LỤY TAM CHÂU
Tam châu hữu ngạn lụy nhỏ sa,
Thập bát chư bang động can qua.
Dương-gian mãnh thú trừ tàn-ác,
Lê-thứ hẫu lai khổ thiết-tha.
Tần bang hậu hận tiên diêu-động,
Nam-quốc lương dân kiến linh-xa.
Phồn hoa đô hội lưu giang huyến,
Dư đảng dọc ngang cấp ma-ha.
Hòa-Hảo. tháng 8 năm Kỷ-Mão
VẾN MÀN BÍ MẬT
Giục thúc đạo đồng kiến thúy quyên,
Chư bang điềm tĩnh sỉ danh hiền.
Sa-vi đông-hải tri thiều nhạc,
Nam-đỉnh ngọc đài lộ kỷ tiên.
Đởm lực hà quê trung trực thử,
Hùng ca báo quốc nghĩa đào thiên.
Sơn ly Phật-cảnh hồi Nam-việt,
Diện khổ sanh kỳ vị trưởng miên.
BỬU-ngọc trường quan ẩn tích kỳ,
SƠN-đài lộ vẻ liễu huyền-vi.
KỲ-thâm tá giả thi thành thủy,
HƯƠNG-vị âm thầm mộc túy vi.
NĂM năm lục ngoạt cơ hàn thử,
NON lịch đài mây rạng tu mi.
BẢY niên hòa địa nhơn hiền thủ,
NÚI ngự hoàng san tự Đỉnh-chi.
Hòa bình thế-giái kiến Tiên-bang,
Ngô giả tùng nhung khí đởm gian.
Hồ thiên tiểu ẩn quân tu ký,
Lương thứ dương-trần đạo dĩ an.
Đào nguyên di khả tứ hồ-văn,
Khảo đảo tâm trung mãi vạn năng.
Thì lai đãi ảnh chơn thiên xuất,
Vận thới thô trình trực bỉnh thăng.
Hòa-Hảo, lối tháng 9 năm Kỷ-Mão
THẦY BA ĐẠO ở Hòa-Hảo hỏi thuốc
Nghe tiếng ơn trên dốc cứu đời,
Dám xin khép nép ngỏ đôi lời.
Nhơn dân sắp đến vương bịnh khổ,
Tiên dược phương nào được thảnh-thơi.
ĐỨC THẦY đáp họa
Mượn xác ra cơ dốc dẫn đời,
Bày tỏ cùng ai ngỏ mấy lời.
Lục châu xao-xiếng nhơn dân khổ,
Phật-Giáo khẩn cầu đặng thảnh-thơi.
THẦY BA ĐẠO hỏi
Thảnh-thơi dầu đặng phước trời,
Đau ốm qua rồi trẻ ăn chơi.
Cho thuốc chỉ đường nhờ phương-phép,
Ngàn năm ơn đức nguyện y lời.
ĐỨC THẦY đáp họa
Thành tâm khẩn Phật với lạy Trời,
Muốn khỏi hội nầy trẻ ăn chơi.
Lục tự trì tâm là phương-phép,
Nhắn nhủ cùng ai có mấy lời.
THẦY BA ĐẠO hỏi
Y lời dám hỏi lén một câu,
Tiên-Phật rộng xa rất nhiệm mầu.
Đạo đời bốn chữ đây là gốc,
Tà chánh xin nhờ tiếng ngọc-châu.
ĐỨC THẦY đáp
Trả lời ý-kiến đó một câu,
Ẩn xác phàm phu chửa nhiệm-mầu.
Đạo đời mầy chữ đây là gốc,
Tà chánh tâm trì rõ ngọc châu.
Muốn đó gần đây giải mộng sầu,
Bốn chữ xuống phàm chớ ở đâu.
Khuyến-khích cùng ai mau tỉnh ngộ,
Lai vãng gần ta rõ Đạo mầu.
Văn-sĩ nhắn-nhen có mấy lời,
Đó muốn tỏ tình có mấy hơi.
Ra ngõ lên xe chừng một lát (*),
Sáng ngày tiếp kiến chuyện trò chơi.
(*) Đức Thầy mời thầy ba Đạo sang chơi vì thầy ấy ở nhà và 3 bài thi gởi Đức Thầy là do một em học trò đem đến. Hòa-Hảo., năm Kỷ-Mão
BÁT NHẪN
Nhẫn năng xử thế thị nhơn hiền,
Nhẫn giái kỳ tâm thận thủ tiên.
Nhẫn giả hương lân hòa ý hỉ,
Nhẫn hòa phu phụ thuận tình duyên.
Nhẫn tâm nhựt nhựt thường an lạc,
Nhẫn tánh niên niên đắc bảo truyền.
Nhẫn đức bình an tiêu vạn sự,
Nhẫn thành phú quới vĩnh miên miên.
Hòa-Hảo. năm Kỷ-Mão
Cho Ông HƯƠNG-CHỦ BÓ ở Hòa-Hảo
Tâm hành từ thiện vị an nhiên,
Phổ hóa hiền nhơn kiến Phật tiền.
Huỳnh long lộ vĩ năng kỳ diệu,
Xuất thế điều đình chửa hiệu Tiên.
Danh-Sơn khai bút dìu sanh-chúng,
Trung-Trực phò nguy đãi lịnh thiên.
Tạo xác phù vân khai nhứt điểm,
Qui hồi tự lập diệt tiền khiện.
Kỷ-Mão hạ san mượn xác trần,
Cảm tình đồng loại lão khuyên dân.
Thậm-thâm đây đó niềm liên ái,
Hợp-tác cùng nhau nối bút thần.
