BÁC ÁI ĐẠI ĐỒNG
Nhơn-dân bá-tánh cũng con lành,
Thầy dạy cho đều khắp chúng-sanh.
May-mắn vận thời đưa đến chốn,
Tiên-khiên dẹp gác kiếm con lành.
Nhắn cùng bổn-đạo khắp đâu đâu,
Vạn vật từ nay luống thảm sầu.
Áo-não thương đời đa đói khổ,
U-buồn trăm họ vẽ vài câu.
Xà-No, năm Canh-Thìn
NHẮN NHỦ CÙNG AI
Nhắn nhủ cùng ai một ít lời,
Nhờ ơn đưa đẩy tới nhiều nơi (*).
Ghét vơ sị khó trau lời hạnh,
Hạnh phúc hiền lương tiếng nức trời.
Nức trời cảm động cảnh trầm-luân,
Đừng để tim gan lửa nó lừng.
Hỏa-diệm mảng chờ cây quạt phép,
Tâm trần siêu-việt kiến thời hưng.
Thời hưng Trời Đất tảo trừng gian,
Ủa, ủa thì ra rất muộn-màng.
Vui thẩm Tiên Bồng nơi thỏa hiệp,
Hoàn-cầu sanh-chúng khỏi lầm than.
(*) Nhà chức-trách dời Đức Thầy từ Hòa-Hảo đến Sa-Đéc rồi qua Nhơn-Nghĩa (Cần-Thơ). Xà-No, tháng tư năm Canh-Thìn
GIẤY VÀNG
Giấy vàng nay đã giá cao thăng,
Bìa trắng lại chê cội bỏ lăn.
Thương thảm chúng quăng nằm kẹt hóc,
Chủ nhà quét tước lượm lăng-xăng.
(Thấy quý ông Năm Hiệu, Năm Chơn, biện Hùm xé giấy vàng mà bỏ bìa trắng nên Đức Thầy tức cảnh làm bài thơ trên đây. Trước khi làm thơ, Ngài cười, nói rằng: "Trắng hay vàng uống cũng được. Giấy mắc lắm, tại sao mấy ông xé bỏ?"). Xà-No, Tháng tư năm Canh-Thìn.
Cho HƯƠNG-BỘ THẠNH
HƯƠNG đăng thơm nức quá nhẹ nhàng,
BỘ đời còn kẹt nỗi hùm lang.
THẠNH thay thời sự đưa Khùng đến,
Đạo-đức bày ra bủa khắp làng.
Hương-bộ mang soi bận áo dà,
Đêm ngày tiếp rước khách gần xa.
Nhơn dân bá tánh đều trông thấy,
Hương-bộ mang soi bận áo dà.
Áo dà Hương-bộ bận mang soi,
Ai có tức cười hãy đến coi.
Dòm riết chú chàng vùng mắc cỡ,
Áo dà Hương-bộ bận mang soi.
VÕ nghệ ngày xưa của nước nhà,
MẬU truyền nên chẳng kiếm cho ra.
Luyện tập để dành khi đến việc,
THẠNH thời mới được hưởng vinh-hoa.
Vinh-hoa cũng phải rán công phu,
Tìm kiếm mà coi sấu hóa cù.
Kiếp trước ông cha làm ra cả,
Ngày sau con cháu rán lo tu.
Võng dù sao chẳng rán mà tu,
Gặp đặng người xưa phước bổ bù.
Bời trước giữ-gìn nề đạo-đức,
Bảng vàng chói rạng chẳng hề lu.
HƯƠNG đèn cầu nguyện với cha ông,
BỘ đào tìm ra nẻo chánh tà.
NHƠN ái giữ nền noi lối cũ,
NGHĨA hòa huynh-đệ phụng tông gia.
Rày mừng gặp đặng lúc ban ân,
Duyên trước ngày nay mới có phần,
Hãy rán dặn lòng lo trung hiếu,
Đền chừng gặp hội có Tiên, Thần.
