TUYÊN NGÔN của ĐẢNG VIỆT-NAM DÂN-CHỦ XÃ-HỘI
Đảng VIỆT-NAM DÂN-CHỦ XÃ-HỘI (gọi tắt là Việt-Nam Dân-Xã Đảng) thành-lập ngày 21 tháng 9 năm 1946, do sự thỏa-thuận và đoàn-kết giữa nhiều đoàn-thể ái-quốc (kháng-chiến, cần-lao, tôn-giáo và chánh-trị). Việt-Nam Dân-Xã Đảng, một đảng quốc-gia tranh-thủ sự tự-chủ hoàn-toàn của dân-tộc, củng-cố nền độc-lập quốc-gia và cấu-tạo xã-hội Việt-Nam mới.
Sở dĩ Đảng đặt vấn-đề độc-lập quốc-gia trước các vấn-đề khác là vì:
1.- Trên lập-trường quốc-tế, nước Việt-Nam có được độc-lập, dân-tộc Việt-Nam mới được sống bình-đẳng với dân-tộc khác; dân-tộc bình-đẳng nhau mới chủ-trương được dân-tộc hiệp-lực, mới kiến-thiết được hoà-bình xác-thực cho thế-giới.
2.- Dân-tộc Việt-Nam được tự-chủ và mạnh mới tránh khỏi sự chi-phối của đế-quốc chủ- nghĩa để thi-hành một cách có hiệu-quả những biện-pháp chánh-trị và kinh-tế, đem lại hạnh-phúc cho các tầng lớp dân-chúng.
Việt-Nam Dân-Xã Đảng là một đảng dân-chủ, chủ-trương thiệt-thi triệt-để nguyên-tắc chánh-trị của chủ-nghĩa dân-chủ: “chủ-quyền ở nơi toàn-thể nhân-dân”. Đã chủ-trương “Toàn dân chánh-trị” thế tất đảng chống độc-tài bất cứ hình-thức nào. Việt-Nam Dân-Xã Đảng là một đảng cách-mạng xã-hội, chủ-trương tổ-chức nền kinh-tế theo nguyên-tắc chủ-nghĩa xã-hội: không để giai-cấp mạnh cướp công-quả của giai-cấp yếu, làm cho mọi người đều được hưởng phúc-lợi cân-xứng với tài-năng và việc làm của mình; những người tàn-tật yếu đuối thì được nuôi dưỡng đầy đủ.
Đặc điểm của Việt-Nam Dân-Xã Đảng là, trong giai-đoạn hiện tại, không chủ-trương giai-cấp đấu-tranh giữa dân-tộc Việt-Nam vì lẽ ở xã-hội Việt-Nam hiện thời, trên 80 năm bị-trị, chỉ có một giai-cấp bị “tư-bản thực-dân” bóc-lột. Muốn tránh khỏi giai-cấp đấu-tranh về sau, thì sự cấu-tạo “xã-hội Việt-Nam mới” phải căn-cứ nơi những yếu-tố không cho sanh-trưởng giai-cấp bóc-lột và chỉ trợ-trưởng một giai-cấp một, tức là giai-cấp sanh-sản.
Do Đức Huỳnh Thủ-Lãnh công-bố ngày 21-9-1946 (Theo bổn của BCH. Liên-Tỉnh Dân-Xã M.T.N.V.) 1947-1949.
CHƯƠNG-TRÌNH
của
ĐẢNG VIỆT-NAM DÂN-CHỦ XÃ-HỘI
l.- CHÁNH TRỊ
a./ Đối ngoại:
1.- Căn cứ vào chánh-sách (1) của Liện-Hiệp-Quốc (O.N.U.) và sự bảo-vệ chung nền hòa-bình, cộng-tác với các dân-tộc khác trên lập-trường tự-do và bình-đẳng.
2.- Tranh-đấu giải-phóng dân-tộc, đem lại độc-lập cho nước nhà.
