GỌI ĐOÀN PHỤ-NỮ
Chị em ôi, Bắc Nam là một,
Chị em là rường cột giống-nòi.
Dở sử xanh Nam-Việt mà coi,
Gương Trưng, Triệu còn roi muôn thuở.
Chẳng có lẽ xưa hay mà nay dở,
Khiếp-nhược là cái cớ vong gia.
Chí anh-hùng của khách quần-thoa.
Đâu có kém bực tu-mi nam-tử.
Sách Thánh-hiền truyền lưu mấy chữ,
Thất-phu còn trách-nhiệm với non sông.
Cả tiếng kêu bạn gái má hồng,
Đem son phấn điểm-tô Tổ-Quốc.
Sài Gòn, tháng tư năm Ất-Dậu (1945)
KHUYẾN NÔNG
Hỡi đồng-bào! Hỡi đồng-bào!
Thần chết đã tràn vào Trung-Bắc,
Ngày lại ngày siết chặt giống nòi;
Lật qua các bài báo mà coi,
Thấy con số chết xem mòi kinh nguy.
Cũng tại vì Tây-di bày kế,
Phá-hoại nền kinh-tế nước ta.
Làm cho điên-đảo sơn-hà,
Làm cho điêu-đứng con nhà Lạc-Long.
Bỗng phút đâu cuồng phong một trận,
Quân Phù-Tang khai hấn bất kỳ.
Còn đâu mưu khéo giải vi,
Còn đâu hoãn kế trong kỳ viện binh?
Dầu những kẻ vô tình với nước,
Cũng tỉnh hồn mơ-ước tự-do.
Tiếng vang độc-lập reo hò,
Từ Nam chí Bắc nung lò khí thiêng.
Quyết phen nầy kết-liên một khối,
Đem máu đào tắm gội giang-san.
Giờ đây đem lại mùa-màng,
Năm rồi miền Bắc tan-hoang còn gì.
Chỉ có xứ Nam-Kỳ béo-bở,
Cơ-hội nầy bỏ dở sao xong.
Cả kêu điền-chủ phu-nông,
Đứng lên đừng để ruộng đồng bỏ hoang.
Muốn cứu khỏi tai nàn của nước,
No dạ dày là chước đầu tiên.
Nam-Kỳ đâu phải sống riêng,
Mà còn cung-cấp cho miền Bắc, Trung.
Quân-đội Nhựt cần dùng lương thảo,
Cũng phải ăn lúa gạo Nam-kỳ.
Ta còn ngần ngại nỗi chi,
Mà không cày cấy kịp thì hỡi-dân?!
Điền-chủ phải một lần chịu tốn,
Giúp áo quần, giúp vốn thêm lên.
Muốn cho dân được lòng bền,
Mua giùm canh-cụ là nền khuếch-trương.
Giá mướn phải thường thường dễ thở,
Xử ôn-hòa niềm-nỡ yêu nhau.
Cùng chung một giọt máu đào,
Phen nầy hiệp sức nâng cao nước nhà.
Kẻ phu-tá cũng là trọng trách,
Cứu giống-nòi quét sạch non sông.
Một phen vác cuốc ra đồng,
Thề rằng ruộng phải được trồng lúa khoai.
Mưa nắng ấy đâu nài thân xác,
Chí hy-sinh dầu thác cũng cam.
Miễn sao cho cánh đồng Nam,
Dồi-dào lúa chín gặt đam về nhà.
Chừng ấy mới hát ca vui-vẻ,.
Ai còn khinh là kẻ dân ngu.
Không đem được chút công-phu,
Không đem sức-lực đền-bù nước non.
Gởi một tấc lòng son nhắn-nhủ,
Khuyên đồng-bào hãy rủ cho đông.
Nắm tay trở lại cánh đồng,
Cần-lao, nhẫn-nại Lạc-Long tổ truyền.