Mùi hương phưởng-phất ghẹo cùng đời,
Công-tử sang giầu tiếp cuộc chơi.
Trải mặt phong-trần tìm món lạ,
Nào dè thâm nhiểm tổn hao hơi.
Bo-bo ngày tối lo nồi ống,
Chặt-chịa hằng đêm đổi tiếng lời.
Những mảng ham vui mang bịnh nghiệt,
Gầy mòn thân thề vội buồn ngơi.
Chán bịnh hiểm nghèo cậy Phật Tiên,
Tâm thành phù hộ hết nạn ghiền. (*)
Dưỡng thân đạo-đức giồi linh trí,
An thể hiền tu ắt được nguyên.
Chặt dạ tinh-thần thêm mập khá,
Bền lòng khí-lực tráng nguơn nhiên.
Dẹp màm, dẹp chiếu cho tiêu tán,
Theo dõi Bồng-Lai lánh cõi thiềng.
(*) Ông Hương-bộ Thạnh trước kia ghiền á-phiện rất nặng, sau nhờ Đức Thầy dùng huyền diệu làm cho bỏ được bình nầy. Xà-No, tháng 5 năm Canh-Thìn.
THÂN GÀ (thơ xưa)
Chắt-chiu trong trứng mới nở ra,
Dều đâu bay lại xớt con gà.
Mẹ kêu túc túc xè cánh đuổi.
Chủ nhà tiếc của vỗ tay la.
ĐỨC THẦY họa:
Nịnh gian hai dạ chuyện sanh ra,
Dòm ngó càng thương hại lũ gà.
Trở mặt dòm trời cao tuốt mịt,
Ức lòng thiếu cánh chớ nên la.
Xà-No, tháng 5 năm Canh-Thìn.
VIẾNG ĐÊM
(Bài nầy là của nội-tổ ông Hương-bộ Thạnh)
Trắng thời chịu vẻ ngọt là nêm,
Vui dạ chi bằng đọc sách đêm.
Học đủ ba dư trời chằng phụ,
Đến ngày bẻ đặng quế cùng Thềm.
ĐỨC THẦY họa:
Tình thương thăm viếng chật như nêm,
Tưởng nhớ lòng ta chớ ở đêm (*).
Nhà nước khác chi người thiếu phụ,
Ôi thôi! chờ vận bước lên thềm.
Canh trường dạ đoản, kiến canh sơ,
Phổ-hóa nhơn-sanh trực thế thờ.
Sư giả hạ trần nhơn mạt kiếp,
Cấp hồi Nam-Việt tác cuồng thơ.
Thôn hành thế lữ ái nhi ca,
Cổ thụ huyền thi thiết nhĩ hà.
Đái bích Lư-Bồng thâm tải hận,
Đãi thì Thiên Đinh thiết phong xa.
(*) Lúc đó có nhiều anh em bổn-đạo ở Long-Điền (Long-Xuyên đến tại nhà ông Hương-bộ Thạnh để thăm Đức Thầy và muốn ở lại vài ngày. Đức Thầy làm bài nầy để khuyên anh em về sớm. Xà-No, ngày 24 tháng 5 năm Canh Thìn.
ƯỚC VỌNG NGƯỜI HIỀN
(Lúc Đức Thầy ở Rạch So-Đũa (Xà-No) có một nhóm nhân-sĩ đến viếng, Ngài có cho hai bài thơ dưới đây):
Cảm tình đồng đạo hiểu tâm không,
Cuồng-sĩ bao giờ cũng ngóng trông.
Mong ước gặp người tri-kỷ ấy,
Toại thay chí cả khách non Bồng.
Non Bồng xót chúng xuống trần-gian,
Gặp buổi hoàn-cầu nức tiếng than.
Ước-vọng người hiền như khát nước,
Chóng mau liễu kết dẹp lăng-loàn.
Xà-No, năm Canh-Thìn.
