Lục Vân Tiên (蓼雲仙) là một tác phẩm truyện thơ nôm nổi tiếng của Nguyễn Đình Chiểu, được sáng tác theo thể lục bát vào đầu những năm 50 của thế kỷ 19 và được Trương Vĩnh Ký cho xuất bản lần đầu tiên vào năm 1889. Đây là một trong những sáng tác có vị trí cao của văn học miền Nam Việt Nam. Tác phẩm được dịch giả Abel des Michels chuyển ngữ sang tiếng Pháp với tên gọi Lục Vân Tiên cổ tích truyện - Histoire de Luc Van Tien năm 1899.
Truyện Lục Vân Tiên (mà người miền Nam thường gọi là thơ Lục Vân Tiên) là một cuốn tiểu thuyết về luân lý, cốt bàn đạo làm người với quan niệm văn dĩ tải đạo. Tác giả muốn đem gương người xưa mà khuyên người ta về cương thường - đạo nghĩa.
Truyện Lục Vân Tiên được viết bằng thể lục bát, vì được in nhiều lần nên có nhiều văn bản khác nhau, có khi thêm bớt cả trăm câu thơ. Theo văn bản thường dùng hiện nay, truyện có 2082 câu thơ lục bát, kết cấu theo lối chương hồi.
Người nay có khác xưa nào,
Muốn ra ai cấm muốn vào ai ngăn".
Hâm rằng: "Lão quán nói nhăng,
Dẫu cho trải việc cũng thằng bán cơm.
Gối rơm theo phận gối rơm,
Có đâu ở thấp mà chồm lên cao".
Quán rằng: "Sấm chớp mưa rào,
Ếch ngồi đáy giếng thấy bao lăm trời.
Sông trong cá lội thảnh thơi,
Xem hai con mắt sáng ngời như châu.
Uổng thay đàn gảy tai trâu,
Nước xao đầu vịt ngẫm âu nực cười".
Tiên rằng: "Ông quán chớ cười,
Đây đà nhớ lại bảy người Trước Lâm.(124)
Cùng nhau kết bạn đồng tâm,
Khi cờ khi rượu khi cầm khi thi.
Công danh phú quí màng chi,
Sao bằng thong thả mặc khi vui lòng.
Rừng nhu biển thánh minh mông, (125)
Dù ai lặn lội cho cùng vậy vay".
Quán rằng: "Đó biết ý đây,
Lời kia đã cạn rượu này thưởng cho".
Kiệm Hâm là đứa so đo,
Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng.
Khoa này Tiên ắt đầu công,
Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi.
Mảng còn nghĩ việc tới lui,
Xảy nghe trống đã giục thôi vào trường.
Kẻ thùng người tráp đầy đường,
Lao xao đoàn bảy chàng ràng lũ la.
Vân Tiên vừa bước chân ra,
Bỗng đâu xảy gặp tin nhà gởi thơ.
Khai phong mới tỏ sự cơ, (126)
Mình gieo xuống đất dật dờ hồn hoa.
Hai hàng luỵ ngọc nhỏ sa,
Trời nam đất bắc xót xa đoạn trường.
Anh em ai nấy đều thương,
Trời ơi há nỡ lấp đường công danh.
Những lăm công toại danh thành,
Nào hay từ mẫu u minh sớm đời!
Gắng vào trong quán yên nơi,
Tớ thầy than thở liệu lời quy lai. (127)
Tiểu đồng than vắn than dài:
"Trời sao trời nỡ phụ tài người ngay".
Trực rằng: "Đã đến nỗi này,
Tiểu đồng bậu hãy làm khuây giải phiền.
Sớm hôm thang thuốc giữ gìn,
Chờ ta vài bữa ra trường sẽ hay,
Bây giờ kíp rước thợ may,
Sắm đồ tang phục nội ngày cho xong.
Dây rơm mũ bạc áo thùng.
Cứ theo trong sách Văn Công mà làm". (128)
Tiên rằng: "Con bắc mẹ nam,
Nước non vòi vọi đã cam lỗi nghì.
Trong mình không cánh không vi,
Lấy chi lướt dặm lấy chi bớt đàng.
Vào trong phút lại gặp tang,
Ngẩn ngơ kẻ ở lỡ làng người đi.
Việc trong trời đất biết chi,
Sao dời vật đổi còn gì mà trông.
Hai hàng lụy ngọc ròng ròng,
Tưởng bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu.
Cánh buồm bao quản gió xiêu,
Ngàn trùng biển rộng chín chìu ruột đau.
Thương thay chín chữ cù lao. (129)
Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình". (130)
Quán rằng: "Trời đất thình lình,
Gió mưa đâu phút gãy cành thiên hương". (131)
Ai ai trông thấy cũng thương,
Lỡ bề báo hiếu lỡ đường lập thân.