3.- Thừa-nhận quyền dân-tộc tự-quyết của các dân-tộc nhược-tiểu. Đoàn-kết với các dân-tộc ấy để chống đế-quốc xâm-lăng.
b./ Đối nội:
4.- Nước Việt-Nam có một: ba bộ Trung-Nam-Bắc gồm một.
5.- Củng-cố chánh-thể Dân-Chủ Cộng-Hoà bằng cách đảm-bảo tự-do dân-chủ cho toàn dân.
6.- Ủng-hộ Chánh-Phủ Trung-Ương về mặt tranh-thủ thống-nhứt và độc-lập.
7.- Liên-hiệp với các đảng-phái để chống họa thực-dân.
8.- Chủ-trương “toàn dân chánh-trị”.
9.- Chống độc-tài bất cứ hình-thức nào.
ll.- KINH TẾ
a./ Nguyên-tắc chung:
– Trọng quyền tư-hữu tài-sản đến một độ không có hại đến đời sống công-cộng.
– Dự-bị: Một phần xí-nghiệp quốc-gia (Secteur de l’État).
– Một phần tự-do cho tư-nhân và ngoại-kiều (Secteur libre pour Vietnamiens et Étrangers).
– Thi-hành những biện-pháp không cho bóc-lột công-nhân.
b./ Nông-nghiệp:
1.- Di dân để mở đất hoang.
2.- Lập đồn-điền quốc-gia, lập làng kiểu-mẫu theo chủ-nghĩa xã-hội đồn-điền.
3.- Mua lại đồn-điền bị tập-trung quá độ để bán lại cho nông-dân hoặc để cho quốc-gia.
4.- Lập bình-dân ngân quỹ và lập hợp-tác-xã sản-xuất để giúp nông-dân mua dụng-cụ và máy móc (cày, gặt, vận-tải …) hợp-tác-xã để tránh nạn trung-gian.
5.- Phổ-thông khoa-học để gia-tăng sản-xuất nông-nghiệp, chăn-nuôi, thủy-lợi, lâm-sản …
c./ Công-nghệ:
1.- Mở-mang khí-cụ cần-thiết cho sự khuếch-trương nền kinh-tế quốc-gia.
2.- Lần-lượt phát-triển kỹ-nghệ cần-yếu, bắt đầu từ kỹ-nghệ nhẹ.
d./ Thương-mãi:
Lập hợp-tác-xã tiêu-thụ bán vật-dụng cần-thiết từ thành-thị, từ làng.
e./ Tài-chánh:
Lập ngân-hàng quốc-gia.
lll. XÃ-HỘI
1.- Bài-trừ thuốc phiện, rượu mạnh, cờ-bạc, mãi-dâm, tham-ô.
2.- Thi-hành triệt-để luật xã-hội.
3.- Cải-thiện và nâng cao đời sống tinh-thần và vật-chất của dân cày và thầy thợ bằng cách mở thật nhiều cơ-quan y-tế, giáo-dục, cứu-tế, nhà bảo-sanh, ấu-trỉ viện, nhà dưỡng-lão, nhà thương, trường học, nhà hát bóng … làm cho dân cày cũng hưởng được những ích-lợi của khoa-học như thầy thợ ở đô-thị.
lV.- VĂN-HÓA
1.- Bài-trừ văn-hóa nô-lệ.
2.- Sơ-học, tiểu-học cưỡng-bách và vô-phí.
3.- Giáo-dục chuyên-môn, tổ-chức du-học, cấp học-bổng.
4.- Lập cơ-quan điều-hướng nghề-nghiệp.
V.- THANH-NIÊN
1.- Tổ-chức thanh-niên thành đoàn-thể và huấn-luyện cho thành người thích-ứng với thời-đại mới.
2.- Mở quán, trạm, nhà hội, sân vận-động cho thanh-niên.
Vl.- BINH-BỊ
1.- Thành-lập một đội binh phòng-vệ.
2.- Mở lớp dự-bị quân-sự phòng-vệ từng làng trong một thời hạn ngắn.
3.- Mở trường đào-tạo sĩ-quan, gởi võ-quan cao cấp đi tập-sự ở ngoại-quốc.