"NANG THƠ CẨM TÚ"
Trời thanh lặng gió đưa hiu-hắc,
Ngồi thơ phòng thân bắt lạnh lùng.
Gẫm xác trần còn cách cội thung,
Đâu có được giũ mùng quạt gió.
Cơn mừng vui nào ngờ lũ ó,
Vội bay ngang rồi xớt đi luôn.
Chữ ngậm-ngùi lụy ngọc ứa tuôn,
Nào phải giống chim muông điểu-thú.
Lìa quê-hương quên câu nghĩa cũ,
Bời xác phàm hấp thụ đã lâu.
Cuộc lung-tung rối-rắm trời Âu,
Nên còn ngại bước đường trở gót.
Tiếng riêng than tai nghe thảnh-thót,
Trăm ngàn nhà bổn-đạo ước mơ.
Con lạc cha con hỡi u-ơ,
Thầy xa tớ ngẩn-ngơ thương mến.
Ngóng trông chờ vận-thời đưa đến,
Đặng chung cùng một tiệc quỳnh-tương.
Vây ngô-đồng hứng vẻ đượm sương,
Cho chim phụng mặc tình sè múa.
Cảnh sum-vầy mây lành bay tủa,
Cả trời Nam lưới bủa thiên-la.
Chữ Thánh Hiền mới được nôm-na,
Ta thỏa chí hô-hào trung nghĩa.
Giống hiền xưa bây giờ mới tỉa,
Dốc chờ ngày bông trổ thơm tho.
Tuy ngày nay chưa được ấm no,
Sau được dựa nơi non nhược thủy.
Đây trưng bày khuyên gìn cang-kỷ,
Đờn những câu tỉ-mỉ rung hồn.
Cho người lành dạ át bắt nôn,
Cúi đầu trước qui-y Phật-Pháp.
Quản chi thân bị mưa, nắng táp,
Nơi sang giàu ấm-áp mặc ai.
Vẽ cho dân lập chí râu mày,
Phá tan óc tinh-thần nhu-nhược.
Thân nặng-nề như chim ô-thước,
Quyết làm xong cầu đá sông Ngân.
Nên chẳng màng báu ngọc châu trân,
Miễn con thảo nhuần ân Thánh-Đế.
Đứng anh hùng dựng nên thời-thế,
Sá chi loài trùn dế nhỏ-nhen.
Vội đem lòng cượng lý ghét-ghen,
Thêm cùng bớt tiếng kèn lời huyền.
Chốn âm-ty ngưu dầu, mã diện,
Đang trông ngày tới số bắt hồn.
Cõi âm thầm bịnh sái dịch ôn,
Chờ mãn phước ra tay bẻ họng.
Cưa Tiên-bang hãy còn khóa cổng,
Nhà cha xưa cửa đóng then gài.
Con nào hiền thì vẹn thảo ngay,
Đứa ngỗ-nghịch một mai đứt cổ.
Nhìn gương kiếng sao không biết hổ,
Lũ gian thần nào biết Tổ Tông.
Làm âu-sầu một góc trời Đông,
Bị miệng sói thổi lòng tìm vít.
Văn cang-thường đem ra bày trích,
Vạch chỉ lời cổ tích người xưa.
Nghĩ vì đâu có cuộc giày bừa,
Cho lăn-lóc những người mới tỉnh.
Phải chi Phật lấy ngay bình tịnh,
Rưới cho trần được tĩnh chút tâm.
Mãi để câu ví diệu thậm thâm,
Cho sanh-chúng rừng lâm khó mở.
Được gió nhẹ ngờ đâu dễ thở,
Bỗng dông luồng âm khí nặng-nề.
Phải ngóng chờ cho phụng gặp kê,
Ấy thời đại Thánh Tiên trổ mặt.
Càng nhìn dân lòng tơ siết chặt,
Đau chi bằng đau khúc đoạn trường.
Ước sao mà thuận gió buồm trương,
Đò bất-nhã rước tôi lương đống.