Dẫu cho chước quỷ mưu thần,
Phong trần ai cũng phong trần như ai.
Éo le ai khéo đặt bày,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Đường đi hơn tháng chẳng gần,
Khi qua khi lại mấy lần xông pha.
Xảy đâu bạn tác vừa ra, (132)
Trực cùng Hâm Kiệm xúm mà đưa Tiên.
Hâm rằng: "Anh chớ ưu phiền,
Khoa này chẳng gặp ta nguyền khoa sau.
Thấy nhau khó nỗi giúp nhau,
Một vừng mây bạc dàu dàu khá thương".
Vân Tiên cất gánh lên đường,
Trịnh Hâm ngó lại đôi hàng nhỏ sa.
Đi vừa một dặm đường xa,
Phút nghe ông quán bôn ba theo cùng.
Quán rằng: "Thương đấng anh hùng,
Đưa ba hườn thuốc để phòng hộ thân.
Chẳng may gặp lúc gian truân.
Đương khi quá đói thuốc thần cũng no".
Tiên rằng: "Cúi đội ơn cho,
Tấm lòng ngài ngại hãy lo xa gần". (133)
Quán rằng: "Ta cũng bâng khuâng,
Thấy vầy nên mới tị trần đến đây. (134)
Non xanh nước biếc vui vầy,
Khi đêm rượu cúc khi ngày trà lan.
Dấn thân vào chốn an nhàn,
Thoát vòng danh lợi lánh đàng thị phi".
Nói rồi quày quả ra đi, (135)
Vân Tiên xem thấy càng nghi trong lòng.
Trông chừng dặm cũ thẳng xông,
Nghĩ đòi cơn lại não nùng đòi cơn:
"Nên hư chút phận chi sờn,
Nhớ câu dưỡng dục lo ơn sanh thành. (136)
Mang câu bất hiếu đã đành,
Nghĩ mình mà thẹn cho mình làm con.
Trọn đời một tấm lòng son,
Chí lăm trả nợ nước non cho rồi.
Nào hay nước chảy hoa trôi,
Nào hay phận bạc như vôi thế này.
Một mình ngơ ngẩn đường mây,
Khác nào chiếc nhạn lạc bầy kêu sương.
Đến nay lâm việc mới tường,
Hèn chi thầy dạy khoa trường còn xa".
Tiểu đồng thấy vậy thưa qua:
"Gẫm đây cho đến quê nhà còn lâu.
Thầy sao chẳng ngớt cơn sầu,
Mình đi đã mỏi dòng châu thêm nhuần.
E khi mang bịnh nửa chừng,
Trong non khó liệu giừa rừng khôn toan".
Tiên rằng: "Khô héo lá gan,
Ôi thôi con mắt đã mang lấy sầu.
Mịt mù nào thấy chi đâu, (137)
Chưa đi đã mỏi mình đau như dần.
Có thân phải khổ vì thân,
Thân ơi thân biết mấy lần chẳng may!"
Đồng rằng: "Trời đất có hay,
Ra đi vừa đặng mười ngày lại đau.
Một mình nhắm trước nhắm sau,
Xanh xanh bờ cõi dào dào cỏ cây.
Vốn không làng xóm chi đây,
Xin lần tới đó tìm thầy thuốc thang.
Vừa may gặp khách qua đàng,
Người người đều chỉ vào làng Đồng Văn
Dắt nhau khi ấy hỏi phăn, (138)
Gặp thầy làm thuốc tên rằng Triệu Ngang.
Ngang rằng: "Khá tạm nghỉ an,
Rạng ngày coi mạch đầu thang mới đành. (139)
Gặp ta bịnh ấy ắt lành,
Bạc tiền trong gói sẵn dành bao nhiêu?"
Đồng rằng: "Tiền bạc chẳng nhiều,
Xin thầy nghĩ lượng đặng điều thuốc thang.
May mà bịnh ấy đặng an,
Bạc còn hai lượng trao sang cho thầy".
Ngang rằng: "Ta ở chốn này,
Ba đời nối nghiệp làm thầy vừa ba.
Sách chi cũng đủ trong nhà,
Nội kinh đã sẵn ngoại khoa thêm mầu.
Trước xem Y học làm đầu,
Sau coi Thọ thế thứ cầu Đông y. (140)
Gẫm trong Ngân hải tinh vi, (141)
Cùng là Cang mục thua gì Thanh nang. (142)
Gẫm trong Tập nghiệm lương phang. (143)
Cùng là Ngự Toản trải đàng Hồi xuân. (144)
Vị chi sẵn đặt quân thần, (145)
Thuốc thời bào chế mười phần nỏ nan. (146)
Mạch thời đọc phú Lư san, (147)
Đặt vào tay bịnh biết đàng tử sanh
Lục quân tứ vật thanh danh. (148)
Thập toàn Bát vị sẵn dành nội thương. (149)
Lại thông Bát trận tân phương. (150)
Lâm nhằm ngoại cảm đầu thang Ngũ sài. (151)
|Đồng rằng: "Thầy thiệt có tài,
Xin vào coi mạch luận bài thuốc chi.