4.- Mở lớp huấn-luyện đặc-biệt cho sĩ-quan và quân-sĩ của các đạo quân muốn gia-nhập đạo binh thường-trực quốc-gia.
- Có bản chép là: căn cứ vào hiến-chương của Liên-Hiệp-Quốc (Charte des Nations-unies). Do Đức Huỳnh Thủ-Lãnh công-bồ ngày 21-9-1946 (Theo bổn của BCH Liên-Tỉnh Dân-Xã M.T.N.V.) 1947-1949.
TẾ CHIẾN-SĨ TRẬN VONG Ở VƯỜN THƠM
Trên linh-tọa hương trầm nghi-ngút,
Tấc lòng thành cầu chúc vong linh.
Sa-trường hỡi các sĩ-binh,
Vườn Thơm tuyệt mạng hiến mình non sông.
Thiệt chẳng hổ giống-dòng Nam-Việt,
Từng nêu cao khí-tiết Lạc-Hồng.
Đã mang lấy nợ non sông,
Quyết lòng báo quốc tồn vong sá gì.
Gương yêu nước đáng ghi đáng nhớ,
Chí hy-sinh nhắc nhở mai sau.
Sống không hổ kiếp anh-hào,
Không ham tiền bạc sang giàu cá-nhân.
Thân chiến-sĩ vì dân vì nước,
Vì tự-do hạnh-phước đồng-bào.
Bao nài nguy hiểm gian lao,
Một năm kháng-chiến ra vào chông-gai.
Bom đạn thét không phai tâm ý,
Súng gươm rền nung chí hùng-anh.
Quyết đem xương máu hy-sanh,
Hy-sanh cứu nước rạng danh muôn đời.
Thù giặc Pháp làm người phải trả,
Trừ tham quân bởi quá ngang-tàng.
Nước mất đâu dễ ngồi an,
Mượn gươm Lê, Lý dẹp tan quân thù.
Ngày hôm ấy tàn thu sương đượm,
Quân Pháp đem lực-lượng tấn-công.
Máy bay, tàu thủy, súng đồng,
Lục-quân cơ-khí quyết lòng hại dân.
Chúng gặp phải liên-quân anh-dũng,
Hạ phi-cơ, tuốt súng, lấy bom,
Quanh tàu vây chặt mấy vòng,
Cả kinh giặc Pháp phục tòng rút lui.
Phận rủi-ro riêng xui mạng bạc,
Khiến anh-hùng cỡi hạc xa bay.
Nước non đang thiếu anh-tài,
Tử thần vội cướp đưa ngay chầu Trời.
Hồn tử-sĩ nghe lời than tiếc,
Trừ tham quân tận diệt xâm-lăng.
Nam binh sát-khí đằng đằng,
Thề-nguyền thành lũy đạp bằng mới thôi.
Kẻ chết đã yên rồi một kiếp,
Người sống còn tái tiếp noi gương.
Lòng thành thắp một tuần hương,
Vái hồn liệt-sĩ bốn phương tựu về.
Nơi làng vắng cam bề đơn giản,
Lễ mọn nầy trước án bày ra,
Hiển-linh xin chứng gọi là …
Quéo-Ba, ngày 1-10-46 (Bính-Tuất).
Cụ PHẠM-THIỀU MỜI ĐỨC THẦY THAM-CHÁNH
Mưa gió thâu canh mãi dập-dồn,
Âm-u tràn ngập cả càn-khôn.
Hỡi ai thức ngủ trong đêm ấy,
Có thấu tai chăng tiếng quốc-hồn ?
Sao còn khoắc-khoải nhớ hiềm xưa ?
Trang sử chùi đi những vết nhơ.
Gìn-giữ tim son không chút bợn,
Mặc tòa dư-luận thấu hay chưa.
Sao còn lãnh-đạm với đồng bang,
Toan trút cho ai gánh trị-an ?
Thảm kịch “tương-tàn” chưa hết diễn,
Long-Xuyên Châu-Đốc lụy muôn hàng.
Sao còn ngần-ngại chẳng ra tay,
Trước cảnh xâm-lăng cảnh đọa-đày ?
Ngọn lửa binh đao lan khắp đất,
Phật Trời soi thấu cũng châu mày.
Chẳng áo cà-sa, chẳng chiến-bào,
Về đây tham-chánh mới là cao.
Non sông chờ đợi người minh-triết,
Chớ để danh thơm chỉ Võ-Hầu.
TRƯỜNG-PHONG
(biệt hiệu của cụ Phạm-Thiều)
ĐỨC THẦY họa:
Những nỗi đau thương mãi dập-dồn,
Càng nhiều luân-lạc lại càng khôn.
Lặng nhìn thế sự nào ai ngủ !
Chờ dịp vung tay dậy quốc-hồn.
Từ-bi đâu vướng mối hiềm xưa,
Nhưng vẫn lọc-lừa bạn sạch nhơ.
Nếu quả tri-âm tri-ngộ có,
Thì là hiệp-lực hiểu hay chưa ?
Nhìn sang Trung-quốc khách lân bang,
Cứ cố xỏ ngầm sao trị an ?
Nếu thiệt hai bên đồng hiệp trí,
Kẻ gây thảm kịch phải qui hàng.
Lắm kẻ chực hờ đặng phổng tay,
Mà sao chánh-sách bắt dân đày.
Vẫn còn áp-dụng vì phe đảng,
Chẳng muốn xông ra sợ cháy mày.
Thà ở trong quân mặc chiến-bào,
Ngày qua sẽ biết thấp hay cao.
Nào ai dám sánh mình minh-triết,
Mà dám lăm-le mộng Võ-Hầu.
HOÀNG-ANH (biệt hiệu của Đ.T.) Miền Đông, ngày 1 tháng 10-1946.
ĐỨC HUỲNH GIÁO-CHỦ TUYÊN-BỐ
LỜI TÒA-SOẠN (Báo QUẦN-CHÚNG ngày 14-11-46) – Ông Huỳnh-Phú-S.. tức Giáo-Chủ Phật-Giáo Hòa-Hảo. Người đã có một lịch-sử chánh-trị cận-đại ở Nam-Bộ, người ta đã nói về Ông rất nhiều. Kế sau nầy các báo đều đăng tin rằng Ông có dự vào U.B.H.C.N.B.
Nhớ lại đoạn đường đã qua, nhiều người phân-vân. Để trả lời chung, hôm nay Ông Huỳnh-Phú-S.. nhờ chúng tôi đăng bài tuyên-bố để trả lời: “Vì sao tôi tham-chánh”. Chúng tôi sẵn-sàng đưa ra trước dư-luận: Tháng tám năm 1945, Phát-xít Nhựt đầu hàng không điều-kiện. Tin ấy bay ra làm cho tất cả dân-chúng Việt-Nam từ nhà lãnh-đạo cách-mạng cho đến đại-chúng cần-lao, mọi người đều nhận thấy một ánh sáng của quê-hương chói dậy. Giờ thiêng-liêng của lịch-sử đã đến; sự hoạt-động bí-mật nhường chỗ cho sự hoạt-động công-khai. Tôi, một đệ tử trung-thành của đạo Phật, một chiến-sĩ trì chí của phong-trào giải-phóng dân-tộc Việt-Nam sẵn-sàng cùng đoàn-thể mình cương-quyết đứng dậy đáp lại tiếng gọi của non sông, cương-quyết tranh-đấu để bảo-vệ quyền-lợi chung cho nòi giống.
