SA-ĐÉC
(Rằm tháng tư năm Canh-Thìn)
Nhìn cuộc thế bộn bề sóng dậy,
Cửa thiền môn còn hỡi khóa then.
Nương xứ xa tạm viết với đèn,
Tỏ tâm sự của người liễu Đạo.
Sách có chữ thâm ân dục báo,
Phận làm người hiếu thảo noi gương.
Ấy chẳng qua là đạo luân thường,
Chớ Phật Thích lìa quê ngàn dậm.
Non tuyết san rú rừng thâm thẩm,
Đem thân phàm tầm đạo siêu sanh.
Đến ngày nay còn rạng lấy danh,
Khắp bốn biển dân lành sùng bái.
Muốn lập Đạo có câu thành bại,
Sự truân chuyên của khách thiền môn.
Khắp sáu châu nức tiếng người đồn,
Ta chịu khổ khổ cho bá tánh.
Tiếng gọi đời sông mê hãy lánh,
Chạm lợi quyền giầu có cạnh tranh.
Bước gai chông đường đủ sỏi-sành,
Đành tách gót lìa quê hương dã.
Ta cũng chẳng lấy chi buồn-bã,
Bởi sự thường của bực siêu nhơn.
Dầu gian-lao dạ sắt chẳng sờn,
Miễn sanh-chúng thông đường giải-thoát.
Cơn dông-tố mịt-mù bụi cát,
Chẳng nao lòng của đấng từ bi.
Vì Thiên-đình chưa mở hội thi,
Nên Lão phải phiêu-lưu độ chúng.
Kẻ ác đức cho rằng nói túng,
Nó đâu ngờ lòng Lão yêu đương.
Xe rồ xăng vụt chạy bải-bương,
Đến khuất dạng tình thương náo-nức.
Khắp bá-tánh chớ nên bực-tức,
Bởi nạn tai vừa mới vấn-vương.
Chốn liên-đài bát-ngát mùi hương,
Nhờ chỗ ấy mới thi công-đức.
Dạy con cả nào đâu than cực,
Tiếng làm Thầy phải nặng đôi vai.
Việc khó-khăn lắm lúc khôi-hài,
Ấy cũng bởi thày-lay ông Tạo.
Ông nhồi quả cho người hành Đạo,
Lúc nguy-nàn thối chí cùng chăng?
Nếu bền lòng vị quả cao thăng,
Chẳng chặt dạ bỏ lăn Phật-Thánh.
Chốn Phật-đường rán trau đức-hạnh,
Phải bền lòng mới rảnh trần ai.
Chuyện cao siêu Phật-pháp còn dài,
Khó gặp chữ không không mà có.
Lúc trồng rẫy rủi nhiều sâu bọ,
Rồi ngẩn-ngơ bỏ giống hay sao?
Nấu lọc rành mới biết vàng thau,
Ai thật tánh ai người giả đạo.
Tiếng sấm-sét bên tai xốc-xáo,
Cả muôn người ngơ-ngáo hỏi-han.
Nay thân Thầy cũng đặng bình an,
Khuyên bổn-đạo đừng than lắm tiếng.
Tuy xa đường có lời luận-biện,
Bời bút thần bay luyện khắp nơi.
Ngọc nhờ lau ngọc mới rạng ngời,
Kim mải giũa kim kia mới bén.
Người làm phải như tằm trong kén,
Có muôn tơ bao bọc ấm thân.
Sách có câu "Minh đức tân dân",
Được thủ trụ huyền khai nhứt khiếu.
Ta còn thương thương trò liệu-điệu,
Chớ cũng mừng được dịp phổ-thộng.
Đắc Đạo rồi cứu vớt Tổ-tông,
Cũng như Phật xuất gia thuở trước.
Các bục Thánh châu lưu nhiều nước,
Nghèo thầy Nhan bầu nước đai cơm.
Tuy cơ-hàn mà được danh thơm,
Hơn phú-quí ngồi ôm bả lợi.
Quá sung-sướng rồi quên đạo ngỡi,
Thì khác chi loại thú rừng săng.
Vật hổ-lang đâu biết đạo hằng,
Chỉ có biết ngủ ăn ăn ngủ.
Khi đói mồi mặt mày sù-sụ,
Chạy quơ quào vật nhỏ đặng ăn.
Đến chết thây đầy lũ ruồi lằn,
Bu nút thịt của loài bạo áo.
Đạo mà biết mùi thơm bát-ngát,
Rứt bụi trần mặn lạt thây ai.
Chữ Nam-mô trì giái giữ chay,
Chay được tánh chay tâm mời quí.
Trong Đạo Phật quá nên huyền-bí,
Chỗ tâm thần tọa vị nơi thân.
Muốn cho nên khuya sớm chuyên cần,
Lòng chí nguyện sở cầu Phật Thánh.
Đuốc thiền lâm phương Đông chói ánh,
Dắt hồn người vượt khỏi sông-mê.
Dầu cho nay xa cách Sở, Tề,
Sau Thầy tớ gặp nhau Phật-cảnh.
Ước trăm họ nhẹ mình có cánh,
Đồng bay về Cựu-Lạc một-đàng.
Thì thân Thầy hết phải gian-nan,
Đâu có chịu mang câu nhạo báng.
Nói thì nói chờ ngày thấp-thoáng,
Dòm êm trời thì cứ ra tay.
Quyết chèo thoàn đến chốn Bồng-Lai,
Mới ngơi nghỉ tấm thân của Lão.
Lúc Tam-Tạng Tây phương quyết đáo,
Bị loài yêu làm bạo lắm phen.
Đức từ-bi phải lộ trắng đen,
Lôi-Âm tự cũng đi đến chốn.
Đi dọc đường yêu tinh làm hỗn,
Thấy Đường-tăng thơm thịt muốn ăn.
Nhờ môn-đồ Bát-Giái, Sa-Tăng,
Với Đại Thánh Tề-Thiên cứu vớt.
Lòng sáu chữ nhờ không có ngớt,
Thì nạn tai cũng thoát như không.
Khó tìm cho gặp chủ-nhơn-ông,
Còn ẩn ánh nơi vòng sanh-chúng.
Ai mê tâm nghe qua không phủng,
Rán suy tầm đặng mở tánh linh.
Lòng ngộ rồi chẳng đợi nhiều kinh,
Thì cũng thấy bổn lai diện mục.
Lần thứ chót gọi lời kêu thúc,
Thầy nhắc cho bổn-đạo rõ lòng.
Chừng Ơn Trên ban được lục thông,
Thầy mới được Tây, Đông du thuyết.
Thâu cho được con long ác-nghiệt,
Thì khắp nơi mới biết mến yêu.
Chúng-sanh nên tầm quạt ba-tiêu,
Chữa hỏa-diệm nơi tâm cho tắt.
Thì đạo hạnh ngày kia mới đắc,
Chớ chứa hờn đứa dư ích chi.
Phật tu-hành tai gác mặt lỳ,
Chịu cay đắng của người sang-sớt.
Lòng sầu riêng hãy nên nguôi bớt,
Đừng thở-than bận đến lòng ta.
Để cho Thầy đi dạo ta-bà,
Đặng dạy kẻ đường xa chưa rõ.
Nay rừng bụi có người mở ngõ,
Thì noi theo dấu thỏ đàng dê.
Giục vó cu nhiều nỗi thảm-thê,
Dạy sanh-chúng cho rồi mới rảnh.
Cũng hiếm kẻ nghinh-ngang cường ngạnh,
Ôi! kể sao cho hết thói đời!
Mãi say-sưa theo cuộc vui chơi,
Nên kiếp kiếp đời đời lên xuống.
Suối Tiên thanh đổ ra cuồn-cuộn,
Tràn ruộng lòng gieo giống mới nên.
Kẻ vô tình chẳng có chí bền,
Phải sa ngã theo nơi mộng-ảo.
Giấc mộng vàng đặng truyền đại đạo,
Cảnh vô sanh lòng bạo mà mê.
Mùa nước tràn ngập cả điền đê,
Đến nước hạ đồng khô cỏ cháy.
Cuộc gian-nan năm qua đã thấy,
Luận việc đời cũng khúc lớn ròng.
Khi dậy thì tràn cả bờ sông,
Lúc khô hạn đi đồng khao-khát.
