c. Trần Xuân An - Nắng và mưa - Tệp 3

06/30/09

      

 

             Phần 1

 

             Phần 2

 

 

                             

 17 tháng 3 HB6 ( 2006 )       

 

trần xuân an

 

 

nắng và mưa

tập thơ

( phần 2 )

 

Hội Văn học Nghệ thuật

Quảng Trị

1991

 

 

 

 xem

http://tranxuanantthitap1.blogspot.com/

 

 

TỪ CÂU NÓI NGÂY THƠ CỦA CON

 

                          kính tặng o Loan của Bé

 

o Loan giờ ở đâu?

– ở bên Mỹ… Mỹ Chánh…

– ờ, dù xa, xa lắm

cũng gần như vậy thôi…

 

trăm lo toan bối rối

khi sống giữa xứ người

vẫn thương về nhà cũ

hiểu con là nguồn vui…

 

o xa vẫn gần thôi

bao đêm mơ của Nội

o bồng con, cười nói

như chưa hề xa xôi

 

o xa vẫn gần thôi

nụ cười o để lại

nụ cười ấy, o mơ

trên môi con nở mãi.

 

                     1989

 

 

 

 

LỜI THIÊNG

 

ngỡ lòng tan nát chai mòn

thương con ba gắng xanh non cách nhìn

tìm xem truyện cổ thần tiên

nghe con bập bẹ lời thiêng đầu đời

bà bà mẹ mẹ ba ơi

tiếng yêu thương toả sáng ngời đôi môi

bà ơi mẹ ơi ba ơi

ngọn nguồn cái đẹp cũng lời đầu tiên

theo con ra cửa, trông lên

cùng con tập nói trước thềm tương lai.

 

                                     1988 – 1989

 

 

 

 

BÀI THƠ RU BÚP BÊ

 

                     cho Phú và con

 

chưa đầy mười tám tháng

con đã biết ru em

ngân điệu hò vạn cổ

với tay đưa rất mềm

 

cũng nhịp nhàng êm êm

con hò rồi con dỗ

mắt búp bê cứ mở

cho con ru, ru hoài

 

thơ của ba đôi bài

dăm khúc ca quê ngoại

thấm vào hồn thơ dại

giờ con ru búp bê

 

nội mỉm cười ngồi nghe

mẹ đứng bên nhắc khẽ

(thơ ba làm vụng thế

cũng được thành ca dao!)

 

con đáng yêu biết bao

với điệu ru muôn thuở

cho chiếc nôi bé nhỏ

như trôi trên vô cùng

 

có chi là lạ lùng

con chưa tròn giọng nói

sao tiếng ru nguồn cội

cứ hồn nhiên à ơi

 

mấy phần tâm hồn người

đã tượng từ lòng mẹ

mấy phần xa hơn thế

tự nghìn xưa, bao đời

 

cứ ru đi, à ơi

đến búp bê bằng nhựa

cũng có tim rực lửa

toả chất thơ tình người

 

cứ ru đi, à ơi

con ru đi, à ơi…

 

                            1990

 

 

 

 

CÒN LẠI MỘT CHÚT HOANG TƯỞNG

 

mẹ đi khắp chợ rồi

chẳng nơi nào có cả

phố phường thì xa quá

quê hương đủ thứ nghèo

 

ba dành một buổi chiều

đạp xe đi Thành Cổ

tìm hoài mới ra chữ

mua về cho con chơi

 

mừng quá thấy con cười

nhìn hai tư chữ cái

nhưng rồi, không thích mấy?

hay chữ ít sắc màu?

 

ba chẳng biết làm sao!

hay tuổi con quá nhỏ

chưa hiểu trong chừng đó

là tất cả trên đời?

 

hay chữ mất thiêng rồi

chữ khô khan? léo lắt?

chỉ thích chơi với đất

đất chân thật thôi sao?

 

hay ba vẫn điên đầu

cứ như còn hoang tưởng?

chuyện nào có chi đâu

mà thắt lòng đau đớn!

 

                            1990

 

 

 

 

ĐÁNH THỨC

 

giai điệu nào quen quá

ở trong tôi bao giờ

 

hay tự thuở làm thơ

thương mắt ai buốt giá

hay rơi vào giấc mơ

một đêm trong quán lạ

hay vẳng từ hoa lá

chiều cao nguyên, tình cờ

từ ảo tượng run mờ

của cơn điên vật vã…

 

tôi ngồi nghe, hoá đá

tiếng đàn ai, không ngờ…

 

                             1990

 

 

 

 

NƠI ĐÂY LÀ NƠI ĐÂU

 

               kính tặng BV. Tâm thần Hoà Khánh,

                                                      84 và 85 (*)

 

chung quanh, thành và rào

cửa sắt lạnh lùng đóng

bên ngoài kia, cõi sống

còn nơi đây là đâu?