Tiếc vì một hoàn-cảnh đặc-biệt đau thương buộc tôi phải dung mình trong non cao rừng thẳm. Sự độc-đoán, sự ngờ-vực đã đưa đến chỗ chia-ly, mà kẻ thức-thời nhìn qua sự thật không khỏi ngậm-ngùi than-trách. Một năm trời biến-cố, dấu tang-thương gieo khắp trời Nam, song cảnh cam-go ấy tôi muốn tìm phương cứu chữa, nhưng khốn thay, bị đứt mối liên-lạc với Trung-Ương và các đồng- chí, nên đành nuốt hận và nhìn bọn xâm-lăng tung-hoành trong đất nước. Lúc ấy tất cả quần- chúng của tôi, Ban chỉ-huy cao-cấp không còn. Ban chỉ-huy địa-phương tan rã, họ bơ-vơ như bầy chim lạc đàn không nơi nương dựa, mà còn phải trải qua những giờ phút hãi-hùng, rồi nén lòng chờ đợi cứu-tinh, rồi tuyệt vọng. Khi quân giặc đến, không ai chỉ-đạo cho họ tranh-đấu, nỗi lòng hoang-mang xui cho những phần-tử quá trung-thành mà nông-nổi không dằn được khí phẩn-uất nên họ đi tới chỗ xung-đột vô ý-thức.
Tháng 2 năm 1946, tôi vừa bắt được liên-lạc và hiểu rõ tình-trạng đau đớn trên thì liền dùng đủ biện-pháp làm cho cuộc xô-xát âm-thầm chấm- dứt. Hơn nữa, trên các mặt trận, cũng cố-gắng tìm cách ủng-hộ chiến-sĩ về hai phương-diện vật-chất lẫn tinh-thần, đồng thời xếp đặt các chiến-sĩ mình vào một tổ-chức quân-sự, chen vai thích cánh với đồng-bào trong cuộc kháng-chiến. Hôm nay, nhận rõ cuộc tranh-đấu cho tổ-quốc còn dài và cần nhiều nỗ-lực, hưởng-ứng với tiếng gọi đại đoàn-kết của Chánh-phủ Trung-Ương, tôi quyết-định tham-gia hành-chánh với mục-đích nầy:
1.- Để cho quốc-dân và chánh-phủ thấy rằng chúng tôi chủ-trương thống-nhứt lãnh-thổ và độc-lập quốc-gia.
2.-Để biểu-dương tinh-thần đoàn-kết của dân-tộc hầu mau đem thắng-lợi cuối cùng.
3.- Để tỏ cho các đảng phái thấy rằng chúng tôi không khi nào có những tham-vọng cao sang vương-bá hay vì hềm riêng mà hờ-hững với phận-sự cứu-quốc.
Biểu-lộ tấm lòng thành thật ấy, tôi chỉ nhận một nhiệm-vụ cần-thiết, hạp với hoàn-cảnh và năng-lực mình, cố-gắng giàn-xếp về hành-chánh và quân-sự để củng-cố và tăng-cường lực-lượng của quốc-gia. Đối với toàn-thể tín-đồ Phật-Giáo, tôi vẫn không quên rằng tôi là một đệ-tử trung-thành của Đức Phật Thích-Ca, tôi tin chắc rằng giáo-lý giải-thoát chúng-sanh chẳng những được truyền-bá ở Thiền-lâm mà còn phải thực-hiện trên trường chánh-trị. Đối với các đồng-chí hiện đang cùng tôi đeo-đuổi một chương-trình Dân-Chủ Xã-Hội, tôi tuyên-bố luôn luôn sát cánh với họ để chung lo gầy-dựng một nước Việt-Nam công-bình và nhơn-đạo, một nước Việt-Nam tương-xứng với các nước Dân-chủ tiền-tiến trên hoàn-cầu.
ÔNG HỒN-QUYÊN (Ở SÀI GÒN) VÀO CHIẾN-KHU PHỎNG-VẤN ĐỨC HUỲNH-GIÁO-CHỦ
Vấn.- Ông có thể cho chúng tôi biết về tổ-chức quân-sự và hành-chánh trong đoàn-thể của ông chăng ?