Ngang rằng: "Lục bộ đều suy, (152)
Bộ quan bên tả mạch đi phù hồng. (153)
Cứ trong kinh lạc mà thông, (154)
Mạng môn tướng hoả đã xông lên đầu. (155)
Tam tiêu tích nhiệt đã lâu,
Muốn cho giáng hoả phải đầu tư âm. (156)
Huỳnh liên huỳnh bá huỳnh cầm, (157)
Gia vào cho bội nhiệt tâm mới bình. (158)
Ngoài thời cho điểm vạn linh, (159)
Trong thời cho uống hoàn tình mới xong. (160)
Khá trao hai lượng bạc ròng,
Bổ thêm vị thuốc để phòng đầu thang.
Chẳng qua làm phước cho chàng,
Nào ai đòi cuộc đòi đàn chi ai". (161)
Tiểu đồng những ngỡ thiệt tài,
Vội vàng mở gói chẳng nài liền trao.
Mười ngày chẳng bớt chút nào,
Thêm đau trong dạ như bào như xoi.
Đồng rằng: "Vào đó thầy coi,
Bịnh thời không giảm thầy đòi tiền thêm".
Ngang rằng: "Nằm thấy khi đêm.
Tiên sư mách bảo một điềm chiêm bao. (162)
Quỉ thần người ở trên cao,
E khi đường sá lẽ nào biết đâu?(163)
Tiểu đồng, người khá qua cầu, (164)
Cùng ông thầy bói ở đầu tây viên".
Tiểu đồng nghe nói đi liền,
Gặp ông thầy bói đặt tiền mà coi.
Bói rằng: "Ta bói hẳn hoi,
Bói hay đã dậy người coi đã đầy.
Ta đây nào phải các thầy,
Bá vơ bá vất nói nhây không nhằm.
Ôn nhuần Châu Diệc mấy năm,
Sáu mươi bốn quẻ ba trăm dư hào. (165)
Huỳnh kim Dã hạc sách cao, (166)
Lục Nhâm Lục giáp chỗ nào chẳng hay. (167)
Can, chi đều ở trong tay, (168)
Đã thông trời đất lại hay việc người.
Đặt tiền quan mốt bốn mươi,
Khay trầu chén rượu cho tươi mới thành".
Thầy bèn gieo đặng quẻ linh,
Chiêm tên tuổi ấy lộ trình mắc chi. (169)
Ứng vào rùa với cỏ thi, (170)
Rồi thầy coi quẻ một khi mới tường".
Đồng rằng: "Người ở đông phương,
Nhơn đi buôn bán giữa đường chẳng an.
Con nhà họ Lục là chàng,
Tuổi vừa hai tám còn đàng thơ ngây".
Bói rằng: "Đinh sửu năm nay,
Hèn chi giáp tý ngày rày chẳng an.
Mạng kim lại ở cung càn,
Tuổi này là tuổi giàu sang trong đời.
Cầu tài quẻ ấy xa vời,
Khen người khéo nói những lời trêu ta".
Cầm tiền gieo xuống xem qua,
Một giao hai sách lại ba hào trùng. (171)
Trang thành là quẻ lục xung, (172)
Thấy hào phụ mẫu khắc cùng tử tôn.
Hoá ra làm quẻ du hồn, (173)
Lại thêm thế động khắc dồn hào quan. (174)
Cứ trong quẻ ấy mà bàn;
Tuổi này mới chịu mẫu tang trong mình
Xui nên phát bịnh thình lình,
Vì chưng ma quỉ lộ trình rất thiêng.
Muốn cho quẻ ấy đặng yên,
Phải tìm thầy pháp chữa chuyên ít ngày.
Đồng rằng: "Thầy pháp đâu đây?"
Bói rằng: "Cũng ở chốn này bước ra,
Phép hay dậy tiếng đồn xa,
Tên là Đạo Sĩ ở Trà Hương thôn".
Tiểu đồng mới chạy bôn bôn,
Hỏi thăm Đạo sĩ hương thôn chốn nào.
Chợ đông buôn bán lao xao,
Người ta liền chỉ nơi vào chẳng xa.
Đồng đi một buổi tới nhà,
Đạo sĩ xem thấy lòng mà mừng thay.
Đồng rằng: "Nghe tiếng thầy đây,
Trừ ma ếm quỷ phép thầy rất hay".
Pháp rằng: "Ân đã cao tay, (175)
Lại thêm phù chú xưa nay ai bì. (176)
Qua sông cá thấy xếp vi,
Vào rừng cọp thấy phải quỳ lạy đưa.