 

thần kinh ai rối nhàu

ảo giác ai lạnh ớn

hoang tưởng ai rùng rợn

địa ngục có thật sao?

 

có thật tự trời cao

những thiên thần áo trắng

đã xuống trần thầm lặng

bên người điên khổ đau?

 

nơi đây là nơi đâu?

không phải là cõi chết

không phải điên là hết

không phải không phải đâu…

 

                                   1990

 

Cước chú của bài Nơi đây là nơi đâu:

(*) Đây là một bài trong chùm thơ viết về những bệnh nhân tâm thần sau vài chuyến “bị đi thực tế” (!) của tác giả. Về năm, chính xác hơn là 1983 và 1984.

 

 

 

 

NGHĨ VỀ “KHÁT VỌNG SỐNG”,

TẠ ƠN ANH EM VAN GỐC (*)

 

1.

bàn tay nâng chiếc cọ

hoá chồi búp tươi non

khung vải thành tâm hồn

hoa sáng bừng ở đó

 

ông vẽ lại phần số

từ kiếp sống tủi hờn

giờ hướng dương rực rỡ

vàng rực trái đất tròn

 

ôi thằng điên áo sờn

bị nhạo báng, chối bỏ

“khát vọng sống” cứ còn

ngờ đâu, đến muôn thuở

 

Têô (**) – trái tim đỏ

trên vòm trời chon von

để cái đẹp bung nở

cõi người ta đẹp hơn

 

2.

mẹ và chị và vợ

đời tôi có cả con…

“bệnh” hoang tưởng cuồng nộ

dù dịu đi từng cơn…

 

tận cùng đau lẫn khổ

chẳng đành chịu héo hon

tôi cũng chỉ là cỏ

trên đất thơ xói mòn!

 

mươi năm sau, nấm mộ

cỏ có được xanh rờn

kẻ chiến bại mệnh số

mộng sáng tạo, vùi chôn?

 

quên hết, sao quên ơn?

đời cho bao mối nợ

quên hết, sao quên ơn?

chết, hai mắt vẫn mở?

 

                            1990

 

Cước chú của bài Nghĩ về “khát vọng sống”, tạ ơn anh em Van Gốc:

(*) Van Gogh, hoạ sĩ Hà Lan.

(**) Théo, anh trai của Van Gogh.

 

 

 

 

TẠ ƠN THẠCH HÃN

 

mồ hôi bao đời đã chảy thành sông

chảy ròng ròng giữa thiên nhiên nghiệt ngã

chảy tự chất người nghìn năm cứng bền như đá

đá đổ mồ hôi ngỡ mặn xót lòng

 

ơi Thạch Hãn Thạch Hãn

giữa trưa này, đi qua sông ngập nắng

sông mồ hôi kia vẫn chảy ròng ròng

tôi hiểu thêm chất triết chất thơ

                             sâu lắng mênh mông

đã bừng sáng vòm trời Quảng Trị!

Thạch Hãn ơi

tên sông có phải cha ông từng ngẫm nghĩ

hay tứ thơ hồn nhiên

chợt vút lên

từ chất xam chói loà chất đá

từ chất sống ngời ngời mồ hôi ròng rã?

 

qua bao thời

đá đổ mồ hôi

giữa nắng gió cháy nồng

giữa bão mưa buốt giá

và bây giờ, Thạch Hãn ơi

chất đá chất người chất thơ chất triết

sẽ chảy thắm những dòng chữ viết

như bao đường kênh, hoà thấm mạch đời

chất Thạch Hãn tuyệt vời

cho cả những kiếp người vật vã…

 

từ xa xưa, Thạch Hãn Thạch Hãn ơi

với thiên nhiên nghiệt ngã

đá đổ mồ hôi

và chẳng nghiệt ngã huỷ diệt nào

                           khiến đá chảy ròng

thành sông nước mắt

dù ngầu máu, đặc lềnh những xác

dù thuyền lúa thuyền hoa chìm đắm nghẹn dòng

dòng sống lại trôi

dòng sáng tạo lại trôi

sông mồ hôi lại thẳm sâu cất lên câu hát

trĩu nặng, bát ngát…

lặng thầm, cao trong…

 

mang nỗi đau hoá đá giữa lòng

nhưng chất Quảng Trị trong mình

                             có chút nào không

cùng gió mới, giữa trưa này, qua sông

hồn Thạch Hãn bảo tôi mỉm cười ngẩng mặt (*).