Vi lộ thiên oai bảo giác dân,
Ngọc nam ẩn-sĩ dị-thường nhân.
Sơn giang thủ lĩnh thừa tiên định,
Tứ hải hòa giai tất hữu phân.
Muốn thấy người xưa phải vẹn mày,
Nam-nhân hữu chí kiến Bồng-lai.
Nhìn xem hiệu lão trong thơ ấy,
Tứ cú nho gia đã cạn bày.
Hòa-Hảo. lối tháng 9 năm Kỷ-Mão
SAY
Say mùi tục lụy vẫn lao-đao,
Say nỗi kẻ ngu rất hỗn-hào.
Say thấm đạo lành ban vạn vật,
Say đời chưa rõ chuyện vàng thau.
Say ngọc bồ-đề đức hạnh cao,
Say dân ngu muộn tưởng điên nào.
Say chừng nó biết ta Tiên-trưởng,
Say chén quỳnh-tương chốn núi cao.
Say thời vận bĩ vẫn còn xa,
Say chuyện trần gian lắm cáo-xà.
Say lấy gậy thiền toan dẹp hết,
Say chờ Thiên-lịnh phán cho ta.
Say đạo huyền-vi nước tịnh-dương,
Say câu Bồ-Tát rưới cho thường.
Say mê Tiên-cảnh ôi thanh-nhã,
Say việc trần-gian lám họa-ương.
Say-sưa chuyện chổ nhắc chừng đời,
Say nói với trần việc tả-tơi.
Say biểu tri tâm đừng vội-vã,
Say buồn lũ chó sủa mùi dơi.
Say của Thần-Tiên rứt cuộc đời,
Say câu diệu lý hỡi người ơi!
Say như Lưu-Khánh ai thèm chịu,
Say thể Trần-Đoàn mới thảnh thơi.
Say mãi say hoài say vẫn say,
Say cho bá-tánh tập xong bài.
Say như Nhơn-Quí thì mang họa,
Say của lão Khùng ách nạn bay.
Say cho tiêu hết giống con buôn,
Say của Thánh-Nhơn xuất lập tuồng.
Say tạo một nền qui vạn vật,
Say dìu trăm họ vượt mây truông (*)
(*) Ông Nguyễn Thanh-Tân có họa tám bài thơ trên đây, nhưng xin miễn in vào tập này. Hòa-Hảo, lối tháng 9 năm Kỷ-Mão.
Cho SUNG-BIỆN T ở Hòa-Hảo
Quan trường nhiều lũ sói tà,
Miệng là mãnh hổ ý là sài lang.
Vinh-quang đâu có vinh-quang,
Tâm còn ích-kỷ tánh còn hại dân,
Có thân chẳng liệu lấy thân,
Cười người điên dại sao gần Tiên bang.
Nực cười cho đứa võ-phu,
Đui mù chẳng sợ cứ mà gièm pha.
Sau nầy sẽ biết mặt ta,
Tiên, Thần cũng chịu quỉ tà cũng cam.
Dương-trần lắm nỗi đớn-đau,
Tu hành chẳng chịu, đạo mầu chẳng theo.
Cứ lo ngửa mặt cười reo,
Trước cười sau khóc khóc rồi lại than.
Than rằng: tà quỉ ác-gian,
Chẳng cho bá-tánh được toàn thây thi.
Mấy năm trí óc còn ghi,
Lời Thầy để lại có thì sai không.
Hòa Hảo, tháng 7 năm Kỷ-Mão
Thơ của "Ông BÁN CHIẾU"
Đại-Thánh là Phật Thích-Ca,
Người còn khinh-báng huống ta phàm trần.
Vàng thiệt lại nói vàng râm,
Lúc này vận thới đá mài cũng an.
Cơn buồn phải gượng làm càn,
Cuộc đời rổn-rổn Phật mà phải kiêng.
Trên đời ai tốt bằng sen,
Quan yêu dân chuộng rã bèn sạch trơn.
Bề ngoài coi thể cây sơn,
Xét trong mồi mọt ăn mà chẳng hay.
Mặt tiền xem lại tốt thay,
Hiện hậu ngó kỹ lạnh tanh không ngờ,
Mau mau ta hãy bắt bờ,
Đặng cho bá-tánh leo bờ nầy qua.
Có xạ nào phải bán xa,
Giấu trong chỗ kín cũng thơm đầy nhà.
Nam-mô sáu chữ Di-Đà,
Từ-bi tế-độ vậy mà chúng-sanh.
Xưa nay sáu chữ lạnh-tanh,
Kim-Sơn Phật ấy gián sanh đành-rành.
Ngưỡng cầu Thượng-Đẳng Đai Thần,
Phải ra trị nước bảo toàn lê dân.
Ở nhà tụng niệm đều xinh,
Lục châu bát loạn nỡ nào ngó ngang.
Bán lộ gian-hồ kính tặng Kim-Sơn Phật (*)
(*) LỜI SOẠN GIẢ : Bài thơ nầy không phải của Đức Thầy, mà chính là của một Dị nhơn (đang đi bán chiếu ? ) viết và trao cho một người tín-đồ Hòa-Hảo tại Kiến-An (Chợ mới, thuộc tỉnh Long Xuyên) đem đến cho Đức Thầy. Theo lời người tín-đồ nầy nói lại thì trong lúc giữa đường, ông bán chiếu không có đem sẵn viết mực theo; thế mà chăng biết tại sao không đầy một phút, ông viết được một bức thơ tuồng chữ sắc-sảo, giống hình chữ nôm, mà không một nho sĩ nào đọc được. Liền đó, Đức Thầy đọc cho anh em có mặt trong lúc ấy nghe. Năm Kỷ-Mão