Pháp hay hú gió kêu mưa,
Sai chim khiến vượn đuổi lừa vật trâu.
Pháp hay miệng niệm một câu,
Tóm thâu muôn vật vào bầu hồ linh. (177)
Pháp hay sái đậu thành binh, (178)
Bện hình làm tướng phá thành Diêm vương.
Pháp hay đạo hoả phó thang, (179)
Ngồi gươm đứng giáo mở đàng thiên hoang. (180)
Có ba lượng bạc trao sang,
Đặng thầy sắm sửa lập đàn chữa cho".
Đồng rằng: "Tôi chẳng so đo,
Khuyên thầy gắng sức chớ lo khó giàu.
Bấy lâu thầy tớ theo nhau,
Bạc dành hai lượng phòng sau đi đàng.
Chữa chuyên bịnh ấy đặng an,
Rồi tôi sẽ lấy đem sang cho thầy".
Pháp rằng: "Về lấy sang đây,
Cho thầy toan liệu lập bày đàn ra".
Đồng rằng: "Tôi đã lo xa,
Cực vì người bịnh ở nhà chẳng yên.
Xin thầy gắng sức chịu phiền,
Ra công bùa chú chữa chuyên cách nào".
Pháp rằng: "Có khó chi sao,
Người nằm ta chữa rồi trao phù về".
Đồng rằng: "Tôi vốn thằng hề, (181)
Bịnh chi mà khiến chịu bề chữa chuyên?"
Pháp rằng: "Ta biết kinh quyền,
Đau nam chữa bắc mà thuyên mới tài".
Tiểu đồng nghe lọt vào tai,
Lòng mừng vội vã nằm dài chữa chuyên.
Pháp bèn cất tiếng hét lên:
"Mời ông Bàn Cổ toạ tiền chứng miêng. (182)
Thỉnh ông đại thánh Tề Thiên, (183)
Thỉnh bà Võ hậu đều liền đến đây. (184)
Thỉnh ông Nguyên soái chinh tây, (185)
Cùng bà Vương mẫu sum vầy một khi. (186)
Thỉnh ông Phật tổ A Di,
Thập phương chư Phật phù trì giúp công.
Lại mời công chúa Ngũ Long, (187)
Bình Nam ngũ hổ hội đồng an dinh. (188)
Thỉnh trong thiên tướng thiên binh,
Cùng là tam phủ Động Đình Xích Lân. (189)
Thỉnh trong khắp hết quỷ thần,
Cũng đều xuống chốn dương trần vui chơi.
Cho người ba đạo phù trời,
Uống vào khoẻ mạnh như lời chẳng sai".
Tiểu đồng vâng lĩnh theo lời,
Lấy phù trở lại toan bài thuốc thang.
Vào nhà thưa với thầy Ngang:
"Pháp phù đã đủ thầy toan phương nào?"
Ngang rằng: "Còn bạc trong bao,
Thời người khá lấy mà trao cho thầy".
Đồng rằng: "Tôi hãy ở đây,
Bịnh kia dầu khá mình này bán đi".
Triệu Ngang biết chẳng còn chi,
Kiếm đường tráo chác đuổi đi khỏi vòng:(190)
"ở đây làng xóm khó lòng,
E khi mưa nắng ai cùng đỡ che".
Đồng rằng: "Trong gói vắng hoe,
Bởi tin nên mắc bởi nghe nên lầm.
Những lo chạy hết một trăm,
Mình ve khô xép ruột tằm héo don.
Thương thay tiền mất tật còn,
Bơ vơ đất khách thon von thế này. (191)
Thôi thôi gắng gượng khỏi đây,
Tôi đi khuyên giáo đỡ ngày gạo rau". (192)
Vân Tiên chi xiết nỗi sầu,
Tiểu đồng dìu dắt qua cầu Lá Buôn. (193)
Đương khi mưa gió luông tuồng, (194)
Người buồn lại gặp cảnh buồn khá thương.
Xiết bao ăn tuyết nằm sương,
Màn trời chiếu đất dặm trường lao đao.
Dầu cho tài trí bực nào,
Gặp cơn nguy hiểm biết sao mà nhờ.
Tiên rằng: "Đi đã ngẩn ngơ,
Tìm nơi cây cối bụi bờ nghỉ chưn".
Đồng rằng: "Chốc nữa khỏi rừng,
Tìm nơi quán xá sẽ dừng nghỉ ngơi".
Non tây vừa khuất mặt trời,
Tớ thầy dìu dắt tới nơi Đại Đề.
Trường thi một lũ vừa về,
Trịnh Hâm xem thấy lại kề hỏi thăm:
"Anh về nay đã hai rằm, (195)
Cớ sao mang bịnh còn nằm nơi đây?"