Ngày vui tươi cũng đà lố bóng,
Cớ sao đời còn mãi say-sưa?
Không tìm Thầy đặng hưởng phước thừa,
Ngày lập Hội tay vin nhành quế.
Trau thân phận rạng danh hiếu đễ,
Thỏa dạ Thầy nơi chồn mây rồng.
Đừng chi lìa Bắc tổ Nam tông,
Chỉ biết giống Lạc-Hồng Thượng-cổ.
Tai nghe chi những câu ái ố,
Lòng từ-bi chớ cố lời gièm.
Đạo hiểu rồi ngon tợ gỏi nem,
Tuy cõi thế lấm-lem trần-tục.
Mây ganh hờn đầy lòng nghi-ngút,
Giữ dạ trong đừng đục mới mầu.
Thân bần tăng mặc bộ sồng nâu,
Cuộc thiên-lý một bầu đều hãn.
Đến kỳ thi danh Thầy chạm bảng,
Trên đài cao gọi các linh hồn.
Nay ngu khờ len-lỏi hương-thôn,
Sau đác Đạo tiếng đồn bốn biển.
Giảng với sấm ra tài sửa kiểng,
Kệ cùng xa lựa tuyển con lành.
Tuy là ta không thể sanh thành,
Nhưng thương hết ra tài dạy-dỗ.
Đời phải biết suy kim nghiệm cổ,
Thông cơ-đổ dựng nghiệp Thánh Hiền.
Ta quyết lòng rứt nợ oan-khiên,
Cứu bá-tánh khỏi nơi lao-khổ.
Gà lôi sớm mượn oai tố-hộ,
Có một ngày rớt lốt hổ-han.
Nhu hiền hòa nhược ắt thắng cang,
Đời cùng đạo bi hoan, ly hiệp.
Tấm lòng thành gian-truân chớ khiếp,
Đức từ-bi tiếp-dẫn linh-hồn.
Nén hương nguyền cầu với Phật-Tôn,
Ban phước-huệ cứu nàn dương-thế.
Nhớ thuở nhỏ nhờ ơn bồng-bế,
Nay được nên vai-vế trưởng thành.
Ngẫm cuộc đời hai chữ trược-thanh,
Thân hành đạo vang danh khắp chốn.
Nhưng ngặt nỗi gặp đời hỗn-độn,
Câu quân-thần, phụ-tử rã-rời.
Khuyên tu hành hao sức tổn hơi,
Chẳng hề mở miệng ra than trách.
Hãy bỏ dứt tánh tình kiêu-cách,
Các con lành khá chọn ngay đường.
Tuy thân Thầy lướt cuộc gió-sương,
Mà thỏa chí tang-bồng hồ-thỉ.
Câu trượng-phu là trang nghĩa-sĩ,
Chữ anh-tài của đấng trung-lương.
Phận tu hành đạm bạc ra tương,
Miễn cầu được an-khương bốn-bể.
Rung chuông lành bằng muôn tiếng kệ,
Gọi hồn người hành thiện truy kinh.
Ra khuyên dân hẹn có sơn minh,
Dìu bá-tánh hứa câu thệ hải
Miễn tâm được hư-vô tồn-tại,
Sống ở trần hối cải tiền phi.
Sống làm sao vẹn chữ tu mi,
Sống vùng-vẫy râu-mày nam tử.
Tự như nhiên oai-phong thiên tứ,
Bút thần-linh mượn mực tay đề.
E dương-trần công việc trễ-bê,
Nên giục-thúc nhơn-sanh cày cấy.
Dụng Bá-Nha lên dây đờn khảy,
Lo cho đời quên vóc ốm gầy.
Ngày hằng mong gặp hội Rồng-mây,
Xanh men-mét cũng thây thịt xác.
Đi tới đâu giúp người khao-khát,
Ngặt giống sâu khó múc mau đầy.
Trong suốt ngày làm việc lây-quây,
Dùng giấy, mực trưng-bày đạo-đức.