 

                                                        1990

 

Cước chú của bài Tạ ơn Thạch Hãn:

(*) Trong một số thư tịch, như Ô Châu cận lục của Dương Văn An, hai chữ Thạch Hãn, thường được viết với mặt chữ Hán có nghĩa là sự chặn lại, cản lại của đá [đối với dòng chảy của sông, làm sông chảy lệch dòng hoặc chảy xiết]. Tuy nhiên, Thạch Hãn với ý nghĩa mồ hôi đá vẫn được nhiều người mặc nhiên cảm nhận và đinh ninh với ý nghĩa triết luận như thế. Tôi thiên về ý nghĩa thứ hai như tứ thơ đã thể hiện. Ở đây không phải và vấn đề khoa học hay không. 

                                         (Chú thích năm 2005. TXA.)

 

 

 

 

CHO MÌNH VÀ CHO NHAU

 

Tất Đạt Đa phải rời cung thành Phật

bởi chỉ ngai vàng đâu cứu được con người

 

nhập thân bao nỗi khổ buồn

thành từng pho tượng qua hồn nghệ nhân

muôn đời tố cáo trầm luân…

tượng còn nguyên đó, vô ngần đau thương!

 

cũng như La Hán Tây Phương

thiền sư ra trận, “xuống đường” (*) đó thôi

 

tiếng chuông ngân tự cõi đời

đau đời, đời ngộ nụ cười Phật hơn!

 

và bao người giữa đời thường

lòng nhân văn chẳng trầm hương siêu hình

không nương tựa những câu kinh…

vẫn chiêm ngưỡng tượng cho mình cho nhau

 

nhà thơ hôm nay mai sau

dù vơi gánh nặng khổ đau thuở nào…

 

xin tiếng chuông sâu và cao

vang từ gan ruột, vọng vào trang thơ…

 

                                       1985 – 1990

 

Cước chú của bài Cho mình và cho nhau:

(*) “Xuống đường”: biểu tình phản đối trên đường phố.

                                 (Chú thích, 01. 3. 2005)

 

 

 

 

TRỐN VÀ GẶP

 

từng mẩu nhạc đứt nối như vọng về

                                từ cõi nào buồn thảm

những giọt cà phê đen hơn bao giờ

tìm thư giãn bên bờ sông

                          gió bất ngờ đắng chát

tôi ra đây thêm khùng dại điên rồ

 

gầm cầu kia, thành nơi che nắng che mưa

không che nổi những xác người đứng ngồi

                                                    khốn khổ

sống không cửa không nhà hoá hoang dã cổ sơ

lên ba rầu rĩ già nua, ba mươi ngẩn ngơ trẻ nhỏ

 

đất nước nghèo nhưng vẫn còn đất ở

cao nguyên xanh vẫn chờ người?

đã trôi giạt đến đâu,

            sao lại về dưới gầm cầu thành phố

bán vé rủi may, làm điếm, bụi đời,

                  vắt khô nước mắt mồ hôi!

 

ra ngồi đây tìm chút thảnh thơi

chút xanh trong của trời và nước

cũng chỉ là người,

          tôi chạy trốn khổ đau tâm hồn và thể xác

là người, tôi cũng thèm hồng hào

                      sung sướng yên vui

 

ai tìm chi địa ngục dưới bánh xe và chân người

địa ngục trong tia nhìn thương hại

địa ngục nơi bàn tay xua đuổi

địa ngục từ tiếng khóc đòi ăn giữa cổ họng há to

 

rẫy nương xanh có còn tươi đẹp giấc mơ

nếp tranh vàng mảnh vườn hoa trái

có phải quỷ ma đâu sao sợ hãi thiên đường?

thiên đường đơn sơ vì ai không dựng nổi?

 

trời nước rợn buồn nhợt tái

nhạc rối bời xáo trộn quặn lòng

tôi thảng thốt đến gần, như kẻ vô công điên dại

những đôi mắt lạnh tanh ơi,

             cho tôi được chuyện trò không?

 

choáng váng trước be cầu

                            hiện lên

                            nét chữ buốt lòng

nhoà gạch nhoà than, lại bằng sơn, khắc đậm

đập, đập vào trán quay cuồng: VÌ HOÀN CẢNH…

hình như tôi chắp tay, đầu rũ xuống?

                                        khóc, cười khan?

 

                                                        1991

 

 

 

 

DÙ SAO

 

đã riêng rồi một đời riêng

nỗi điên đảo bớt đảo điên bao giờ

mùa đông rực nắng tình cờ

thấy em đứng đó, ngó lơ, mắt loà

 

đã xa rồi một đời xa

vẫn không nhạt nổi em và ngày xưa

thời tôi vừa tạnh bão mưa

tim ta mê muội bỏ bùa cho nhau

 

đã đau rồi một đời đau

cũng đành là vậy, bỗng đâu không đành?

em bồng con dưới cây xanh

đi qua lại muốn đi quanh, ghé chào… (!).

 

                                               1991

 

 

 

 

THƠ Ở NHÀ THƯƠNG

 

tôi bước vào cõi khổ kiếp người

– nhưng đây là nhà thương (*),

                               nhà thương – tôi thầm nhắc

với “bệnh điên” và “bệnh mắt” (**)

tôi tỉnh táo nhìn ra phần kia – một góc tối

                                                     của đời

 

bằng nỗi đau tôi thấm thía nỗi đau

tiếng rên la quằn quại hình hài co quắp

tủi nhục điên cuồng bật lên chuỗi cười sằng sặc…

hi vọng tuyệt vọng dìm xô nhau,

                                 tự bể khổ tuôn trào

 

bệnh tật có từ lâu cái chết có từ lâu

là mặt kia của sự sống

vẫn mong người đừng gieo thêm cho người

                                                    thương đau

khiến lẽ tự nhiên càng thê thảm

 

từ cõi khổ của kiếp người,

                     bao đứa trẻ sinh ra khoẻ mạnh

sự sống sinh ra từ cõi đau này!

chất người sáng tươi từ cõi buồn lạnh xám

trí tuệ và tình thương, đẹp quá nơi đây

 

đừng để luật nghiệt ngã của tự nhiên càng thê thảm

người đừng gieo cho người thêm vết thương đau

còn nơi đây là nhà thương – nhà của

                       yêu thương ? (*)  – tôi thầm nhắc

được thấm ơn đời, tôi nào oán hận gì đâu!

 

                                                      1991

 

Cước chú của bài Thơ ở nhà thương:

(*) Nhà thương: nhà đau, nhà bệnh (bệnh viện).

(**) “Bệnh điên”, “bệnh mắt”, được đặt trong ngoặc kép. Đây chỉ là một cách nói tu từ (mĩ từ pháp).

                                 (Chú thích ngày 03. 3. 2005)

 

 

 

 

CẢM NHẬN BÊN DÒNG SÔNG

 

lang thang dọc cửa sông khuya

tâm hồn đất nước hiện về như mơ

suốt ngày ngây dại sững sờ

dòng sông bỗng hoá dòng thơ chiều này.

 

I. CỬA VIỆT

 

1

 

sông nơi cửa sóng muôn phương

lắng niềm chớp bể mưa nguồn thẳm sâu

 

nắng phơi mái rạ buồm nâu

dáng ai tóc trắng ngẩng cao sáng ngời

bập bùng bếp lửa bừng soi

bên đàn cháu nhỏ, nụ cười an nhiên

 

như trăm truyện cổ thần tiên

nghìn câu dân dã sáng lên nụ cười

dáng ai in giữa biển trời

nghìn-năm đọng ở nụ-cười-trẻ-thơ

 

trời hồn nhiên đến không ngờ

ở nơi nguồn thẳm chạm bờ biển sâu

ở nơi sóng gió lao đao

trời xanh như lọc từ bao nỗi niềm

 

II. HỒN ĐẤT

 

2

 

lẽ đời, sinh – tử, buồn tênh

gậy thần chỉ sáng cái nhìn mù đau

(không có gì tan mất đâu

thấy trong gỗ mục nguyên màu chồi tươi

bàn tay in dấu vào đời                              

cho nghìn xưa sống với người nghìn sau) 

với niềm khát vọng thẳm sâu

người mang sách ước đọc vào tự nhiên

con người bỗng hoá thần tiên

bởi rất người, rất tự tin chính mình

như từ trong thuở u minh

cánh tay người muốn nâng lên vòm trời

là hoa phải sáng nụ cười

người ta – hoa của đất trời – sáng lên!

 

3

 

trước giặc thu vẫn điềm nhiên

uy rồng ở nụ cười tiên Diên Hồng

từ dân, Gióng đẹp lạ lùng

lòng dân – trời rộng – anh hùng bay lên

hoà bình xanh ngát mông mênh – 

tiếng đàn cho giặc trái tim con người

nồi cơm độ lượng không vơi

Thạch Sanh – rạng rỡ chất-người-rồng-tiên!

 

4

 

bài ca sức sống Kẻ Diên

hát trong tuyệt vọng, sáng thêm cách nhìn

oán thù, vẫn sẵn ngọt lành

bát nước đổ xuống, bưng lên, lại đầy

nhân tình, cười ấm lòng say

rất nhân hậu, nhẹ nhàng thay nụ cười

buồn, vui, cũng miếng trầu tươi

bâng khuâng thắm thiết hồng đôi môi người

 

5

 

trước trò hợm của trêu đời

trẻ thơ biết giá nụ cười, Bờm ơi!