Tiên rằng: "Tôi vốn chẳng may,
Chẳng hay chư hữu khoa này thế nao?"
Hâm rằng: "Tử Trực đậu cao,
Tôi cùng Bùi Kiệm đều vào cử nhân.
Một mình về trước viếng thân,
Hai người trở việc còn lần đi sau.
Đương cơn hoạn nạn gặp nhau,
Người lành nỡ bỏ người đau sao đành.
Từ đây tới quận Đông Thành,
Trong mình có bịnh, bộ hành xao xong?
Lần hồi đến chốn giang trung,
Tìm thuyền ta sẽ tháp tùng với nhau".
Tiên rằng: "Tình trước ngãi sau,
Có thương xin khá giúp nhau phen này".
Hâm rằng: "Anh tạm ngồi đây,
Tiểu đồng người tới trước này cùng ta.
Vào rừng kiếm thuốc ngoại khoa,
Phòng khi sông biển phong ba bất kì".
Tiểu đồng vội vã ra đi
Muốn cho đặng việc quản gì lao đao.
Trịnh Hâm trong dạ gươm dao,
Bắt người đồng tử trói vào gốc cây:
"Trước cho hùm cọp ăn mày,
Hại Tiên phải dụng mưu này mới xong".
Vân Tiên ngồi những đợi trông,
Trịnh Hâm về nói tiểu đồng cọp ăn.
Vân Tiên than khóc nằm lăn:
"Có đâu địa hãm thiên băng thình lình. (196)
Bấy lâu đất khách lưu linh,
Một thầy một tớ lộ trình nuôi nhau.
Nay đà hai ngả phân nhau,
Còn ai nưng đỡ trước sau cho mình".
Hâm rằng: "Anh chớ ngại tình,
Tôi xin đưa tới Đông Thành thời thôi".
Vân Tiên chi xiết lụy rơi,
Buồm đà theo gió chạy xuôi một bề.
Tiểu đồng bị trói khôn về,
Kêu la chẳng thấu bốn bề rừng hoang:
"Phận mình đã mắc tai nàn,
Cám thương họ Lục suối vàng bơ vơ.
Xiết bao những nỗi dật dờ,
Đò giang nào biết bụi bờ nào hay.
Vân Tiên hồn có linh rày,
Đem tôi theo với đỡ tay chưn cùm".
Vái rồi lụy nhỏ ròng ròng,
Đêm khuya ngồi dựa cội tùng ngủ quên.
Sơn quân ghé lại một bên, (197)
Cắn dây mở trói cõng lên ra đàng.
Tiểu đồng thức dậy mơ màng,
Xem qua dấu đất ràng ràng mới hay. (198)
Nửa mừng nửa lại sợ thay,
Chạy ra chốn cũ tìm thầy Vân Tiên.
Mặt trời vừa khỏi mái hiên,
Người buôn kẻ bán chợ phiên nhộn nhàng.
Hỏi thăm bà quán giữa đàng:
"Bữa qua có thấy người tang chăng là?" (199)
Quán rằng: "Thôi đã ra ma,
Khi mai làng xóm người đà đi chôn".
Tiểu đồng nghe nói kinh hồn,
Hỏi rằng: "Biết chỗ nào chôn chỉ chừng".
Tay lau nước mắt rưng rưng,
Xảy nghe tiếng nói đầu rừng lao xao.
Tiểu đồng vội vã bước vào,
Xóm làng mới hỏi: "Thằng nào tới đây?"
Đồng rằng: "Tớ tới kiếm thầy,
Chẳng hay người thác mả này là ai?"
Người rằng: "Một gã con trai,
ở đâu không biết lạc loài tới đây.
Chưn tay mặt mũi tốt thay,
Đau chi nên nỗi nước này khá thương".
Tiểu đồng chẳng kịp hỏi han,
Nằm lăn bên mả khóc than một hồi.
Người đều xem thấy thương ôi,
Kêu nhau vác cuốc đều lui ra đàng.
Tiểu đồng nằm giữa rừng hoang,
Che chòi giữ mả lòng toan trọn bề.
Một mình ở đất Đại Đề,
Sớm đi khuyên giáo tối về quảy đơm. (200)
Dốc lòng trả nợ áo cơm,
Sống mà trọn nghĩa thác thơm danh hiền.
Thứ này đến thứ Vân Tiên,
Năm canh ngồi dựa be thuyền thở than.
Trong khăn lụy nhỏ chứa chan,
Cám thương phận tớ mắc nàn khi không.
Lênh đênh thuyền giữa biển đông,
Riêng than một tấm cô bồng ngẩn ngơ. (201)
Đêm khuya lặng lẽ như tờ,
Nghênh ngang sao mọc mịt mờ sương bay. (202)
Trịnh Hâm khi ấy ra tay,
Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời. (203)
Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời,
Cho người thức dậy lấy lời phôi pha. (204)
Trong thuyền ai nấy kêu la,
Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng.
