Thuở xa xưa, những bậc tiền nhân thường dùng giờ theo canh tức 12 con Giáp (Thập Nhị Địa Chi) để gọi cho Năm, Tháng, Ngày, Giờ. Số 12 con Giáp tức 12 con vật tượng trưng đó được sắp theo thứ tự như sau: Tý (Chuột), Sửu (Trâu), Dần (Cọp), Mão hay Mẹo (Mèo), Thìn (Rồng), Tỵ (Rắn), Ngọ (Ngựa), Mùi (Dê), Thân (Khỉ), Dậu (Gà), Tuất (Chó) và Hợi (Heo).
Ngoài ra, phương cách dùng để tính các tháng theo con Giáp thì: Giêng (Dần = Cọp), Hai (Mão hay Mẹo = Mèo, Ba (Thìn = Rồng), Tư (Tỵ = Rắn), Năm (Ngọ = Ngựa), Sáu (Mùi = Dê), Bảy (Thân = Khỉ), Tám (Dậu = Gà), Chín (Tuất = Chó), Mười ( Hợi = Heo), Mười Một (Tý = Chuột) và Chạp (Sửu =Trâu). Một ngày 24h giờ quy định là Đêm Năm Canh, Ngày Sáu Khắc.
Được biết, niên lịch cổ truyền Á Đông đã xuất hiện từ đời Hoàng Đế bên Tàu, 2637 trước Thiên Chúa năm 61. Bảng giờ trong 1 ngày dựa vào 12 con giáp của các cụ xưa.
Do vậy, nếu chúng ta đem so sánh Canh với giờ, thì có hai giờ bằng một Canh và nếu đem so sánh bảng Giờ trong một ngày của 12 con Giáp ở trước sẽ thấy đúng. Mỗi ban ngày dài 14 giờ, đươc chia cho 6 khắc như bảng sau đây: