Hỏi HẰNG-NGA: (Cổ-thi)
Ớ ớ Hằng-Nga dám dỏi đon,
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn?
Ba mươi mồng một đi đâu vắng?
Nay về hỏi đặng mấy thằng con?
ĐỨC THẦY họa:
Cõi thế nhìn ta gọi tiếng đon,
Phàm nhơn chẳng rõ nói eo tròn?
Hoàn-cầu luân chuyển nên mờ mắt,
Tháng cuối rồi qua cũng một con.
Nhơn-Nghĩa, ngày 14 tháng 6 dương lịch, năm 1940 (Canh-Thìn).
Hỏi HẰNG-NGA : (Cổ thi)
Ớ ớ Hằng-Nga dám hỏi đon,
Cớ sao khi khuyết lai khi tròn?
Đông qua Dương-cốc bao nhiêu dặm?
Tây đến U-đô cách mấy hòn?
Uống thuốc trường-sanh đà mấy lượng?
Lấy chồng Hậu-Nghệ bấy nhiêu con?
Ba mươi mùng một đi đâu vắng?
Hay có tư tình với nước non?
ĐỨC THẦY họa:
Bời tại vì ai có tiếng đon,
Luân luân chuyển chuyển mãi eo tròn.
Nam-thiền quê cũ mù xa dặm,
Bắc-lý nhà xưa mịt núi hòn.
Tiên trưởng đơn hay dầu ức lượng,
Phật Thần dược giỏi gắng tìm con.
Thương đời phi pháp tuy nhà vắng,
Những để đền bù với ước non.
Vịnh HẰNG-NGA: (Cổ-thi)
Khen ai cắc cớ bám trời tây,
Tỉnh giấc Hằng-Nga khéo vẽ mày.
Một phiến linh-đinh trôi mặt biển,
Nửa vừng lửng-đửng dán trên mây.
Cá ngờ câu thả tơi-bời lội,
Chim tưởng cung trương sập-sận bay.
Nên một nên hai còn bé tuổi,
Mười lăm mười bày bốn phương hay.
ĐỨC THẦY họa:
Mây hồng năm sắc ở phương tây,
Sáng-suốt ô kim bởi vẹn mày.
Miệng nhỏ tiếng to vang bốn biển,
Lưỡi mềm lời lớn dậy Rồng Mây.
Lòng trong Thank kệ tình bơi lội,
Dạ sạch Phật kinh ý luyện bay.
Dầu cho thân mỗ thanh xuân tuổi,
Thức giấc đời mê phải được hay.
Nhơn Nghĩa, ngày 14 tháng 6 năm Canh Thìn.
BẠC LIÊU
Diệu-vợi đàng xa đến Bạc-Liêu,
Thiền-môn vẹn-vẽ quá tiêu-điều.
Bồng-lai tại thế non đường sánh,
Đẹp-đẽ cho ta trổi nhạc thiều.
Bổn-đạo trông chừng chữ Bạc-Liêu,
Cớ sao giành muốn cấm lời diêu.
Lưng-chưng bèo giạt thân hành đạo,
Bị lũ a-dua cá út thiều.
Lá phép xin về tỉnh Bạc-Liêu,
Ngụ noi gia-trạch Hội-đồng Điều.
Lòng trông Chánh-phủ cho hay chẳng,
Khó dễ làm gì việc bấy nhiêu?
Nhơn-Nghĩa (Xá-No), lối tháng 6 năm Canh-Thìn.
"Từ giã làng NHƠN-NGHĨA"
Kể từ mười tám tháng tư,
Canh-thìn lưu chữ thiện-từ tới đây.
Cho làng Nhơn-Nghĩa biết Thầy,
Đem truyền mối đạo thang mây chỉ chừng.
Nay vì thời vận chuyển luân,
Ở trong cõi tạm đã từng đổi thay.
Cầu cho già trẻ gái trai,
Rủ nhau niệm Phật liên-đài ắt lên.
Thế-gian ngay thảo đáp đền,
Ngày sau sẽ được chăn mềm thơm-tho.
Tục kêu là rạch Xà-No,
Vàm kinh ông Bổn eo-co khúc đường.
Ngày Thầy lìa cách quê-hương,
Về đây nương ngụ bởi thương dân lành.
Phủi trần xóa bỏ lợi danh,
Quyết lòng lánh trược tầm thanh mai chiều.
Thuở xưa thời buổi Thuấn-Nghiêu,
Thái-bình thạnh-trị mến yêu khắn tình.
Chớ đâu đồ-thán sanh-linh,
Bời nay lỗi đạo kệ kinh ngạo cười.
Lo cho mình được đẹp tươi,
Phụ-phàng nghĩa cả lại cười Phật Tiên.
Luật Trời báo ứng nhãn tiền,
Khắp trong thiên-hạ đảo huyền từ nay.
Ra đi để lại một bài,
Cho trong bổn-đạo hôm mai rèn lòng.
Băng chừng tách dậm xa trông,
Dân-sanh gặp trận trời long hầu kề.
Tới lui bùa thuốc bộn-bề,
Chơn dời khỏi cửa ra về phủi ơn.
Thấy đời tu dối khuyên lơn,
Từ đây sửa lại gặp cơn thái-bình.
Phật Trời đâu dụng phép linh,
Chỉ dùng đạo-đức mặc tình ghét ưa.
Nghinh-ngang làm thiếu lấy thừa,
Mẹ cha chẳng kể dối lừa ngỗ-ngang.
Ngày nay mới đến Phật-đàng,
Niệm một tiếng Phật đòi an bịnh liền.
Chậm lành chê Phật ngạo Tiên,
Rồi sau tội nghiệp liên-miên tới mình.
Dương-trần phú trọng bần khinh,
Mãng lo bươi móc cầu vinh thân phàm.
Biết sao đầy được túi tham,
Không ngăn không đáy càng làm không kiêng.
Mỉa-mai đến kẻ tu hiền,
Làm cho thỏa chí mới yên giấc nồng.
Gẫm đời bụng dạ gai chông,
Nên còn khổ sở trời đông túng nghèo.
Nhìn dân ruột thắt gan teo,
Rán tầm gậy cũ mà leo qua bờ.
Nếu không, gặp cảnh bơ-vơ,
Thuyền ghe chẳng có bến bờ cũng không.
Một mai thấy được non Bồng,
Cảnh Tiên rực-rỡ mây rồng đẹp thay.
Lại thêm thấy chốn Phật-đài,
Không già không bịnh chẳng ngày nào lo.
Bây giờ lão lại thúc đò,
Đưa qua bến giác dông to tới nhà.
Vậy mà còn ghét kệ ca,
Không gây tình cảm để già nhọc khuyên.
Thương đời ta phải truân-chuyên,
Bạc-Liêu xứ ấy ta liền đến nơi.
Giã từ bổn-đạo ít lời,
Gìn câu nguyện vái chớ lơi nghĩa Thầy.
Bớt lòng thương nhớ từ đây,
Chẳng nên bịn-rịn để Thầy an tâm.
Nhó lời dạy dỗ ca ngâm,
Di-Đà sáu chữ trì tâm chớ sờn.
Cuộc trần Thầy tỏ thiệt hơn,
Mấy người bê-trễ chậm chơn tới Thầy.
Nghe theo lời chỉ sau đây,
Lãnh bài cầu nguyện về rày mà tu.
Dạy dân đầu tóc rối bù,
Mà trong bá-tánh hềm-thù chi ta.
Trễ chơn Thầy mắc đi xa,
Hỏi thăm Hương-bộ vậy mà cách tu.
Trăng còn khi tỏ khi lu,
Cho nên phận Lão viễn du đổi dời.
Càng đi càng biết nhiều nơi,
Càng đem chơn-lý tuyệt-vời phổ thông.
Người Khùng trí lại cuồng-ngông,
Cớ sao thế-cuộc lảu thòng cũng kỳ,
Xả thân tầm Đạo vô-vi,
Nhiệm-mầu thâm-diệu nan-tri Lão bày.
Cầm hương chắp lại hai tay,
Đưa lên trên trán nguyện bài qui y.
Nguyện rồi xá xuống tức thì,
Cắm hương rồi cũng đứng thì thẳng ngay.
Đọc qua lời nguyện một bài,
Lạy luôn bốn lạy tạ rày tông-gia.
Bàn tay lật ngửa vậy mà,
Chớ đừng lật sâp vì Thầy tái sanh.
Đi xa thì phải dặn rành,
Bàn thông-thiên cũng thiệt hành như y.
Bốn phương đều đọc vậy thì,
Cúi đầu bái tạ từ-bi Phật Trời.
Sớm chiều bình-đẳng chớ lơi,
Thương hành như vậy nhớ lời đừng sai.
Có đau xem thuốc ba bài,
Tâm thành cầu nguyện ắt nay bịnh lành.
Giấy vàng xé nhỏ đành rành,
Để trên bàn Phật chí thành uống ngay.
Thánh Thần phưởng-phất hồn bay,
Ở đâu cũng đến độ rày chúng-sanh.
Con rồng mới nửa gút nanh,
Mà trong bá-tánh thất thanh hãi-hùng.
Chừng nào Thầy lại gia trung,
Thì trong bổn-đạo bóng tùng phủ che.
Trách dân còn tiếc lụa the,
Chẳng làm phước-thiện họa e đến mình.