Vân Tiên mình lụy giữa dòng,
Giao long dìu đỡ vào trong bãi rày.
Vừa may trời đã sáng ngày,
Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ.
Hối con vầy lửa một giờ, (205)
Ông hơ bụng dạ mụ hơ mặt mày.
Vân Tiên vừa ấm chân tay,
Ngẩn ngơ hồn phách như say mới rồi.
Ngỡ thân mình phải nước trôi,
Hay đâu còn hãy đặng ngồi dương gian.
Ngư ông khi ấy hỏi han,
Vân Tiên thưa hết mọi đàng gần xa.
Ngư rằng: "Người ở cùng ta,
Hôm mai hẩm hút với già cho vui". (206)
Tiên rằng: "Ông lấy chi nuôi,
Thân tôi như thể trái mùi trên cây. (207)
May đà trôi nổi đến đây,
Không chi báo đáp mình này trơ trơ".
Ngư rằng: "Lòng lão chẳng mơ,
Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn?
Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.
Rày doi mai vịnh vui vầy, (208)
Ngày kia hứng gió đêm này chơi trăng.
Một mình thong thả làm ăn,
Khoẻ quơ chài lưới mệt quăng câu dầm.
Nghêu ngao nay chích mai đầm, (209)
Một bầu trời đất vui thầm ai hay.
Kinh luân đã sẵn trong tay,
Thung dung dưới thế vui say trong trời.
Thuyền nan một chiếc ở đời.
Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang".
Tiên rằng: "Vậy cũng một làng,
Võ Công người ở gần đàng đây chăng?"
Ngư rằng: "Nhà ở cũng gần,
Khỏi ba khúc vịnh thì lần đến nơi".
Tiên rằng: "Xưa đã gá lời,
Sui gia bao nỡ đổi dời chẳng thương.
Vợ chồng là đạo tào khương,
Chi bằng tới đó tìm phương gởi mình.
Trăm năm muốn trọn ân tình,
Đương khi hoạn nạn ai đành bỏ nhau.
Chút nhờ cứu tử ơn sâu, (210)
Xin đem tới đó trước sau cho tròn".
Ngư rằng: "Làm đạo rể con,
Cũng như sợi chỉ mà lòn trôn kim
Sợ bay mà mỏi sức chim,
Bơ vơ kiểng lạ khôn tìm cây xưa.
E khi chậm bước tới trưa,
Chớ tin sông cũ bến xưa mà lầm.
Mấy ai ở đặng hảo tâm,
Nắng toan giúp nón mưa dầm giúp tơi?
Mấy ai hay nghĩ việc đời,
Nhớ nơi nghèo khổ quên nơi sang giầu?
Đã ba thứ tóc trên đầu,
Gẫm trong sự thế thêm âu cho đời".
Vân Tiên thưa đã hết lời,
Ngư ông chẳng đã, tách vời đưa sang. (211)
Dắt Tiên vào chốn hậu đàng,
Võ Công xem thấy lòng càng hổ ngươi.
Chẳng qua sợ thế gian cười,
Một lời gượng gạo: "Chào người ngày xưa,
Ngư ông đã có công đưa,
Tới ngày sau sẽ lo lừa đền ơn".
Ngư rằng: "Tôi chẳng lòng sờn,
Xin tròn nhơn ngãi còn hơn bạc vàng.
Nhớ xưa trong núi Lư San,
Có ông ngư phủ đưa chàng Ngũ Viên. (212)
Tới sau đình trưởng đỗ thuyền,
Giúp người Hạng Võ qua miền Ô Giang. (213)
Xưa còn thương kẻ mắc nàn,
Huống nay ai nỡ quên đàng ngãi nhơn".
Một lời gắng giúp keo sơn,
Ngư ông từ giã lui chưn xuống thuyền.
Võ Công không ngớt lòng phiền,
Ân tình, thế lợi khó tuyền đặng vay.
Dạy Tiên: "Người hãy ngồi đây,
Cho ta trở lại sau này liệu toan".
Công rằng: "Hỡi mụ Quỳnh Trang,
Dò lòng ái nữ Thể Loan thế nào?
Mặc con toan liệu làm sao,
Vốn không ép vợ lẽ nào ép con".
Loan rằng: "Gót đỏ như son,
Xưa nay ai nỡ đem chôn xuống bùn.
Ai cho sen muống một bồn,
Ai từng chanh khế sánh phồn lựu lê? (214)
Thà không chót chịu một bề,
Nỡ đem mình ngọc dựa kề thất phu!
Dốc lòng chờ đợi danh nhu,
Rể đâu có rể đui mù thế ni?
