Thượng Nguyên hay còn gọi là Tết Nguyên Tiêu, vào đúng ngày rằm tháng Giêng, ngày trăng rằm đầu tiên của năm. Tết này phần lớn được tổ chức tại Chùa Chiền, vì ngày rằm tháng Giêng còn được gọi là ngày Vía của Phật Tổ. Thành ngữ có câu: “Lễ Phật quanh năm không bằng ngày rằm tháng Giêng” xuất phát từ đó. Sau khi đi Chùa, mọi người về nhà họp mặt, cúng Gia Tiên và ăn cỗ.Tết Nguyên Tiêu của người Việt Nam.
Phật giáo trong hơn ngàn năm du nhập vào Việt Nam đã gắn kết các phong tục văn hóa của Việt. Rằm tháng giêng không phải là một ngoại lệ, từ một ngày lễ hội xa lạ có nguồn gốc từ Trung Hoa đã biến đổi thành một ngày Tết mang bản sắc rất riêng của người dân Việt thấm nhuần Phật pháp. Rằm tháng giêng làm một trong 4 ngày rằm lớn trong năm mà người Việt đặc biệt là Phật tử thường viếng chùa lễ Phật cầu gia đạo bình an, phong điều vũ thuận, quốc thái dân an. So với rằm tháng Tư (Phật đản) và rằm tháng Bảy (Vu Lan) thì rằm tháng giêng không quan trọng bằng.
Do rằm tháng giêng trùng hợp với lễ Thượng nguyên và Tết Nguyên tiêu trong dân gian, đồng thời ngày này là rằm đầu tiên của năm mới, thời điểm thích hợp nhất để cầu nguyện an lành cho cả năm, nên thu hút sự tham gia đông đảo của giới Phật tử và toàn thể dân chúng. Thành ngữ “Lễ Phật quanh năm không bằng rằm tháng Giêng” đã nói lên tầm quan trọng của hội rằm tháng Giêng trong tâm thức người Việt.
Đối với hầu hết các chùa Việt, trọng tâm của hội rằm tháng Giêng là lễ cầu quốc thái dân an, cầu nguyện an lành, khỏe mạnh, no đủ, thịnh vượng và phát triển cho bá tánh và đất nước. Vì thế, ngày càng đông người đến chùa, lễ Phật, cầu nguyện trong hội rằm tháng Giêng là một tín hiệu tốt, thể hiện rõ nét tinh thần “Đạo pháp và Dân tộc”.
Khi chùa chiền được tự do sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo, được sửa chữa trùng tu to đẹp khang trang cùng với sự quan tâm khôi phục các lễ hội văn hóa truyền thống dân tộc của các cấp chính quyền và nhất là ý thức tìm về những giá trị sống của tổ tiên thông qua các lễ hội văn hóa của nhân dân được đánh thức, thì việc tham dự đông đảo các lễ hội như hội rằm tháng Giêng là điều bình thường.
Khá nhiều chùa chiền nhân dịp tết Nguyên Tiêu đã lập đàn Dược Sư, tụng kinh Dược Sư trong suốt tháng Giêng (hoặc từ mùng 8 đến rằm tháng Giêng), khuyến khích Phật tử tham gia tụng niệm rồi phục nguyện hồi hướng công đức an lành cho Phật tử. Thiết nghĩ, đây cũng là một cách tu tập, cầu nguyện có hiệu quả nhất để đem lại phước báo an lành như mong cầu của mọi người trước thềm năm mới.
Nguyên tiêu và ngày thơ Việt Nam
Ngày Thơ Việt Nam là ngày hội tôn vinh thành tựu thơ ca Việt Nam, được tổ chức vào ngày rằmtháng giêng âm lịch hàng năm theo quyết định của Hội nhà văn Việt Nam, dưới sự đồng ý và chỉ đạo của Ban tư tưởng-Văn hóa Trung ương và Bộ Văn hóa-Thông tin Việt Nam. Lần đầu tiên, Ngày Thơ Việt Nam vào năm Quý Mùi (tức năm 2003) tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám, Hà Nội.
Trên thế giới, hầu như nước nào cũng có thơ và nhiều nước có sử thi lâu đời, có nhiều nhà thơ nổi tiếng như Trung Quốc, Ấn Độ, Pháp, Anh... Song có lẽ trong lịch sử nhân loại chưa có một dân tộc nào yêu thơ và thơ đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống, trong học tập, trong lao động, trong chiến đấu như thơ ở Việt Nam. Ý nghĩa của Ngày Thơ Việt Nam là thể hiện sự độc đáo đó trong văn hóa Việt Nam.
Ngàn xưa, từ thế kỷ XI đến XX, trong khoa cử Nho giáo, các kỳ thi Hương, thi Hội đều có đề bài về thơ và sáng tác thơ, từ đó đào tạo biết bao thi nhân nổi tiếng cho nước nhà như: Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Đặng Trần Côn, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Đình Chiểu... Hiện nay, học sinh tù tiểu học lên đến trung học, đại học, cấp lớp nào cũng học thơ. Chưa có một nước nào trên thế giới mọi người được học thơ nhiều như thế!
Và, một độc đáo của thơ Việt Nam lại chính là có được một thể thơ lục bát. Độc đáo ở chỗ nó dễ làm, sống từ rất lâu trong dân gian, chẳng cần phải thi nhân vẫn hoàn toàn có thể làm một vài câu bất hủ lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Kho tàng ca dao tục ngữ Việt Nam đang lưu trữ hàng trăm ngàn câu thơ lục bát tuyệt vời và độc đáo như thế. Lục bát còn đặc biệt ở chỗ có thể viết thơ thành trường thi dài bất tận. Có người viết hàng ngàn câu như Nguyễn Du, có người tham vọng dịch Kinh sách Phật Giáo ra thể lục bát...
Thơ lục bát lại được dùng để hát theo hàng ngàn làn điệu dân ca khắp ba miền trung nam bắc từ ru, vè, hò, lý... đến tuồng, chèo, ca trù, chầu văn... Và như thế, tại Việt Nam thơ gắn liền với ca hát, gọi rằng “thi ca” là thế.
Trong lao động, thơ Việt Nam kết tinh thành nhiều tác phẩm văn học dân gian tuyệt tác. Những bài hát ví phường vải, ví phường cấy, hò tát nước, hò kéo gỗ, hò chèo thuyền, hò kéo lưới... là chứng tỏ thơ đã thấm vào máu thịt của người lao động vậy.
Trong chiến đấu, thơ Việt Nam lại cũng đóng vai trò rất lớn: từ bài thơ “thần” của Lý Thường Kiệt đến những bài thơ yêu nước của Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, rồi thơ động viên tinh thần chiến đấu của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hồ Chí Minh, Hoàng Văn Thụ... Độc đáo đến mức có những chiến sĩ ra trước pháp trường vẫn thản nhiên đọc thơ như Cao Bá Quát, Mai Xuân Thưởng. Dùng thơ để tỏ khí tiết, chắc chỉ có dân Việt Nam thành thạo từ xưa.
Thơ làm cho tâm hồn con người ta bay bổng thanh cao, hướng thượng. Thơ còn là thú chơi tao nhã của người Việt Nam.