Biết làm sao lên lưng bạch hạc,
Bay cả trời tỏ ý từ-bi.
Khắp thế-gian con thảo phục quì,
Chầu trước bệ cha hiền Ngọc-Đế.
Gẫm vinh-nhục sanh trong thế-hệ,
Tuồng xưa kia sắp đặt đã lâu.
Phải chuyển xây trái đất một bầu,
Đặng lừa-lọc con Tiên cháu Phật.
Gồm một nơi sửa-sang tiêm-tất,
Xử phân người vùng vật thưởng phong.
Cho dương-trần rõ luật Thiên-công,
Có Địa ngục Thiên-đường hay chẳng.
Các chúng-sanh nghe rồi yên-lặng,
Suy cho tường rồi sẽ biện minh.
Cơn vui tai từ tạ Thiên-Đình,
Cho phép Lão tố trần đôi lẽ.
Lời Thầy dạy thật là cặn-kẽ,
Bao nhiêu tình bác-ái góp tom.
Trông bá gia tìm đạo quá mòn,
Thôi giã thế ước-mong đời thạnh.
NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(Đức Thầy viết bài nầy trước mặt một số đông người, trong đó có vài phần tử muốn thử coi, sau khi bị dời khỏi quê-quán Ngài còn đủ tinh-thần chăng).Sa-Đéc, đêm rằm tháng 4 Canh-Thìn.
ĐẾN LÀNG NHƠN-NGHĨA (Cần-Thơ)
Vui mừng gặp chốn hiền lương,
Dốc lòng mở cửa Phật-đường độ dân.
Làng Nhơn-Nghĩa để chân đến chốn,
Thấy dương-trần trà-trộn tà tâm.
Oai Thần đem đạo huyền thâm,
Nhiệm-mầu phổ-độ âm-thầm ai hay.
Mẹo đã hết, rồng bay vơ-vẩn,
Khắp hoàn-cầu nghịch lẫn cùng nhau.
Lê-dân trăm họ xáo-xào,
Rã-rời phụ tử, máu đào nhuộm tuôn.
Thương quá sức bắt cuồng tâm não,
Quyết cứu người dùng đạo phổ thông.
Ước-mơ cho được đại-đồng,
Tràn-trề khắp cả, Lạc-Hồng thảnh-thơi,
Nhìn vạn vật cuộc đời ngao-ngán,
Bởi hoàn-cầu thù oán cứ gây.
Vẽ hình rồi lại vẽ mây,
Vẽ tranh Thiên tạo Bồng-Lai cảnh tình.
Lại thêm vẽ phù sanh cõi tạm,
Dắt hồn người hắc ám khỏi mang.
Cầu cho cuối xóm cùng làng,
Trẻ già lớn nhỏ Phật-đàng yên thân.
THI
Luân-thường nặng nợ phải vai mang,
Nhuần gội thừa ân của Phật-đàng.
Cớ-gắng tâm trì theo đến chốn,
Một ngày vinh-diệu ắt bằng an.
Bằng an bốn biển khỏi đua tranh,
Bởi khắp bá gia được chí lành.
Trau sửa tâm phàm tìm cội cũ,
Về nơi Tiên cảnh mới nhàn thanh.
Nhàn thanh tìm kiếm, kiếm nơi tâm,
Phật cũ này xưa hãy rán tầm.
Nhành lá sum-sê màu đượm vẻ,
Non Thần biến đổi hết rừng lâm.
Rừng lâm cây đá thấy ngày nay,
Mà ruột năm non có các đài.
Chờ đợi co hiền noi tục cổ,
Tới thời thượng-cổ điểu hòa mai.
Võ-võ đêm thanh nức giọng vàng,
Kiểng cây sum MẬU đượm nùi nhang.
Phù dung rã gánh thân yên nhã,
THẠNH thới gia trung gặp chũ nhàn.
Chử nhàn vô sự mới nên Tiên,
Bát-nhã từ đây gặp cửa thiền.
Bể giác bờ mê ngày vượt khỏi,
Lánh đời tực lụy rút tiền khiên.
Tiền khiên kiếp tạo bởi trần thân,
Đạo diệu giồi-trau lập chí cần.