Đáp.- Tôi không thể nói cho ông rõ tất cả những chi-tiết của tổ-chức ấy. Nhưng về đại-cương tôi có thể nói rằng cách chừng sáu tháng nay, những chiến-sĩ trong hàng-ngũ của tôi, khi họ nghe tôi còn sống, họ bắt đầu tập-họp lại thành những bộ-đội kháng-chiến ở khắp các tỉnh miền Tây. Tuy không trực-tiếp liên-lạc với Chánh-phủ Trung-Ương nhưng họ cũng lấy tên là Vệ-Quốc Đoàn để tỏ rằng lúc nào họ cũng theo sự hướng-đạo của Chánh-Phủ mà tranh-đấu. Từ nay về sau các bộ-đội ấy liên-lạc trực-tiếp vơi các khu-trưởng trong vùng của họ để nối hệ-thống thành đạo quân chánh-qui của nước Việt-Nam.
Về hành-chánh chúng tôi không có tổ-chức nào riêng biệt. Chỉ có những tổ-chức để ủng-hộ cuộc kháng-chiến, trong các làng-mạc. Hiện thời chúng tôi đã ra chỉ-dụ cho các tổ-chức ấy phải xem xét chương-trình tổ-chức chung của Chánh-Phủ để sáp nhập vào các cơ-quan chánh-thức của Chánh-Phủ.
Vấn.- Chúng tôi nghe nói hình như ở Hậu-Giang còn vài cuộc rắc-rối do tín-đồ ông gây ra. Có phải vậy không ?
Đáp.- Từ trước tới nay, tôi đã nghe rất nhiều lời phê-bình của một số đồng-bào về những hành-động vô ý-thức của một nhóm tín-đồ tôi. Hôm nay nhơn-dịp gặp ông, tôi xin thanh-minh và đính-chánh về những lời đồn-đãi đó. Tôi quả-quyết với ông rằng: Tất cả tín-đồ có học-thức và những người hiểu biết được rõ-ràng một vài phần trong giáo-lý chơn-chánh của đạo Phật thì trong thời đã qua họ đã thiệt hành được lời dạy bảo của Đức Phật là lấy lòng nhơn-hậu mà đối-đãi với sự thù-oán mặc dầu trong đó họ bị đau khổ nhiều.
Còn riêng về những cuộc xô-xát vừa qua là do sự phẩn-uất của một nhóm võ-sĩ mà tôi đã kết nạp vào hàng-ngũ Bảo-An Đội, bởi vì cửa Phật luôn luôn mở rộng cho bất cứ một chúng-sanh nào muốn trở về với Đạo mà tôi thấy họ rất cần-thiết cho phong-trào tranh-đấu để giải-phóng dân-tộc.
Hiện nay, nếu quả thật như lời ông nói, còn một vài cuộc rắc rối là do những bọn bất lương mà trong tất cả thời loạn nào cũng có, mượn danh-nghĩa của ông Trần-văn-Soái tự là Năm-Lửa để bóc lột lương dân. Nhưng chính ông Năm Lửa đang nỗ-lực tiểu-trừ bọn ấy và cũng đang phải đối-phó với những bọn phản-động trong hàng ngũ binh-đội Pháp, sau ngày 30-10, ở một vài nơi còn tiếp-tục khủng bố chúng tôi và dân-chúng, như 16 người trong hàng ngũ chúng tôi bị bắn và đánh chết trong lúc ban đêm tại Lấp-Vò chẳng hạn. Còn toàn thể đều tuân theo lịnh ngưng-chiến theo tinh-thần của Thỏa-Hiệp-Án 14-9.
Vấn.- Vậy sau khi ông tham-chánh tình-hình tín-đồ của ông ở Hậu-Giang thế nào ?