 

6

 

Ba Phi cười rộng đất trời

trăm câu chuyện trạng cho người người hơn

cho loài chuột ngự ghế son

ngậm danh thiếp chạy đuôi cong trăm vùng

lòng thương trải đến muôn trùng

bia căm ghét cũng chập chùng nhân gian

khổ, nên cười lộng, cười vang

cười ngăn nước mắt hai hàng rưng rưng

 

7

 

cơ chi nắng sáng mọi hồn

có đâu Thị Kính ôm con trước chùa

đời đuổi xua, đạo đuổi xua

biết đâu đất sống, mưa lùa oan khiên!

Xuý Vân ơi, đời sáng lên

đời vui, đâu phải giả điên giữa đời

khát khao hạnh phúc con người

ngán lòng khô khốc, nhầm lời dối gian

có cần chi nắm cơm vàng

nỗi niềm bi đát chưa tan giữa dòng

còn gì để chọn bên sông

mang mang nước chảy, ròng ròng lệ trôi

 

thân bằng cuộn lá chợ-người

buộc hờ mà siết vòng đời xót xa

“đau đớn thay phận đàn bà”

bao ngâm khúc cũng nấc oà đàn môi 

 

môi cười ấm giọt lệ rơi?

sum vầy? oan rửa? điên đời vẫn điên?!

 

ước ao mùa tốt xanh chiêm

giọt mồ hôi đổ mới nên hạt vàng

uất ức, giẫm nát tan hoang

trong tha hoá, nghèo gây oan cho nghèo

gặt rồi còn được bao nhiêu

ao khuya bắt ốc mò nghêu qua thời

đêm, còn cúi mặt dưới trời

ruộng giăng xiềng xích, làm người được đâu

“đòn tre chín rạn vai đau”

con đường lẩn quẩn nối nhau gánh gồng

“cái cò cái vạc cái nông...”

sợ dòng nước đục đau lòng cò con!

 

đành mong nghiệp báo xoay tròn

cơ chi thoát kiếp ngay trong một đời

thị vàng, quả thị vàng ơi

bao nhiêu cô Tấm mỉm cười, vời trông...

 

III. HỒN BÚT

 

8 thiền

 

xuân tàn, thân bệnh...

                               Vô thường!

cành mai sức sống nở bừng sân đêm

mọc từ khổ sợ lo phiền

đoá sen thanh tịnh nở trên lửa hừng

chiều thôn dã khói trầm hương

theo kinh siêu thoát như sương thấm lòng

bụt là bụt của ước mong

nụ cười toả sáng bếp hồng chiều hôm

 

9

Nguyễn Trãi

 

lắng mình, nghe tiếng non sông

đời bao bước ngoặt, tấc lòng sáng soi

gươm nhân nghĩa, giặc tan rồi

tự do, thông vút, máu rơi, đỏ cành!

vẫn lồng lộng ánh trăng thanh

nụ cười ưu ái, ngời xanh dáng tùng

 

10

Nguyễn Bỉnh Khiêm

 

lòng thênh thang, bước ung dung

vào đời, ẩn giữa triều cung với đời

chốn lao xao, mây nhẹ trôi

vẫn làn mây trắng bên trời quê xa

ra về, thơ vẫn ngâm nga

ngỡ là mây, hay mây là mình đây

hoà vào trời đất cỏ cây

ta trong mình, thiên nhiên này trong ta

tìm trong sắc nắng hương hoa

mùa nuôi sống với tinh hoa của mùa

càng thương đồng ruộng xác xơ

ghét loài cắn phá nên thơ vẫn nồng

cửa đời có một khoảng không

có khoảng không mới có khung cửa đời

chí vô vi như nắng trời

mong dân tự sáng cuộc đời, đời vui

lập am, ẩn một nụ cười

không quên chuẩn bị cho đời tương lai

niềm thơ dân dã không phai

tứ thơ mây trắng bay hoài đầu non

 

11

Nguyễn Du và Truyện Kiều

 

dẫu đau tiếng khóc oan hồn

dẫu đời quặn thắt đoạn trường tiếng kêu

nụ cười đọng cuối dòng Kiều

trong như ngấn nắng tuôn theo mắt người

“cuộc đời đến thế thì thôi”

cố tìm chút nắng cho đời trấn an

thương sao

       ánh mắt lạc quan

nhoà trong sương-khói-chữ-tâm

                                          nghẹn lòng

thương sao trang giấy chập chùng

thương dòng mực chảy lạnh nguồn xưa sau

kiếp người thê thiết đớn đau

những điều trông thấy đọng sâu nỗi niềm

 

thương ai se nắng trong đêm

gắng hừng nét mực, bấc đèn chơi vơi...

mắt nhìn thấu suốt nghìn đời

rưng rưng lấp loá nắng ngời trên nghiên...

cách chi cho nắng hồng thêm

mạch đời nào phải đứng yên cho đời...

thương ai trắng tóc ba mươi

khóc Kiều cười được với môi úa tàn...

người đến sau ba trăm năm

biết ai nhớ lại khóc thầm ai không?

