đỗ Hữu Thạnh, Hà Xuân Liêm hiệu đính, tập III, Nxb. Thuận Hoá, 1997, tr. 69; Trần Trọng Kim, VNSL., Nxb. Tân Việt, bản 1964, sđd., tr. 542.

 

(173) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 198.

 

(174) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 201.

 

(175) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 212 – 213.

 

(176) CXL., Nxb. Tp. HCM. tái bản, sđd., 2001, tr. 505 - 506: Nước Mexique (Mexico, Mễ Tây Cơ) cũng đã từng là thuộc địa của Y Pha Nho (Tây Ban Nha), Pháp, nơi có nhiều mỏ bạc. Đây là loại tiền tệ có từ lâu ở các nước Viễn Đông, kể cả nước ta, do Y Pha Nho sử dụng để mua bán, trước khi người Pháp đặt chân đến. Vả lại, từ ngàn xưa, ở Viễn Đông (châu Á), kim loại bạc đã là tín tệ giao dịch thương mại… Ca dao: “Chớ tham đồng bạc con cò, Bỏ cha bỏ mẹ đi phò Lang Sa”. France: Phú Lang Sa. Xin xem thêm: Bns. Xưa & Nay, số 84 + 85, tháng 01 + tháng 02. 2001, 69 - 70.

 

(177) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1976, tr. 177.

 

(178) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 188 – 189.

 

(179) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 190.

 

(180) ĐNTL.CB., tập 37, sđd., 1977, tr. 105 – 107.

 

(181) “Nhóm chủ chiến triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường”, kỉ yếu Hội nghị Khoa học lịch sử, ĐHSP. Tp.HCM., 20.6.1996, bài tham luận của TS. Nguyễn Thị Đảm, tr. 143 – 147; bài của Hoa Thám, Bns. Xưa & Nay, số 129 (177), tháng 12. 2002, tr. 33.

 

(182) CXL., Nxb. Tp. HCM. tái bản, sđd., 2001, tr. 394 – 396.

 

(183) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 190 – 191.

 

(184) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 193; VNSL., Nxb. Tân Việt, bản 1964, sđd., tr. 546 – 547.

 

(185) VNSL., Nxb. Tân Việt, bản 1964, sđd., tr. 546 – 547.

 

(186) VNSL., Nxb. Tân Việt, bản 1964, sđd., tr. 547 – 548.

 

(187) CXL., Nxb. Tp. HCM. tái bản, sđd., 2001, tr. 493.

 

(188) VNSL., Nxb. Tân Việt, bản 1964, sđd., tr. 548.

 

(189) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 191 – 192.

 

(190) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 197.

 

(191) ĐNTL.CB., tập 37, sđd., 1976, tr. 171 – 172.

 

(192) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 198.

 

(193) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 209.

 

(194) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 199.

 

(195) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 198.

 

(196) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 196.

 

(197) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 199.

 

(198) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 199 – 200.

 

(199) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 200.

 

(200) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 200.

 

(201) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 209.

 

(202) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 208.

 

(203) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 209.

 

(204) Dương Kinh Quốc, Việt Nam, những sự kiện lịch sử (VN.NSKLS), tập 1, Nxb. KHXH., 1981, tr. 253; CXL., Nxb. Tp.HCM. tái bản, sđd., 2001, tr. 545.

 

(205) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 157 – 158.

 

(206) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 210.

 

(207) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1976, tr. 263 – 264.

 

(208) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 200 – 201.

 

(209) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 211.

 

(210) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 213 – 214.

 

(211) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 214 – 215.

 

(212) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 214 – 215.

 

(213) Xem lại đoạn trích dẫn theo chú thích (110), truyện kí thứ mười một này.