Biết bao giờ gái trai tỉnh thức,
Trẻ cùng già đồng hiểu Phật-gia.
Nương hùng-phong trổi giọng cuồng-ca,
Ca cuộc thế ca câu khuynh-đảo.
Buổi nhập tiệc trải qua tràng pháo,
Khói mịt-mù văng xác đầy đường.
Cuộc đời nay như ngựa buông cương,
Khó dừng lại có cu lụp-hụp,
Chim đua bay, cá lại tranh mồi.
Ngọn thủy-triều nô nức sụt-sôi,
Bầu trái đất một phen luân-chuyển.
Ta là kẻ tu hành thiển kiến,
Xét thế-trần luận-biện đôi điều.
Chớ đâu nào bày việc trớ-trêu,
Muốn giác-tỉnh người mê trở lại.
Mong sanh-chúng học đều thông-thái,
Rèn tâm lành bác-ái trau-tria.
Hành đạo thiền cấp-cấp sớm khuya,
Lòng thương chúng khuyên-răn đủ thế.
Mà nào khác chợ trưa đồ ế,
Bán rẽ-rề ít kẻ hỏi mua.
Mảng lo theo lối mới tranh-đua,
Lại bỏ ngón se-sua học-thức.
Thân hèn-yếu lại vô năng-lực,
Chẳng tìm nơi thuốc nhiệm sửa gân.
Miệng toàn lời bắt-chước chúa Tần,
Muốn chôn sống anh-tài nhu-sĩ.
Nhưng mắc phải từ-bi lập chí,
Lược cùng thao, thao lược vẹn hai.
Của Thần Tiên đã sắp sẵn bày,
Nhờ ơn mọn giúp thêm chí cả.
Miệng nhích môi đầy văn tao-nhã,
Hạ bút thần thơ đã đề khai.
Khó làm cho Hiền-Thánh lung-lay,
Chỉ tước nước vun phân cây quí.
Thêm mắc phải tay chàng Nhạc-Nghị,
Cận Thầy xưa định việc an dân.
Tiết trung-lương hiếu-nghĩa rạng ngần,
Ông Bàn-Cử mẹ ghi chạm thịt.
Luận sơ-sơ cho dân rõ tích,
Để chờ ngày hoán võ hô phong.
Ban cho đời thoát chữ cay-nồng,
Nay giục thúc câu quân tu ký.
Ngày nào mà Phật Tiên tọa vị,
Ấy thời lai bình trị muôn dân.
Khắp các nơi chư quốc xưng thần,
Trong bốn biển chúng dân lạc nghiệp.
Theo dõi gót người xưa mới kịp,
Vừng mây lành ngũ sắc hào quang.
Phật, Thánh, Tiên, Đông-Độ lướt sang,
Miền Nam-địa phân chia đẳng-cấp.
Nước cờ mới nay đà khởi sắp,
Trổ tài hay biển lấp non dời.
Dưới cùng trên ảm-đạm khí trời,
Cả thế-giới mưa hòa gió thuận.
Tạo nền móng Thánh-quân đặt vững,
Nơi triều-ca gầy-dựng tôi hiền.
Giờ mắc câu thiên lý vị nhiên,
Nên còn đãi thiên oai nấy lịnh.
Tỏ tình đời ít câu cung thỉnh,
Mong khán-quan vào cửa xem tuồng.
Cỏ cùng cây điểu-thú chim-muông,
Nhơn với vật huờn lai bổn-tánh.
Đó mới biết ai là Phật Thánh,
Ai thảo-hiền ai lỗi đạo nhà.
Đồng hát câu phụ-tử khải-ca,
Chúc trăm họ muôn nhà thạnh-thới.
NGÂM
Bồ-đào rượu thánh trà tiên
Muôn năm cọng lạc chúa hiền tôi trung.
Nhơn-Nghĩa, ngày 29 tháng 5 năm Canh-Thìn.