LỘ CHÚT CƠ HUYỀN
Trần-thế lợi danh giấc mộng tràng,
Đời cùng Tiên Phật hạ phàm gian.
Hỡi ai tâm trí mau tầm Đạo,
Tầm đấng hiền từ cứu thế-gian.
Khắp trong bá-tánh kề cảnh khổ,
Đạo-đức hiền lành kiến Tiên-bang.
Thiên-địa u-minh dĩ đạo tràng,
Thập bát chư hầu lụy há khan.
Đạo-lý tầm sâu, sâu chẳng cạn,
Đời cùng ly-loạn khắp chư bang.
Thương hải tang điền ắt chẳng yên,
Thiên Địa diệt gian dĩ thiện riêng.
Cơ thâm họa diệc từ đây có,
Bộ máy thiên-cơ ắt đảo huyền.
Tuất-Hợi nhị niên giai tiền định,
Huờn lai Thượng-cổ mới bình yên.
Điên này vốn thiệt ở núi vàng,
Thương đời nói rõ việc lầm than.
Khuyên trong lê-thứ mau mau tỉnh,
Yên trí nghĩ suy biết đá vàng.
Ý gì Tiên-Trưởng muốn khuyên đời,
Mà đời lầm-lạc lắm đời ôi!
Đạo-đức nhuốc-nhơ mà sao đặng,
Tỉnh giấc mau mau mới kịp thời.
Bi-động từ tâm gọi mấy lời,
Chúng-sanh Nam Bắc lụy tuôn rơi.
Kim-Sơn xem thấy lòng tha-thiết,
Mà còn nhiều lắm, chúng-sanh ôi!
Nam-Việt cúi lòn dài dặm-dặc,
Nhưng ấy chẳng qua tại lẽ trời.
Đạo-hạnh huyền-cơ khuyên đó kiếm,
Chẳng vậy sau nầy khó thảnh-thơi.
Cổ ngữ hằng ghi thậm khổ đa,
Tận diệt nhơn-gian trực tiên khoa.
Lão giả hậu qui nhơn ấu giả,
Ly-kỳ thiên định dĩ thiên-la.
Tây-Phương trở gót quá xa đàng,
Thương xót Nam-kỳ lại An-giang.
Đoái thấy xóm làng thêm bắt chán,
Yêu đời mê-muội luống bầm gan.
Thiên-Trước tòa sen có chỗ ngồi,
Xuống trần chẳng dụng chốn cao ngôi.
Khắp trong Sáu-Tỉnh toàn giả dối,
Xá phướn tăng-sư tạo việc tồi.
Thiên-cơ thế-giới đà biến chuyển,
Từ rày trần-hạ lợi danh trôi.
Tu hành giả dối khuyên khá đổi,
Cúng kiếng trai đàn cũng nên thôi.
Hòa-Hảo, tháng 6 năm Kỷ-Mão.
CHO ĐỨC ÔNG MẤT GHE
Thoàn nhỏ ly gia vị tất nan,
Bửu sanh du-lịch Lục-Châu giang.
Kim-Sơn thương-mãi toàn lê-thứ,
Thức tỉnh bá-gia giấc mộng tràng.
(Đức Thầy đọc bài nầy cho Đức Ông nghe và bảo Đức Ông kiếm mấy ông thầy nho mượn bàn thử!) Hòa-Hảo, tháng 7 Kỷ-Mão.
MẶC TÌNH AI
Bá gia mặn lạt mặc tình ai,
Đạo-lý tầm đâu chẳng thấy rày.
Chỉ thấy hình trơ thân xác trọi,
Ai người tâm đạo nghĩ càng hay;
Ai người thích đạo thấy chàng ray.
Thầm thầm tối tối gẫm ai hay,
Mặc sức dương-trần chữ đắng cay.
Có báu thì ta dành của báu,
Ai tầm cho giỏi mới được hay.
Lo lo liệu liệu chịu tiếng trần,
Có một hội nầy rán lập thân.
Chớ để trễ chầy rèn chẳng kịp,
Khuyên ai khuya sớm rán chuyên cần.
(Nhơn việc người ngoại Đạo chỉ-trích Đức Thầy) Hòa-Hảo, tháng 6 năm Kỷ-Mão.
BÁNH MÌ
Mì kia gốc phải nước mình không?
Nghe thấy rao mì thốt động lòng.
Chiếc bánh não-nùng mùi khách lạ,
Bát cơm đau-đớn máu cha ông.
Văn-minh những vỏ trưng ba mặt,
Thấm-thía tim gan ứa mấy giòng.