Đã nghe người nói hội này,
Rằng Vương Tử Trực chiếm rày thủ khoa.
Ta dầu muốn kết sui gia,
Họ Vương, họ Võ một nhà mới xinh".
Công rằng muốn trọn việc mình,
Phải toan một chước dứt tình mới xong.
Chú thích:
124. Bảy người đời Tấn, bảy người đó là các ông: Nguyễn Tịch, Kê Khang, Lưu Linh, Sơn Đào, Hướng Tú, Vương Nhung, Nguyễn Hàm, tính tình phóng đạt, thường họp nhau vui chơi nơi rừng Trúc (Trúc Lâm thất hiền).
125. Rừng nhu biển thánh: đạo nho dày như rừng, rộng như biển.
126. Khai phong: mở phong thư. Sự cơ: sự tình, nông nỗi.
127. Qui lai: trở về, quay về (vì mẹ chết).
128. Sách Văn Công: Sách qui định nghi lễ về tang ma cưới xin.
129. Chín chữ cù lao: công lao khó nhọc của cha mẹ nuôi dạy con.
130. Nhũ bộ: bú sữa, mớm cơm.
131. Thiên hương: hương trời, đây dùng chỉ tài năng lỗi lạc của Vân Tiên.
132. Bạn tác: bạn cùng tuổi, cùng trang lứa.
133. Lòng còn lo ngại về đường xa nỗi gần chưa biết rồi sẽ ra sao.
134. Tị trần: tránh bụi, xa lánh cuộc đời loạn lạc mà đi ở ẩn.
135. Quày quã: vội quay phắt ngay đi.
136. Dưỡng dục: nuôi nấng, dạy dỗ. Sinh thành: sinh ra và gây dựng nên người.
137. Vân Tiên thấy mắt bỗng tối mù.
138. Hỏi phăn: hỏi lần cho ra manh mối.
139. Đầu thang: bốc thuốc.
140. Y học, Thọ thế, Đông y các bộ sách y học cổ truyền.
141. Ngân hải tinh vi: sách thuốc về cách chữa mắt.
142. Cang mục: sách nói về tính chất các vị thuốc. Thanh nang: chỉ sách chép các phương thuốc chưa hề truyền cho ai.
143. Sách tập hợp các phương thuốc hay đã được dùng.
144. Ngự Toản; Hồi xuân: các sách thuốc cổ.
145. Xuân thần: Vị chính vị phụ trong một thang thuốc đông y.
146. Nỏ nan: nói thuốc sao khô cẩn thận.
147. Lư san: bài phú dạy phép xem mạch.
148. Lục quân, Tứ vật: tên hai thang thuốc căn bản chữa khí, huyết.
149. Thập toàn, Bát vị: hai bài thuốc bổ chữa bệnh tạng phủ suy.
150. Bát trận tân phương: sách thuốc do danh y Trương Giới Tân đời Minh soạn.
151. Khi bị cảm thường uống thang Ngũ sài.
152. Lục bộ: sáu bộ mạch.
153. Phù hồng: mạch nổi.
154. Kinh lạc: các đường truyền dẫn khí huyết trong thân người.
155. Mạng môn: huyệt ở giữa hai quả thận. Tướng hoả: dương khí (thận hoả).
156. Cơ thể tích nhiệt đã lâu, cần hạ nhiệt (giáng hoả). Tư âm: làm vượng âm lên.
157. Huỳnh liên, huỳnh bá, huỳnh cầm: ba vị thuốc chữa nóng.
158. Phải thêm gấp bội ba vị này vào, thì nóng ở tim mới bình thường trở lại.
159. Vạn linh: thuốc chữa mắt đau.
160. Hoàn tình: thuốc uống cho mắt thêm sáng ra.
161. Đòi cuộc đòi đàn: Đòi người bệnh phải đặt tiền cược trước.
162. Tiên sư: đây nói tiên sư nghề làm thuốc.
163. E khi đi đường, Vân Tiên có làm điều gì phạm đến quỉ thần nên bị quỉ thần phạt.
164. Cầu: cầu xin giúp đỡ.
165. Châu Diệc: kinh dịch đời Chu. Sách có 64 quẻ, 384 hào. Thời xưa sách dùng vào việc bói toán.
166. Huỳnh kim, Dã hạc: hai sách nói về thuật bói toán.
167. Lục nhâm, Lục giáp: hai môn thuật số bói toán.
168. Can, chi: Can được gọi là Thiên hay Thập do có đúng mười can khác nhau. Can cũng còn được phối hợp với Âm-Dương và Ngũ hành. Chi hay Địa Chi hay Thập Nhị Chi do mười hai chi. Đây là mười hai từ chỉ 12 con vật của hoàng đạo Trung Quốc dùng như để chỉ phương hướng, bốn mùa, ngày, tháng, năm và giờ ngày xưa. Việc liên kết các yếu tố liên quan đến cuộc sống con người với Chi là rất phổ biến ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á.