Sài Gòn, tháng tư năm Ất-Dậu (1945)
ĐÍNH-CHÁNH
Gần đây lắm kẻ ngoa truyền,
Một bài sấm-ngữ nơi miền Hậu-giang.
Nói rằng: tháng tám tai nàn,
Tồi-tăm trời đất tan-hoang cửa nhà.
Kẻ gần rồi đến người xa
Từ trong thôn dã đến ra thị-thành.
Hại cho quốc-kế dân-sanh,
Ruộng đồng tươi đẹp dân đành ngó lơ.
Thương thay những kẻ ngu khờ,
Lầm mưu gian-trá ngẩn-ngơ ưu-sầu.
Hỏi rằng: Sấm bởi nơi đâu,
Nói: “Ông Hòa-Hảo làm đầu truyền ra”.
Buộc lòng tôi phải đính ngoa,
Cho trong toàn quốc gần xa được tường.
Chuyện ấy là chuyện hoang-đường,
Của bọn phá-hoại chủ-trương hại mình.
Anh em ta hãy đồng tình,
Nếu gặp “nắm óc” đem trình “Công-An”.
Chúng ta giải-quyết lẹ-làng,
Đừng để chuyện huyễn tràn lan ra nhiều.
Ký tên: HÒA-HẢO
Sài Gòn, tháng tư năm Ất-Dậu (1945)
VIỆT-NAM PHẬT-GIÁO LIÊN-HIỆP-HỘI
TÔN-CHỈ. Liên-hiệp các tôn phái đạo Phật, các nhà sư, các tín-đồ, các-nhà trí-thức có xu-hướng về Phật-giáo để:
1./ Tìm cách nâng cao tinh-thần đạo Phật.
2./ Tìm những phương-tiện cứu-giúp kẻ nguy-nàn vì thời cuộc gây ra.
3./ Giúp đỡ lẫn nhau trong việc quan, hôn, tang, tế.
4./ Binh-vực lẫn nhau trong sự tín-ngưỡng tự-do.
ĐIỀU-KIỆN NHẬP HỘI. Bất luận nhà sư hay cư-sĩ, trí-thức, bần-dân hễ được có xu-hường rõ-rệt về Phật-Giáo, thành tâm chuẩn-nhận cái tôn-chỉ trên đây, đều được gia-nhập vào Hội, ở tôn-phái nào cũng đặng, mặc dầu gia-nhập Hội, nhưng vẫn giữ được sự tu hành và cúng-kiếng của THẦY mình hay TÔN-PHÁI mình.
Các tôn-giáo khác muốn liên-hiệp, phải có cuộc bàn-bạc riêng.
HỘI VIÊN. Hội-viên phân làm hai hạng:
I.- Hoạt-động hội-viên,
II.- Tương-trợ hội-viên.
a)- Hoạt động hội-viên–Gồm các nhà sư hay cư-sĩ, trí-thức có lòng hy-sinh đời mình, tài-sản mình, mong mở-mang nền đạo-nghĩa và giúp nhân-loại trong sự lầm than.
b)- Tương-trợ hội-viên–Gồm tất cả đại-chúng có lòng thiện-từ, vì gia-đình, vì sự nghiệp làm ăn, không thế hy-sinh nhất-thiết, nhưng có lòng tán-dương ủng-hộ công việc của Hội bằng tinh-thần hay vật-chất.