Luyện tánh, trau tâm cho sạch-sẽ,
Rứt rồi nợ thế khỏi ưu-phiền.
Ư-phiền thường sự chốn ta-bà,
Phật cảnh mau về ắt lánh xa.
Tỉnh ngộ từ đây người gặp chủ,
Phủi trần tìm kiếm chữ ma-ha.
Ma-ha mùi ngọt mật cùng đa!
Cảnh thế nhìn xem lũ cáo-xà.
Múa gút nhăn nanh ưa thịt béo,
Nào khờn dạ ái của thiền-gia.
Thiền-gia chí cả dốc hành thân,
Diêu diệu truyền thi cảm kích thần.
Những tưởng thói đời ôi chát lạt!
Đạo mầu siêu-việt của thiền lâm.
Thiền lâm Phật Thích thuở xưa kia,
Non tuyết rèn ra bát chánh kìa.
Phổ hóa dân lành trong khắp chúng,
Hoàn-cầu bốn biển khắp danh bia.
(Mấy bài tứ cú trên đây Đức Thầy trao cho ông Võ-Mậu-Thạnh ở làng Nhơn-Nghĩa).
Luồng thanh điển nhoáng qua như chớp,
Chuyển căn tiền nhắc lớp người xưa.
Phật, tiền vận chuyển lọc-lừa,
Kiếm con hữu phước mà đưa trở về.
Ôi! khổ thảm bốn bề sóng dậy,
Dòm lừng trời lửa cháy liên-miên.
Tiêu-điều sản-vật điền viên,
Thần-thông biến hóa dưới miền Trung-Ương.
Ngục môn đầy quỉ vô thường,
Dắt hồn kẻ bạo Diêm-Vương luật trừng.
Nhìn xa nước mắt rưng rưng,
Thương đời mê muội trầm-luân hoài hoài.
Tay hạ bút viết bài chung cuộc,
Ai rõ lòng con cuốc khỏi kêu.
Thân khùng vận bỉ trớ-trêu,
Phiêu-lưu trôi giạt danh nêu khắp cùng.
Ai giàu có thung-dung thanh nhã,
Ta lo đời sắt đá bền gan.
Âu sầu nức giọng riêng than,
Trách dân chẳng sợ hùm lang cứ gần.
Nhơn-Nghĩa, (Xà No), ngày 29 tháng 4 Canh Thìn.
Ông NGUYỄN-THANH-TÂN (đến Xà-No thăm Đức Thầy) xướng:
Cách mấy tuần dư đã vắng lâu,
Mái tây đứng xủ tóc phai màu.
Tin thơ mới đặng thông lời ngọc,
Ngòi bút khôn dằn ứa hột châu.
Khắc lụn bâng-khuâng nơi cửa Khổng,
Canh tàn thỏ-thẻ chốn thang lầu.
Ngàn trùng nước bích xa xuôi đấy,
Cúi kính lời quê gợi mạch sầu.
ĐỨC THẦY họa:
Xuống trần dạy-dỗ cùng đà lâu,
Sẵn dịp lìa quê rải đạo mầu.
Thong-thả trau-tria đời lựa ngọc,
Thảnh-thơi chùi rửa khắp tim châu.
Trung-dung khuyên đó noi gương Khổng,
Hiếu-hanh day con chớ mến lầu.
Tuyệt đích siêu mầu nơi kệ đấy,
Phàm-nhơn sớm vội gác cơn sầu.
Ông NGUYỄN-THANH-TÂN xướng:
Đạo-đức bủa ra khắp cõi trần,
Ơn Thầy phổ-hóa nặng ngàn cân.
Ngậm vành mong trả ghi muôn thuở,
Nhả ngọc làm đền nguyện một thân.
Xủ-xếp lũ bàng còn đợi gió,
U-ơ bầy bướm hỡi chờ xuân.
Hội lành rồng gặp cơn mưa móc,
Chi để nho-văn khói lửa Tần.
ĐỨC THẦY họa và cho thêm:
Thương tưởng người mê Lão xuống trần,
Ngặt vì chưa dẹp lũ Huỳnh-Cân.
Lòng yêu sanh-chúng luân chuyển kiếp,
Dạ ái dương-trần đổi sắc thân.