169. Chiêm: bói, gieo quẻ. Lộ trình: nói việc đi đường.
170. Bói bằng cỏ thi là một hình thức bói Dịch, lập quẻ bằng cách sắp các cọng cỏ thi theo một quy tắc riêng.
171. Giao, sách, trùng: cách bói dùng ba đồng tiền gieo sáu lần xuống đĩa.
172. Trang: trang quẻ. Lục xung: sáu hào trong quẻ xung khắc nhau.
173. Quẻ du hồn: quỉ nói việc hồn đi chơi vơ vẩn, ứng vào việc Vân Tiên bị long đong nơi đường xa đất khách.
174. Đời Vân Tiên bị xáo động, công danh trắc trở.
175. Ấn: phù phép trừ tà của thầy pháp.
176. Phù chú: dùng lá bùa và câu thần chú để trừ yêu diệt ma.
177. Hồ linh: bầu thiêng, có thể thu chứa cả trời đất.
178. Sái đậu thành binh: rảy hạt đậu mà hoá thành binh lính.
179. Đạo hoả: giẫm lên lửa. Phó thang: dấn mình vào nước sôi.
180. Mở đàng thiên hoang: mở đường trời đất.
181 Hề: hề đồng
182. Bàn Cổ: ông tổ của trời đất, vạn vật. Toạ tiền chứng miêng: trước bàn thờ chứng minh cho.
183. Tề Thiên Đại Thánh, Tôn Ngộ Không.
184. Võ hậu: tên một vị thần thường đi lại trên đại dương.
185. Vị tướng đời Đường, tức Tiết Nhơn Quý, ông người đất Long Môn, vốn làm nghề cày ruộng rồi theo Đường Thái Tông đánh Liêu Đông, sau lại theo Đường Thái Tông sang đánh các nước Tây vực đều tỏ ra là vị tướng tài, dũng cảm và có nhiều mưu trí. Khi đánh Liêu Đông, ông một mình tay cầm giáo lưng đeo cung nỏ xông vào phá tan thế trận đối phương. Khi đánh Tây Vực, 10 vạn quân Đột Quyết khiếp sợ xin hàng.
186. Bà tiên cai quản tiên nữ, Tây Vương Mẫu, còn gọi là Vương Mẫu nương nương, Diêu Trì Kim Mẫu, là vị nữ thần từ bi trong truyền thuyết Trung Quốc, có diện mạo là một bà già hiền lành. Tương truyền Vương Mẫu sống ở cung Dao Trì (Diêu Trì) núi Côn Lôn, trong vườn của bà có trồng bàn đào là giống đào tiên, ăn vào trẻ mãi không già.
187. Công chúa Ngũ Long: năm công chúa của Long vương.
188. Bình nam ngũ hổ: năm tướng dũng mãnh đánh chiếm phương Nam. An dinh: đóng yên doanh trại.
189. Chỉ chung các vị thần ở trên trời, dưới âm phủ, và trong lòng sông ở Động Đình và Xích Lân.
190. Tráo chác: lừa dối, trở mặt.
191. Thon von: cô đơn sa sút gian nguy.
192. Khuyên giáo: đi xin của bố thí.
193. Cầu bắc qua rạch Lá Buôn (Biên Hoà).
194. Luông tuồng: tơi bời.
195. Hai rằm: hai ngày rằm, tức hai tháng.
196. Đất sụt trời sập, chỉ tai biến lớn.
197. Sơn quân: vua núi, chỉ con hổ.
198. Ràng ràng: rành rành.
199. Người tang: người bận áo tang.
200. Quảy đơm: cúng lễ.
201. Cô Bồng: con thuyền lẻ loi.
202. Sao mọc nhiều không theo hàng lối nào.
203. Vời: khoảng nước rộng, lòng sông.
204. Phôi pha: qua quýt cho xong chuyện.
205. Hối: giục. Vầy lửa: nhóm lửa.
206. Hẩm hút chỉ thứ gạo xấu, thức ăn người nghèo.
207. Trái mùi: trái chín nục.
208. Doi: dải đất ở cửa sông hay dọc sông.
209. Chích, đầm: ao hồ.
210. Cứu tử: cứu cho khỏi chết.
211. Chẳng đã: cực chẳng đã.
212. Ngũ Viên (Ngũ Tử Tư) một lần bị đuổi rất nguy, may được ông chài đưa thoát qua sông.
213. Hạng Võ lúc bị mấy ngàn kị binh Hán đuổi gấp tới sông Ô giang có ông đình trưởng mời qua sông (nhưng Hạng Võ từ chối, ở lại quyết chiến và tự sát).
214. Phồn: giống, thứ hạng.