TRỌNG-TRÁCH HỘI-VIÊN
1. Phải giải-thích các tôn-chỉ của Hội cho quần-chúng hiểu rõ và làm cho Hội mau phát-triển.
2. Tuân theo các điều-lệ của Hội.
3. Giúp nguyệt-phí cho Hội.
QUYỀN-LỢI CỦA HỘI-VIÊN
1. Hội phải cho giấy chứng-nhận là người của Hội.
2. Hội sẽ binh-vực khi sự tín-ngưỡng của mình bị kẻ khác hủy-hoại.
3. Nếu cần đến, Hội sẽ giúp-đỡ trong việc ốm đau, hay quan, hôn, tang, tế, tùy theo sức của Hội.
4. Hội-viên có quyền bày tỏ ý-kiến mình về việc đạo-đức hay công cuộc phước-thiện đối với nhơn-sanh.
5. Hội-viên có quyền bình-phẩm, chất-vấn hoặc tố-cáo các công việc của Hội một cách thân-hữu.
6. Hội-viên có quyền xin ra khỏi Hội khi thấy mình không thể đeo-đuổi công việc của Hội.
7. Hội-viên có quyền cử Ban Trị-Sự và ứng-cử.
TRỤ-SỞ CỦA HỘI . Hội sẽ lấy chùa của Hội-viên, nhà cửa của những người từ tâm dưng cúng, hoặc là Hội mua, cất hay mướn, làm trụ-sở cho Hội.
NGUYÊN-TẮC TỔ-CHỨC. Các Ban Trị-Sự của Hội ở các nơi sẽ do đại-biểu của các tôn-phái nhà Phật trong xứ, các trí-thức và Thiện-nam, Tín-nữ đề-cử thành-lập. Các nhà sư, các cư sĩ, các thiện trí-thức hoạt-động (nam nữ không phân) có đủ tài đề chỉ-huy và được lòng tín-nhiệm của đại-chúng là điều-kiện tối cần cho nhân-viên trong Ban Trị-Sự.
Mỗi phái đều cử người đại-biểu trong Ban Trị-Sự
HỆ-THỐNG TỔ-CHỨC
a)- Về toàn quốc, có Ban Trị-Sự Việt-Nam Phật-Giáo Liên-Hiệp Hội chấp-hành toàn quốc, về toàn xứ có Ban Trị-Sự V.N.P.G.L.H.H. chấp-hành toàn xứ, về toàn tỉnh có Ban Trị-Sự V.N.P.G.L.H.H. chấp-hành toàn tỉnh, về toàn thôn có Ban Trị-Sự chấp hành toàn thôn.
b)- Các Ban Trị-Sự mỗi xứ, mỗi tỉnh, mỗi quận, mỗi thôn đều phải tuân theo mạng-lịnh của Trung-Ương, làm việc hằng ngày phải liên-lạc với Thượng và Hạ cấp.
c)- Tất cả Ban Trị-Sự mỗi năm phải cử lại một lần, ngày cử sẽ có Ủy-Ban Trung-Ương thông-cáo trước, khi cử xong Ban Trung-Ương sẽ bố-cáo danh-sách của các nhân-viên đắc cử cho Hội-viên hay.
d)- Khi các B.T.S. mỗi xứ, mỗi tỉnh, mỗi quận, mỗi thôn cử xong phải đệ-trình danh-sách lên cho Ban Trung-Ương thừa nhận.
Ban Trị-Sự gồm có:
I)- Chánh và Phó Hội-Trưởng
II)- Chánh và Phó Thơ-ký
III)- Chánh và Phó Thủ Quỹ
IV)- Hai viên Kiểm-soát
V)- Hai viên Cố-vấn
VI)- Hai viên Tuyên-truyền và Liên-lạc
VII)- Ba viên Dự-khuyết
e)- Các B.T.S. ngoài việc hằng ngày ra mỗi tháng phải hội-họp một lần tại hội-quán, hoặc nhà, hoặc chùa của Hội-viên đặng hội nhóm để nghe các nhân-viên trong Ban Trị-Sự bày tỏ sự hoạt-động của Hội. Ngày hội-họp định vào ngày 15 và 30 âm lịch trong mỗi tháng.
f)- Khi các B.T.S. cử xong, phải khẩn-cấp lập thêm 3 Ban:
I)- Ban Nghiên-cứu đạo Phật. II)- Ban Huấn-luyện và Truyền-bá đạo Phật. III)- Ban Chẩn-tế, lo tìm phương giúp-đỡ kẻ khốn-cùng.