 

đoạn trường sổ lệ ứa ròng

vua quan khơi mãi bao dòng đau thương

làm sao xoá lấp Tiền Đường                            

chảy mê tiềm thức tự nguồn trời xa

sao người thêm cõi người ta

nâng cành hoa gãy, giữ hoa bao vùng

khi Kiều mang phận đời chung

trỏ gươm phán xét, nắng hồng thật hơn!...

 

ngước lên Hồng Lĩnh chon von

cồn hoang, phiến đá trắng mòn, mồ chôn!

 

12

Nguyễn Đình Chiểu

 

phương nam! rời rã, mỏi mòn

đã mất mẹ, nước có còn, nước ơi

có đôi mắt cũng mù rồi...

vượt qua số phận, chân người cứng thêm!

 

ước mơ – ngọn lửa bùng lên

nung rèn gươm bút Vân Tiên giữa đời

từng đơn thuốc ấm tình người

với quê hương lại rạng ngời trái tim

đuốc nghĩa quân sáng niềm tin

từ trong dân dã, cái nhìn sáng hơn?

 

13

Nguyễn Văn Tường – Tôn Thất Thuyết

 

Dụ Cần vương dậy Trường Sơn

Giải Triều, trung nghĩa, tờ son gửi về

Bình Tây sát tả-tà-mê

cho Tân Sở – Huế tư bề hoa giăng

lễ tần viết sắc “hoà” ban

Tôn Thuyết chiến để Nguyễn Văn Tường đàm

Pháp tung cáo trạng bắc – nam

lưu đày Kì Vĩ, chết thầm đảo xa

súng rền, khâm sứ bôi nhoà

hòm tù đỏ, Hạnh Thục ca hoen vàng

vè Thất thủ giữa dân gian

giọng run lệch bởi chuông vang giáo đường

thơ Nguyễn Thượng Hiền buốt sương

thương thái phó, ngó sen vương, dặm về (*)

 

14

Nguyễn Khuyến – Trần Tế Xương

 

bơ vơ, về với làng quê

nụ cười Yên Đổ thoáng nghe thu buồn:                   

“cờ dở cuộc, bạc chạy lường”

quốc kêu khuya vắng máu tuôn thấm lòng...

 

rất riêng, vẫn một nguồn sông

chút tình non nước vọng hồn nước non

trách mình chi, buổi hoàng hôn

chao ơi, phỗng đá vẫn còn đó đây

lửa bùng, tắt nghẹn, đêm dài

mưa đời vây bủa như dây trói lòng

 

niềm đau buốt xót tận hồn

Tú Xương bật tiếng cười giòn, ngẩn ngơ

lạc đường, ngóng đến bao giờ

giật mình, lạnh tiếng gọi đò, đêm khuya

 

15

Phan Bội Châu – Mai Lão Bạng

 

mắc mưu Hữu Độ bùa mê                                    

Khang, Lương (Đại Hán!), xoá thề Cần vương

Duy tân, theo Nhật, nghẹn đường

súng gươm Quang phục, tự cường, khôn nguôi

Mai Lão Bạng sống bên Người

sách kia ai sửa?!

                        Sai lời sắt son! (**)

gót chân ngang dọc chưa mòn

mắt sương Bến Ngự vẫn còn ngóng trông

xa xa một ngọn cờ hồng

nụ cười hi vọng ấm dòng sông Hương

 

16

lãng mạn thoát li

và cách mạng hiện thực

 

nát tan phân rã loạn cuồng

sương mù mịt vẫn mịt mùng bủa giăng

nụ cười nở sáng lòng dân

còn ai chưa tỉnh mà nâng lòng mình

thả đời trôi nổi lênh đênh

mờ mờ nhân ảnh in quanh lệ buồn

giọt nước mắt, trời tang thương

khác chi trái đất quay cuồng trong đêm

 

thuế máu sôi trào đất đen

sóng hồng vỗ gọi bao triền đá mê

bài ca cách mạng còn kia

ánh sao từ ấy, sương khuya, soi đường

vẫn chia dòng nước sông Thương

ngậm ngùi giấc mộng bình thường, rưng rưng

 

trăm cơn gió lốc mịt mùng

nghìn luồng gió xoáy không ngừng trong tim

còn ai ngơ ngác kiếm tìm

trong quằn quại, mắt ngợp nhìn hư không

trăng! trăng! trăng! trăng não nùng

hồn ai ớn lạnh sặc từng ngụm trăng

(*) Đúng ra quê sinh là Huế, quê gốc là Quảng Trị.