(214) Dương Kinh Quốc, Việt Nam, những sự kiện lịch sử (VN.NSKLS), tập 1, Nxb. KHXH., 1981, tr. 253 – 254. Xin xem thêm: Nhiều tác giả, Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập I, TT. BS. TĐBK.VN. xb., 1995, tr. 810 – 811: các nhượng ước, hàng ước nước Thanh Trung Hoa đã phải kí kết với các nước thực dân Âu Mỹ: +++ 1. “Hoà” ước Nam Kinh 1842 (giữa Trung Quốc và Anh); +++ 2. “Hoà” ước Vọng Hạ [Áo Môn] 1844 (Trung – Anh, Mỹ); +++ 3. “Hoà” ước Hoàng Phố 1844 (Trung – Pháp); +++ 4. “Hoà” ước Thiên Tân 1858 (Trung – Anh, Pháp); +++ 5. “Hoà” ước Bắc Kinh 1860 (Trung – Anh, Pháp); +++ 6. “Hoà” ước Lý Hồng Chương – Fournier 1884 (Trung –Pháp); +++ 7. “Hoà” ước Tân Sửu 1901 (giữa Trung Quốc với mười nước Âu Mỹ [Anh, Mỹ, Đức, Nga, Pháp, Ý, Áo, Bỉ, Hà Lan, Tây Ban Nha] và một nước châu Á [Nhật]). Trong tập II, bộ truyện - sử kí - khảo cứu tư liệu lịch sử này, ở chú thích (264), tôi sơ bộ nhận định về nước Nhật trong cùng thời kì, với các “hoà” ước Nhật phải kí với Anh, Pháp, Nga, Hà Lan… (từ 1854 đến 1858…), và đã lược trích “hoà” ước Nhật – Mỹ 1858 để tham khảo thêm. Xem thêm: Võ Dương Ninh, Nguyễn Văn Hồng, Võ Mai Bạch Tuyết, Lịch sử cận đại thế giới (LSCĐTG.), quyển 1, Nxb. ĐH. & THCN., 1986, tr. 459 – 490. Cần có một cái nhìn bao quát toàn cảnh khi nhận định về các “hoà” ước Việt – Pháp, nước ta bị rơi vào thế bắt buộc phải kí với thực dân Pháp. Lâu nay, các nhà sử học thường mắc phải sai lầm là nhận định với cái nhìn cục bộ (chỉ soi mói vào sự suy vong của triều Nguyễn và dân tộc ta thời bấy giờ, lại tách giai đoạn lịch sử đầy bi hận ấy khỏi toàn thể bối cảnh khu vực, châu lục và thế giới).

 

(215) CXL., Nxb. Tp.HCM. tái bản, sđd., 2001, tr. 494; VN. NSKLS, tập 1, Nxb. KHXH.,  sđd., 1981, tr. 250 – 251.

 

(216) Xin xem lại đoạn trích dẫn theo chú thích (73) của truyện kí thứ mười một này.   

 

 

Cước chú của bản “HOÀ” ƯỚC GIÁP THÂN (1884) (truyện kí mười một):

 

(*) Nguyên văn bản dịch: Nước Cộng hoà Pháp (La Répubique française).

 

Cước chú bài thơ được tương truyền là của Ông Ích Khiêm (cuối tiết 16 thuộc truyện kí thứ mười một):

 

(*) Bầu: dụng cụ đeo ở thắt lưng. “Bầu” tiểu đối với “mướp”.

 

 

      Tư liệu bổ sung cho truyện thứ mười một:

 

 I. “… Kể từ ngày 13.12.1883, một mật lệnh được truyền đi từ các sĩ phu, lãnh tụ đến cho các làng Phật giáo Bắc An Nam với nội dung khích lệ làm vũ khí chống lại “bọn Pháp nội công”. Cuộc tàn sát công giáo [thật ra, chỉ riêng bộ phận đích thực là “tả đạo”, theo giặc] sẽ thực hiện từ ngày 02 đến 08 tháng giêng 1884…” (NNBCĐH [BAVH., 1916], bài “Phái bộ Pháp ở Huế và những phái viên đầu tiên” của linh mục Aldophe Delvaux, tập III, sđd., 1997, tr. 57).

 

II. “… Sự cố [Văn thân bình Tây sát tả] này […] phải chăng là một sự thức giấc đột xuất của Phật giáo chống lại Thiên Chúa giáo có sức mạnh và đang tiến triển hàng ngày trên đất An Nam? Phải chăng đây là hậu quả thảm khốc của trận chiến tôn giáo? […] Ông Phật phải chăng có một sự trả thù sau cùng đối với ông Chúa xâm lược?…” (NNBCĐH. [BAVH., 1923], bài “Một trang viết về lịch sử Quảng Trị, tháng 09.1885” của Jabouille, tập X, sđd., 2002, tr. 435).

      Thực chất chỉ là chiến tranh xâm lược và chống xâm lược mà thôi! Đó là chiến tranh giữa một bên là Pháp, Tây Ban Nha và “tả đạo”; một bên là lực lượng chủ chiến thuộc triều Nguyễn, dân tộc Việt Nam với đạo lí yêu nước, thờ kính anh hùng dân tộc, tổ tiên truyền thống, trong đó có một phân số khá lớn đồng bào theo tam giáo [đồng quy].

      Bộ phận đồng bào theo Đạo Phật là một lực lượng yêu nước vốn có truyền thống chống ngoại xâm lâu đời.

 

Chú thích xong vào lúc 10 giờ kém 15 phút,

ngày 19.02.2003 (19.01 Quý mùi HB.3).

 

TRẦN XUÂN AN

 

 

Hết tệp 4

(PHÂN ĐOẠN 4)

Trọn TRUYỆN KÍ THỨ 11

 

Xin xem tiếp tệp 5

(Phân đoạn 1 truyện kí thứ 12)

 

Trở về trang chủ

Cập nhật: 07/01/09

______________________________________________________________________________________________________________

 

 

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/home

 

 

Google page creator /  host

 

GOOGLE BLOGGER, DOTSTER, MSN. & YAHOO ...  /  HOST, SEARCH & CACHE  

 

    lên đầu trang (top page)   

 01-5 HB7 (2007) = 15-3 Đinh hợi HB7