Đáp.- Một năm qua, tôi mất hẳn liên-lạc trong sáu tháng đầu. Từ tháng hai, sau khi tôi có vài liên-lạc gián-tiếp thì những xung-đột dữ-dội ngừng dứt rõ-rệt. Tuy vậy, không tránh khỏi vài sự xung-đột nhỏ giữa hai bên. Nó có tánh-cách cá-nhơn hơn là tánh-cách toàn-thể như trước, vì tôi và những người cấp trên Việt-Minh không gặp-gỡ nhau nên những huấn-lịnh nghiêm-trị của một bên không được hiệu-lực toàn-vẹn. Theo những báo-cáo mấy hôm nay thì sau khi tôi tham-chánh, quần-chúng của tôi bắt đầu có một sự tín-nhiệm ở nơi sự hiệp-tác giữa đôi bên và sự tham-chánh của tôi cáo-chung những tuyên-truyền láo-khoét, phao-vu từ trước tới giờ. Những sự tuyên-truyền đó đã làm cho toàn-thể bị tủi-nhục.
Vấn.- Trong việc tham-chánh, ông có đại-biểu cho một chánh đảng nào không ?
Đáp.- Về dĩ-vãng, sự hoạt-động của tôi xuất phát trong địa-phận Phật-giáo và kết nạp được hơn triệu tín-đồ. Thể theo tinh-thần đại đoàn-kết của toàn dân, tôi thay mặt cho đám quần-chúng đó mà tham-gia hành-chánh về mặt tinh-thần. Nhưng trong sự hoạt-động để kiến-thiết quốc-gia về mặt chánh-trị thì tôi sẽ là đại-biểu cho chánh đảng nào có một chương-trình dân-chủ xã-hội.
Vấn.- Như vậy xin ông cho biết lý-tưởng chánh-trị của ông có liên-quan với giáo-lý nhà Phật không ?
Đáp.- Theo sự nhận-xét của tôi về giáo-lý nhà Phật do nơi Đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật đã khai-sáng lấy Chủ-nghĩa từ-bi bác-ái đại-đồng đối với tất cả chúng-sanh làm nòng cốt thì tôi nhận Ngài là một nhà cách-mạng triệt-để về tư-tưởng; vì những câu “Nhứt thiết chúng-sanh giai hữu Phật tánh” và “Phật cũng đồng nhứt thể bình-đẳng với chúng-sanh”. Đã có những sự bình-đẳng về thể-tánh như thế mà chúng-sanh còn không bằng được Đức Phật là do nơi trình-độ giác-ngộ của họ không đồng đều, chớ không phải họ không tiến-hóa ngang hàng với chư Phật được. Nếu trong cõi nhơn-gian nầy còn có chúng-sanh tiền-tiến áp-bức những chúng-sanh lạc-hậu thì là một việc trái hẳn với những giáo-lý chơn-chánh ấy. Giáo-lý đó, Đức Thích-Ca Mâu-Ni không áp-dụng được một cách thiết-thực trong đời của Ngài là do nơi hoàn cảnh xã-hội Ấn-Độ xưa không thuận-tiện. Thế nên Ngài chỉ phát-dương cái tinh-thần đó mà thôi. Ngày nay, trình-độ tiến-hoá của nhơn-loại đã tới một mức khả-quan, đồng thời với tiến-bộ về khoa-học thì ta có thể thực-hành giáo-lý ấy để thiệt-hiện một xã-hội công-bằng và nhơn-đạo. Thế nên với cái tâm-hồn bác-ái, từ-bi mà tôi đã hấp-thụ, tôi sẽ điều-hòa với phương-pháp tổ-chức xã-hội mới, để phụng-sự một cách thiết-thực đồng-bào và nhơn-loại.
Vấn.- Trước khi từ-giã, xin ông cho biết đời sống ở bưng-biền có ảnh-hưởng chi tới sự hành Đạo của ông chăng ?
Đáp.- Với sự hành Đạo của tôi cảnh sống nào tôi cũng có thể sống được. Cái hành Đạo đúng theo ý-tưởng xác-thực của nó là làm thế nào phát-hiện được những đức tánh cao cả và thực-hành trên thiệt-tế bằng mọi biện-pháp để đem lại cái phước-lợi cho toàn-thể chúng-sanh thì đó là sự thỏa-mãn trong đời hành Đạo của mình, chớ những sự tùy-tiện về vật-chất đối với tôi, không có nghĩa lý gì hết.
(Trích lục Báo “Nam Kỳ” ngày 29-11-1946).