I)- Ban Nghiên-cứu đạo Phật.- Gồm các nhà sư, những nhà thông-thái, để hằng ngày tra cứ kinh-điển, dịch sách, hay viết sách nói về đao Phật.
II)- Ban Huấn-luyện và Truyền-bá đao Phật.-Gồm các nhà sư, cư-sĩ, trí-thức hoạt-động, đặng Hội phải đi các nơi giảng-giải đạo Phật cho đại-chúng nghe, hoặc giả mở trường dạy đạo Phật.
III)- Ban Chẩn-tế.- Gồm các nhà hảo tâm từ-thiện nam-nữ hoạt động, chuyên lo cứu giúp kẻ nghèo-nàn đói-khó, tật-bịnh, hoặc giả thành-lập các nhà dưỡng lão nuôi trẻ mồ côi, người tàn-tật, nếu có thể được, nên mua trữ thuốc men vải bô, lúa gạo để dành cho cuộc phước-thiện.
KỶ-LUẬT CỦA HỘI
A)- Không được ganh-ghét chế-nhạo lẫn nhau nếu khác Thầy hay khác Tôn-giáo.
B)- Không được khuyến dụ bổn-đạo của ông sư hoặc tôn-phái khác bỏ THẦY hay Tôn-phái người ta theo THẦY hay Tôn-giáo mình.
C)- Không được lợi dụng danh từ-thiện của Hội để quyên góp tiền bạc làm của riêng.
D)- Không được chế-nhạo các Tôn-phái khác.
Đ)- Phải hòa-nhã với tất cả các tôn-giáo khác và dân-chúng.
E)- Phải thành-thật yêu-thương đoàn-kết và tìm cách chỉ dạy lẫn nhau.
G)- Phải trung-thành với tôn-chỉ của Hội.
H)- Phải tố-cáo các hành-vi bất chánh của các Hội-viên trước Ban Trị-Sự, không được vì tình riêng mà giấu-giếm.
I)- Phải nhận lỗi và tỏ lòng ăn-năn hối-ngộ khi Ban Trị-Sự xét mình có lỗi.
K)- Phải chịu sự chỉ huy của Ban Trị-Sự địa phương mình.
Nếu phạm những điều trên đây:
-Lần thứ nhứt: Bị phê-bình
-Lần thứ nhì: Cảnh-cáo
-Lần thứ ba: Trục-xuất lập tức và giao cho pháp-luật trừng-trị.
HẠN ĐỊNH VỀ NGUYỆT-PHÍ
Vì có kẻ đủ sức người không, nên nguyệt-phí phân làm bốn hạng:
Hạng thứ nhứt: 3$00
Hạng thứ nhì: 2$00
Hạng thứ ba : 1$00
Hạng thứ tư: 0$50
Tất cả Ban Trị-Sự hễ chỗ nào cử xong đều trình lên Chánh-Phủ và nhà cầm quyền địa-phương danh-sách của Ban Trị-Sự và sổ sách cho Nhà-Nước kiểm-soát.
Sài Gòn, tháng tư Ất-Dậu (1945)
YÊU NƯỚC
Yêu nước bao đành trơ mắt ngó,
Thương đời chưa vội ẩn non cao.
Quyết đem tâm sự tâu cùng Phật.
Coi lịnh từ-bi dạy lẽ nào.