Hết nhục rồi lại đến vinh,
Nghe không thì cũng mặc tình thế-gian.
Để cho dân-sự luận bàn,
Nếu tu thì phải chọn vàng lừa thau.
Cá to mà phải ở ao,
Muốn ra biển rộng phải nhào kiếm sộng.
Một mai dạo được Tây, Đông.
Khắp trong thế-giái thỏa lòng ước-mơ.
Nuôi tằm ắt được nên tơ,
Nếu ta làm phải phước hờ bên lưng.
Núi non rừng thẩm cũng từng.
Bây giờ phiêu lạc ta mừng khắp nơi.
Cho dân đều hiểu cuộc đời,
Thiên-cơ để dạ Lão thời yên thân.
Đại-đồng chuông đạo bon ngân,
Cho người say ngủ tỉnh lần giấc mê.
Biết lo sửa kiểng trồng huê,
Thơm-tho gia-trụ danh dề Tổ-tông.
Bấy lâu lòng những ước-mong,
Cha con hội hiệp thì lòng mới nguôi.
Từ nay ai có tới lui,
Cúi đầu bái Phật lòng vui tu hành.
Xin đừng đeo-đắm lợi-danh,
Bỏ trôi đạo-đức hư danh dạy truyền.
Mai sau được gặp cõi Tiên,
Phỉ tình nguyện ước khỏi phiền lòng ta.
Vài lời để lại khuyến ca,
Truy phong tách gót đường xa xứ người.
Trò buồn Thầy lại tức cười,
Đâu đâu bá tánh cũng người Trời sanh.
Gần xa Thầy chỉ đành-rành,
Quyết tuyển con lành đem lại Phật-gia.
Cáo từ làng xóm trẻ già,
Chúc cầu lạc nghiệp nhà nhà ấm no.
Nhơn-Nghĩa (Xá-No), ngày rằm tháng 6 Canh-Thìn.
NGAO-NGÁN TÌNH ĐỜI
Ngao-ngán tình đời gẫm cuộc âu,
Đông, Tây, Nam, Bắc cũng chung bầu.
Vì sao thế sự người sang cả,
Phân biệt tước quờn áo rẽ bâu.
Rẽ bâu đầu có, có mà chi,
Những mãng say sưa mặt cố lý.
Múa mỏ khua môi tài biệt thự,
Giống nòi Nam-Việt mãi chia ly.
Xà-No, năm Canh-Thìn.
AI NGƯỜI TRI KỶ
Nghĩ việc đời xưa gẫm việc nay,
Ai người tri kỷ ai là ai?
Tái sanh chọn lựa trang hiền thảo,
Thức tình tâm trung sẽ vẹn mày.
Vẹn mày mới đẹp, đẹp Tiên-gia,
Tông-tổ thơm-tho phước hải hà.
Tịch mịch huyền sâu ai hiểu đặng,
Ắt là thấu tích sĩ cuồng ca.
Cuồng ca nẻo Đạo chốn huyền thâm,
Nghĩ việc xa xa ruột tím bầm.
Đau-đớn cho đời ôi thảm họa,
Mạch sầu có miệng lại dường câm.
Dường câm khó nói, nói còn e,
Thiện tín thờ-ơ nỗi rụt-re.
Tiếng động bên tường nghe vẳng vẳng.
Sức hèn như chấu chống ngàn xe.
Ngàn xe muốn nghiến chấu còn bay,
Nước túng tìm phương chống kẻ tài.
Rốt cuộc tương-lai do quyết định,
Phương trời xa thẳm nắm quyền oai.
Quyền oai thế-hệ cực ta mang,
Luân chuyển nhơn-sanh lắm cuộc nàn.
Ai hỡi dân lành ta sẽ đợi,
Đạo người sửa trọn dứt lầm than.
Lầm than khói lửa với binh đao,
Âu á lung-tung nhuộm máu đào.
Bá tanh say sưa mùi phú-quí,
Sau nầy sẽ vướng cảnh đồ lao.
Đồ lao muốn lánh sớm nghe ta,
Bố thí trì chay giữ giới mà.
Phật dạo trau dồi tâm tánh lại,
Giác thuyền chuyên chở lúc can qua.
Can qua dân chúng chớ buồn lo,
Tích đức chờ ta chốn hẹn-hò.
Tiên cảnh Phật đài xem rực-rỡ,
Hoàn-cầu đến đó ấm cùng no.
Cung no bốn biển một cha thôi,
Bỏ dức thói hư với tật tồi.
Trên có Phật Trời soi việc thế,
Dưới đầy cơm áo Lão về ngôi.
Nhà thương Chợ-quán, đêm 18 tháng 7 năm Canh-Thìn (1940).