TIẾNG SÚNG BÊN LẦU
Nước non tan vở bởi vì đâu?
Riêng một ta mang nặng khối sầu.
Lòng những hiến thân mưu độc-lập,
Nào hay tai họa áp bên lầu.
Bên lầu tiếng súng nổ vang tai,
Trời đất phụ chi kẻ trí tài.
Mưu quốc hóa ra người phản quốc
Ngàn thu mối hận dễ nào phai.
Từ ấy lao mình vượt khổn nguy,
Băng rừng lội suối giả man-di.
Ngày mong ải Bắc oan nầy giải,
Đem sức ra nâng lá quốc-kỳ.
Nhưng khổ càng mong càng vắng bặt,
Trời Nam tràn ngập lũ Tây-di.
Biết bao đồng chí phơi xương máu,
Thức-giả nhìn nhau hỏi tội gì ?
Vì tội không đành phụ nước non,
Phô bày tiết-tháo tấm lòng son.
Ngăn phường sâu mọt lừa dân-chúng,
Chẳng nệ thân-danh nỗi mất còn.
Nếu mất thôi đành xong món nợ,
Nay còn há dễ ngó lơ sao ?
Dọc-ngang chí cả dù lao-khổ,
Thất bại đâu làm dạ núng-nao.
Thất bại đâu làm dạ núng-nao,
Non sông bao phủ khí anh-hào.
Phen nầy cũng quyết đền ơn nước,
Máu giặc nguyện đem nhuộm chiến-bào.
(Trong khi Đức Thầy ẩn lánh Việt-Minh và người Pháp vừa mới tái chiếm Nam-Việt). Miền Đông, năm 1946.
ĐỒNG ĐẢNG TƯƠNG-TÀN
Người đồng đảng giết người đồng đảng,
Ai Việt-Minh, Cộng-sản là ai ?
Đương cơn quyền lợi đắm say,
Anh hùng chí-sĩ râu mày thế ư ?
Đường muôn dặm lời thư một khúc,
Giờ giặc đà tá-túc nhà ta.
Ai ra nưng đỡ san-hà,
Ai ra cứu vớt nước nhà lâm nguy ?
Phát-xít sẽ tầm truy tàn-sát,
Không đảng nào mà thoát tai-ương.
Nghĩ càng bực-tức đau-thương,
Giết nhau để lợi cho phường xâm-lăng.
Miền Đông, năm 1946.
CHÍ NAM NHI
Nam-nhi mang chí cả,
Bao tấm lòng sắt đá.
Thương giống-nòi dẹp bả vinh-huê,
Lướt đạn bom giữ vững một lời thề:
Tàn-sát hết quân thù xâm-lược.
Tranh độc-lập tự-do cho nước,
Cho giống nòi rạng-rỡ trước năm châu.
Khí thiêng-liêng sông núi nhiệm-mầu,
Un-đúc giống anh-hùng vang bốn bể.
Gương sáng ấy soi chung hậu-thế,
Anh em ôi ! theo dõi gót cùng ta.
Ra tay quét sạch san-hà,
Ra tay bồi-đắp nước ta hùng-cường.
Miền Đông, ngày 10 tháng giêng Bính Tuất (1946).
RIÊNG TÔI
Rứt áo cà-sa khoác chiến-bào,
Hềm vì nghịch cảnh qua thương-đau.
Bên rừng tạm gởi thân cô-quạnh,
Nhìn thấy non sông suối lệ trào.
Nhìn thấy non sông suối lệ trào,
Lòng nguyền giữ vững chí thanh-cao.
Ai người mãi quốc cầu vinh nhỉ,
Hậu thế muôn thu xét thử nào?
Hậu thế muôn thu xét thử nào?
Lòng nầy yêu nước biết là bao?
Vì ai gieo-rắc điều hồ-mị,
Đành ngó non sông nhuộm máu đào.
Đành ngó non sông nhuộm máu đào,
Thời-cơ độc nhứt cứu đồng-bào.
Muôn ngàn chiến-sĩ chờ ra trận,
Bỗng vướng gông cùm chốn ngục-lao.
Miền Đông, năm 1946.
TIẾNG CHUÔNG CẢNH TỈNH
Hãy tỉnh giấc hỡi muôn ngàn chiến-sĩ,
Mở lòng ra thương nghĩ sanh-linh.
Đồng-bào ai nỡ dứt tình,
Mà đem chém giết để mình an vui.