Bài này Đức Thầy đọc tại Phụng-Hiệp lúc đi khuyến nông; sau khi diễn thuyết, Đức Thầy hỏi câu nầy: “Tôi là một nhà tu hành, lẽ thì vào chốn non cao, núi thẳm, tu tâm dưỡng tánh, cớ nào hôm nay lại xen vào chánh-trị?!” Không ai nói gì, Đức Thầy có vẻ buồn, cau chơn mày rồi ngâm bài thơ tứ tuyệt trên đây. (Do theo lời ông Mai-Ngọc-Quế thuật lại). Phụng-Hiệp, tháng tư Ất Dậu (1945)
HỒI CHUÔNG CẢNH TỈNH NHỮNG KẺ TRÔNG TÂY, HẪNG-HỜ VỚI NẠN ĐÓI BẮC-KỲ
Nam-kỳ có một lũ hề,
Mày râu nhẵn-nhụi chuyên nghề buôn dân.
Nhờ ơn Mẫu-quốc vinh thân,
Giờ toan mua tảo bán tần nữa sao?
Dửng-dưng trước nghĩa đồng-bào,
Đói cơm khát nước trông vào thống tâm.
Làm ngơ, giả điếc, giả câm,
Tay ôm hủ bạc, mắt đăm đăm chờ.
Vái rằng: “Mẫu-quốc gặp cơ.”
Trở qua Nam-Việt con thờ muôn năm.
Dầu con nay ở xa-xăm,
Chớ lòng thương nhớ đứng nằm không yên.
Trước kia “nước mẹ” xin tiền,
Của muôn trong túi con liền tuôn ra.
Ngày nay tuy chẳng lại qua,
Con cũng lén-lén cúng cha ít nhiều.
Đồng-bào con chết bao nhiêu,
Con để mặc kệ quạ diều bươi thây”.
Ai ơi còn nước mơ Tây,
Mắt kia quá tối lại Thầy chửa cho.
SĨ-CUỒNG (biệt hiệu của Đức Thầy). Tháng tư năm Ất-Dậu, (1945)
CAI TỔNG CHÁNH (Cù-Lao GIÊNG) xướng:
Giữ đạo từ lâu kín nhẹm mầu,
Để lòng tầm đạo biết nơi đâu.
Ngửa mong bái-ái từ-bi hóa,
Trông lượng ơn Thầy chỉ đạo sâu.
ĐỨC THẦY đáp họa:
Kín nhẹm lòng nhơn ấy mới mầu,
Đức là đạo cả chớ nơi đâu?
Duyên lành sẵn có ơn trên hóa,
Bồi đắp nền nhơn đức lại sâu.
(Đức Thầy ứng khẩu đáp họa liền bằng cách đọc cho một người tín đồ chép vì lúc ấy Ngài đang dùng cơm). Long-Xuyên, tháng 4 Ất Dậu 1945
“PHỤ-NỮ CA DIÊU”
Ngán thay bổn-đạo đàn bà,
Lắm lời điêu-xảo gần xa đều tường.
Làm cho hoen-ố Phật-đường,
Không rèn được đức khiêm-nhường từ-bi.
Tu còn ái-ố sân-si,
Tu còn nhiều tánh dị-kỳ trần mê.
Khó mong cửa Phật dựa kề,
Càng gần địa-ngục nhiều bề thảm thương.
Tỉnh tâm đốt nén tâm hương,
Nguyện rằng đệ-tử một đường lo tu.
Ăn-năn kẻo uổng công phu…!
(trong lúc Đức Thầy đi Khuyến-nông) Sa Đéc, ngày 28-7-45
TẶNG THI-SĨ VIỆT-CHÂU
Thi-sĩ Việt-Châu tức là ông Nguyễn-Xuân-Thiếp mà hầu hết anh em tín-đồ đều nghe danh. Là văn-sĩ kiêm thi-sĩ, ông Việt-Châu có viết một tập thơ xuất sắc, nhan đề “Lông ngỗng gieo tình” để kể lại đoạn tình-duyên của Trọng-Thủy và Mị-Châu. Trong khi cùng ngồi xe với Đức Thầy trên đường về Sài Gòn, ông có trao cho Đức Thầy xem tập thơ ấy. Đức Thầy liền ngâm hai câu thơ dưới đây để phê bình gián-tiếp áng văn kiệt-tác của ông Việt-Châu:
“Mị-Châu ơi hỡi Mị-Châu,
Mê chi thằng chệt để sầu cho cha!”