Nhớ lại bảy mươi năm trở ngược,
Say mì lắm kẻ bán non sông.
Khải-hoàn dân-chúng mới nhàn an,
Dân mảng còn mê giấc mộng tràng.
Thảm-thê thế sự mùi cay đắng,
Ta hỡi đau lòng khách ngoại bang.
(Tại nhà ông Nguyễn-Duy-Hinh) Hòa-Hảo, năm Kỷ-Mão.
Ông LƯƠNG-VĂN-TỐT hỏi:
Mộ đạo ơn trên chưa hiểu danh,
Xin ông phân cạn chúng nghe rành.
Ba ngàn thế-giới ai là chủ?
Mở lượng từ-bi dạy chúng-sanh.
ĐỨC THẦY đáp họa:
Vưng lịnh Phật Tôn chưa hiệu danh,
Ngặt vì pháp-luật khó phân rành.
Càn-khôn muốn biết ai là chủ,
Tu hành theo dõi đến mây xanh.
Vì sao thế-giới lại ba ngàn?
Học đã rành chưa đến hỏi han?
Đã lãm nho văn thì hãy đối,
Đáp lời cho vẹn kiến Tiên-bang.
Đời văn-vật say mê khổ thảm,
Người nào đà tường lãm nho-văn;
Xưa nay mèo-mả lung-lăng,
Làm cho quên mất Đạo hằng thánh-nhơn.
Nay gặp kẻ có cơn thức-tỉnh,
Phận làm người thủng-thỉnh sửa-sang.
Tay xuống bút nói lang chuyện thế,
Bày đạo mầu cứu-tế nhơn sanh;
Kìa kìa các bực công-khanh,
Miễu son tạc để đành rành chẳng sai.
Hỡi ai kẻ học hay lo liệu,
Rứt bụi trần bận-bịu làm chi.
Làm cho rồi phận tu-mi,
Sau nầy sẽ thấy ly-kỳ Năm-Non.
Chừng Bảy-Núi lầu son lộ vẻ,
Thì người già hóa trẻ dân ôi!
Tu hành ắt được thảnh-thơi,
Lại xem được Phật được Trời báu thay!
Thân hành đạo đắng-cay phải chịu,
Phận làm người phải liệu cho xong.
Cần chi gạn hỏi viển-vông,
Làm người chưa vẹn khó hòng thảnh-thơi.
Nói nhiều lắm xe lơi tình nghĩa,
Chữ hiền lành trau-trỉa cho xong;
Thấy đời trần hạ long-đong,
Chẳng lo khó thấy Mây-Rồng hội kia.
(Ông Tốt ở làng Mỹ-Hội-Đông, tỉnh Long-Xuyên) Hòa-Hảo, tháng 6 năm Kỷ-Mão.
CHO CÔ TƯ CỨNG Ở HÒA-HẢO (CHÂU-ĐỐC) MẤT ĐỒ
Kích động thiện tâm lụy xót-xa,
Thoàn loan trở gót dụng tiên-khoa.
Khuyên giải phàm nhơn tan sầu muộn,
Vật-dụng gia-đình khó kiếm ra.
Thiên định số căn mới xảy ra.
Đoái thấy tà-gian Trung-Trực ghét,
Nhưng vì vận hạn chẳng phui ra.
Hòa-Hảo, ngày 17 tháng 7 năm Kỷ-Mão. (Bài nầy Đức Thầy bảo cậu út Huỳnh Thạnh-Mậu, bảo đệ của Ngài, đem trao cho cô tư Cứng nói rằng là "của ông thầy bói mượn đưa cho cô"). L.S.G.- Trong cuốn "Sấm Giảng khuyên người đời tu niệm" có đoạn nói về chuyện cô tư Cứng mất đồ như vầy:
"Con thuyền đương lướt gió sương,
Bỗng nghe tiếng khóc tư-lương ai-hoài.
Có người ở xóm bằng nay,
Bị mất trộm rày đồ-đạc sạch trơn.
Du-thần bày tỏ nguồn cơn,
Rằng người nghèo khó đương hờn phận duyên.
Điên nghe vội-vã quày thuyền,
Dùng khoa coi bói giải phiền phàm nhơn.
Coi rồi bày tỏ thiệt hơn,
Khuyên cô đừng giận đừng hờn làm chi."
CHO ĐỨC ÔNG VÀ ĐỨC BÀ
Chừng nào vết nọ liền da, (*)
Chuột kia mãn hạn khỉ vào vườn hoa.
Ấy là thời đại của ta,
Thầy ra cứu thế mới là hiển-vinh.