(**) Tức là tỉnh Lâm Đồng.                         

(***) Xem Lời thưa… (viết ngày 28. 02. 2005).

(***) Đúng ra là 1975.

(  hết tập  )

 

nhớ sao trưa nắng chang chang

bóng cô gánh thóc rực vàng đường thôn

“Cha! sao Cha đành bỏ con”

những mong sống lại tâm hồn Gái quê

xác thân mục rữa sần tê

nhớ ơi thôn Vĩ sao về mà thăm

nến lung linh huệ trắng ngần

trong ảo giác trăng chợt gần chợt xa

ôi vầng trăng Ma-ri-a

sáng như viên thuốc sáng loà hư vô

 

đức tin nghiệp chướng ngây ngô

niềm mất nước hoá giấc mơ kinh hoàng

thơ ai trên gạch tháp Chàm

mười bảy tuổi, vội Điêu tàn tóc xanh

bóng ma gào khóc chiến tranh

đau trong đau, đã kết thành, triệu năm

 

17

vết thương Bến Hải (1954 – 1975)

và Miền Nam

 

ôi Ma-ri-a Tố Chân

nắng hoà bình ấm khăn quàng yêu thương

Nhất Chi Mai – đuốc soi đường

cành hoa sức sống sáng bừng tự do

máu loang ngực áo học trò

mặt đường khát vọng rực bờ sông xanh

khúc da vàng, lửa mong manh

khói trời ngơ ngác toả thành nhạc kinh

hoa vô thường, sương lung linh

theo hương tìm cõi yên bình cho nhau

mây thênh thang giữa trời cao

lạc vào mộng tưởng, chìm sâu sông buồn

 

bao nước mắt, bao mảnh gương

ai đem ghép lại soi khuôn mặt mình

mong sao gương vỡ lại lành

nụ cười thêm sáng dưới vành trăng thiêng

 

18

hình tượng Mẹ Suốt 

 

quãng đời cay đắng lênh đênh

lắng sâu mặt nước ngày đêm đưa đò

mái chèo mẹ Suốt nối bờ

đưa quân đi tự nghìn xưa đưa vào

mẹ cười sáng mỗi ngôi sao

sáng trên vầng trán sáng vào nước non

sao bay đỉnh gió Sài Gòn

có về soi lại tấm lòng mẹ không

 

IV. NỤ CƯỜI

 

19

 

sông nơi cửa sóng muôn phương

lắng niềm chớp bể mưa nguồn, chứa chan

giữa nơi lốc bão nghìn năm

lại làm lốc lặng bão tan cho người

và người thơ – ngọn thu lôi

nhận bao sấm sét giữa trời thương đau

dẫn truyền xuống tận đất sâu

mạch đời hoá giải biết bao nỗi đời

 

lọc từ nghìn thuở muôn nơi

lắng sâu toả rộng vòm trời bình yên

đọng thành nguồn sáng trong tim

trái tim đằm thắm hồng lên nụ cười

 

dẫu đi cuối đất cùng trời

trong lòng đã có nụ cười an nhiên

nghìn xưa còn đó hồn thiêng

phơ phơ tóc trắng bao miền nhân gian

 

nụ cười tự bốn nghìn năm

rạng ngời bản lĩnh lương tâm giữa đời

sẽ qua đi mọi rối bời

để thêm thanh thản nụ cười thẳm sâu! (***).

                                            

                                                         1985

 

Bên dòng sông Bến Hải, Do Linh (Gio Linh) và tại đình làng Kẻ Diên, Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị;

Kỉ niệm lần thứ 100 Ngày Kinh đô quật khởi (1885 – 1985), và lần thứ 10 Ngày Giải phóng Miền Nam, thống nhất Đất nước (1975 – 1985).

 

Cước chú của bài Cảm nhận bên dòng sông:

(*) 14 câu khúc 13 và 6 câu khúc 15 mới được bổ sung thêm, trong quý thứ tư, năm 2001. Ngoài ra, có một số khúc, số đoạn, được phục hồi lại theo bản gốc của tác giả. TXA.