Lèo-lái sẵn rồi còn ngược gió,
Cánh trương chưa gặp cuộc phù-vân.
Sang hè con cuốc sầu mưa móc,
Đoái thấy đời nay học thói Tần.
Vạn lý trường thành khí khẩu chương,
Thanh phong tiết-hạnh dĩ luân-thường.
Dị nhân tái thế từ-bi thuyết,
Đào tị long xà thoát họa ương.
Dăn lòng lục tự mựa đừng sai,
Qua bể về quê ngõ chuốc hài.
Tiên-cảnh kìa kìa gần lộ vẻ,
Chờ người hữu phước đến liên-đài.
Tỏ lời thăm viếng khắp đâu đâu,
Bổn-đạo từ nay gác mộng sầu.
Vọng bái Thánh Thần đền lộc cả,
Trọng quyền chỉ bảo khắp đâu đâu.
Đâu đâu cũng mến tới mà tu,
Ngàn dậm xa-xuôi biệt tít mù.
Công-cán thăm Thầy không nại khổ,
Việc đời lắm kẻ quá là ngu.
Lập thân hành đạo phải truân chuyên,
Cức thế Thầy đâu mến bạc tiền.
Dặn lòng con hãy bền gan dạ,
Sẵn dịp dân lành rõ Phật Tiên.
Phật Tiên thương hết cả nhơn-sanh,
Tu tỉnh trì tâm đạo rán hành.
Chớ lấy sự sầu gieo não trí,
Để Thầy an ổn dẫn quần sanh.
Thâm hiểu lòng ta nỗi cuộc đời,
Một bầu nhiệt huyết chẳng xe lơi.
Mến yêu quốc thủy tình đồng chủng,
Phải tính cho xong nỗi cuộc đời.
Xà-No, tháng 6 năm Canh-Thìn.
Cho ông chín Diệm tức NGUYỄN KỲ-TRÂN ờ làng Định-Yên (Long-xuyên)
Đường xa ngàn dặm cụ sang thăm,
Nghe đạo huyền-vi cảm-kích thầm.
Cố tưởng ước mơ đời thạnh-trị,
Gạn tầm hoài-vọng điệu xa-xăm.
Nòi giống Lạc-Hồng nay nẩy-nở,
Nam bang vui thú buổi đồng tâm.
Ông ơi, hãy rán tìm chơn-lý,
Khác thể Thần Tiên thấm nhạc âm.
Nhạc âm Châu-Võ cuộc Phong Thần,
Tảo Bắc chinh Nam ái nước dân.
Treo sợi xích thẳng chờ vận đến,
Cột dây ngọc-đái đợi người ân,
Thiên-công lắc-lẻo sao lâu quá,
Địa-phủ trớ-trêu lấp mắt trần.
Tong tổ mở-mang nhờ đức cả,
Giống dòng no ấm bớt trần thân.
Đường xa diệu vợi cảm tình ông,
Vậy mới nở-nang giống Lạc-Hồng.
Noi chí Thánh-Hiền tìm cội cũ,
Theo gương Phật-Tổ thấy non sông.
Hồ thiên ngọc ẩn chờ qui kiểng,
Trì địa kim sơn đến cõi Bồng.
Hãy rán sưu tầm cho rạch lý,
Một ngày hòa hiệp hết còn mong.
Còn mong cho gặp hội Mày Rồng,
Sắp đền bước đường lắm nẻo chông.
Quân tử tùy thời hơi sút bước,
Tiểu nhơn ỷ sức mạnh pha xông.
Khốn thay dân sự người cao thấp,
Đau đớn thân hèn kẻ tiếc công.
Dạ luống ai hoài than-thở chút,
Lòng lo dương-thế bắt cuồng ngông.
Cuồng ngông cửa Phật quá thêm nồng,
Thấy chúng đời nầy những ước mong.
Trời định nhơn tâm qui nhứt thống,
Đất xoay vật dụng một nền không.
Diệu thâm bát-chánh lời truyền giáo,
Xa thẩm tứ-đề tiếng giục ông.
Bớ hỡi Lạc-Hồng mau lượng xét,
Để chừng phong võ hết chờ trông.
Xà-No, năm Canh-Thìn.