(*) Sau khi đi Tà-Lơn với Đức Thầy về, Đức Ông đau bàn chơn trái ngót hai tháng. Hòa-Hảo, tháng 8 năm Kỷ-Mão.
"HỐ HÒ KHOAN" (*)
Huỳnh long lộ vĩ; Bạch-sĩ tiên sanh,
Nam-quốc công khanh; Ra đời cứu tế;
Hò xang xự xế; Mắc kế Trương-Lương,
Tự giác thôn-hương; Qua dương cơ-khí.
Lập chí hiền nhơn; Nên mới có cơn,
Thất-Sơn tiếng nổ; Qui cổ diệt kim.
Cửu cửu y nhiên; Tình riêng tham báu,
Đổ máu tuôn rơi; Khùng mới nói chơi,
Chư bang hàng phục.
Anh hố hò khoan; Tình lang xự xế,
Bỏ phế hương thôn; Ác đức vô môn.
Rồng-Mây hội yến; Ra đời bất chiến,
Nổi tiếng từ-bi; Lời lẽ rán ghi.
Thành công êm thấm; Có lắm người yêu.
(*) Phần nhiều bài của Đức Thầy không có đề tựa. Muốn cho tiện việc sắp-đặt trong quyển sách nầy, chúng tôi tùy theo ý nghĩa của mỗi bài mà đề một cái tựa. Những bài nào có tựa mà chúng tôi chắc rằng do Đức Thầy đặt thì chúng tôi đề vào dấu móc (entre crochets). Hòa-Hảo, lối tháng 8 năm Kỷ-Mão.
HƯƠNG-CHỦ ĐẠT xướng:
Đạo mầu phận tớ hiểu chưa rành,
Cầu nguyện Di-Đà độ chúng-sanh.
Bể giác, bờ mê mong thoát khỏi,
Nhờ thuyền bát-nhã giúp công thành.
ĐỨC THẦY họa:
Thâm diệu rồi đây cũng hiểu rành,
Một lòng nguyện độ tận nhơn-sanh.
Giác-mê hai chữ rồi ta chỉ,
Chí dốc ngày kia sẽ đạt thành.
(Ông Đạt ở làng Nhơn-Mỹ, tỉnh Long-Xuyên) Hòa-Hảo. năm Kỷ-Mão.
Ông NGUYỄN-THANH-TÂN xướng:
Phận hèn cám tưởng nghĩa non sông,
Hản mặt rồi đây khách cõi Bồng.
Cẩm-tú lắng tai người Nhược-thủy,
Từ-bi cảm-ứng thứ trung thông.
ĐỨC THẦY đáp họa:
Cảm nghĩa sĩ hiền tưởng núi sông,
Thương người đưa đến chốn tiên Bồng.
Cẩm-tú lòng yêu vì quốc thủy,
Đợi thời đưa đến ứng trung thông.
Ông Nguyễn-Thanh-Tân tức Hương-Lễ-Ướng là người ở làng Mỹ-Hội-Đông, thuộc tỉnh Long-Xuyên. Theo lời một người con trai của ông, thì mấy bài thi dưới đây ông đã làm khi diện kiến Đức Thầy lần thứ nhứt. Hòa-Hảo. năm Kỷ-Mão.
THANH TÂN hựu tác:
Mảng-mê danh-lợi đạo lu-bù,
Nhờ có ơn Thầy dẫn-dắt tu.
Mê tỉnh, tỉnh mê, mê phải tỉnh,
Bồ-đề say gục phá tam ngu.
ĐỨC THẦY họa:
Dạy chúng chưa xong dạ rối bù,
Mấy chục năm trường lạc chữ tu.
Sanh-chúng say mê, mê cho tỉnh,
Bồ-đề chẳng mến, ấy người ngu.
Hòa-Hảo năm Kỷ-Mão.
THANH-TÂN vấn gia-đình
Gia-đình kỷ cá hội long đàn,
Ngưỡng vọng cao ân tố nghiệp xang.
Phi vụ tiến phong tầm chánh lý,
Nho tông vị bác hiệp tôn nhan.
ĐỨC THẦY đáp :
Mộng sầu tan giác hiệp liên đàn,
Hai chữ từ-bi thẩm nghiệp an.
Bài trí năng soi chơn giáo-lý,
Phật tiền hưởng ứng kiến long nhan.
Hòa-Hảo. năm Kỷ-Mão.
HIẾU NGHĨA VI TIÊN
Nhơn sanh hiếu nghĩa dĩ vi tiên,
Hành thiện tri kinh thị sĩ hiền.