Liền đó, Đức Thầy bảo ông Việt-Châu thử làm thi tả cảnh ngồi trên xe trên đường về Sài Gòn. Thấy ông Việt-Châu nặn óc mãi mà không ra thơ, Đức Thầy liền ứng khẩu đọc bài dưới đây:
Xe về chở theo chàng thi-sĩ,
Bảo làm thi mãi nghĩ không ra.
Vậy mà giữa chốn phồn hoa,
Vang danh thi-sĩ hiệu là Việt-Châu.
Quen thói viết thơ sầu thơ cảm.
Không dìu dân hắc ám qua truông.
Ngâm nga giọng quá u buồn,
Làm cho độc-giả quay cuồng mê-ly.
Theo dõi gót từ-bi mấy bữa.
Phàm tâm kia đã rửa hay chăng?
Đương cơn sóng dậy đất bằng,
Thi-nhân đứng ngó để tăng-sĩ làm.
Tăng-sĩ quyết chùa, am bế cửa,
Tuốt gươm vàng lên ngựa xông pha.
Đền xong nợ nước thù nhà,
Thiền môn trở gót Phật-Đà nam-mô.
Chừng ấy mới tịnh vô nhứt vật,
Bụi hồng trần rứt sạch cửa không.
Chuông linh ngân tiếng đại-đồng,
Ta-bà thế-giới sắc không một màu.
Sài-Gòn đến, trống lầu đã trở.
Đề-huề nhau cửa mở xuống xe.
Khuyến nông chấm dứt mùa hè…
Trên đường về Sài Gòn, tháng 6 năm Ất-Dậu (1945)
ĐI KHUYẾN NÔNG VỀ
Lìa Sài Gòn trong vòng hai tháng,
Khi lộn về tiệm quán tanh-banh.
Bởi chưng pháo lũy phi hành,
Quăng bom mù quáng tan-tành còn chi.
Động lòng của kẻ từ-bi,
Tây-Phương tấu lại A-Di Phật-Đà.
Rằng: bên thế-giới ta-bà,
Chúng-sanh tàn-sát cũng là vì tham.
Di-Đà mở cuộc hội-đàm,
Cùng chư Bồ-Tát quyết đam phép lành.
Tịnh bình rưới khắp chúng-sanh,
Làm cho giác-ngộ hiền lành như ta.
Công-đồng hoạch-định san-hà,
Nước ai nấy ở nhà nhà tự-do.
Sài Gòn, tháng 6 năm Ất Dậu (1945)
TỰ THÁN
Gió hiu-hắt bên rừng quạnh-quẽ,
Nhìn non sông đượm vẻ tang-thương.
Mối tình chủng-loại vấn-vương,
Thấy quân xâm-lược hùng cường căm gan.
Vừa toan rút gươm vàng ngăn giặc,
Bỗng họa đâu gieo rắc bất-kỳ.
Cường quyền một lũ ngu-si,
Oan nầy hận ấy sử ghi muôn đời.
Truyền khắp nước muôn lời vu cáo,
Dùng trăm ngàn thói bạo hiếp dân.
Làm cho trong nước rẽ phân,
Làm cho giặc Pháp một lần sướng rang.
Vậy cũng gọi an bang định quốc,
Rồi rút lui bỏ mất thành trì.
Giống nòi nỡ giết nhau chi?
Bạng duật tương trì lợi lũ ngư ông.
Đoàn hậu tấn có lòng yêu nước,
Khá nhìn xem gương trước răn mình.
Riêng ta hai chữ nhục vinh,
Thoảng cười thế sự nhân tình quá đen.
Lòng dân chớ khá xem khinh,
Bạo tàn giết mất nhân tình thì thua.
Miền Đông, cuối năm Ất-Dậu (1945).