(**) Xem chú thích (*). Mai Lão Bạng là một tu sĩ Thiên Chúa giáo (bậc thầy năm), ở Nghệ An, người đã cùng Phan Bội Châu, linh mục Đậu Quang Lĩnh (Đỗ Lệnh) đề xướng thành lập Duy tân Giáo đồ hội từ 1903. Ông là một trong số ít giáo sĩ Thiên Chúa giáo lớp sau có tư tưởng và hành trạng chống Pháp, nhưng ông rất căm ghét những lãnh tụ Bình Tây sát tả thế hệ trước ở Triều đình Huế. TXA.

(***) Bài thơ dài Cảm nhận bên dòng sông này, tác giả đã sử dụng lại ở cuốn tiểu thuyết MÙA HÈ BÊN SÔNG, các bản 2000, 2001 và 2003 (gồm cả phần khảo cứu phụ lục). Tiểu thuyết ấy là những suy nghĩ về cuộc chiến tranh – cách mạng 130 năm gần đây (1858 – 1975 – 1989), tập trung vào giai đoạn 1945 – 1975, đặc biệt là 21 năm chia cắt Đất nước (1954 – 1975) và thời hậu chiến. TXA.

 

 

 

MỤC LỤC

 

◘ Lời giới thiệu của Hoàng Phủ Ngọc Tường

◘ Lời thưa của tác giả (Trần Xuân An), nhân dịp chép lại bản Nắng & Mưa xuất bản lần thứ nhất…

1. Tóc bay sương trắng

2. Tiếng chuông xưa

3. Ruộng đất yêu dấu

4. Bài tháng giêng

5. Người đàn bà giữa vùng rừng khai hoang

6. Kính nhớ Pablô Nêruđa

7. Tạ ơn mảnh đất quê nhà

8. Ánh trăng đầu xóm

9. Giọt sương

10. Vì sao

11. Giếng hoang

12. Thưa với mẹ

13. Tôi mãi hoài tìm kiếm

14. Bài mơ

15. Một chút tự trào

16. Trăng ngoài trời, trăng trong nhà

17. Bài ca Diên Sanh

18. Từ câu nói ngây thơ của con

19. Lời thiêng

20. Bài thơ ru búp bê

21. Còn lại một chút hoang tưởng

22. Đánh thức

23. Nơi đây là nơi đâu

24. Nghĩ về “khát vọng sống”, tạ ơn anh em Van Gốc

25. Tạ ơn Thạch Hãn

26. Cho mình và cho nhau

27. Trốn và gặp

28. Dù sao

29. Thơ ở nhà thương

30. Cảm nhận bên dòng sông

 

 

In 800 cuốn khổ 13 cm x 19 cm tại Xí nghiệp In Hai Bà Trưng, 1A Nguyễn Trường Tộ – Huế. Sắp chữ điện tử tại Trung tâm Máy tính Đại học Tổng hợp Huế. Giấy phép xuất bản số 01/GP./XB. do Sở Văn hoá – Thông tin Quảng Trị cấp ngày 10-01-1991. In xong và nộp lưu chiểu, tháng 03-1991.

 

 

BÌA 3

 

 

Chân dung

Trần Xuân An,

do Lê Quang Thỉ kí hoạ

 

 

Sinh năm 1956 tại Quảng Trị (*).

Tốt nghiệp Khoa Văn Đại học Sư phạm Huế. Dạy học trên địa bàn người Kơ Ho Tây Nguyên (**). Từ năm 1983, bị “bệnh tâm thần” nên nghỉ dạy, về làm thợ may (***) ở quê nhà.

 

Đã in thơ trên các báo văn nghệ trong nước từ năm 1975. Giải thưởng thơ báo Văn nghệ Giải phóng năm 1976 (***). Ngay từ lúc mới xuất hiện, Trần Xuân An đã thu hút sự chú ý của công chúng bằng ngôn ngữ tinh lọc và dịu dàng, hé mở một nội tâm toả sáng, nhân hậu. Tập thơ “Nắng và Mưa” gần 200 bài, mải miết suốt 15 năm thời tuổi trẻ gian khổ của anh, theo chúng tôi là một tập thơ hay, hi vọng sớm được ra mắt bạn đọc.

 

                      (Tạp chí CỬA VIỆT, số 5 – 1990)

 

Cước chú ở tr. B (bìa 4):

                      (Tác giả đính chính, 02. 3. 2005).

E-mail: tranxuanan_vn@yahoo.com

          Cập nhật 06/30/09 

          (tháng / ngày / năm)                                                                   Trở về trang chủ

                                                                 

______________________________________________________________________________________________________________

 

 

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/home

 

 

Google page creator /  host

 

GOOGLE BLOGGER, DOTSTER, MSN. & YAHOO ...  /  HOST, SEARCH & CACHE