Kiếm huệ phi tiêu đoàn chướng-nghiệp,
Phật tiền hữu nhựt vĩnh an nhiên.
(Ông Thanh-Tâm có họa lại bài trên đây, nhưng xin miễn chép). Hòa-Hảo. năm Kỷ-Mão.
CÚC CUNG BÁI
Cúc cung, hưng bái, cúc cung hoài,
Lui tới nhúng trề, xướng lại dai.
Ton tán, ton tờn thêm cóc xẻng,
Vỗ bồng vác hất, thấy càng gay
Khuyên thôi mà tiếc vẫn cung hoài,
Miến triu hơ-hà thiệt rất dai.
Sắp đến khó mong mà cóc xẻng,
Thất mùa chẳng rước thật là gay.
Vóc-vạc trung trung béo mập người,
Tuổi vừa sồn-sộn quá năm mươi.
Bụng to tai điếc ưa nghề lễ,
Thi phú thâm trầm chớ dể ngươi.
Khá khen cho đó ý như lời,
Chơn-chất hiền hòa ít nói chơi.
Nhu sĩ lương từ thêm cảm mến,
Nên làm thi phú ghẹo ngườii ơi!
(cho ông Hương-Lễ-Ướng. Ông Hương-Lễ-Ướng tức Nguyễn-Thanh-Tân có đáp họa 4 bài thi trên đây, nhưng xin miễn đăng) Hòa-Hảo năm Kỷ-Mão.
BÀI CẦU CƠ
Nguyễn đắc thanh danh tam hữu phân,
Đa công hoài luyện thập niên phần.
Chúng kỳ vật xảo thiên truyền bá,
Phước lộ hoành thân ngũ sắc vân.
ĐỨC THẦY họa:
Nải chí thi âm tất hữu phân,
Thiên nhiên liên huệ tác nhi phần.
Vạn ninh hà hải vi vương bá,
Viễn vọng thanh tân tảo phi vân.
(Bài nầy do một người ở Phú-Lâm, cầu cơ tại trên núi, đem đến Đức Thầy). Hòa-Hảo năm Kỷ-Mão.
NHỨC ĐẦU
Nhức đầu rang óc bởi vì đâu,
Nhức mỏi lòng trông dạ hết sầu.
Nhức dạ chờ ngày Trời trả phúc,
Nhức gân, nhức cốt cả trời Âu.
Nhức đầu bị tiếng nổ đâu đâu,
Nhức quyết làm cho chúng thoát sầu.
Nhức thống dân sanh gầy hạnh-phúc,
Nhức tràng lê-thứ khỏi lo âu.
Hòa-Hảo. năm Kỷ-Mão.
KHUYÊN BỎ DỊ-ĐOAN
Thiện-tín tới đây chớ ngã lòng,
Xác trần mê mệt nỗi long-đong.
Cậu, cô, chú bác đừng coi bói,
Theo lối dị đoan mất bạc đồng.
Bạc đồng chẳng dụng, dụng chơn không,
Quyết chí nâng-niu giống Lạc-Hồng.
Tìm-tõi Đạo mầu trong Phật-Pháp,
Cho đời hiễu rõ lý chơn không.
(Đức Thầy viết bài nầy vì lúc đó có nhiều người đến nhờ Ngài đoán giùm vận mạng hoặc việc gia-đình) Hòa-Hảo. năm Kỷ-Mão.
NGHĨ VIỆC HUYỀN CA
Ngồi buồn nghĩ cạn việc huyền ca,
Muốn rứt cho xong bể ái-hà.
Phá bức tường mây nhìn vạn vật,
Ngặt vì trướng lụa lấp đèn pha.
Lôi-thôi quá chậm trong đường thẳng,
Trể-nải khó qua nẻo cọp-xà.
Một bước leo bờ mà khỏi khổ,
Nam nhân chi chí đâu là.
Đâu là ái-quốc với yêu đời,
Phổ cứu cho rồi mới thảnh-thơi.
Trời Nam sốt ruột chờ con đỏ,
Đất Bắc lòng lang nổi thậm lời.
Cố tưởng người trần trần chẳng đoái,
Tinh sâu dân sự, sự xa vời.
Rồng tiên mở mặt nhìn thi phú,
Hiệp mặt tớ thầy sẽ nghỉ-ngơi.
Thâm hiểu lòng ta nỗi cuộc đời,
Một bầu nhiệt huyết chẳng xo lơi.
Mến yêu quốc-thủy tình đồng chủng,
Phải tính sao xong nổi cuộc đời.
Hòa-Hảo. năm Kỷ-Mão.