Dù lúc trước nếm mùi cay đắng,
Kẻ độc-tài đem tặng cho ta.
Sau nầy tòa-án nước nhà,
Sẽ đem kẻ ấy mà gia tội hình.
Lúc bây giờ muôn binh xâm-lược,
Đang đạp vày non nước Việt-Nam.
Thù riêng muôn vạn cho cam,
Cũng nên gác bỏ để làm nghĩa công.
Khắp Bắc Nam Lạc-Hồng một giống,
Tha thứ nhau để sống cùng nhau.
Quí nhau từng giọt máu đào,
Để đem máu ấy tưới vào địch quân.
Đứng anh-hùng vang lừng bốn bể,
Các sắc dân đều nể đều vì.
Đồng-bào nỡ giết nhau chi,
Bạng duật tương trì lợi lũ ngư-ông.
Hỡi những kẻ có lòng yêu nước,
Nghe lời khuyên tỉnh được giấc mê.
Anh em lớn nhỏ quày về,
Hiệp nhau một khối chớ hề phân ly.
Đả-đảo bọn Nam-kỳ nô-lệ,
Kiếp cúi lòn thế-hệ qua rồi.
Lời vàng kêu gọi khắp nơi,
Anh em chiến-sĩ nhớ lời ta khuyên.
(Viết vào lối tháng 2 tại Miền-Đông, năm 1946 để khuyên anh em tín-đồ Hòa-Hảo chấm dứt các cuộc xung-đột với Việt-Minh).
QUYẾT RỨT CÀ-SA
Thấy dân thấy nước nghĩ mà đau,
Quyết rứt cà-sa khoác chiến-bào.
Đuổi bọn xâm-lăng gìn đất nước,
Ngọn cờ độc-lập phất-phơ cao.
Ngọn cờ độc-lập phất-phơ cao,
Nòi giống Lạc-Hồng hiệp sức nhau.
Tay súng tay gươm xông trận địa,
Dầu cho giặc mạnh há lòng nao.
Dầu cho giặc mạnh há lòng nao,
Nam-Việt ngàn xưa đúc khí hào.
Lúc giặc xâm-lăng mưu thống-trị,
Anh-hùng đâu sá cảnh gian-lao.
Anh-hùng đâu sá cảnh gian-lao,
Chiến-trận giao-phong rưới máu đào.
Miễn đặng bảo-tồn non nước cũ,
Giữ an tánh mạng cả đồng-bào.
Miền Đông, năm 1946.
TẶNG HỘI-ĐỒNG CỐ-VẤN NAM-KỲ
Tám ông Cố-vấn Hội-đồng,
Phùng mang trợn mắt ra công bán nòi.
Hô hào nghinh-tiếp quân voi,
Về vày mộ tổ để vòi mề-đay.
Thinh múa mỏ, Phát khoe tài,
Nam-Kỳ hiến-pháp sắp bày mị dân.
Nào là chấn-chỉnh (củng-cố) hương-lân,
Để cho lũ chó làm sân săn mồi.
Vụng-về thay, bọn Tây-bồi !
Sắm tuồng vẽ mặt mà giồi phấn đen.
Ngàn muôn cử-chỉ đê-hèn,
Cúi lòn, bưng bợ tập rèn công phu.
Lòng mong dân nước dại ngu,
Để đám nghị mù tự-tiện làm quan.
Nào ngờ trong lúc dở-dang,
Nghị Phát vắn số suối vàng vội đi.
Nghị Thinh lụy nhỏ lâm-ly,
Than rằng bạn nỡ bỏ đi giữa chừng !
Họp bàn tính kế trùng hưng,
Vợ bạn đã nửa chừng xuân nhưng còn,
Ra tay dìu-dắt bốn con,
Suối vàng bạn hỡi lòng còn ghen không?
Muôn dân như chửa vừa lòng,
Ước sao cả lũ vào tròng Diêm-La.
Từ nay trong nước Nam ta,
Thề rằng chẳng chịu đẻ ra giống nầy.
Miền Đông, năm 1946.
NGHỊ THINH VỚI CAO-ỦY D’ARGENLIEU (*)
NGHỊ THINH: Dạ dạ … Dám bẩm quan Cao-Ủy,
Thậm chí nguy, thậm cấp chí nguy !
Rối beng trật-tự Nam-Kỳ,
Bạn tôi Nghị Phát mạng phi mất rồi.
Còn bảy ông ngồi trơ mỏ chó,
Lòng những lo sóng gió bất kỳ.
Nếu không phương pháp phòng nguy,
Ức tình tôi sẽ điện đi hoàn-cầu.
Cho thế-giới góp thâu tài-liệu,
Rằng Việt dân chẳng chịu phục tòng.
Thế nầy cai-trị sao xong,
Trả nước lại nó mới hòng ngủ yên.
D’ARGENDIEU: Quan Cao-Ủy mặt liền sầm lại,
Lũ dân gì kỳ quái lạ thường.
Máy bay tàu chiến biểu-dương,
Rõ-ràng Đại-Pháp hùng-cường thế ni.
Mà chúng vẫn khinh-khi sự chết,
Chẳng lẽ ta giết hết trẻ già.
Bằng không, muốn dứt can-qua,
Giao cho việc nước việc nhà nó toan.
Mình làm khách bàng-quan thì khoẻ,
Nước Việt-Nam son trẻ ra đời.
Cộng-hòa đem lại khắp nơi,
Muôn dân an-lạc thảnh-thơi phú-cường.
NGHỊ THINH: Nghị Thinh nghe bèn òa tiếng khóc,
Thế còn công khó nhọc tôi đâu ?
D’ARGENDIEU: Mua cho ông một vé tàu,
Ba-ri đến đó ngõ hầu dung thân.
(*) Georges Thierry d'Argenlieu (phát âm tiếng Việt: Đác-giăng-li-ơ) (1889-1964) là một nhà ngoại giao và đô đốc người Pháp. Ông là một trong những lãnh đạo của Lực lượng Pháp tự do và Hải quân Pháp tự do (Forces navales françaiseslibres). Miền Đông, năm 1946.
TÌNH YÊU
Ta có tình yêu rất đượm nồng,
Yêu đời yêu lẫn cả non sông.
Tình yêu chan-chứa trên hoàn-vũ,
Không thể yêu riêng khách má hồng.
Nếu khách má hồng muốn được yêu,
Thì trong tâm chí hãy xoay chiều.
Hướng về phụng-sự cho nhơn-loại,
Sẽ gặp tình ta trong khối yêu.
Ta đã đa mang một khối tình,
Dường như thệ-hải với sơn-minh.
Tình yêu mà chẳng riêng ai cả,
Yêu khắp muôn loài lẫn chúng-sinh.
(Một thiếu-nữ ở Sài Gòn thầm yêu Đức Thầy trong khi Ngài còn ẩn lánh V.M và Pháp; thấy vậy, Đức Thầy bèn viết ba bài thi trên đây để cảnh tỉnh cô ấy). Miền Đông, năm 1946.
LẤY CHỒNG CHỆT
Lúc Đức Thầy đang ẩn lánh 1946, Ngài có gặp một cô gái Việt lấy chồng Ngô.
Tức cảnh, Ngài có làm bài thi sau đây (dùng biệt hiệu Hoài-Việt):
Cô ơi, nước Việt-Nam thiếu gì trai trẻ,
Mà vội đi lấy lẽ “ba Tàu” ?!
Của tiền quí báu là bao,
Đem tuổi mười tám so vào bốn mươi ?
Rồi nuôi tánh biếng lười mê ngủ
Để ngày kia ủ-rủ đau thương.
Khi ba Tàu xách gói hồi hương,
Vàng bạc tóm, bỏ cô thơ-thẩn.
Cô nhìn theo muôn vàn tiếc hận,
Cô vì chàng mà bẩn tiết-trinh.
Cô tủi thân, cô lại bất bình,
Nhưng muộn quá, tuổi xuân không trở lại.
Trông tương-lai cô đầy sợ hãi,
Hoa úa tàn người lại rẻ khinh.
Cô tiếc rằng phải tuổi còn xinh (xanh),
Cô sẽ chọn người chồng Nam-Việt.
Ở trong hàng thanh-niên, thanh-niết,
Tuy nghèo hèn mà biết thỉ chung.
Yêu đương nhau đến phút cuối cùng,
Vợ chồng ấy mới chân hạnh-phúc.
Ta là khách phương xa tá-túc,
Thấy sự đời vẽ khúc văn-chương.
Thấy đời cô chìm-đắm trong gió sương,
Than ít tiếng gọi hồn chủng-loại.
Việt-Nam ! người Việt-Nam mau trở lại !
Yêu giống nòi có phải hơn không ?
Dầu sao cũng giống Lạc-Hồng !
Miền Đông, năm 1946.